Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

MỤC LỤC

[01] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
533. Chuyện Tiểu Thiên Nga (Tiền Thân Cullahamasa)
534. Chuyện Đại Thiên Nga (Tiền Thân Mahàhamasa)
535. Chuyện Thực Phẩm Thiên Giới (Tiền Thân Sudhàbhojana)
[02] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ (tt)
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền Thân Kunàla)
537. Chuyện Đại Sutasoma (Tiền Thân Mahà-Sutasoma)
[03] Chương XXII – Đại Phẩm
538. Chuyện Vương Tử Què Câm (Tiền Thân Muga-Pakka)
539. Chuyện Đại Vương Mahàjanaka (Tiền Thân Mahà-Janaka)
[04] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
540. Chuyện Hiếu Tử Sàma (Tiền Thân Sàma)
[05] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
541. Chuyện Đại Vương Nimi (Tiền Thân Nimi)
[06] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
542. Chuyện Tế Sư Khandahàla (Tiền Thân Khandahàda)
[07] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
543. Chuyện Bậc Đại Trí Bhùridatta (Tiền Thân Bhùridatta)
[08] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
544. Chuyện Bậc Đại Trí Mahanàrada-Kassapa (Tiền Thân Mahanàrada-Kassapa)
[09] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
545. Chuyện Bậc Đại Trí Vô Song (Tiền Thân Vidhurapandita)
[10] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
546. Chuyện Đường Hầm Vĩ Đại (Tiền Thân Mahà-Ummagga)
[11] Chương XXII – Đại Phẩm (tt)
547. Chuyện Đại Vương Vessantara (Tiền Thân Vessantara)

Chương XXI

Phẩm Tám Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện tiểu Thiên nga (Tiền thân Cullahamsa)

Bầy chim không để ý gì ta…,

Đây là chuyện do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về cách Tôn giả Ànanda đã hy sinh tính mạng.

Khi những người thiện xạ được mua chuộc để sát hại đức Như Lai và người đầu tiên được Devadatta (Đề-bà-đạt-da) phái đi làm việc này đã trở về, y nói:

– Bạch Tôn giả, con không thể đoạt mạng sống của đức Thế Tôn, vì Ngài có đủ đại thần thông lực.

Devadatta đáp:

– Thôi được, ông không cần phải sát hại Sa-môn Gotama. Ta sẽ đích thân đoạt mạng sống của vị ấy.

Thế rồi trong khi đức Như Lai đang đi dạo dưới bóng mát ngã về tây của núi Gijjhakùta (Linh Thứu), Devadatta trèo lên đỉnh núi và ném xuống một tảng đá lớn như thể từ chiếc máy lăn đá bắn ra và tự nhủ: “Với tảng đá này, ta sẽ giết Sa-môn Gotama”. Song hai đỉnh núi giao nhau chặn lấy tảng đá và một mảnh vụn văng ra đụng vào chân của đức Thế Tôn làm chảy máu, và gây đau nhức dữ dội.

Y sĩ Jìvaka lấy dao cắt rộng miệng vết thương ở chân đức Như Lai, để máu độc chảy ra và cắt bỏ chỗ thịt sưng rồi xoa thuốc vào vết thương cho lành.

Bậc Đạo Sư đi lại như trước, với các vị đại đệ tử hầu cận quanh Ngài, trong mọi dáng điệu uy nghi của một vị Phật. Vì thế, khi thấy Ngài, Devadatta nghĩ thầm: “Quả thật không có một kẻ phàm phu nào chiêm ngưỡng dung sắc tối thắng của kim thân Sa-môn Gotama lại dám tời gần vị ấy, ngoại trừ vương tượng Nàlàgiri là một mãnh thú hung dữ chẳng biết gì về các công đức của Phật, Pháp, Tăng. Nó sẽ tiêu diệt Sa-môn này”.

Thế là ông liền đi kể chuyện này với vua. Vua sẵn sàng đồng ý với đề nghị này và triệu người quản tượng vào bảo:

– Này khanh, ngày mai khanh phải làm cho Nàlàgiri say rượu đến độ điên cuồng, và lúc tảng sáng thả nó ra đường phố mà Sa-môn Gotama đi qua.

Devadatta hỏi người quản tượng ngày thường con voi này uống bao nhiêu rượu men và khi y đáp: “Tám vò”, ông bảo:

– Ngày mai hãy cho nó uống mười sáu vò rồi thả nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama đi qua.

– Được lắm -Người quản tượng đáp.

Vua truyền đánh trống khắp kinh thành và công bố:

– Ngày mai Nàlàgiri sẽ say rượu mạnh đến điên cuồng và được thả lỏng trong kinh thành. Dân chúng trong thành phải làm mọi việc cần làm vào sáng sớm, và sau đó không ai được liều lĩnh ra đường phố.

Devadatta từ cung vua xuống tận chuồng voi và bảo đám quản tượng:

– Này ta bảo cho các ông biết, chúng ta có thể hạ nhục một người từ địa vị cao sang xuống địa vị thấp hèn và nâng một người từ địa vị thấp hèn lên địa vị cao sang. Nếu các ông muốn danh giá, thì sáng sớm ngày mai hãy cho Nàlàgiri uống mười sáu vò rượu mạnh, và đúng lúc Sa-môn Gotama đi đến lối ấy, hãy đâm con voi kia với các gậy nhọn, nó sẽ phá chuồng nổi điên, ông hãy đuổi nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama thường đi qua và thế là tiêu diệt vị ấy.

Bọn chúng sẵn sàng làm như vậy. Tiếng đồn vang dậy khắp kinh thành. Các đệ tử tại gia thân cận Phật, Pháp, Tăng nghe tin ấy liền đến gần bậc Đạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, Devadatta đã âm mưu với vua, ngày mai sẽ cho thả con voi Nàlàgiri ra đường mà Thế Tôn đi qua. Xin Thế Tôn ngày mai đừng vào thành khất thực, mà cứ ở lại đây. Chúng con sẽ cúng dường thực phẩm ngay tại tinh xá lên Tăng chúng với đức Phật đứng đầu.

Đức Phật không nói thẳng: “Ngày mai Ta sẽ không vào thành khất thực”, mà Ngài đáp:

– Ngày mai ta sẽ thị hiện thần thông để nhiếp phục Nàlàgiri và đánh bại tà đạo. Và vì không đi khất thực trong thành Vương Xá, ta sẽ rời thành cùng một số Tỷ-kheo hộ tống đi thẳng đến Veluvana (Trúc Lâm), rồi dân chúng ở Vương Xá sẽ đến đó mang theo nhiều bình bát thực phẩm và ngày mai họ sẽ cúng dường bữa ăn tại trai đường của tinh xá ấy.

Bằng cách này, bậc Đạo Sư đã chấp thuận lời thỉnh cầu của họ. 

Khi được tin đức Như Lai đã tán đồng nguyện vọng của họ, họ ra đi từ kinh thành, mang theo nhiều bình bát thực phẩm và bảo nhau:

– Chúng ta sẽ cúng dường lễ vật ngay tại tinh xá ấy.

Còn bậc Đạo Sư thuyết Pháp vào canh một, giải đáp các vấn đề khó khăn vào canh giữa và phần đầu canh cuối, Ngài nằm nghiêng về phía hữu như dáng sư tử, giữa canh cuối Ngài an trú trong Thánh quả, và sau cùng khi Ngài nhập định đại bi vì nhân loại khổ đau, Ngài quán sát mọi người quyến thuộc của Ngài đã đủ cơ duyên thuần thục để được giáo hóa, và nhận thấy rằng do kết quả việc nhiếp phục con voi Nàlàgiri, tám mươi bốn ngàn người sẽ được thông hiểu Pháp.

Rạng ngày hôm sau, khi đã phục vụ mọi nhu cầu thân thể, Ngài nói với Tôn giả Ànanda:

– Này Ànanda, hôm nay hãy bảo tất cả Tỷ-kheo trong mười tám tinh xá quanh thành Vương Xá đến hộ tống Ta vào trong thành ấy.

Tôn giả tuân lệnh và tất cả Tăng chúng tập hợp tại Trúc Lâm.

Bậc Đạo Sư được Tăng chúng đông đảo hộ tống đi vào Vương Xá và bọn quản tượng tiến hành công việc theo lệnh truyền, còn quần chúng tụ họp thành nhiều đám. Những người mộ đạo nghĩ thầm: “Hôm nay sẽ có cuộc đại chiến giữa đức Phật là vương tượng với con voi của thế giới phàm tục này. Chúng ta sẽ chứng kiến đức Phật đánh bại Nàlàgiri nhờ thần lực vô song của Ngài”, và họ trèo lên đứng trên các lầu thượng và mái nhà cùng nóc nhà.

Còn các đám tà đạo không tin tưởng lại suy nghĩ: “Nàlàgiri là một con dã thú hung hãn, không biết gì về công đức của chư Phật. Hôm nay nó sẽ dẫm nát hình thể vinh quang của Sa-môn Gotama và khiến vị ấy phải chết. Hôm nay ta sẽ trừ khử địch thủ của ta rồi”.

Họ cũng đứng trên các thượng lầu và các chỗ cao khác.

Còn con voi, khi nhìn thấy đức Thế Tôn đến gần, đã làm mọi người kinh hoàng bằng cách phá sập nhà cửa, giương vòi ra nghiền nát xe cộ, tai vểnh, đuôi dựng ngược hùng hổ chạy như một ngọn núi sừng sững lao về phía đức Thế Tôn.

Khi thấy nó, Tăng chúng thưa với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Nàlàgiri là một dã thú hung hãn, là tên sát nhân, đang tiến đến đường này. Thật ra nó chẳng biết gì đến công đức của chư Phật. Xin đức Thế Tôn, bậc Thiện Thệ hãy lùi bước.

– Này các Tỷ-hheo, đừng sợ, Ta có đủ uy lực nhiếp phục Nàlàgiri.

Sau đó Tôn giả Sàriputta thỉnh cầu đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, khi nào có việc gì phải phụng sự phụ thân, thì đó là trách nhiệm đặt lên vai con trưởng. Con xin nguyện nhiếp phục con vật này.

Bậc Đạo Sư lại bảo:

– Này Sàriputta, uy lực của đức Phật là một việc, còn uy lực của các đệ tử là một việc khác.

Ngài từ chối lời đề nghị của Tôn giả và bảo:

– Ông phải ở lại đây.

Đây cũng là lời thỉnh cầu của tám mươi vị Trưởng lão nhưng Ngài từ chối tất cả. Lúc ấy Tôn giả Ànanda vì lòng ái kính bậc Đạo Sư nồng nhiệt nên không thể chấp nhận việc này và kêu lớn:

– Hãy để con voi này giết con trước tiên.

Rồi Tôn giả đứng ngay trước bậc Đạo Sư, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đức Như Lai. Vì thế bậc Đạo Sư bảo vị ấy:

– Này Ànanda, đi ra ngay, đừng đứng trước mặt Ta.

Vị Trưởng lão đáp:

– Bạch Thế Tôn, con voi này rất hung bạo và man rợ, đó là một tên sát nhân, giống như ngọn lửa ở đầu cái vòng. Xin để nó giết con trước rồi sau đó mới đến gần đức Thế Tôn.

Và mặc dù đã được bảo đến lần thứ ba, vị Trưởng lão này vẫn đứng yên tại chỗ và không đi lui. Lúc ấy đức Thế Tôn dùng thần lực đẩy vị ấy ra sau và đưa Tôn giả vào giữa Tăng chúng. Ngay lúc này một phụ nữ chợt trông thấy Nàlàgiri, quá kinh hoảng vì sợ chết, liền chạy làm rơi đứa con mà bà đang bế bên hông xuống giữa khoảng đức Như Lai và con voi rồi vội thoát thân.

Con voi đuổi theo bà, chợt đến gần đứa bé đang khóc lớn. Bậc Đạo Sư gây xúc động với lòng từ bi được trải rộng rất đặc biệt, vừa cất giọng dịu ngọt như tiếng của Phạm thiên vừa gọi con voi Nàlàgiri:

– Này Nàlàgiri, những kẻ đã làm voi điên cuồng với mười sáu vò rượu mạnh không để cho voi tấn công kẻ nào khác, mà chúng làm vậy vì nghĩ rằng voi sẽ tấn công Ta. Đừng nhọc công chạy quanh không mục đích, mà hãy đến đây.

Khi nghe giọng nói của bậc Đạo Sư, con voi mở mắt và nhìn dáng uy nghi của đức Thế Tôn, liền xúc động mãnh liệt và nhờ thần lực của đức Phật, công hiệu độc hại của rượu mạnh tan biến mất.

Vừa hạ vòi và vẫy tai, nó vừa đi đến quỳ xuống dưới chân đức Như Lai. Lúc ấy bậc Đạo Sư bảo nó:

– Này Nàlàgiri, ngươi là một con voi hung dữ ta là vương tượng đã thành Phật. Từ nay ngươiđừng hung dữ và man rợ nữa, đừng sát nhân, mà hãy tu tập tâm từ.

Nói vậy xong, Ngài đưa tay phải ra vỗ về trán voi và thuyết Pháp qua các vần kệ này:

Nếu voi dám đánh Chúa voi này,
Voi sẽ khóc than kiếp đọa đày,
Đánh Chúa voi này, ngươi phải chịu
Đọa vào khổ cảnh kiếp sau hoài.
Từ bỏ buông lung với dại cuồng,
Kẻ ngu không đạt đến thiên đường,
Nếu mong thiên lạc trong đời kế
Voi phải lo làm việc thiện lương.

Toàn thân con voi được thấm nhuần niềm hoan hỷ, và giá như nó chẳng phải là loài vật bốn chân, thì nó đã đắc Sơ quả Dự Lưu. Dân chúng chiêm ngưỡng phép thần thông này, liền reo hò vang dậy và búng ngón tay dòn dã.

Trong niềm hân hoan, họ tung lên đủ mọi trang sức phủ khắp mình voi. Từ đó Nàlàgiri được mệnh danh là Dhanapàlaka (Tài Hộ: giữ kho báu).

Bấy giờ vào dịp gặp gỡ voi Tài Hộ này, tám vạn bốn ngàn chúng sinh được uống vị ngọt của Pháp Bất tử. Và bậc Đạo Sư đã an trú voi Tài Hộ vào Ngũ giời. Nó vừa dùng vòi hất bụi bặm từ chân đức Thế Tôn rải lên đầu nó, vừa cúi mình đi lui, rồi đứng đảnh lễ đấng Thập lực cho đến khi Ngài khuất dạng, sau đó nó quay về chuồng voi.

Từ đó về sau, nó hoàn toàn thuần thục và không hại ai cả. Bấy giờ ý nguyện của bậc Đạo Sư đã thành tựu, nên Ngài quyết định rằng kho báu ấy vẫn là tài sản của những người đã ném nó lên con voi, Ngài suy nghĩ: “Hôm nay Ta đã thực hiện một đại thần thông. Nếu Ta đi khất thực trong kình thành này thì không thích hợp”.

Thế là sau khi đánh bại đám tà đạo, Ngài được các Tỷ-kheo hộ tống đi ra kinh thành như một vị tướng lãnh chiến thắng và tiến thẳng về phía Trúc Lâm. Dân chúng đem theo một số cơm nước và thức ăn loại cứng đi vào tinh xá rồi cử hành đại lễ cúng dường.

Chiều hôm ấy, trong lúc ngồi đông đủ tại Chánh Pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận, bảo nhau:

– Tôn giả Ànanda đã thành tựu một việc hy hữu khi sẵn sàng hy sinh tính mạng để cứu đức Như Lai. Vừa trông thấy Nàlàgiri, mặc dù đã bị bậc Đạo Sư bảo ba lần không được ở lại đó, Tôn giả vẫn không chịu đi ra. Này các Hiền giả, quả thật Trưởng lão ấy đã làm một việc hy hữu.

Bậc Đạo Sư suy nghĩ: “Câu chuyện này xoay quanh vấn đề đức hạnh của Ànanda, Ta phải hiện diện ở đó mới được”.

Ngài liền bước ra khỏi Hương phòng vừa đến hỏi hội chúng:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn vấn đề gì trong lúc ngồi tại đây?

Và khi Tăng chúng đáp: Về vấn đề như vầy như vầy. . .,

Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa nữa, ngay khi còn ở hình hài súc sinh, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, trong quốc độ Mahimsaka ở kinh thành Sakula, có vị vua mệnh danh Sakula cai trị vương quốc theo Chánh pháp. Thời ấy, không xa kinh thành, có một người bẫy chim ở trong ngôi làng của dân bẫy chim, kiếm sống bằng nghề đánh bẫy chim và đem ra phố bán. Gần kinh thành là một hồ sen tên là Mànusiya, chu vi mười hai dặm, phủ đầy năm loại hoa sen. Một đàn chim đủ loại thường đến đó và người thợ kia tha hồ đặt bẫy. Bấy giờ chúa loài Thiên nga là Dhatarattha có đám tùy tùng gồm chín mươi sáu ngàn Thiên nga an trú trong Kim Động trên núi Cittakùta và vị đại tướng của đàn là Sumukha (Sư-mục-kha).

Một ngày kia, một đàn Thiên nga màu vàng óng ả bay đến hồ Manusiya và sau khi gặm chồi sen thỏa thích trong vùng đất phong phú thực phẩm này, chúng bay về ngọn núi Cittakùta mỹ lệ kia và trình báo với chúa chim Dhatarattha:

– Tâu Đại vương, có hồ sen tên là Mànusiya, một vùng đất thực phẩm phong phú nằm giữa nơi cư trú của loài người. Chúng thần muốn đến nơi đó ăn uống.

Chúa chim đáp:

– Những nơi cứ trú của loài người đầy nguy hiểm. Đừng để chuyện này lôi cuốn các bạn.

Sau đó mặc dù không ưng thuận đi, ngài vẫn bị chúng nài nỉ mãi, liền bảo:

– Nếu các bạn thích chuyện ấy thì chúng ta sẽ đi.

Rồi cùng với đám hầu cận, ngài bay đến đó. Vừa đáp xuống từ trên không, ngài đã đặt chân vào dây thòng lọng ngay đúng lúc ngài chạm mặt đất. Thế là dây ấy siết chân ngài như thể cái kẹp sắt và giữ chân ngài thật chặt.

Lúc ấy ngài nghĩ cách phá cái bẫy liền giật mạnh nó, trước tiên da chân rách ra, kế đó thịt bị xé ra và cuối cùng dây gân đứt, đến khi cái bẫy chạm tới xương, máu tuôn xối xả gây đau nhức dữ dội . Ngài suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu bị bắt, đồng loại ta sẽ hốt hoảng và nếu không được ăn gì chúng sẽ nhịn đói bay về và do kiệt sức, chúng sẽ rơi xuống nước”.

Vì vậy ngài chịu đau cho đến khi đám thân thuộc đã ăn uống no nê và vui đùa theo kiểu thiên nga, ngài cất tiếng kêu của con chim bị nạn. Nghe vậy, cả bầy Thiên nga kinh hoảng sợ chết liền bay về phía núi Cittakùta.

Ngay khi chúng đã khuất dạng, Sumukha đại tướng loại Thiên nga, suy nghĩ: “Có thể đây là một việc khủng khiếp đã xảy ra với Đại vương chăng? Ta muốn tìm xem sao”.

Rồi bay hết tốc lực mà vẫn không nhìn thấy bậc Đại Sĩ trong phần của đoàn quân Thiên nga đang bay về, chim ấy đi tìm ngài ở đoàn chim lớn, và cũng không thấy ngài đâu cả nó tự bảo: “Chắc chắn có việc gì ghê gớm xảy ra rồi”. Khi quay lại nó liền thấy bậc Đại Sĩ bị mắc bẫy, thân đầy máu đang chịu đau đớn vô cùng và đang nằm trên đám bùn. Chim ấy hạ cánh xuốngđậu trên mặt đất, vừa cố sức an ủi bậc Đại Sĩ, vừa nói:

– Xin Đại vương chớ sợ, thần sẽ giải cứu Đại vương khỏi cái bẫy dù phải hy sinh tính mạng mình.

Lúc ấy, muốn thử lòng chim bạn, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đầu:

  1. Bầy chim không để ý gì ta,
    Vội vã chúng bay biến thật xa,
    Chim bị giam tìm đâu bạn hữu?
    Bay ngay, đừng ở nán đây mà
    .

Tiếp theo đây là các vần kệ đối đáp nhau:

Đại tướng:

  1. Dù có đi hay ở vời ngài,
    Ngày kia thần cũng phải lìa đời,
    Thần theo ngài thuở còn vinh hiển,
    Lúc khổ đau không thể bước rời. 
  2. Hoặc thần phải chết với quân vương,
    Hoặc sống đời hiu quạnh đoạn trường,
    Thà chết ngay đây thì thật tốt
    Còn hơn sống để khóc bi thương.
  3. Bỏ ngài không đúng nghĩa quân thần,
    Khi ở trong tình cảnh đáng buồn,
    Thần sẽ rất hài lòng mãn nguyện
    Cùng ngài chung số phận phong trần.

Nga vương:

  1. Số phận nào cho chim bị giam,
    Ngoại trừ dây nướng thịt hung tàn,
    Tự do, trí vẫn còn suy nghĩ,
    Sao có thể đành chịu bỏ thân?
  2. Có lợi gì khanh hoặc với ta
    Từ đây, khanh xét thấy, Thiên nga,
    Lợi gì quyến thuộc ta còn sống
    Nếu cả hai ta phải chết mà?
  3. Kim Nga, nghĩa cử của hiền khanh
    Sẽ bị màn đêm phủ thật nhanh,
    Hành động hy sinh này biểu lộ
    Đức gì nếu đặt dưới bình minh?

Đại tướng:

  1. Ngài không thấy, hỡi Thiên nga vương,
    Hạnh phúc theo sau việc Chánh chân?
    Chánh nghĩa được tôn sùng xứng đáng
    Dạy cho người thực chất hiền lương.
  2. Thấy Chân chánh, tất cả việc lành
    Có thể từ Chân chánh phát sinh,
    Vì đã quý yêu ngài thắm thiết,
    Thần hân hoan phóng xả thân mình.
  3. Nếu biết điều Chân chánh, chúng ta
    Không hề bỏ bạn lúc sa cơ,
    Cho dù phải cứu mình đi nữa,
    Bậc trí khuyên đây Chánh nghĩa mà.

Nga vương:

  1. Chánh nghĩa của khanh đã thực hành,
    Trong khi ta nhận thấy chân tình,
    Đi ngay, nếu thật khanh mong muốn
    Làm việc mà ta rất tán thành.
  2. Có lẽ các dây thuở đã qua
    Buộc ràng quyến thuộc dưới quyền ta
    Kịp thời chuyển đến khanh sau đó
    Với trí, tài điều khiển vượt xa.
  3. Trong khi đôi bạn quý cao này
    Trao đổi tâm tư tuyệt diệu vầy,
    Hãy ngắm, gã săn chim táo bạo
    Hiện ra trước mắt chúa tôi đây
    Khác gì Thần chết đang đi đến
    Trước kẻ liệt giường khốn khổ thay.
  4. Đôi bạn thấy kia một kẻ thù
    Nên lòng lo sợ, nặng ưu tư,
    Lặng yên đậu đó không di chuyển
    Khi gã đến gần tự nẻo xa.
  5. Thấy bầy ngỗng nọ đã bay tung
    Đây đó, biến dần giữa cõi không,
    Nơi chốn đôi chim cao thượng đậu,
    Cừu nhân vội vã tiến lên gần.
  6. Trong lúc gã đang vội bước chân,
    Đến nơi định mệnh đã dành phần,
    Thợ săn rung động vì tư tưởng,
    Kêu lớn: “Bầy chim bị bắt không?”
  7. Gã thấy một chim trong bẫy giăng,
    Và con chim nọ gã nhìn sang
    Chăm lo chim bạn đang tù hãm,
    Còn nó không xiềng xích buộc ràng.
  8. Hoang mang trí óc lẫn hoài nghi,
    Gã ngắm đôi chim cao thượng kia,
    Khôn lớn cả đôi, cùng đẹp mã,
    Gã liền cất tiếng, giọng từ bi:

Thợ săn:

  1. Đành rằng chim bị bắt trong dây
    Không thể bao giờ cất cánh bay,
    Ngươi vẫn tự do và lớn mạnh,
    Sao ngươi quyết ở với chim này?
  2. Với ngươi, chim có họ hàng gì,
    Khi cả đàn kia đã trốn di,
    Dầu được tự do, ngươi ở lại,
    Bên chim bị bắt một mình kia?

Đại tướng:

  1. Hỡi cừu nhân của đám Thiên nga,
    Ngài chính quân vương, vốn bạn mà,
    Thân thiết như đời ta chẳng khác,
    Ồ không, ta chẳng muốn bao giờ
    Bỏ ngài trong lúc ngài lâm nạn.
    Cho đến khi Thần chết gọi ta.

Thợ săn:

  1. Chim này không phát hiện hay sao
    Chiếc bẫy người giăng kín thế nào?
    Phận sự của anh hùng tướng lãnh
    Là đề phòng hiểm họa gian lao
    .

Đại tướng:

  1. Khi người sắp gặp bước suy tàn,
    Giờ Tử thần đang tiến lại gần,
    Dù bạn đến kề bên chiếc bẫy,
    Cũng không thấy bẫy sập dây giăng!

Thợ săn:

  1. Bẫy dù đủ loại, hỡi chim Thần,
    Đôi lúc đặt ra chỉ uổng công,
    Đến phút cuối cùng do định mệnh
    Con người bị bẫy kín, thương vong.

Như vậy là nhờ đối thoại với gã bẫy chim mà đại tướng Thiên nga đã xoa dịu lòng gã, và chim ấy ngâm vần kệ xin gã tha mạng cho bậc Đại Sĩ:

  1. Có phải đây là kết quả lành
    Do lời thân thiện với tôn huynh
    Xin người tha mạng đôi ta với,
    Ta được tự do giải thoát nhanh.

Người bẫy chim say mê giọng đối đáp dịu ngọt của Sumukha, liền ngâm kệ:

  1. Này chim, ngươi chẳng bị giam mình,

Hãy chạy đi, mau chạy thật nhanh,
Ta chẳng muốn thân ngươi đổ máu,
Bình an, hãy sống chuỗi ngày xanh.

Tiếp theo sau chim Sumukha ngâm bốn vần kệ:

  1. Ta không tha thiết sống riêng ta,
    Nếu bạn ta đây phải chết mà,
    Xin hãy vui lòng tha vị ấy,
    Thịt ta thay thế chúa Thiên nga.
  2. Chúng ta về tuổi tác tương đồng,
    Cùng cỡ rộng dài các cẳng chân,
    Không mất gì, dù người đổi lấy
    Mạng ta thay thế mạng quân vương.
  3. Hãy xét xem ta với cách này,
    Thỏa lòng thèm muốn với ta đây,
    Trước tiên hãy buộc ta vào bẫy,
    Rồi để chúa chim giải thoát ngay.
  4. Do đó người thành tựu ước mong,
    Và ta đạt nguyện vọng trong lòng,
    Thiên nga, Tôn giả đều hòa hợp
    Trong lúc đời trôi mãi chẳng dừng.

Vậy là nhờ nghe giảng Pháp lành, tim người thợ săn dịu lại, như thể vải được nhúng dầu và gã giao bậc Đại Sĩ cho chim ấy, khác nào giao nô lệ cho chủ nhân, rồi ngâm kệ:

  1. Xin làm chứng, các bậc hiền nhân
    Nô lệ, họ hàng, các bạn thân,
    Do chính một mình ngươi cứu giúp
    Chúa chim đượcgiải thoát giam cầm.
  2. Ít ai có được một thân bằng
    Như chính ngươi đang thật sẵn sàng
    Chia xẻ cùng nhau chung số phận
    Khi chim chúa gặp bẫy vong thân.
  3. Vậy chúa chim này, ta thả ra
    Bạn ngươi, theo gót cũng bay xa,
    Mau lên, giữa đám chim thân thuộc
    Ngươi sẽ như sao chiếu sáng lòa.

Nói vậy xong, người đánh bẫy kia với từ tâm đến gần bậc Đại Sĩ và cắt các sợi dây ra, ôm ngài trong tay, đưa ngài ra khỏi nước và đặt ngài trên đám cỏ xanh tươi bên bờ hồ, rồi hết sức dịu dàng, gã nhẹ tay nới lỏng chiếc bẫy đã trói chân ngài rồi ném nó ra xa.

Sau đó, phát sinh tình thương mến mãnh liệt đối với bậc Đại Sĩ, với tâm lòng tràn ngập niềm thân ái, gã lấy nước rửa máu ở vết thương của ngài và chùi sạch sẽ. Do năng lực của từ tâm ấy, vết thương ở chân Bồ-tát khép lại dần, gân nối liền gân, thịt liền thịt, da liền da. Da non hiện ra và lông tơ mọc phủ lên đó.

Bồ-tát vẫn giống hệt như trước kia chân không hề bị sa bẫy bao giờ và an toàn theo tư thế bình thường hoan hỷ. Lúc ấy Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ hạnh phúc như vậy, tất cả đều do hành động của mình, trong niềm vui tràn trề, nó ca tụng người bẫy chim.

*

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân
    Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
    Và êm tai kẻ làm ân phước,
    Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
  2. “Lạp hộ, cùng thân quyến cả nhà,
    Mong chư vị hạnh phúc chan hòa
    Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
    Chim chúa Thiên nga được thả ra”.

Sau khi tán thán người bẫy chim như vậy, tướng quân Sumukha nói với Bồ-tát:

– Tâu Chúa thượng, người này đã cống hiến chúng ta một công đức thật vĩ đại: ví thử y không nghe lời chúng ta, y có thể được đại phú hoặc bằng cách luyện tập chúng ta cho thuần để nuôi làm trò tiêu khiển và đem dâng các vị Đại vương nào đó hoặc giết chúng ta để bán làm thứcăn. Song y đã nghe theo lời ta mà hoàn toàn không quan tâm đến kế sinh nhai của y. Vậy ta hãy đưa y vào yết kiến quốc vương và làm cho y được hạnh phúc suốt đời.

Bậc Đại Sĩ chấp thuận việc này ngay.

Sau khi vừa đàm luận với bậc Đại Sĩ bằng ngôn ngữ riêng của loài chim xong, tướng quân Sumukha nói với kẻ bẫy chim bằng tiếng người và hỏi:

– Này hiền hữu, tại sao hiền hữu đặt bẫy?

Để kiếm lợi – Gã đáp.

Sumukha bảo:

– Nếu vậy thì hiền hữu hãy đưa chúng ta vào thành trình diện với đức vua, ta sẽ thuyết phục đức vua ban phú quý cho hiền hữu.

Và chim ấy ngâm các vần kệ:

  1. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
    Phương cách tìm ra thật lắm lời,
    Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa,
    Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
  2. Mau đem ta đến chốn triều đường,
    Thân thể bình an được vẹn toàn,
    Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
    Phía trên đòn gánh của người mang.
  3. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
  4. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
    Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
    Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
    Sẽ tặng người vô số bạc tiền.

Khi chim ấy nói xong, người bẫy chim đáp:

– Xin các vị đừng mong muốn yết kiến đức vua nữa. Vua chúa quả thật tâm tính hay thay đổi: họ sẽ bắt giữ các vị để làm trò tiêu khiển hoặc giết chết các vị đấy.

Sumukha đáp:

– Này hiền hữu, đừng sợ gì cả. Ta đã thuyết Pháp làm dịu lòng một kẻ độc ác như bạn và đã khiến bạn quy phục ta, dù người là một kẻ bẫy chim với bàn tay vấy máu đỏ. Còn các vua chúa thật ra đầy nhân từ và trí tuệ, là những người có thể phân biệt lời lẽ thiện ác. Vậy hãy mau đưa chúng ta vào yết kiến đức vua của hiền hữu.

Người bẫy chim nói:

– Thôi được, xin các vị chớ giận tôi Nếu việc này làm các vị thật sự thích thú, thì tôi sẽ đưa các vị đến yết kiến vua.

Thế rồi gã đưa đôi chim lên đòn gánh của gã và đi đến triều đình xin bệ kiến vua. Khi được vua hỏi chuyện, người bẫy chim công bố mọi sự kiện của trường hợp này.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Vội làm khi gã mới nghe xong
    Việc các chim mong tận cõi lòng,
    Đem cặp hồng nga vào bệ kiến,
    Bình an, thân thể mạnh hoàn toàn,
    Đậu kia, chẳng có gì ràng buộc,
    Trên mỗi đầu đòn gánh gã mang.
  2. Rồi người ấy nói: “Tấu Minh quân
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương .
  3. “Kìa, những chim này mạnh biết bao,
    Trở thành mồi bẫy của ngươi sao,
    Sao ngươi bò tới gần bên chúng
    Chẳng khiến chúng kinh hãi tẩu đào?”
  4. “Trong ao hồ, khải tấu Minh quân,
    Xin hãy ngắm xem bẫy lưới giăng,
    Trong mọi chốn loài chim trú ẩn,
    Bẫy thường được đặt tạo thương vong.
  5. Chính trong một bẫy kín như vầy
    Thần đã bắt chim chúa ngỗng này,
    Chim bạn tự do ngồi kế cận
    Và mong cầu chúa thoát tù đày.
  6. Chim này làm phận sự hơn xa
    Thành tựu phàm nhân đạt đến mà,
    Cương quyết tập trung toàn nỗ lực
    Làm cho chim chúa được buông tha.
  7. Chim đằng kia muốn chịu hy sinh,
    Xứng đáng hưởng thêm cuộc sống mình,
    Ví thử chúa chim này được sống,
    Chúa chim đã được bạn tôn vinh.
  8. Nghe những lời chim ấy giải bày,
    Tiểu thần liền đạt phước ân ngay,
    Hân hoan giải phóng chim tù tội,
    Ra lệnh đôi chim cất cánh bay.
  9. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân,
    Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
    Và êm tai kẻ làm ân phước
    Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
  10. “Lạp hộ, cùng thân quyến họ hàng,
    Mong chư vị hạnh phúc muôn vàn
    Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
    Chúa chim Thiên nga được thoát nạn,
  11. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
    Phương cách tìm ra thật lắm lời,
    Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa
    Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
  12. Mau đem ta đến chốn triều đường,
    Thân thể bình an được vẹn toàn,
    Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
    Phía trên đòn gánh của người mang.
  13. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
    Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
    Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
    Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
  14. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
    Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
    Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
    Sẽ tặng người vô số bạc tiền .
  15. Do vậy, theo lời chim bảo ban
    Thần đưa đôi ngỗng đến triều đường,
    Mặc dù chúng tự do tìm kiếm
    Nơi trú bình an ở núi ngàn.
  16. Chim kia có số phận như vầy,
    Dù thật chánh chân đến thế này
    Có thể chuyển lay lòng trắc ẩn
    Thợ săn hung bạo tựa thần đây.
  17. Thiên nga này, khải tấu Minh quân,
    Tặng vật tiểu thần đến hiến dâng,
    Giữa những chốn người săn đặt bẫy,
    Hiếm khi tìm được vật ngang bằng.

Như vậy, gã đứng đó tán dương những đức hạnh của Sumukha. Sau đó vua Sakula tặng ngỗng chúa một bảo tọa cao sang và Sumukha một kim đôn quý giá. Khi đôi chim đã an tọa, vua mới dùng bắp rang, mật ong, mật mía và các món tương tự đựng trong các chén dĩa bằng vàng. Khiđôi chim đã ăn xong, vua chấp hai tay thỉnh cầu bậc Đại Sĩ thuyết Pháp rồi ngồi xuống một kim đôn nữa.

Theo lời thỉnh cầu ấy, chúa Thiên nga đàm đạo đầy hứng thú với vua.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ mọi việc:

  1. Giờ đây nhìn thấy đấng quân vương
    An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
    Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
    Làm êm tai chúa tể trần gian
    .

Thiên nga:

  1. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
    Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
    Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
    Được ngài cai trị thật công bằng?”

Quân vương:

  1. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
    Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
    Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Ngài có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh chúa công?

Quân vương:

  1. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.

Thiên nga:

  1. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chiều mọi Thánh ý Minh quân?

Quân vương:

  1. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.

Khi Bồ-tát đã chấm dứt những lời chào hỏi thân hữu xong, vua lại đàm đạo cùng ngài:

Quân vương:

  1. Khi vận rủi kia đưa đẩy ngài,
    Đến cừu nhân tối hiểm trên đời,
    Khi ngài gặp phải tay người ấy,
    Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
  2. Gã kia có chạy, gậy trong tay
    Đánh đập các ngài, nói trẫm hay?
    Với những con người gian ác ấy
    Trẫm thường nghe nói cách như vầy.

Thiên nga:

  1. Ta không hề gặp bước gian nan
    Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
    Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
    Với ta như những bọn cừu nhơn.
  2. Người bẫy chim run rẫy, ngạc nhiên,
    Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
    Và Sư-mục, tướng quân khôn nhất,
    Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
  3. Nghe những lời chim tuớng giải bày
    Người kia liền đạt phước ân ngay,
    Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
    Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
  4. Tâu Đại vương, Sư-mục ước mong
    Đến đây và yết kiến long nhan,
    Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
    Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng
    .

Quân vương:

  1. Cung nghênh các vị, đúng hoàn toàn,
    Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
    Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
    Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian
    .

Nói vậy xong, vua nhìn thẳng một vị cận thần và khi vị ấy hỏi:

– Tâu Đại vương, xin cho biết Thánh ý.

Vua đáp:

– Khanh hãy đưa người bẫy chim này đi tỉa gọn râu tóc và sau khi gã được tắm rửa, xoa dầu thơm, hãy cho gã phục sức xiêm y lộng lẫy và đưa gã lại đây.

Khi việc này đã xong và người bẫy chim được dẫn đến, vua ban ân cho gã một ngôi làng hằng năm sinh lợi một trăm ngàn đồng tiền và thêm một ngôi nhà đứng ở vị trí giáp hai mặt đường, một cỗ xe lộng lẫy và cả kho vàng ròng.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Quân vương rộng lượng đã truyền ban
    Người bẫy chim vô số bạc vàng,
    Sau đó hồng nga cất tiếng nói
    Âm thanh mê mẩn cả tâm can
    .

*

Sau đó bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho vua, và khi nghe ngài giảng giải, vua sinh tâm hoan hỷ, mong muốn bày tỏ dấu hiệu kính trọng đối với vị Pháp sư, vua liền tặng ngài chiếc lọng trắng, vừa dâng lên ngài cả quốc độ vừa ngâm các vần kệ này:

  1. Những gì trẫm có, đúng công bằng
    Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
    Sẽ chuyển qua quyền ngài thọ hưởng,
    Nếu ngài nêu nguyện ước trong tâm.
  2. Dẫu ngài đem bố thí ban ân,
    Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
    Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
    Và giao ngài cả chiếc ngai vàng.

Bậc Đại Sĩ liền trao trả chiếc lọng trắng mà vua đã tặng ngài. Rồi vua suy nghĩ: “Ta đã nghe Pháp do vị chúa hồng nga thuyết giảng, song vị tướng quân Sumukha này được gã bẫy chim tán tụng nhiệt liệt là nói năng dịu ngọt như mật rót vào tai, vậy ta cũng muốn nghe chim ấy thuyết Pháp”. Thế là vua ngâm vần kệ khác để đàm đạo với chim ấy:

  1. Trí hiền Sư-mục thật tinh thông,
    Ví thử nói ra tự nguyện lòng
    Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
    Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.

Sau đó Sumukha đáp:

  1. Xin tâu Chúa thượng, trước Minh quân,
    Đúng phép, tôi không dám nói năng
    Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
    Khác nào vương tử của Long thần.
  2. Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
    Và ngài Đại đế tối cao vầy,
    Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
    Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
  3. Thần tôi hèn mọn, tấu Quân vương,
    Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
    Khi nhị Đại vương đang nghị sự
    Bao điều quan trọng giữa triều đường.

Vua nghe chim ấy nói, lòng đầy hoan hỷ phán bảo:

– Người bẫy chim nhiệt liệt ca tụng tướng quân, chắc chắn không thể có được ai khác như khanh cả, quả thật khanh là vị thuyết Pháp êm dịu làm sao!

Vua ngâm các vần kệ này:

  1. Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
    Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
    Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
    Ở kẻ trí chưa được học hành.
  2. Trong đám chim cao quý trẫm xem
    Chim này vô địch giữa đàn em,
    Tối cao đức tính chim đầy đủ
    Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
  3. Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
    Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
    Ước mong của trẫm là hai vị
    Ở mãi bên mình thỏa ước.

Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm kệ ca tụng vua:

  1. Ngài đối đãi đây với chúng thần
    Như người đối với đại thân bằng,
    Này đây Chúa thượng vừa ban phát
    Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
  2. Song đàn chim quyến thuộc kêu than
    Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
    Và có nhiều chim đầy khổ não
    Vì không còn thấy bóng Nga vương.
  3. Vậy để xua tan nỗi khổ này,
    Đại vương, xin thả chúng thần ngay,
    Cúi xin Chúa thượng nay cho phép
    Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
  4. Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân vương,
    Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
    Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
    Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.

Khi ngài nói vậy xong, vua mới chịu để hai vị giã từ. Bậc Đại Sĩ lại thuyết giảng với vua về nỗi khổ đau theo liền Ngũ ác dục và niềm hạnh phúc đi theo công đức, rồi ngài khích lệ vua:

– Xin Đại vương giữ giới luật và trị dân chân chánh cùng thu phục nhân tâm với Tứ Nhiếp pháp (Bốn pháp hòa hợp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự)

Sau đó ngài khởi hành về núi Cittakùta.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Như vầy với chúa tể loài người,
    Chim chúa Dha-ta đã đáp lời,
    Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
    Tung đôi cánh mạnh nhất lên trời.
  2. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
    Trở về từ cõi chết nhân gian,
    Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
    Chào đón chúa chim lại họp đàn.
  3. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
    Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
    Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
    Hân hoan vì chúa được an thân.

Trong khi hộ tống chim chúa, bầy Thiên nga hỏi ngài:

– Tâu Chúa thượng, làm thế nào ngài thoát nạn?

Bậc Đại Sĩ thuật cho chúng nghe ngài được giải thoát nhờ Sumukha giúp đỡ, và nói về hành động của vua Sakula cùng người bẫy chim.

Nghe vậy cả bầy Thiên nga hân hoan ca ngợi tất cả các vị:

-Vạn tuế tướng quân Sumukha của đàn Thiên nga, và Đại vương Sakula cùng chú bẫy chim. Cầu mong các vị an lạc hạnh phúc lâu dài.

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ai có từ tâm ắt đạt thành
    Việc gì các vị ấy thi hành,
    Như Thiên nga trở về bằng hữu
    Lần nữa đôi chim được trọn lành
    .

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người bẫy chim, Sàriputta (Xá-lợi-phất)là nhà vua, Ànanda (A-nan) là Sumukha, các đệ tử đức Phật là chín mươi ngàn Thiên nga, và Ta chính là chúa Thiên nga.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại Thiên nga (Tiền thân Mahàhamsa)

Kìa đám hồng nga cất cánh bay…,

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Trưởng lão Ànanda hy sinh tính mạng.

Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã có nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ, đã tường thuật cổ tích sau đây.

*

Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, một vị quốc vương mệnh danh Samyama có vị chánh hậu tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát cùng đám tùy tùng chín mươi ngàn thiên nga trú trên đỉnh núi Cittakùta.

Một ngày kia vào lúc tảng sáng, hoàng hậu Khemà thấy chiêm bao: một bầy thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai vua và thuyết Pháp với giọng ngọt ngào. Trong khi hoàng hậu đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa được trọn bài thuyết giảng, thì bình minh đã đến, bầy thiên nga liền chấm dứt Pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng Hoàng hậu vội vàng thức dậy kêu to:

– Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân.

Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy. Nghe lời bà, đám cung nữ thưa:

– Tâu lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?

Và chúng cười khúc khích.

Lúc ấy, hoàng hậu biết đó chỉ là giấc mơ, và nghĩ thầm: “Ta không thể thấy một vật không có thật: chắc chắn có loài kim nga trên đời này, song nếu ta tâu đức vua: “Thiếp mong muốn nghe loài kim nga thuyết Pháp” , ngài sẽ bảo: “Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả, làm gì có chuyện chim kim nga thuyết Pháp”. Và ngài sẽ không quan tâm đến vấn đề đó. Song nếu ta tâu: “Thần thiếp có niềm ao ước ấy trong lúc mang thai”, ngài sẽ cho tìm chúng mọi cách và thế là ta được thỏa tâm nguyện”.

Vì vậy, vừa giả bệnh, vừa dặn dò các cung nữ xong, bà đi nằm. Khi vua đã ngự lên ngai mà không thấy bà đến yết kiến như thường lệ, liền hỏi hoàng hậu Khemà ở đâu và khi nghe bà bị bệnh, vua đến thăm bà, vừa ngồi một bên giường bà, vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình của bà. Bà đáp:

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp chẳng bệnh gì cả, song thiếp chợt có những mềm ao ước của một thai phụ.

– Này ái khanh, cứ nói đi, ái khanh muốn gì, trẫm sẽ tìm được cho ái khanh ngay.

– Tâu Chúa thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết Pháp trong lúc chim ấy ngự trên ngai vàng, có chiếc lọng che trên đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp đạt được điều này thì quý biết bao, nếu không, thiếp chẳng muốn sống nữa.

Vua liền an ủi bà và bảo:

– Nếu có vật ấy trên thế giới này thì ái khanh sẽ được toại nguyện, chớ lo buồn.

Rồi ra khỏi cung thất của hoàng hậu, vua tham vấn các vị đại thần và phán:

– Này các khanh, hãy lưu ý: hoàng hậu Khemà bảo: “Nếu thiếp nghe được chim kim nga thuyết Pháp thì thiếp sẽ sống, nếu không, thiếp sẽ chết”. Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim nga nào chăng?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.

– Thế ai biết được chuyện này?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn đến và hỏi:

– Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết Pháp chăng?

– Tâu Đại vương, cóTheo truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người ta bảo dòng giống Thiên nga Dhatarattha rất tinh khôn thông thái. Cộng thêm loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ròng.

Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi:

– Vậy loài hồng nga thông thái này cư ngụ ở đâu?

– Tâu Đại vương, chúng thần không biết.

– Thế thì ai biết chứ?

– Bọn bẫy chim – Họ đáp.

Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về, và hỏi họ:

– Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhatarattha cư trú ở đâu?

Một người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, theo truyền thuyết từ đời nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên đỉnh Cittakùta.

– Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được chúng chăng?

– Tâu Đại vương, thần không biết.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn thông thái, sau khi cho họ biết có loài chim kim nga trên đỉnh Cittakùta, vua hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, cần gì chúng thần phải bắt chim? Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa chim về gần kinh thành và bắt chúng.

– Mưu kế gì vậy?

– Tâu Đại vương, về phía bắc kinh thành, xin Đại vương ra lệnh đào một cái hồ rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn, chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng năm loại hoa sen phủ mặt hồ. Rồi giao hồ cho một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ, và phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết đây là hồ bảo tồn chim muông. Khi nghe vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó các chim kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tức nhiên sẽ đến thăm hồ và Đại vương sẽ bảo lấy thòng lọng bẫy chúng.

Vua nghe vậy, liền bảo đào hồ như họ miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo đến, ban cho gã một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng vợ con gia đình ngươi. Cẩn thận canh giữ hồ bình an này và buộc mọi người phải tránh xa hồ, truyền rao khắp bốn phương rằng đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài chim nào lai vãng nơi đây đều là của trẫm, và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ được vinh hoa phú quý.

Cùng với những lời khích lệ này, vua giao gã chăm nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm đúng như vua truyền canh giữ nơi ấy và do gã bảo vệ hồ bơi được bình an, sẽ dần dần được mệnh danh là người bẫy chim Khemà (Bình An).

Từ đấy, mọi loài chim đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin cho nhau rằng hồ này bình an ổn định, nên nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chứng loan báo, kế đó là loài hoàng nga, và theo cách này giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng và thiên nga Paka lần lượt đến.

Khi chúng đến, Khemà trình vua như vầy:

– Tâu Đại vương, năm loài thiên nga đã đến, và chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống hồ này. Giờ đây thiên nga Paka đã đến, chỉ vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin Đại vương chớ lo âu nữa.

Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh công bố khắp kinh thành rằng không ai được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân sẽ chịu hình phạt chặt tay chân và tịch thu gia sản, nên từ đó không ai dám đến đó nữa.

Bấy giờ, thiên nga Paka cư trú không xa đỉnh Cittakùta trong Kim Động. Loài chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ Dhatarattha, màu sắc thân của chúng rất đặc sắc, còn con gái của Thiên nga vương Paka lại có màu vàng ánh. Vì thế vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với Thiên nga vương Dhatarattha và gả nàng cho vua chim kia. Nàng rấtđược vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.

Một hôm bầy thiên nga hầu cận Bồ-tát hỏi thiên nga Paka:

– Các bạn tìm thức ăn ở đâu bây giờ?

– Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba-la-nại, trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận đâu?

– Đến nơi như vầy, như vầy – Chúng đáp.

– Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim muông? Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ các loài chim, được năm loại sen bao phủ, rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây, cùng nhiều đàn ong đủ loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ công bố hồ được vĩnh viễn tránh khỏi hiểm nguy. Không ai được phép đến gần, lại càng không có việc hại nhau đâu.

Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ bình an mãi. Khi nghe chuyện thiên nga Paka nói, chúng trình với Sumukha (Sư-mục-kha).

– Bầy chim kia bảo chúng thần ở gần Ba-la-nại có một hồ bình an như vầy, dòng họ Paka vẫn thường đi ăn tại đóXin tướng công tâu với Đại vương Dhatarattha và nếu ngài cho phép chúng thần, thì chúng thần cũng sẽ kiếm mồi tại đó.

Sumukha trình với chúa chim, ngài suy nghĩ: “Loài người quả thật đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây để bắt chúng ta”. Ngài liền bảo Sumukha:

– Khanh đừng tán thành việc đi đến hồ kia. Hồ này chẳng được họ xây bằng thiện ý đâu; mà nóđược xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt. Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi.

Lần thứ hai bầy kim nga thưa với tướng Sumukha rằng chúng rất nóng lòng đi đến hồ Bình An và vị ấy lại trình nguyện vọng của chúng lên chúa chim. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Không nên để quyến thuộc ta bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến đó”.

Vì vậy được chín mươi ngàn thiên nga hộ tống, ngài bay đến đó và gặm chồi non, vui đùa theo cung cách loài thiên nga xong rồi bay về núi Cittakùta.

Sau khi bầy chim đã ăn uống và giã từ, gã bẫy chim Khemaka đi trình vua Ba-la-nại việc chimđã đến. Vua vô cùng hoan hỷ phán:

– Này hiền hữu Khemaka, hãy gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban thưởng vinh hoa phú quý cho khanh.

Cùng với các lời này, vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về.

Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và ngắm các hoạt động của bầy thiên nga. Các vị Bồ-tát quả thật đã thoát ly tham dục. Vì thế bậc Đại Sĩ bắt đầu từ nơi đã hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng mực từ tốn. Còn các chim kia đều bay nhảy kiếm mồi khắp nơi. Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ: “Thiên nga này đã thoát ly tham dục:đây chính là con chim ta phải bắt lấy”.

Ngày hôm sau trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã đến một nơi gần đó giấu mình trong cái thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe hở của thùng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ được chín mươi ngàn Thiên nga hộ tống đáp xuống nơi ngài đã đến hôm trước, và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua, tiếp tục gặm lúa.

Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ đẹp phi thường của chim này, và suy nghĩ: “Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng, toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính là con chim ta quyết bắt lấy”.

Còn chúa Thiên nga, sau khi ăn lúa trên đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở về núi Cittakùta. Suốt sáu ngày liền, ngài kiếm mồi theo kiểu ấy.

Vào ngày thứ bảy, Khemakha kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào, rồi vì biết chúa Thiên nga sẽ đáp xuống ngày mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc cái bẫy ở trên vào trong vũng nước.

Hôm sau, chúa Thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê nó đi và lấy hết sức đạp mạnh vào bẫy. Trước tiên chỗ da vàng ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với một chúa chim, nên chim không chống cự nữa. Trong khi các chỗ đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu cứu quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa ăn no đủ, chúng cũng sẽ chạy trốn, thì e còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước”.

Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa. Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi, và đang chơi đùa theo kiểu cách thiên nga, chim chúa liền thốt tiếng kêu bị nạn.

Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất, như đã được tả trước đáy. Tướng quân Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể, rồi bay đi tìm quanh quẩn mà không thấy bậc Đại Sĩ trong ba đàn thiên nga lớn kia, liền suy nghĩ: “Chắc hẳn đây là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra với đức vua” và vị ấy liền quay về nói:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải cứu Chúa thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần.

Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy an ủi vỗ về bậc Đại Sĩ. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Chín mươi ngàn thiên nga đã bỏ ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi không”. Rồi để thử lòng chim kia, ngài dựa mình đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy, và ngâm ba vần kệ:

  1. Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
    Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
    Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
    Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
  2. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
    Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
    Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
    Sao khanh đơn độc ở đây mà?
  3. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
    Tù tội làm sao có bạn bè?
    Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
    Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!

Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm: “Thiên nga vương này không biết bản tính ta; ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh. Ta sẽ tỏ cho ngài thấy ta yêu quý ngài biết bao”, rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:

  1. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
    Khi đến gần tai họa thảm thương,
    Song ở lại đây, thần đã quyết
    Bên ngài, dù sống chết không màng.
  2. Không, thần sẽ bỏ Nga vương,
    Khi đến gần tai họa thảm thương,
    Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
    Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
  3. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,
    Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
    Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
    Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
  4. Khi về với quyến thuộc thân bằng
    Thần biết làm sao để nói năng,
    Ví thử bỏ ngài cho số phận,
    Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
    Không, thà chịu chết hơn là sống
    Khi phải đóng vai hạ liệt thần.

Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như giọng sư tử rống, bậc Đại Sĩ lên tiếng nêu rõ đức độ của bạn:

  1. Bản tính khanh, Sư-mục Tướng quân,
    Vẫn thường an trú lý Như chân,
    Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
    Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
  2. Khi ta nhìn thấy mặt Hiền khanh,
    Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
    Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
    Tìm đường giải cứu bạn thân mình.

Trong lúc đôi chim đang đàm luận như vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn đến nơi gã đã đặt bẫy và thấy Bồ-tát dựa mình vào cây gậy có cột thòng lọng. Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại cầm gậy vội vàng đến gần và đứng trước đôi chim, như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng,đầu gã vươn cao trên đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn đề:

  1. Đôi chim cao thượng đã trao nhau
    Tư tưởng như vầy thật quý cao,
    Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
    Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
  2. Thấy gã đến gần, Sư-mục-kha
    Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
    Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
    Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
  3. “Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,
    Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
    Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
    Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
    Bằng hành động hết lòng can đảm
    Lần nữa Chúa công được thoát nàn.

Sumuakha an ủi bậc Đại Sĩ như vầy, rồi vừa đi đến bên người bẫy chim, vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi:

– Này Hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?

Y đáp:

– Này Chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.

Sumukha đáp:

– Này Hiền hữu, đừng tưởng rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu: đó chính là Chúa công Dhatarattha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí, đức hạnh, và đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ việc gì mà ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy sinh thân mạng mình vì ngài. Nếu hiền hữu muốn nhổ lông ngài, xin hãy nhổ lông ta; hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện ngài thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống; hoặc nếu muốn kiếm tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết ngài, vì ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết ngài, hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự.

Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng địa ngục, khiến y phải nghe lời khuyến dụ êm tai của mình, Sumukha lại đến gần đứng cạnh Bồ-tát, và an ủi ngài .

Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: “Chỉ là một con chim như thế, nó lại có thể làm được những gì loài người không thể làm được. Vì loài người không chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi đấy thật là một chim thần, đầy trí tuệ và biện tài”. Toàn thân gã rung động với nỗi hoan lạc kỳ diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chấp hai tay lên trước trán, như người kính lễ mặt trời, gã đứng đó tuyên dương công hạnh của Sumukha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim nọ đã nghe lời
    Chim ấy nói ra với biện tài,
    Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
    Tôn sùng kính lễ trước chim trời.
  2. Chưa được nghe hay thấy trước giờ
    Chim dùng tiếng nói của người ta,
    Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
    Chân lý tối cao quả thật là.
  3. Với ngươi; chim có họ hàng gì,
    Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
    Dù được tự do, ngươi ở lại
    Bên chim bị bắt một mình kia?

Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này, Sumukha suy nghĩ: “Kẻ ấy đã động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa” Và chim ngâm kệ:

  1. Hỡi cừu nhân của đám thiên nga,
    Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
    Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
    Bình an đào thoát một mình ta.
  2. Đừng để Thiên nga chúa đại hùng
    Nơi đây phải chết thật đơn thân,
    Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
    Ta được ngài như đáng chúa công
    .

Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: “Giả sử ta giết Thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để vua Ba-la-nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi”.

Gã liền ngâm kệ:

  1. Ngươi kính Điểu vương, cao quý thay,
    Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
    Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
    Ta thả tự do hiền chúa ngay.

Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến gần bậc Đại Sĩ uốn cây sào xuống, đặt chim chúa trên bùn, và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa đặt chim trên đám cỏ Kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo chiếc bẫy đã kẹp chân chim. Lòng gã rạt rào tình thân mến bậc Đại Sĩ , và với từ tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi lại nhiều lần.

Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da, chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ-tát ngồi đó hân hoan thư thái như xưa.

Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc dường nào nhờ hành động của mình, nên vô cùng hoan hỷ nghĩ thầm: “Người này đã đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm gì cho y cả. Nếu y bắt ta cho các triều thần và giao ta cho họ, y sẽ được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta cho chính y, y sẽ bán ra rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y đôi điều”. Như vậy do lòng mong ước làm ích lợi cho gã, chim ngâm kệ hỏi:

  1. Nếu vì mục đích của riêng tây,
    Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,
    Ta được tự do ông trả lại,
    Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
  2. Song bằng không, quả thật to gan,
    Người bẫy chim tha mạng điểu vương
    Mà chẳng vì ân vua phép nước,
    Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.

Người bẫy chim nghe vậy bảo:

– Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được vua Samyama ở Ba-la-nại sai làm.

Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc đầu hoàng hậu nằm mộng cho đến khi vua nghe có loài thiên nga đến, và phán: “Này hiền hữu Khemaka, hãy cố bắt một hai thiên nga, rồi trẫm sẽ ban đại phú quý cho khanh”, và cấp lương thực cho gã lên đường.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Người bẫy chim này không kể gì đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả chúng ta ra là gây khó khăn cho y, song nếu từ đây, ta trở về Cittakùta, thì trí tuệ siêu phàm của điểu vương Dhatarattha cũng như hành động vì tình bằng hữu của ta đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ không hưởng đại phú quý, nhà vua cũng không được an trú vào Ngũ giới và ước nguyện của hoàng hậu cũng không thành tựu”. Vì thế, chim ấy đáp:

– Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy, thì ông không thể để cho chúng ta đi. Hãy đưa chúng ta đến yết kiến vua và ngài sẽ đối xử với chúng ta tùy thích.

Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ông là tôi tớ của quân vương,
    Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
    Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
    Với ta, đối xử hợp tâm can.

Nghe vầy, người bẫy chim nói:

– Thưa các ngài, các vị không nên mong ước diện kiến đức vua. Vua chúa quả thật là những người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các vị thành chim thuần thuần tính hoặc giết đi.

Sumukha liền đáp:

– Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng vì chúng ta. Nhờ thuyết Pháp, ta đã khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ tâm. Vậy sao ta không làm việc này với vua? Vua chúa đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy mau đưa ta đến yết kiến vua. Ông đừng đem chúng ta đi như đôi chim mắc bẫy, mà hãy đặt ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy. Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho điểu vương Dhatarattha và lồng nhỏ hơn phủ sen đỏ cho ta, đặt ngài phía trước, ta phía sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta đi yết kiến vua.

Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: “Sumukha đến yết kiến đức vua chắc hẳn mong ta được đại vinh hiển”. Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen, xong liền lên đường cùng với đôi chim theo cách miêu tả.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim nắm cả hai tay
    Trong lúc được nghe nói thế này,
    Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ
    Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.
  2. Bộ lông ngời sáng, chúa Thiên nga
    Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
    Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
    Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.

*

Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng với đôi ngỗng, chim chúa Dhatarattha chợt nhớ đến vương hậu của mình là công chúa của Thiên nga vương Paka, do lòng tham ái chi phối, chim chúa than thở như vầy với Sumukha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nga vương vừa mới được mang ra,
    Liền nói như vầy vời Mục-kha:
    “Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng
    Bây giờ đang khổ não vì ta.
    Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
    Ta sợ đời nàng cũng phải sa.
  2. Như cò hương khóc bạn tình lang,
    Đơn độc bên bờ vắng đại dương,
    Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
    Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.

(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga

*

Nghe vầy, Sumukha suy nghĩ: “Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái, nên cứ lảm nhảm như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng! Hay ta phải cố dùng trí tuệ nêu rõ cho ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm ngài tỉnh táo lại chăng?”, và chim này ngâm kệ:

  1. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,
    Lãnh đạo anh minh của giống dòng,
    Sao phải ưu phiền vì nữ giới,
    Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.
  2. Như gió mang đi đủ thứ mùi
    Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
    Tham lam như trẻ thành mù quáng
    Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.
  3. Không xét suy chân chánh việc làm
    Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
    Việc gì cần tránh, gì làm được,
    Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.
  4. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng
    Có đầy vẻ diễm lệ say lòng;
    Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
    Chẳng khác trà đình của túy ông.
  5. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,
    Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
    Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
    Tử thần cất kín tận tâm can.
    Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
    Hạ liệt quả là nhất thế gian!

Lúc ấy chúa chim Dhatarattha đang say mê nữ giới, liền bảo:

– Hiền hữu không biết các đức tính của phái nữ, nhưng các bậc hiền trí biết rõ, nữ giới khôngđáng bị chỉ trích đâu.

Rồi ngài giải thích qua các vần kệ:

  1. Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,
    Còn ai khiển trách, dám phê bình?
    Nữ nhân sinh ở trong trần thế
    Để hưởng đặc quyền với đại danh.
  2. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
    Tình yêu lạc thú được ban cho,
    Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
    Nguồn gốc đời ta được hộ phò,
    Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
    Khó lòng khinh thị đám quần thoa.
  3. Riêng khanh, Sư-mục, có tinh thông
    Cung cách dung nghi đám má hồng,
    Xúc động hãi kinh, khanh có thấy
    Trí này sáng suốt muộn màng không?
  4. Khi một nam nhân gặp bất an,
    Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
    Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
    Cố sức cho ta được thoát nàn.
  5. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng
    Để có người khuyên nhủ hộ phòng
    Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
    Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.
  6. Ta mong đầu bếp của hoàng gia
    Đừng nướng thân ta đã xác xơ,
    Như trái cây tre thường giết mẹ
    Bộ lông vàng cũng giết đời ta.
  7. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,
    Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
    Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
    Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.

Bằng cách tán tụng nữ giới, bậc Đại Sĩ đã làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực biết bao, giờ đây ngài muốn hòa giải với bạn, liền ngâm kệ này:

  1. Gắng sức làm sao thật đúng thời,
    Với công bằng biện hộ như lời,
    Anh hùng hành động, xin hiền hữu
    Đem lại cho ta cả cuộc đời
    .

Lúc ấy Sumukha suy nghĩ: “Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết; ngài không biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến vua Ba-la-nại và đàm đạo đôi điều với vua, ta sẽ biết cách hành động. Lúc này ta muốn an ủi đại vương của ta”, và vị ấy ngâm vần kệ:

  1. Nga vương cao quý, chờ kinh hoàng,
    Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
    Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
    Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,
    Bằng hành động hết lòng can đảm
    Lần nữa chúa công được thoát nàn.

Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói cả, cứ mang đôi chim trên đôi gánh đi vào thành Ba-la-nại, gã được một đám đông theo sau vì tràn đầy thích thú kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia, họ đưa hai tay lên trời với dáng điệu nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình vua về việc gã đến chầu.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Người săn chim đến cổng hoàng gia,
    Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
    “Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,
    Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga”.

Người canh cổng đi vào trình y đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ, phán:

– Cho phép y vào chầu tức thì.

Rồi được một đám triều thần vây quanh, vua ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn đôi Thiên nga sắc vàng óng ả, vua phán:

– Ước nguyện của ta đã thành tựu.

Rồi vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng đáng đền đáp lại người bẫy chim.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh thần,
    Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,
    Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
    Cùng với lời trao đám cận thần:
  2. “Ban gã săn chim thức uống ăn,
    Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
    Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ
    Ban thật nhiều như dạ ước mong”
    .

*

Lòng vô cùng hân hoan, vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán:

– Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi đưa y đến đây.

Thế là đám triều thần đưa gã ra khỏi cung, truyền tỉa râu tóc gã, sau khi y đã tắm rửa, xoa đầu thơm và mặc y phục lộng lẫy, họ đưa y vào yết kiến vua. Lúc đó vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi tức hàng năm một trăm ngàn đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện nghi cùng đại phú quý vinh hiển.

Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người bẫy chim tâu trình để giải thích những việc y đã làm:

– Tâu Đại vương, thần không dâng Đại vương loại thiên nga bình thường đâu; đây chính là chúa tể của cả đàn chín mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhatarattha và đây là đại tướng Sumukha.

Sau đó, vua hỏi:

– Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi chim ấy?

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Đại vương nhìn thấy kẻ đi săn,
    Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:
    “Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
    Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.
  2. Giữa cả đàn chim một giống dòng,
    Làm sao khanh cố sức thi công
    Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
    Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?”

Người săn chim đáp lời vua:
45. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo
Thần đã hoài công đánh dấu hồ,
Tìm vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn mình trong một cái lu to.

  1. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn
    Mà chính Thiên nga đã đến gần;
    Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
    Thiên nga phút chốc bị sa chân.

Khi nghe vậy, vua suy nghĩ: “Kẻ này lúc đứng ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhatarattha bay đến, và bây giờ y cũng chỉ nói về chim này thôi. Thế việc này có ý nghĩa gì?”. Và vua ngâm vần kệ:

  1. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,
    Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
    Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng
    Trẫm đây thêm một chú chim trời?

Lúc ấy người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, không có gì thay đổi trong ý định của thần, và thần cũng không muốn dâng Thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt được một con trong bầy thôi.

Rồi y nói tiếp để giải thích:

  1. Thiên nga có những sọc vàng hồng
    Tất cả đều vòng xuống dưới thân,
    Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,
    Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.
  2. Chim tuyệt đẹp này được tự do
    Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
    Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
    Cố sức làm cho bạn khỏi lo.

Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của Sumukha:

– Ngay khi biết Thiên nga Dhatarattha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần, đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người, vừa nói rõ mọi đức hạnh của chim Dhatarattha. Và sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần nữa. Tâu Đại vương, khi nghe tài hùng biện của Sumukha, thần đã được cảm hóa và thả chim Dhatarattha. Do vậy, việc thả chim Dhatarattha khỏi bẫy và việc thần đến đây với đôi ngỗng này đều nhờ công Sumukha cả.

Khi nghe vậy, vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ vua, thì mặt trời vừa lặn, đèn đuốc được thắp sáng, một đám tướng lãnh và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng hậu Khemà được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên phải vua; ngay lúc ấy vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói, liền ngâm kệ:

  1. Sao ngươi im tiếng, hỡi Thiên nga,
    Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
    Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
    Mà sao chẳng thốt một lời ra?

Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình không sợ gì cả:

  1. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,
    Khi trao lời giữa chốn triều đường,
    Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
    Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.

Nghe vậy, vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn, liền ngâm kệ chê bai vị tướng chim:

  1. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,
    Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,
    Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
    Cũng không xa, pháo để theo hầu.
  2. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,
    Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
    Tháp canh không có, phòng xâm phạm
    Với lũy hào bao bọc bản doanh
    Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
    Không gì đáng sợ ở bên mình.

Khi vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền đáp kệ:

  1. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,
    Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
    Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
    Vân du khắp cả cõi trời xanh.
  2. Nếu ngài an trú lý Như chân,
    Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
    Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
    Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.
  3. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,
    Một người tâm tính thật tồi tàn,
    Lời người đặt bẫy này hùng biện
    Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.

Nghe vậy, vua liền đáp:

– Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn? Thế trẫm đã làm gì chăng?

Sumukha liền đáp:

– Vậy Đại vương hãy nghe đây.

Và chim nói như sau:

  1. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
    Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
    Và đã truyền rao khắp thập hướng:
    An toàn đây chỗ của chim muông.
  2. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,
    Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,
    Chim muông thấy thức ăn phong phú
    Sống cuộc đời an ổn trọn lành.
  3. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,
    Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
    Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy
    Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ.
  4. Song lời dối trá khéo bao che
    Hành động tham lam tội lỗi kia
    Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
    Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.

Như vậy ngay giữa đám triều thần, chim đã làm vua phải hổ thẹn. Sau đó vua phán:

– Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết và ăn thịt đâu; song nghe tiếng ngươi thông tuệ biết bao, nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện đấy thôi.

Rồi vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Mục-kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,
    Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
    Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
    Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.
  2. “Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra
    Chân thật, những lời ích lợi ta”,
    Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
    Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga.

Nghe thế , Sumukha đáp:

– Tâu Đại vương, ngài đã hành động sai lầm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

  1. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,
    Khi ta kinh hãi chết kề gần,
    Cũng không hít thở hơi từ giã
    Hấp hối phút giây của tử thần.
  2. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,
    Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,
    Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
    Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.
  3. Ai buông lời lẽ thật cao sang,
    Dự định hành vi hạ liệt tràn,
    Thì ở đời này, đời kế nữa,
    Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.
  4. Đừng say sưa quá phút vinh quang,
    Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
    Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
    Hết lòng phấn đấu trước tai ương.
  5. Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,
    Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,
    Sống trên trần đúng đường chân chánh,
    Theo hướng đi lên đến cõi trời.
  6. Nghe những lời này, giữ chánh chân,
    Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
    Dha-ta-ra ấy là chim chúa
    Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn.

Nghe vậy, vua phán:

  1. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,
    Đem vào đây cả chiếc kim đôn,
    Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy
    Tối thượng Thiên nga ở cõi trần.
  2. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,
    Thật là tài giỏi lại tinh thông,
    Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
    Đều dạy thiết thân với chúa công.
  3. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh
    Theo bước chúa công suốt lộ trình,
    Vì đã sẵn sàng trang bị đủ
    Với vua chia xẻ tử cùng sinh.

Nghe lời vua phán, quan hầu đem bảo tọa đến mời đôi chim. Hai vị đậu ở đó rửa chân với nước hoa và xoa dầu thơm đã được lọc cả trăm lần.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,
    Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
    Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
    Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.
  2. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu vương,
    Tướng công trung tín lại can cường,
    Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
    Tất cả đều nguyên cả khối vàng.
  3. Nhiều chúa Kà-si đựng chén vàng
    Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
    Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
    Tặng vật cúng dâng của Đại vương.

*

Khi thực phẩm được đem thiết đãi hai vị như thế, vua Kàsi muốn đích thân đón tiếp hai vị, liền tự tay lấy chén vàng mời khách, hai vị thưởng thức mật ong, gạo rang và uống rượu đường. Sau đó Bậc Đại Sĩ nhận thấy cung cách vua thiết đãi thật ân cần như vậy liền đàm đạo thân mật với vua.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nghĩ thầm? “Lễ vật thật cao sang
    Chúa tể Kà-si đã cúng dường,
    Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
    Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.

Thiên nga:

  1. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
    Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
    Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
    Được ngài cai trị thật công bằng?”

Quân vương:

  1. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
    Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
    Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Ngài có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh chúa công?

Quân vương:

  1. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
    Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
    Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
    Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.

Thiên nga:

  1. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chìu mọi Thánh ý Minh quân?

Quân vương.

  1. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
    Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
    Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
    Vâng chìu mọi ý trẫm cầu mong.

Thiên nga:

  1. Và nay quốc độ lạc an chăng,
    Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
    Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng?

Quân vương:

  1. Ngày nay vương quốc trẫm bình an
    Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
    Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
    Hưởng nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

  1. Có xua ác đảng khỏi giang san
    Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
    Ngài có tránh xa điều chánh trực,
    Hoặc theo đường lối bọn tà gian?

Quân vương:

  1. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,
    Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
    Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
    Và theo đường lối bậc hiền lương.

Thiên nga:

  1. Đại vương có thấy quãng đời mình
    Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
    Hãy mãi say sưa vì vọng tưởng
    Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?

Quân vương:

  1. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình
    Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
    Nên vẫn hành trì Mười giới hạnh
    Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.
  2. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,
    Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,
    Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
    Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.
  3. Những điều đức hạnh tận tâm can
    Vững chắc vươn lên, thấy rõ ràng,
    Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
    Hân hoan cho trẫm quý muôn vàn.
  4. Song dù Sư-mục chẳng hề hay
    Tội ác trẫm đâu có phạm này,
    Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả
    Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.
  5. Ta chẳng biết chi các việc này,
    Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
    Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
    Trí tuệ yếu non đã hiển bày.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Vị vua đức hạnh này đang phẫn nộ vì ta đã khiển trách ngài. Rồi ta sẽ xin ngài tha thứ’’. Rồi chim ấy ngâm kệ:

  1. Thần đã lỗi lầm với Đại vương,
    Nói năng bừa bãi thật điên cuồng,
    Song khi chim chúa này lâm nạn,
    Lòng của hạ thần tựa nát tan.
  2. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,
    Như người cha đối với con mình,
    Đại vương, xin rộng lòng tha thứ
    Lỗi chúng thần đây phạm đã đành.

Lúc ấy, vua liền nâng chim lên, ôm vào lòng và đặt chim trên một kim đôn, vua chấp nhận lời thú nhận lỗi lầm kia và phán:

  1. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng quân,
    Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
    Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
    Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.

Cùng với những lời này, vua hết sức hoan hỷ về bài thuyết Pháp của Bậc Đại Sĩ và lời lẽ cương trực của Sumukha, liền suy nghĩ: “Khi ta hoan hỷ, ta phải hành động để bày tỏ mềm hoan hỷ của ta”.

Rồi muốn nhường cảnh vinh hiển của mình cho đôi chim, vua phán:

  1. Những gì châu báu với kim, ngân,
    Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
    Ở tại Kà-si thành của trẫm,
    Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.
  2. Đồng, sắt, vỏ sò, với ngọc trai,
    Bảo châu vô số, đám ngà voi
    Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,
    Y phục cao sang, da hổ, nai,
    Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
    Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.

Cùng với những lời trên, vua làm vinh dự đôi chim bằng chiếc lọng trắng vào trao vương quốc cho đôi chim.

Sau đó Bậc Đại Sĩ ngâm kệ đàm đạo với vua:

  1. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,
    Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,
    Làm Đạo sư cho thần học hỏi
    Mười điều vương pháp để an dân.
  2. Rồi nếu chúng thần được Đại vương
    Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,
    Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
    Và trở về thăm viếng họ hàng.

Vua cho phép đôi chim ra đi, và trong khi Bồ-tát còn đang thuyết Pháp, mặt trời đã mọc.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Kà-si chúa tể, suốt đêm thâu,
    Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,
    Sau đó vua bằng lòng chấp thuận
    Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.

*

Khi đã được vua cho phép từ giã, Bồ-tát lại nói:

– Xin Đại vương tỉnh giác và trị nước chân chánh.

Và ngài an trú vua vào Ngũ giới.

Vua ban hai vị bắp rang với mật ong và nước đường trong dĩa vàng, khi hai vị đã dùng bữa ăn xong, vua cung kính dâng hai vị các hoa thơm và nhiều lễ vật khác, rồi tự tay nâng Bồ-tát lên trong chiếc lồng vàng, và hoàng hậu Khemà nâng Sumukha lên. Khi mặt trời mới mọc vua và hoàng hậu mở cửa sổ và nói:

– Xin các Tôn giả hãy ra đi.

Rồi hai vị tháo lồng thả đôi chim ra.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,
    Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
    Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
    Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.

*

Bậc Đại Sĩ là một trong đôi chim bay ra khỏi lồng vàng đứng trên không và bảo:

– Xin Đại vương chớ lo âu, phải luôn tỉnh giáo và an trú vào giáo Pháp của ta.

Ngài an ủi vua như vậy rồi cùng Sumukha bay về thẳng núi Citakùta. Chín mươi ngàn thiên nga kia cất cánh bay ra khỏi Kim Động tụ tập trên cao nguyên và khi thấy hai vị đến, chúng ra nghênh tiếp và hộ tống hai vị về nhà. Như vậy hai vị được cả đoàn quyến thuộc đưa về tận cao nguyên Cittakùta.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
    Trở về từ cõi chết nhân gian.,
    Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
    Chào đón chúa chim lại họp đàn.
  2. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
    Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
    Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,
    Hân hoan vì chúa được an thân.

*

Trong khi hộ tống chúa chim, bầy thiên nga hỏi ngài:

– Tâu Đại vương, làm thế nào ngài thoát nạn?

Bậc Đại Sĩ kể cho chúng nghe ngài thoát nạn nhờ Sumukha giúp đỡ, và các hành động của vua Samyama cùng triều thần.

Nghe vậy, bầy thiên nga hân hoan ca ngợi các vị:

– Vạn tuế Đại tướng Sumukha của chúng ta, vạn tuế Đại vương và người bẫy chim. Cầu mong các vị được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ và sáng tỏ vấn đề:

  1. Ai có từ tâm ắt đạt thành .
    Việc gì các vị ấy thi hành,
    Như Thiên nga trở về bằng hữu
    Lần nữa đôi chim được trọn lành.

Chuyện này đã được kể đầy đủ trong số 533. Tiền thân Cullahamsa.

*

Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người bẫy chim là Channa (Xa-nặc), Hoàng hậu Khemà là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), vua là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đoàn tùy tùng của vua là các đệ tử Phật, Sumukha là Ànanda (A-nan) và Chúa Thiên nga chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện thực phẩm Thiên giới (Tiền thân Sudhàbhojana)

Ta không phải kẻ bán buôn rong…,

Chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) liên hệ đến một Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng.

Tương truyền vị ấy là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở tại Sàvathi (Xá-vệ) sau khi nghe bậc Đạo Sư thuyết Pháp, đã xin quy y và sống đời tu hành. Khi đã viên mãn mọi giới đức và đầy đủ các đạo hạnh của người xuất gia có lòng tràn ngập thân ái đối với các bạn đồng tu, mỗi ngày ba lần ông nhiệt tâm phụng sự Phật, Pháp, Tăng và tỏ ra gương mẫu trong đức hạnh và chuyên cần bố thí.

Muốn thành tựu giới bổn về tình thân ái, bất cứ vật gì vị ấy nhận được, ông đều bố thí cả, bao lâu còn người nhận, cho đến khi ông chẳng còn gì để ăn. Tính hào phóng và tình thân ái của ông được đồn đại khắp Tăng chúng. Vì vậy một hôm, câu chuyện bắt đầu trong Chánh pháp đường, về một Tỷ-kheo có tâm hào phóng và chuyện bố thí đến độ dù ông chỉ nhận được nước uống vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng đem cho các bạn đồng tu với tâm ly tham. Ý nguyện của vị ấy chẳng khác gì một vị Bồ-tát.

Với thiên nhĩ thông, bậc Đạo Sư nghe được chuyện Tăng chúng đang nói, liền bước ra khỏi Hương phòng của Ngài, đến gần và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Khi các vị đáp chuyện như vầy như vầy Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vị Tỷ-kheo này không hề hào phóng, trái lại ông keo kiệt đến độ không thể cho một giọt dầu trên ngọn cỏ. Vì vậy, ta đã giáo hóa ông khiến ông biết hy sinh bản thân và bằng cách tán thán các công đức bố thí, Ta đã an trú ông vào hạnh bố thí. Cho nên khi nhận được nước chỉ vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng nói: “Ta không muốn uống một giọt nào mà không cho bớt đôi chút”. Rồi ông nhận được một điều ước ta ban cho, và kết quả việc bố thí kia là ông có tâm hào phóng và chuyên bố thí.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một gia chủ giàu tiền đến tám trăm triệu đồng và vua ban cho ông chức giữ Ngân khố. Được vua ban vinh hiển như thế và được dân chúng vô cùng trọng vọng, một hôm ông suy xét về cảnh thịnh vượng của đời mình, liền suy nghĩ: “Cảnh vinh quang này ta đạt được không phải do lười biếng hay các ác nghiệp trong đời trước, mà là do thành tựu các công đức; vậy ta cần phải lo liệu cuộc sống tương lai thật vững chắc”.

Vì thế ông đến yết kiến vua và thưa;

– Tâu Đại vương, trong nhà hạ thần có kho báu trị giá tám trăm triệu đồng, xin Đại vương nhận lấy từ hạ thần.

Vua đáp:

Trẫm không cần tài sản của khanh, Trẫm đã có nhiều tài sản rồi, vậy cứ lấy của cải làm việc gì tùy thích.

Ông thưa:

– Tâu Đại vương, hạ thần có thể đem tiền để bố thí chăng?

Vua phán:

– Cứ làm như khanh muốn.

Ông liền ra lệnh xây sáu bố thí đường mỗi ngôi ở mỗi cổng thành, một ngôi ở giữa thành phố, và một ngôi ở cổng nhà mình, rồi mỗi ngày đem chi tiêu sáu trăm ngàn đồng tiền, ông bắt đầu làm đại sự bố thí; trong lúc sinh thời, ông chuyên bố thí và dạy bảo các con:

– Hãy cố chăm lo để đừng gián đoạn truyền thống bố thí này của cha.

Đến lúc mạng chung, ông tái sinh làm Sakka Thiên chủ (Đế Thích).

Con trai ông cũng bố thí như vậy và tái sinh làm Canda (Nguyệt thần), con của Canda là Suriya (Nhật thần), con của Suriya là Màtali (Quản xa thần) và con của Màtali là Pañcasikha (Ngũ kế Nhạc thần).

Bấy giờ con trai của Pañcasikha, cháu thứ sáu trong dòng ấy, là người Thủ kho tên là Maccharikosiya (Triệu phú keo kiệt) vẫn còn cả tám trăm triệu nhưng ông nghĩ: “Tổ tiên ta thật khờ dại. Các vị ấy đã ném bỏ tài sản do công khó góp nhặt, còn ta sẽ giữ gìn kho báu. Ta quyết không cho ma nào một xu nhỏ”.

Ông liền phá hủy và đốt rụi các bố thí đường rồi trở thành kẻ keo kiệt kinh niên. Vì thế đám hành khất tụ tập trước cổng nhà ông chìa tay ra và kêu lớn:

– Thưa Đại quan thủ kho, xin ngài đừng bỏ tục cổ truyền của tổ tiên, mà ngài hãy bố thí.

Khi nghe vậy, dân chúng khiển trách ông, và bảo:

– Vị triệu phú biển lận này đã bỏ truyền thống gia đình.

Ông hổ thẹn, bảo canh giữ để ngăn đám hành khất đứng ở cổng nhà ông, vì thế họ vô cùng khốn đốn cơ cực, không còn để mắt vào cổng ấy nữa. Từ đó, ông tiếp tục cuốn tiền lại để cất, chứ không hưởng thụ phần mình cũng không chia với vợ con.

Ông sống bằng cơm gạo đỏ, dọn với tương chua, mặc áo quần vải thô, chỉ gồm toàn sợi lấy từ rễ và thân cây dâu, che đầu bằng dù lá đi chiếc xe cũ ọp ẹp do đôi bò tồi tàn kéo. Như vậy tất cả tiền bạc của con người độc ác này chẳng khác gì con chó nhặt được quả dừa.

Một hôm, khi sắp vào chầu vua, ông nghĩ nên đưa vị Phó thủ kho đi cùng, và khi đến gần nhà vị kia, ông thấy vị Phó thủ kho đang ngồi giữa vợ con ăn cháo gạo với đường mịn, nấu với bơ tươi. Khi thấy Maccharikosiya, vị ấy đứng dậy bảo:

– Xin mời Đại quan thủ kho vào ngồi trên tọa sàng này và ăn cháo gạo cùng tiểu đệ.

Vừa trông thấy cháo gạo, miệng ông đã chảy nước miếng và muốn ăn ngay, nhưng ông chợt suy nghĩ: “Nếu ta ăn một chút cháo, thì khi vị Phó thủ kho đến nhà, ta phải đáp lại lòng hiếu khách của y và như vậy là sẽ tiêu phí tiền của. Ta những muốn ăn đâu”.

Sau đó bị nài ép mãi, ông vẫn từ chối, bảo:

– Ta đã ăn rồi, ta no lắm.

Song suốt buổi vị Phó thủ kho ăn cháo, ông cứ ngồi nhìn và chảy nước miếng, rồi khi xong bữa, ông cùng vị ấy vào cung.

Khi về nhà, lòng ông tràn ngập nỗi thèm ăn cháo gạo, nhưng lại nghĩ: “Nếu ta nói ta muốn ăn cháo gạo, nhiều người cũng sẽ muốn ăn theo và sẽ tiêu phí một số gạo giã trắng. Thôi ta chẳng muốn nói một lời với ai”.

Vì thế suốt đêm ngày, ông cứ miên man suy nghĩ không gì khác ngoài cháo, nhưng vì sợ tốn tiền nên không nói với ai mà chỉ giữ cơn thèm trong lòng. Tuy thế không thể nào chịu đựng mãi được chuyện ấy, ông dần trở nên xanh xao, và do sợ tiêu phí của cải, ông không nói thèm ăn với ai và dần dần ông kiệt sức phải nằm liệt giường.

Lúc ấy, vợ ông đến thăm, lấy tay vỗ vào lưng ông và hỏi:

– Phu quân có bệnh chăng?

Ông kêu to:

– Bà bệnh ấy chứ, ta khỏe lắm mà!

– Phu quân xanh xao lắm. Phu quân có điều gì lo nghĩ? Đức vua không đẹp ý hay các con đối xử bất kính với chàng? Hay chàng thèm muốn vật gì chăng?

– Phải, ta đang thèm muốn.

– Phu quân nói cho thiếp biết với.

– Bà có giữ kín miệng được chăng?

– Được lắm, thiếp sẽ giữ kín mọi điều thèm muốn cần được giữ kín.

Nhưng dù vậy, do sợ tiêu phí của cải, ông không có can đảm nói với vợ, sau bị bà thúc giục mãi, ông đáp:

– Này bà, hôm kia ta thấy vị Phó thủ kho ăn cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong, từ đấy, ta cứ thèm ăn loại cháo như vậy.

– Thiếp sẽ nấu cháo gạo cho cả dân thành phố Ba-la-nại ăn mà.

Lúc ấy, ông cảm thấy như bị ai đánh cái gậy vào đầu, ông nổi cơn thịnh nộ với vợ và nói:

– Ta dư biết bà giàu có lắm. Nếu ở nhà bà thì bà tha hồ nấu cháo và cho cả thành phố ăn.

– Được thiếp sẽ nấu vừa đủ cho dân cả một khu phố ăn thôi.

– Bà có liên hệ gì với chúng cơ chứ? Mặc chúng ăn thứ gì chúng có.

– Thế thì thiếp sẽ nấu đủ cho bảy gia đình chọn rải rác đâu đó.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia nhân trong nhà này thôi.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia đình ta thôi.

– Chúng là gì của bà vậy?

– Thế thì thiếp chỉ nấu cho phu quân và thiếp thôi.

– Ôi kìa, bà là ai chớ? Trường hợp bà cũng không được đâu.

– Vậy thiếp chỉ nấu cho một mình phu quân thôi.

– Xin bà đừng nấu cho ta. Nếu bà nấu trong nhà, nhiều người sẽ thấy. Chỉ cần cho ta một đấu gạo giã trắng, một góc tư lít sữa, một cân đường, một hũ mật ong, và một cái nồi, ta sẽ đi vào rừng nấu cháo và ăn.

Bà vợ làm như vậy, bảo một gia nô đem tất cả những thứ ấy và ông ra lệnh gia nô đến đứng ở nơi kia. Sau đó bảo gia nô đi khuất, một mình ông trùm kín người giả dạng đi đến đó và cạnh bờ sông dưới một góc cây, ông bảo làm cái lò, đem củi và nước cho ông rồi dặn kẻ gia nô:

– Đi ra đứng ở đường kia, nếu chú thấy ai, hãy ra hiệu cho ta, và khi ta gọi, chú hãy đến.

Bảo tên gia nô đi xong, ông nhóm lửa và nấu cháo. Lúc ấy Sakka Thiên chủ đang chiêm ngưỡng kinh thành tráng lệ của chư Thiên, rộng mười ngàn dặm, con đường lát vàng dài sáu mươi dặm, Tối thắng điện Vejayanta cao một ngàn dặm, Thiện pháp đường bao quát năm trăm dặm, chiếc ngai hoàng thạch rộng sáu mươi dặm, chiếc lọng trắng với cành hoa vàng chu vi năm dặm, và bản thân ngài được một đoàn tùy tùng thật huy hoàng gồm hai mươi lăm triệu Thiên nữ.

Vừa chiêm ngưỡng mọi cảnh vinh quang này, ngài vừa suy nghĩ: “Ta đã có khả năng làm gì để đạt đến vinh quang này?”. Rồi với thiên nhãn, ngài thấy hạnh bố thí mà ngài đã tạo nên trong thời làm quan Đại thủ kho tại Ba-la-nại, và ngài suy nghĩ: “Thế nay các con cháu ta tái sinh cõi nào?”, vừa xem xét vấn đề ấy ngài vừa nói: “Con trai Canda của ta tái sinh làm Thiên tử, và con trai nó là Suriya”. Khi để ý đến việc tái sinh của tất cả con cháu, ngài kêu lên: “Thế số phận con trai của Pañcasikha thì sao? Quan sát kỹ, ngài thấy truyền thống dòng dõi đã bị phá hủy, và ý tưởng này chợt đến với ngài: “Tên hà tiện độc ác này chẳng hưởng tài sản cũng chẳng cho ai cả. Truyền thống gia tộc đã bị nó phá hoại. Khi chết, nó sẽ tái sinh địa ngục. Bằng cách thuyết giáo cho nó và tái lập truyền thống gia đình, ta sẽ chỉ cho nó con đường tái sinh thiên giới”.

Vì thế ngài triệu tập Canda và các vị kia rồi bảo:

– Này, ta sẽ giáng trần: truyền thống gia đình ta đã bị Maccharikosiya phá hủy, các bố thí đường đã bị đốt sạch và nó chẳng hưởng thụ tài sản cũng chẳng cho ai cả, song giờ đây nó đang thèm ăn cháo gạo và suy nghĩ: “Nếu nấu cháo trong nhà, thì cháo phải được đem cho người khác”, nên nó vào rừng và nấu cháo một mình. Chúng ta sẽ đi giáo hóa nó và dạy nó hiểu kết quả của bố thí. Song nếu tất cả chúng ta đồng thời xin nó cho cháo gạo, nó sẽ ngã lăn đùng ra chết tại chỗ. Vậy ta sẽ đi trước và khi ta đã xin nó cháo rồi ngồi xuống, các khanh hãy đến, lần lượt từng vị giả dạng Bà-la-môn xin cháo.

Nói vậy xong, chính ngài giả dạng một Bà-la-môn đến gần người triệu phú và kêu to:

– Này, đường nào đi đến Ba-la-nại?

Maccharikosiya đáp:

– Lão có mất trí không đấy? Lão không biết cả con đường đến Ba-la-nại ư? Tại sao lão đến đường này? Hãy từ đây mà đi ra.

Sakka giả vờ không nghe ông nói, cứ tiến gần ông, hỏi ông nói gì. Thế rồi ông hét lên:

– Này, Bà-la-môn điếc đặc kia, ta bảo tại sao lão đến đường này? Hãy đi ra đường kia.

Sakka đáp lại:

– Tại sao ông hét to thế? Ta thấy đây có khói và lửa, cháo gạo lại đang sôi, chắc là dịp thiết đãi các Bà-la-môn đấy mà. Khi các Bà-la-môn được mời ăn, ta cũng muốn hưởng đôi chút. Tại sao ông xua ta đi?

– Ở đây chẳng đãi tiệc Bà-la-môn nào cả. Lão hãy cút đi.

– Thế tại sao ông nổi giận như vậy? Khi ông dùng bữa, tôi muốn xin một chút.

Ông đáp:

– Ta chẳng muốn cho lão dù chỉ một miếng cháo. Món ăn hiếm hoi này chỉ vừa đủ nuôi sống ta thôi, và đây cũng do ta đi xin. Lão hãy đi kiếm đồ ăn nơi khác.

Ông nói vậy là muốn nhắc đến việc đã xin vợ phần gạo ấy. Và ông ngâm kệ:

  1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
    Không của cho vay hoặc biếu không,
    Chút cháo thí này rất khó kiếm,
    Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!

Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:

– Ta cũng sẽ lấy giọng ngọt như mật ngâm kệ đáp lễ ông đây, hãy lắng nghe ta.

Rồi ông cố ngăn ngài và bảo:

– Ta không muốn nghe kệ của lão.

Thiên chủ Sakka vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Của ít cũng nên bố thí mà,
    Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
    Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
    Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Khi nghe lời ngài, ông đáp:

– Này Bà-la-môn, đây là một lời nói nhân từ của lão, thôi để khi cháo chín, lão sẽ được ăn một chút. Hãy ngồi xuống đây.

Sakka ngồi xuống một bên. Khi ngài vừa ngồi, Canda theo cách này đến gần và bắt đầu nói chuyện như thế, dù Maccharikosiya cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Nào có ích chi lễ tế thần,
    Hoài công ước vọng ở trong tâm,
    Nếu ông ăn cháo và không muốn
    Cho thực khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Khi nghe lời vị ấy, kẻ hà tiện miễn cưỡng bảo:

– Thôi được, hãy ngồi xuống, ông cũng sẽ được một ít cháo.

Vị ấy liền đến ngồi cạnh Sakka. Sau đó Suriya cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện theo cách trên, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị ấy vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
    Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
    Nếu ông không một mình ăn cháo,
    Mà biếu khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Nghe lời này, kẻ hà tiện lại càng thêm miễn cưỡng bảo:

– Thôi được, cứ ngồi xuống và lão sẽ được một ít cháo.

Suriya đến ngồi cạnh Canda. Sau đó Màtali theo cách trên cũng đến gần và bắt đầu nói chuyện, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm hai vần kệ:

  1. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
    Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
    Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
    Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
    Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
    Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
    Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
    Mà biếu khách đây một ít phần.
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Nghe lời này, ông bối rối như thể có đỉnh núi đè nặng lên, ông miễn cưỡng nói:

– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được một ít.

Màtali đến ngồi cạnh Suriya. Sau đó Pañcasikha cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện, dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:

  1. Như cá tham ăn vội nuốt mau
    Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
    Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
    Khi có khách này kế cận sao?
  2. Ko-si, ta nói một đôi lời:
    Bố thí của ông một chút thôi,
    Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
    Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
    Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
    Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.

Maccharikosiya nghe vậy, gắng gượng một cách mệt nhọc, rên to lên:

– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được ăn một chút.

Pañcasikha liền đến ngồi cạnh Màtali. Khi năm vị Bà-la-môn đều an tọa, cháo cũng đã chín. Kosiya nhấc cháo ra khỏi lò, bảo các vị Bà-la-môn đem lá tới. Vẫn ngồi tại chỗ, năm vị vươn tay ra đưa các ngọn lá cây leo hái từ Tuyết Sơn. Kosiya thấy vậy bảo:

– Ta không thể cho cháo vào các ngọn lá to như thế của các vị đâu. Hãy lấy lá cây keo hay các cây tương tự.

Các vị đi lượm lá ấy, mỗi lá lớn bằng cái mộc của chiến sĩ. Ông lấy muỗng múc một ít cháo cho tất cả các vị. Vào lúc ông đã múc xong cho vị cuối cùng, vẫn còn nhiều cháo trong nồi. Sau khi mời các vị Bà-la-môn xong, chính ông ngồi xuống cầm cái nồi.

Ngay lúc ấy, Pañcasikha đứng lên, biến hình thành con chó đến đứng trước các vị và tiểu tiện. Mỗi vị Bà-la-môn đều lấy một ngọn lá che cháo. Một giọt nước tiểu của chó rơi vào lưng bàn tay của Kosiya. Các vị Bà-la-môn lấy nước trong bình ra trộn với cháo giả vờ ăn. Kosiya nói:

– Cho ta một chút nước, rửa tay xong ta mới ăn cháo.

Các vị bảo:

– Hãy đi kiếm nước cho mình và rửa tay.

– Ta đã cho các vị cháo thì nay hãy cho ta một chút nước.

– Chúng ta không làm việc trao đổi thí vật.

– Thế thì giữ dùm ta nồi cháo, khi rửa tay xong, ta sẽ trở về.

Và ông xuống bờ sông. Lúc ấy con chó tiểu tiện đầy nồi. Kosiya thấy chó tiểu tiện liền lấy gậy lớn và đến gần hăm dọa nó. Bấy giờ con chó biến thành con ngựa thuần chủng và trong khi nóđuổi theo ông, nó biến hóa đủ màu. Khi thì chó màu đen, khi thì trắng, khi thì vàng, khi thì lốm đốm. Dáng nó khi thì cao, khi thì thấp. Nó hiện ra đủ hình dáng khác nhau như vậy và rượt theo Kosiya khiến ông sợ chết khiếp, chạy đến gần các Bà-la-môn trong khi các vị bay lên đứng trên không. Khi thấy thần lực các vị, ông ngâm kệ:

  1. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
    Đang đứng trên cao giữa cõi không,
    Con chó các ngài sao lạ vậy
    Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
    Dầu là chỉ một mình con chó,
    Các vị là ai, nói thật chân.

Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.

*

Và Sakka ngâm kệ ca ngợi danh vọng của Pañcasikha:

  1. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
    Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
    Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
    Làm tim chàng rộn rã vui mừng.

Nghe lời ngài, Kosiya hỏi:

– Nhờ hành động gì, con người đạt vinh quang thiên giới đến như vậy?

– Những người không thực hành bố thí, những kẻ tạo ác nghiệp và keo kiệt không thể lên thiên giới, mà tái sinh địa ngục.

Sakka ngâm kệ nêu rõ điều này:

  1. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
    Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
    Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
    Phải vào địa ngục trú thân tàn.

Và ngài ngâm các kệ sau để chứng tỏ những người hiền trí theo chánh hạnh sẽ đạt thiên giới:

  1. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên đàng,
    Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
    Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
    Sẽ lên thiên giới sống bình an.

Sau đó, Sakka lại bảo:

– Này Kosiya, chúng ta không đến đây để xin ăn cháo đây nhưng vì lòng thương xót ngươi mà chúng ta đến.

Và ngài ngâm kệ nêu rõ việc ấy cho y:

  1. Dù trong đời trước có thân tình,
    Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
    Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
    Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.

Nghe vậy, Kosiya suy nghĩ: “Các ngài nói các ngài có thiện chí đối với ta, muốn ta khỏi đọa đày địa ngục và an trú vào Thiên giới, và ông vô cùng hoan hỷ ngâm kệ:

  1. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
    Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
    Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
    Như ta hiểu được ý sâu xa.
  2. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
    Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
    Bố thí gia tài, cho tất cả,
    Dù là chén nước cũng chia phần.
  3. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
    Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
    Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
    Tham dục loại nào cũng chạy bay
    .

Sau khi cảm hóa Kosiya, Sakka Thiên chủ lại dạy ông các quả báo của hạnh bố thí, làm cho ông biết hy sinh quên mình, và nhờ thuyết Pháp, ngài đã an trú ông vào Ngũ giới xong, liền cùng các vị Thiên hầu cận trở về trời.

Phần Kosiya cũng vào thành Ba-la-nại, sau khi xin phép vua, ông bảo gia nhân đi lấy tất cả nồi chảo mà họ có được, đổ đầy vàng bạc từ kho báu đem cho hành khất. Bấy giở, ông khởi hành từ vùng Tuyết Sơn bên phía hữu, và ở một nơi giữa sông Hằng và một hồ thiên nhiên, ông xây một am thất bằng lá, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh sống toàn củ quả rừng. Vị ẩn sĩ sống ở đó một thời gian cho đến tuổi già.

Thời ấy Sakka Thiên chủ có bốn ái nữ: Hy Vọng, Tín Thành, Vinh Quang và Danh Dự. Các nàng đem theo nhiều tràng hoa trời thơm ngát đến hồ Anotatta, chơi đùa trong nước, và sau khi đã thỏa thích ở đó, lại an tọa trên đỉnh Manosilà.

Ngay lúc ấy, ẩn sĩ Bà-la-môn Nàrada lên cung đình cõi trời Ba mươi ba nghỉ ngơi tránh cơn nắng gắt ban ngày, và dựng một chỗ an trú ngay dưới khóm cây Cittakùta trong Thiên lạc Viên Nandana. Cầm một đóa san hô trong tay để làm lọng che nắng, ông về Kim Động, nơi ông an trú trên đỉnh Manosilà. Các Thiên nữ thấy đóa hoa trong tay ông liền xin ông cho hoa.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
    Sak-ka ái nữ, các tiên nương
    Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
    Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
  2. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương
    Xứng với Thiên tiên, các Thánh thần,
    Chẳng quỷ ma hay người thế tục
    Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
  3. Tín Thành, Hy Vọng, với Vinh Quang,
    Danh Dự, màu da sáng tựa vàng
    Giữa các tiên nương là tuyệt sắc,
    Đứng lên nói với Bà-la-môn:
  4. Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
    Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
    Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
    Ngài sẽ được ban mọi phước phần.
  5. Na-ra-da thấy chúng mong cầu
    Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
    – Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
    Phải là vương hậu các nàng bầu.

Bốn Thiên nữ nghe vậy liền ngâm kệ:

  1. Nà-ra-da, tối thượng là ngài,
    Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
    Ai được ngài ban quà tặng ấy
    Sẽ là tiên đẹp nhất trong bầy!

Nàrada nghe vậy liền bảo:

  1. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
    Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
    Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
    Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần
    .

*

Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ này:

  1. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
    Nóng lòng vì bậc trí tinh khôn,
    Chúng đi đến Sak-ka Thiên chủ
    Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.

*

Các nàng vừa đứng, vừa hỏi câu này:

  1. Bầy tiên hăm hở vội đi tìm,
    Đế Thích đầy tôn trọng, phán liền:
    “Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc
    Vậy ai phá hoại sự bình yên?” .
    Nghe ngài hỏi vậy, các nàng đáp:
  2. Nà-ra-da, bậc đại hiền nhân
    Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
    Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
    Như vấy, đã nói ở Hương Sơn:
    “Hãy tìm Thiên chủ Sak-ka ấy
    Để biết ai ưu, liệt giữa đàn”.

Nghe thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: “Nếu ta bảo ai trong bốn ái nữ của ta đức hạnh vượt lên các nàng kia, chúng sẽ nổi giận. Trường hợp này ta không thể quyết định được. Ta sẽ đưa chúng đến Kosiya, vị ẩn sĩ tại Tuyết Sơn, vị ấy phải quyết định vấn đề này cho chúng”. Vì thế ngài bảo:

– Ta không thể quyết định trường hợp các con được. Trên vùng Tuyết Sơn có vị ẩn sĩ tên là Kosiya. Ta muốn gửi một chén tiên thực tặng vị ấy. Vị ấy chẳng ăn gì mà không chia cho kẻ khác, và trong lúc cho, vị ấy biểu lộ sự xét đoán bằng cách tặng kẻ nào đức hạnh. Ai trong các con nhận được thực phẩm từ tay vị kia là nàng tiên tối thắng giữa cả đàn.

Vừa nói vậy, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
    Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra;
    Vừa tặng quà, Ko-si xét đoán
    Ai là đệ nhất đám tiên nga.

Rồi ngài triệu tập Màtali và bảo vị ấy đi đến ẩn sĩ kia; khi truyền lệnh, ngài ngâm kệ sau:

  1. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng Hà
    Xuôi phía Nam, hiền Thánh ẩn cư;
    Tiên thực, Mà-ta-li, đến tặng,
    Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà
    .

*

Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ:

  1. Mà-ta-li nhận lệnh trời ban,
    Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
    Thoắt đứng dấu mình am ẩn sĩ,
    Và dâng tiên thực tặng hiền nhân.

*

Kosiya nhận lấy và ngay khi đang đứng, ông ngâm hai vần kệ:

  1. Khi lửa tế đàn, lão đốt lên
    Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm đen,
    Sak-ka ngự trị trên Thiên giới,
    Ai khác? – trao tay thực phẩm tiên.
  2. Như hạt ngọc trai, trắng tuyệt trần,
    Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
    Mắt ta từ trước chưa hề thấy
    Ai đặt vào tay thực phẩm thần?

Màtali liền đáp:

  1. Ta đến, Sak-ka hạ lệnh truyền,
    Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
    Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
    Xin hãy ăn đi, hỡi bậc hiền,
    Ngài thấy Mà-ta-li trước mắt,
    Quản xa thần ở cõi chư Thiên.
  2. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
    Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần:
    Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
    Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
    Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
    Mời ngài tiên thực, chớ phân vân.

Nghe vậy, Kosiya ngâm kệ giải thích rằng ông đã có lời phát nguyện xưa:

38a. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời:
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.

  1. Ăn một mình không được tán thành
    Bởi người có trí tuệ cao minh,
    Ai không san sẻ cho người khác,
    Hạnh phúc làm sao đến với mình?

Khi Màtali hỏi vị này:

– Thưa Thánh giả, ngài thấy điều gì sai trái khi ăn mà chẳng chia phần cho kẻ khác, nên ngài phát nguyện này?

Ông đáp:

  1. Những người nào phạm tội tà dâm,
    Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
    Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
    Hoặc người phản bội các thân bằng,
    Hoặc tồi tệ nhất: người keo kiệt,
    Ta chẳng hề mong xếp hạng chung;
    Nước uống cho dù là một giọt,
    Ta không đụng nếu chẳng chia phần.
  2. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn
    Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
    Bậc trí sẽ tuyên dương những kẻ
    Phát ban của cải để thi ân;
    Những ai hào phóng trên trần giới
    Và tránh xan tham đủ mọi đàng
    Sẽ được mọi người đồng tán thán,
    Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.

Nghe nói vậy, Màtali xuất hiện nguyên hình trước vị này! Vừa lúc ấy, bốn Thiên nữ đứng ở bốn phương: Vinh Quang ở phía Đông, Hy Vọng ở phía Nam, Tín Thành ở phía Tây, và Danh Vọng ở phía Bắc.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
    Tên là Hy Vọng với Vinh Quang,
    Tín Thành, Danh Dự, tuân Thiên mệnh,
    Bước đến Ko-si-ya ẩn am.
  2. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
    Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
    Trước Ma-ta quản xa Thiên tử,
    Bậc trí vui mừng vội hỏi han:
  3. “Là ai, Thiên nữ tựa sao mai,
    Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
    Mình khoác xiêm y vàng chói lọi,
    Tên gì cho biết, gái nhà trời?”
  4. “Vinh Quang, bạn quý của người đời,
    Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
    Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
    Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
  5. Ta ban hạnh phúc đến người nào
    Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
    Tên gọi Vinh Quang, thưa Thánh giả,
    Xin đem tiên thực tặng ta nào!

Nghe vầy, Kosiya đáp:

  1. Những người tài, đức, lại tinh thông,
    Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
    Song bởi thiếu nàng nên thất bại;
    Việc này, ta trách ác phần nàng.
  2. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
    Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
    Song được nàng ban cho phú quý,
    Khiến người quý tộc hóa nô tài.
  3. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
    Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
    Lại còn đánh bại bao người trí;
    Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
    Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
    Đi gấp, ta không chút thích nàng!

Thế là nàng tiên liền biến mất ngay lập tức. Sau đó ông nói chuyện với nàng Hy Vọng:

  1. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
    Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
    Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
    Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
    Đầu cài thoa đỏ như màu lửa
    Được đốt bằng chùm cỏ Ku-sa?
  2. Trông nàng như một chị nai rừng
    Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
    Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng
    Khác nào con vật bị kinh hoàng;
    Hỡi nàng Thiên nữ mắt hiền dịu,
    Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
    Vì thế lạc đường không sợ hãi
    Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?

Nàng đáp vần kệ này:

  1. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
    Từ Sak-ka điện, chốn Thiên cung,
    Ma-sak-ka ấy là tên gọi,
    Ta chính là Thiên nữ giáng trần,
    Hy Vọng giờ đây đang xuất hiện
    Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
    Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
    Và tặng ta điều vẫn ước mong.

Nghe vậy, Kosiya bảo:

– Người đời vẫn nói với ta rằng bất cứ ai làm nàng hài lòng, nàng liền ban hy vọng cho kẻ ấy bằng cách hoàn thành kết quả của niềm hy vọng, còn ai không làm nàng vui lòng, thì nàng không ban cho kẻ ấy. Như thế, thành công không đến với kẻ ấy là do nàng, mà nàng lại tạo ra thất bại kia.

Để chứng minh điều này, ông ngâm kệ:

  1. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng
    Ra biển lên tàu vượt đại dương,
    Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
    Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
  2. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong
    Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
    Song gặp tai ương hay hạn hán,
    Mất mùa gặt hái để bù công.
  3. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng
    Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
    Ngã nhào, địch siết vòng vây hãm,
    Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
  4. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
    Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
    Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
    Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
  5. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
    Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
    Không quyền đòi hỏi ngay sàng tọa
    Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
    Ta chẳng thích nàng, Hy Vọng hỡi,
    Biến đi, nàng hãy biến đi liền!

Nàng Thiên nữ ấy cũng bị khước từ, liền biến mất dạng ngay lập tức. Sau đó vị ấy lại ngâm kệ trò chuyện với Thiên nữ Tín Thành:

  1. Lừng danh Thiên nữ sắc huy hoàng
    Đứng phía trời Tây tướng bất trường,
    Mình khoát xiêm y vàng rực rỡ,
    Tên gì cho biết, hỡi tiên nương.

Nàng liền ngâm kệ đáp:

  1. Tín Thành, bạn quý của người đời,
    Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
    Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
    Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!

Kosiya bảo:

– Những người nào vì tin tưởng từ lời này đến lời khác vẫn hay làm các chuyện nọ chuyện kia, thường làm những việc không nên làm hơn là những việc nên làm, và thực sự tất cả đều do nàng.

Và vị ấy ngâm các vần kệ:

  1. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
    Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân;
    Vì nàng, có lúc mất ân phước,
    Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
  2. Với vợ hiền, cao quý, thục đoan,
    Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
    Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
    Song đặt lòng tin ả bán hương!
  3. Vì nàng, lan rộng thói tà dâm,
    Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm.
    Không có quyền đòi bình nước uống,
    Cũng chẳng đòi đâu được tọa sàng,
    Nói gì thực phẩm từ thiên giới;
    Đi gấp, ta không chút thích nàng!

Nàng Thiên nữ cũng biến ngay lập tức. Nhưng Kosiya lại trò chuyện với nàng Danh Dự khi nàng đang đứng ở phương Bắc, và ngâm hai vần kệ:

  1. Bình minh viền rực bóng đêm tàn,
    Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
    Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
    Nàng là ai, hãy nói danh xưng.
  2. Như một cây mềm, dễ mọc ngang
    Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
    Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
    Sao cứ nhìn ta dáng thẹn thuồng
    Như thể có điều gì muốn nói,
    Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?

Lúc ấy nàng ngâm kệ đáp:

  1. Danh Dự là ta, bạn chí thân
    Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
    Đến đây ta muốn xin tiên thực,
    Song ước mơ nào dám nào năng,
    Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
    Nhất là đối với gái hồng quần.

Nghe vầy, vị ẩn sĩ ngâm hai vần kệ:

  1. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
    Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
    Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
    Hãy nhận món này thỏa ước mong.
  2. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
    Xin hạ cố, Thiên nữ sắc vàng,
    Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
    Món ăn thiên giới cũng chia nàng.

*

Những vần kệ sau đây phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Danh Dự, tiên nương thật vẻ vang,
    Được mời làm khách ở trong am,
    Ko-si-ya có nhiều hoa quả,
    Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
    Lại thấy từng đoàn hiền Thánh giả
    Vẫn thường lui tới các thôn làng.
  2. Rập rạp khóm cây đang trổ hoa,
    Pi-yal, xoài, mít cạnh Ju-da,
    Sà-la, đào đỏ tươi tô điểm,
    Hùng vĩ, sung, bàng đổ bóng xa.
  3. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
    Đậu kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
    Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
    Tre, sậy chen nhau rập nhất vùng.
  4. Ở về phía Bắc, được viền quanh
    Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
    Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
    Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
  5. Đàn cá tung tăng hạnh phúc tràn
    Tự do nô giỡn thật bình an,
    Giữa bao thực phẩm đầy phong phú
    Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
  6. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình
    Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
    Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
    Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
  7. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy
    Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
    Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
    Đấy là nguồn nước uống tràn đầy.
  8. Trâu nghé, tây ngưu cũng đến đây,
    Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
    Hươu rừng rất lớn và nhiều loại
    Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay!
  9. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa
    Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
    Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
    Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.

Đức Thế Tôn đã ca tụng vùng thảo am của Kosiya như vậy. Bây giờ để miêu tả cung cách Thiên nữ Danh Dự đi vào am, Ngài ngâm kệ:

  1. Nàng Thiên nữ dựa một cây cành
    Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
    Như chớp từ vầng mây sấm sét
    Sáng lòe lên giữa cảnh am tranh.
  2. Tọa sàng thanh lịch soạn cho nàng
    Ở phía trên đầu, nệm thật sang
    Bằng cỏ Ku-sa thơm sực nức,
    Phủ ngoài da quý của linh dương.
  3. Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban
    Cùng nàng Danh Dự, vị tiên nương:
    “Tọa sàng đã soạn cho nàng hưởng,
    Xin hãy an tâm nhận tọa sàng”.
  4. Ẩn sĩ lấy ra nước suối trong
    Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
    Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
    Hoan hỷ, người trao thực phẩm thần.
  5. Tay ôm tặng vật, dạ vui mừng
    Thiên nữ hân hoan bảo Thánh nhân:
    “Thờ phụng ta rồi ngài thắng lợi
    Giờ ta tìm lại cảnh thiên đường”.
  6. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang
    Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
    “Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
    Tiên thực đây. Phần thưởng hãy ban”.
  7. Sak-ka cùng với chúng Thiên thần
    Kính lễ nàng Thiên nữ tuyệt luân,
    Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
    Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.

Trong lúc tôn vinh nàng như vậy, ý tưởng này chợt đến với Thiên chủ Sakka: “Vì duyên cớ gì Kosiya từ chối ban tặng vật cho các nàng kia, lại ban thực phẩm thần tiên cho nàng này thôi?”. Để xác định lý do này, ngài lại triệu Màtali đến.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Sak-ka Thiên chủ cõi Băm ba
    Phán lệnh Mà-ta-li quản xa,
    Truyền: “Đến bảo hiền nhân giải thích
    Cớ gì Danh Dự được ban quà?

Tuân lệnh ngài, Màtali cỡi thiên xa Vejayanta (Tối thắng xa của Đế Thích) khởi hành đến nơi kia.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Vì vậy, Mà-ta-li vội vàng
    Phóng xe du lịch giữa không gian,
    Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng
    Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
    Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
    Khung xe đóng khéo được trang hoàng
    Cầu kỳ, đủ các hình tô điểm,
    Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
  2. Trên vàng được phát họa chim công
    Khéo tạo thành con số thật đông,
    Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
    Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
    Ở trong bảo ngọc này đều khắc
    Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
  3. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
    Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàng,
    Cảnh này xem thực vinh quang quá,
    Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng
    Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
    Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
    Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
    Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
  4. Ngay lúc Mà-ta nhảy vụt nhanh
    Cỡi thiên xa ấy, giữa thiên thanh,
    Âm thanh mười hướng đồng vang dội
    Qua giữa không gian đã tốc hành,
    Thiên tử làm trần gian chấn động:
    Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
  5. Chẳng bao lâu đến thảo am kia
    Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
    Để một vai trần chào Thánh giả,
    Mà-ta-li lại bắt đầu thưa
    Với vị Bà-la-môn trí tuệ
    Tinh thông Thánh điển thật cao xa.
  6. Nghe đây, Tôn giả Ko-si-ya,
    Lời nói của Thiên chủ Sak-ka
    Về việc ngài đang mong muốn biết,
    Kìa xem, sứ mạng được giao ta:
    “Trong khi Tôn giả không công nhận
    Quyền của Tín Thành, Hy Vọng và
    Vinh Quang, xin hỏi sao Danh Dự
    Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?”

Khi nghe những lời này, vị ẩn sĩ khổ hạnh ngâm vần kệ:

  1. Mà-ta-li hỡi, nàng Vinh Quang
    Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
    Trong lúc Tín Thành tâm bất định,
    Hỡi ngài, Thiên tử quản xa thần,
    Nàng Hy Vọng vẫn thường lừa dối
    Thích phản bội lời hứa của nàng,
    Danh Dự riêng mình theo đức hạnh,
    Trú thân trong Thánh đạo bình an.

Bây giờ vị ấy lại ngâm kệ ca ngợi đức hạnh của nàng:

  1. Sống ở gia môn, gái má hồng
    Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
    Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
    Và những kẻ đang sống với chồng,
    Ví thử có khi nào nhục dục
    Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
    Nghe lời nói của nàng Danh Dự,
    Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
  2. Khi các dáo, tên ở chiến trường
    Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
    Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội
    Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
    Nghe được lời nàng Danh Dự nói,
    Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
    Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
    Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
  3. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn
    Những đợt ba đào giữa đại dương,
    Danh Dự cũng thường hay trấn áp
    Con đường của những bọn tà gian;
    Mà-ta-li hỡi, mau về gặp
    Thiên chủ In-dra, nói rõ ràng:
    Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới
    Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.

Nghe vậy, Màtali ngâm vần kệ:

  1. Ko-si-ya, kẻ ấy là ai
    Đã gợi ý kia đến với ngài,
    Có phải là In-dra Đại đế,
    Phạm thiên, đầy tạo hóa cao vời?
    Nàng Danh Dự ấy, thưa Tôn giả,
    Phải biết được sinh bởi ý trời
    Thiên chủ In-dra, trên thượng giới,
    Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi
    .

Trong lúc vị Thiên tử nói, ngay chính thời khắc ấy, Kosiya sắp phải tái sinh. Màtali liền bảo:

– Này Kosiya, thân ngũ uẩn đang lìa Tôn giả. Việc thực hành hạnh bố thí đã viên mãn. Tôn giả còn có gì liên hệ với nhân thế nữa đâu? Chúng ta sẽ cũng lên thiên giới bây giờ.

Vừa quyết định đưa vị ấy lên trời, Thiên tử vừa ngâm kệ:

  1. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
    Lập tức lên xe quý của ta,
    Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
    Cung đình ngự trị cõi Băm ba
    In-dra đang đợi chờ Tôn giả,
    Quyến thuộc ln-dra quả thực là.
    Thiên đạo hôm nay lên cộng trú
    Ngài thành đạt với chúa In-dra
    .

Trong lúc Màtali đang nói, Kosiya từ trần và hóa sinh vào hàng Thiên chúng mà không cần qua trung gian cha mẹ, rồi bước lên đứng trên thiên xa. Sau đó Màtali đưa vị ấy đến yết kiến Sakka. Khi thấy vị ấy, Thiên chủ Sakka rất đẹp ý và thưởng Thiên nữ Danh dự cho vị ấy đưa về làm vương hậu chánh cung, lại ban cho vị ấy vương quyền cai trì một miền rộng bao la nữa.

*

Trong khi nhận xét thực trạng các pháp, bậc Đạo Sư bảo:

– Chính công đức của một số hiền nhân được thanh tịnh theo cách ấy.

Và Ngài ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Chính hành động của Thánh hiền nhân
    Đưa đến đời sau quả phước ân,
    Kết quả thiện hành an trú mãi.
    Người nhìn thực phẩm của Thiên thần
    Được đem trao tặng nàng Danh Dự,
    Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại với những lời này:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Ta cũng đã giáo hóa kẻ xan tham này vốn là gã keo kiệt cố hữu.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân?

-Thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Thiên nữ Danh Dự, vị Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng là Kosiya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Màtali, Kassapa (Ca-diếp) là Suriya, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Canda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Nàrada, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền thân Kunàla)

Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú gần hồ Kùnàla, liên hệ đến năm trăm vị Tỷ-kheo bị tâm bất mãn chi phối. Câu chuyện diễn tiến theo trình tự sau đây.

Hai bộ tộc Sàkiya (Thích-ca) và Koliya (Câu-ly) có con sông Rohini chảy giữa hai thành phố Kapilavatthu (Ca-tỳ-vệ) và Koliya, sông này được ngăn bằng một con đê duy nhất, nhờ đó dân chúng cày bừa gặt hái. Trong tháng Jetthamùla (tháng năm và sáu), khi lúa bắt đầu trổ bông và rủ xuống, nông dân cư trú ở hai thành này tụ họp lại. Rồi dân chúng Koliya nói:

-Nếu cả hai bên cùng kéo nước, thì nước sẽ không đủ cho cả hai thành phố chúng ta. Song dân chúng tôi sẽ được mùa to nếu chỉ một bên chúng tôi kéo nước, vậy hãy cho chúng tôi nước sông này.

Dân chúng thành Kapilavatthu đáp:

– Khi các ông đã chất thóc đầy vựa thì chúng tôi không dám cả gan đem vàng ròng, ngọc bích, tiền đồng, thúng giỏ trong tay lai vãng trước cửa nhà các ông đâu. Chúng tôi cũng sẽ được mùa to nếu chỉ riêng chúng tôi lấy nước, vậy hãy cho chúng tôi lấy nước đi.

– Ta không muốn cho – Đám người này đáp.

– Ta cũng không muốn – Đám người kia trả lại.

Trong lúc lời qua tiếng lại ồn ào như vậy, một người trong bọn họ đứng lên đấm vào một kẻ khác, đến lượt người ấy đấm trả một kẻ thứ ba và cứ thế họ đấm đá nhau và hằn học đụng chạm vào nguồn gốc hoàng tộc của nhau, làm tăng dần cảnh huyên náo ấy. Các nông gia Koliya bảo:

– Các người Kapilavatthu hãy cút ngay đi, chúng bây là loài cẩu trệ, lang sói, ăn ở với chị em gái của mình như súc vật kia. Voi, ngựa, giáo khiên của chúng chống lại ta có lợi ích gì?

Các nông gia Sakiya đáp:

– Này lũ người cùi khốn nạn, hãy cút đi mau với con cháu của bây, một lũ tồi tàn, thân phận hèn hạ, chẳng khác bầy dã thú sống trong bông cây táo. Voi, ngựa, giáo, khiên của chúng chống lại ta có ích lợi gì?

Vì thế họ đi kể chuyện với các viên chức trong hội đồng phụ trách công việc ấy và các vị này lại báo cáo với các vị trưởng tộc hoàng gia. Sau đó, các vị trưởng tộc Sakiya (Thích-ca) bảo:

– Phe ta sẽ cho chúng thấy đám người ăn ở với chị em gái của mình hùng dũng như thế nào.

Rồi họ xông ra, sẵn sàng chiến đấu. Còn bộ tộc Koliya (Câu-ly) bảo:

– Phe ta sẽ cho chúng thấy những người sống trong bộng cây táo hùng dũng ra sao.

Và họ cũng xông tới, sẵn sàng chiến đấu.

Nhưng một số đạo sư khác lại kể chuyện như vầy:

“Khi các nữ tỳ của bộ tộc Sakiya (Thích-ca) và bộ tộc Koliya (Câu-ly) ra sông để lấy nước, vừa ném xuống đất các vành khăn họ đội trên đầu, vừa ngồi xuống chuyện trò vui vẻ, thì một người cầm nhầm khăn của người khác vì tưởng đó là khăn của mình, và khi có tranh cãi do việc này gây ra, mỗi người đều bảo khăn kia của mình, dần dần dân chúng của hai kinh thành cả nô lệ, nông dân, tùy tùng, thủ lãnh, quan chức, phó vương đều xông ra sẵn sàng chiến đấu.

Tuy thế, bản kinh trước được tìm thấy trong nhiều tập Sớ giải và được xem là hợp lý, đáng chấp nhận hơn bản sau.

Bấy giờ vào buổi xế chiều, dân chúng đã xông ra sẵn sàng lâm trận. Thời ấy, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi, lúc rạng đông, trong khi đang quán sát thế gian, Ngài thấy họ khởi hành ra trận, Ngài tự hỏi nếu Ngài đến đó, trận chiến có chấm dứt chăng, và Ngài quyết định: “Ta quyết đến đó và để dập tắt cuộc tử chiến này, ta sẽ kể ba chuyện Tiền thân, để chứng minh lợi lạc của tình đoàn kết, ta sẽ dạy họ Kinh Attadanta: Bạo lực (Sutta Nipàta: Kinh Tập IV, 15) và sau khi nghe ta thuyết giảng, dân chúng hai thành này sẽ đưa đến diện kiến ta mỗi bên hai trăm năm mươi thanh niên, ta sẽ nhận họ vào Giáo đoàn và Hội chúng càng thêm đông đảo”.

Vì thế, sau khi đã tắm rửa, Ngài đến thành Sàvatthi khất thực. Lúc trở về, sau buổi thọ trai, vào xế chiều, Ngài bước ra từ Hương phòng, không báo cho ai một lời, Ngài cầm y bát và một mình ra đi và ngồi kiết-già trên không giữa hai đám người ấy.

Thấy rằng đây là cơ hội làm quần chúng kinh ngạc, Ngài ngồi đấy tỏa ra các tia sáng xanh đậm từ tóc Ngài khiến bầu trời đen tối. Rồi khi tâm họ lo âu, Ngài liền xuất hiện và tỏa ra ánh sáng ngũ sắc.

Dân chúng Kapilavatthu thấy đức Thế Tôn liền suy nghĩ: “Đức Thế Tôn, vị thân tộc cao quý của ta, đã đến. Có thể Ngài đã thấy phận sự chiến đấu đặt trên phe ta chăng? Nay bậc Đạo Sư đã đến, ta không thể lao vũ khí chống kẻ thù nào nữa?”. Rồi họ hạ vũ khí xuống và nói:

– Dân Koliya cứ giết chết hay thiêu sống ta đi.

Dân Koliya cũng làm giống như vậy.

Lúc ấy đức Thế Tôn giáng lâm, và ngự trên bảo tọa của đức Phật đặt ở một nơi tuyệt đẹp trên bãi cát, và Ngài chiếu hào quang vô thượng của một bậc Giác Ngộ.

Các vị vua đảnh lễ đức Thế Tôn và an tọa. Sau đó bậc Đạo Sư hỏi, mặc dù Ngài đã biết rõ sự việc:

– Thưa các Đại vương, tại sao các vị đến đây?

– Bạch Thế Tôn, chúng con đến đây không phải để ngắm dòng sông hay vui chơi, mà để chiến đấu.

– Các Đại vương có tranh chấp về việc gì?

– Về nước sông.

– Thế nước sông đáng giá bao nhiêu?

– Bạch Thế Tôn, rất ít.

– Thế đất đai đáng giá bao nhiêu?

– Đất vô giá.

– Thế các vị Tướng quân đáng giá bao nhiêu?

– Họ cũng vô giá.

– Thế tại sao chỉ vì một chút nước chẳng ra gì mà các vị phải hủy diệt các tướng quân cao quý? Quả thật, cuộc tranh chấp này không có gì đền bù được cả song vì một cuộc tử chiến giữa một vị thần cây và một sư tử đen nên một mối thù truyền kiếp đã được tạo ra và kéo dài đến tận hiện kiếp này.

Cùng với những lời trên, Ngài kể cho họ nghe Tiền thân Phandana (số 475, Tập V). Sau đó Ngài bảo?

– Không nên đi theo nhau một cách mù quáng thế này. Một đoàn súc vật bốn chân ở vùng Tuyết Sơn trải dài ba ngàn dặm, đã theo lời một con thỏ, lần lượt đâm đầu xuống biển cả. Do đó, không nên theo nhau cách này.

Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Daddabha (số 322, Tập III)

Hơn nữa, Ngài lại bảo:

– Đôi khi kẻ yếu nhìn thấy nhược điểm của người mạnh; khi khác, kẻ mạnh thấy nhược điểm của người yếu, nên có lần một con chim cút mái đã giết một vương tượng. Và Ngài kể Tiền thân Latukika (số 357, Tập III).

Như vậy để làm dịu cuộc tranh chấp, Ngài đã kể ba chuyện Tiền thân. Và để chứng minh hiệu quả của sự đoàn kết, Ngài kể hai chuyện Tiền thân:

– Trong trường hợp những sinh vật sống chung đoàn kết, không ai tìm ra kẽ hở để tấn công cả.

Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Rukkhadhamma (số 74, Tập I)

Ngài lại nói:

– Đối với những sinh vật đoàn kết, không ai có thể tìm ra lỗ hổng để tấn công cả, nhưng khi chúng đã tranh chấp lẫn nhau, thì một kẻ đi săn nào đó cũng tàn phá chúng và tiêu diệt chúng. Quả thật không có phần thưởng gì trong cuộc tranh chấp cả.

Cùng với những lời này, Ngài kể Tiền thân Vattaka (số 33, Tập I).

*

Sau khi đã kể năm chuyện Tiền thân như vậy, Ngài chấm dứt bằng cách tụng kinh Attadanta. Khi đã trở thành những kẻ mộ đạo, các vị vua nói:

– Nếu bậc Đạo Sư không đến, chúng ta đã tàn sát lẫn nhau làm máu chảy thành sông. Chính nhờ bậc Đạo Sư mà chúng ta còn sống. Nhưng ví thử trước kia bậc Đạo Sư sống đời thế tục, thì giang sơn gồm bốn đại châu lục cùng với hai ngàn đảo nhỏ nữa hẳn đã vào tay Ngài và hẳn Ngài đã có hơn một ngàn vương tử. Hơn nữa, chắc hẳn Ngài đã có một đoàn tùy tùng gồm các tướng lãnh quý tộc. Song từ bỏ mọi vinh quang này, Ngài xuất thế và đạt Trí tuệ Tối thắng. Bây giờ ta hãy tiễn Ngài lên đường cùng một đoàn tùy tùng tướng lãnh quý tộc.

Thế là dân chúng hai thành mỗi bên tặng Ngài hai trăm năm mươi vị quý tộc. Sau khi truyền giới xuất gia cho họ, Ngài đi về một khu rừng lớn.

Từ ngày hôm sau, được đệ tử hộ tống Ngài đi khất thực ở hai thành, khi thì vào Kapilavatthu, lúc khác lại vào Koliya, dân chúng cả hai thành đều hết sức kính trọng Ngài.

Giữa đám vương gia quý tộc này là những vị thọ giới không do hoan hỷ mà vì kính trọng bậcĐạo Sư nỗi bất mãn trong tâm liền sinh. Những người vợ cũ của họ muốn khơi dậy niềm bất mãn của họ, cứ gửi đi những lời nhắn tin này nọ, khiến họ lại càng trở nên nản lòng thối chí hơn nữa.

Khi quán sát, bậc Đạo Sư nhận thấy tâm họ đã bất mãn như thế nào, liền suy nghĩ: “Các Tỷ-kheo này, dù sống với một vị Giác Ngộ như Ta, vẫn sinh tâm bất mãn. Ta thử xem cách thuyết giảng nào sẽ ích lợi cho họ”, và Ngài nghĩ đến Pháp thoại Kunàla. Rồi ý tưởng này chợt nảy ra trong trí Ngài: “Ta sẽ đưa các Tỷ-kheo này đến vùng Tuyết Sơn và sau khi chứng minh các ác dục liên hệ đến nữ giới qua chuyện Kunàla và xóa tan nỗi bất mãn của họ, ta sẽ cho họ đạt Sơ quả trong Thánh đạo.

Vì thế sáng sớm Ngài đắp y trong và cầm y bát đi khất thực ở thành Kapilavatthu, sau khi trở về và dùng ngọ trai đã xong, Ngài bảo năm trăm vị Tỷ-kheo:

– Các ông đã từng thấy vùng Tuyết Sơn đầy lạc thú chưa?

– Bạch Thế Tôn, chưa – Các vị đáp.

– Thế các ông có muốn đi chiêm bái Tuyết Sơn chăng?

– Bạch Thế Tôn, chúng con không có thần thông lực làm sao chúng con đi được?

– Song giả sử có ai đó đưa các ông cùng đi, các ông có muốn đi chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc Đạo Sư liền dùng thần lực đưa tất cả các vị lên không gian và du hành đến vùng Tuyết Sơn, vừa trụ trên không, Ngài vừa chỉ cho Hội chúng xem một dãy Tuyết Sơn kỳ diệu với nhiềuđỉnh núi như Kim Sơn, Ngọc Sơn, Hồng Sơn, Ngân Sơn, Bình Địa Sơn, Thủy Tinh Sơn, với năm sông lớn và các hồ Kannamundaka, Rathakàra, Sihappapàta, Chaddanda, Tiyaggala, Anotatta và Kunàla, tất cả bảy hồ.

Tuyết Sơn là một vùng mênh mông, cao năm trăm dặm, rộng ba ngàn dặm. Ngài đã dùng thần thông lực chỉ cho Hội chúng thấy cảnh tuyệt mỹ của vùng này, cùng các nơi cư trú được xây tại đó, và các loại súc vật như từng đoàn sư tử, cọp, voi… Ngài đều chỉ rõ từ nơi này: các vùng đất thiêng và nhiều lạc viên khác đầy hoa quả sum sê, từng đàn chim đủ loại và các cây hoa mọc trên đất lẫn dưới nước, bên sườn Đông của Tuyết Sơn là một bình nguyên đất vàng và bên sườn Tây là một bình nguyên đất đỏ.

Thoạt nhìn thấy những vùng kỳ vĩ này, nỗi lòng mong nhớ khát khao của các Tỷ-kheo đối với các bà vợ cũ tiêu tan mất. Sau đó, bậc Đạo Sư cùng các Tỷ-kheo từ không trung hạ xuống sườn Tây của Tuyết Sơn trên một cao nguyên rộng sáu mươi dặm, trong thung lũng đỏ dài ba dặm, dưới gốc cây Sà-la bao phủ cả bảy dặm và trường thọ suốt một kiếp, bậc Đạo Sư được Tăng chúng vây quanh, tỏa hào quang lục sắc và an tọa, làm chấn động cả lòng đại dương và chiếu sáng như mặt trời, Ngài nói với các Tỷ-kheo bằng một giọng ngọt như mật:

– Này các Tỷ-kheo, hãy hỏi Ta về các kỳ quan mà các ông chưa từng thấy ở vùng Tuyết Sơn này.

Lúc ấy, hai chim cu cườm ngậm một khúc cây ở hai đầu, và ở giữa có đặt chim chúa. Tám chim cu ở trước và tám con ở sau, tám con bên phải và tám con bên trái, tám con ở dưới và tám con ở trên, cứ thế che bóng trên chim chúa trong khi vừa hộ tống chim chúa vừa bay qua không gian.

Khi thấy đàn chim này, các Tỷ-kheo hỏi bậc Đạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, bầy chim này có ý nghĩa gì chăng?

– Này các Tỷ-kheo, đây là một tục lệ cổ của gia tộc ta, một truyền thống do Ta tạo ra, thời xưa chúng hộ tống Ta như vậy. Thuở bấy giờ có cả một đàn chim lớn. Ba ngàn năm trăm chim mái son trẻ đã hộ tống Ta. Dần dần chúng tản mát, và đàn chim còn lại như các ông thấy đó.

– Bạch Thế Tôn, chúng đã hộ tống Thế Tôn trong rừng nào?

Bậc Đạo Sư bảo.

– Này các Tỷ-kheo, hãy nghe đây.

Vừa hồi tưởng chuyện cũ, Ngài vừa kể một chuyện quá khứ và giáo hóa các vị như vầy.

*

Đây là chuyện tương truyền và danh tiếng phát ra từ đó:

Một vùng đất kia có đủ loại cây cỏ mọc lên, được phủ với nhiều khóm hoa, nhiều dã thú lai vãng như voi, gayal, trâu, nai, trâu rừng (yak), hươu sao, tê giác, nai lớn, sư tử, hổ, báo, gấu, sói, linh cẩu, rái cá, linh dương kadalì, mèo rừng, thỏ tai dài, vô số đàn voi đủ loại trú ngụ, đủ loại hươu nai lui tới, là nơi nương náu của bầy yakkha (dạ-xoa) mặt ngựa, yêu tinh, ma quỷ…

Vùng ấy lại được một khóm cây rậm rạp che phủ, nở hoa ở trên ngọn, thân mảnh mai cao, không có lỏi bên trong, vang dội tiếng chim líu lo, sung sướng như điên cuồng, nào là chim ưng, gà gô, chim voi, công trĩ, cu gáy; vùng ấy lại được tô điểm với hàng trăm khoáng chất như thủy ngân, thạch tín trắng, thạch tín vàng, son đỏ, vàng và bạc. Chính trong khu rừng kỳ thú này có con chim Kunàla (một loại sơn ca), màu sắc rực rỡ với bộ lông sáng chói. Chim Kunàla này có ba ngàn năm trăm chim mái theo hầu. Thời ấy hai con chim ngậm một khúc cây trong mỏ đặt chim Kunàla ở giữa và bay lên, vì sợ rằng nỗi gian lao trong quãng đường xa sẽ làm chim này nhích ra khỏi chỗ đậu và rơi xuống.

Năm trăm chim mái bay phía dưới và chúng suy nghĩ: “Nếu chúa Kunàla này rơi xuống khỏi chỗ đậu, thì chúng ta sẽ giữ lấy ngài trong đôi cánh của ta”.

Năm trăm chim khác bay phía trên, vì sợ rằng sức nóng làm cháy da chim Kunàla.

Năm trăm chim khác bay mỗi bên ngai, để cản nóng, lạnh, cỏ cây, bụi bặm, gió, sương đụng vào ngài.

Năm trăm chim bay phía trước vì sợ rằng bọn chăn trâu bò, cắt cỏ, lượm củi, tiều phu, kiểm lâm đánh chim Kunàla bằng que củi, hay mảnh sành, nắm tay hay hòn đất, cây gậy hay con dao, hòn sỏi, hoặc lo rằng chim Kunàla sẽ va chạm vào bụi cây, dây leo, hay cây lớn, cột trụ, tảng đá hoặc một con chim lớn nào đó.

Năm trăm chim bay phía sau, nói với Ngài những lời dịu dàng, thân ái bằng những âm điệu du dương, ngọt ngào vì e rằng chim Kunàla mệt mỏi trong khi đậu tại đó.

Năm trăm chim bay lượn vòng quanh đây đó, mang về đủ loại trái cây khác nhau vì sợ rằng chim Kunàla phải chịu đói khổ.

Thời ấy bầy chim nhanh nhẹn đưa chim Kunàla đi du ngoạn từ lạc viên này đến lạc viên khác, khu vườn này đến khu vườn khác, bờ sông này đến bờ sông khác, đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, vườn xoài này đến vườn xoài khác, vườn hồng đào này đến vườn hồng đào khác, vườn mít này đến vườn mít khác, rừng dừa này đến rừng dừa khác. Cứ thế ngày nọ sang ngày kia, chim Kunàla được bầy chim này hộ tống như vậy, lại trách mắng chúng:

– Này lũ xấu xa kia, chết đi, chết tiệt cả đi, chúng bây là quân trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân, như gió cuốn đi bất cứ nơi nào chúng bây muốn.

*

Sau những lời này, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, hiển nhiên là ngay khi Ta còn ở đời sống súc sinh, ta đã hiểu rõ tính tình vô ơn, độc ác, vô luân của nữ giới, và ngay thời ấy, Ta đã không rơi vào uy lực của họ và Ta đãđặt họ dưới uy lực của Ta.

Khi Ngài đã xóa tan nỗi bất mãn trong tâm Tăng chúng, Ngài lại giữ im lặng.

Vào lúc này, hai chim cu màu đen đến nơi đây, nâng niu chúa lên cao trên khúc cây ấy, trong khi bốn chim khác bay phía dưới và mỗi bên. Thấy chúng, các Tỷ-kheo lại hỏi bậc Đạo Sư về bầy chim và Ngài đáp:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ta có bạn là một chim sơn ca chúa tên là Punnamukha, và truyền thống trong gia tộc chim ấy là như vầy.

Để đáp lại câu hỏi của các Tỷ-kheo như trước, Ngài bảo:

*

Trên sườn Đông của dãy Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi, là những dòng suối xanh biếc, bắt nguồn từ những sườn núi thoai thoải, trong một vùng thơm ngát, mê hồn, sáng tươi, diễm lệ với hoa sen nở rộ đủ màu xanh, trắng, sen bách diệp, súng trắng và cây hoa thần tiên, một miền bát ngát mỹ miều với đủ loại kỳ hoa dị thảo, cây leo, vang vọng tiếng thiên nga, vịt, ngỗng, có từng đoàn ẩn sĩ khổ hạnh, những vị có đủ thần thông biến hóa, lại có các thần linh, ma quỷ, dạ-xoa, yêu quái, nhạc thần, tiên nữ và mãng xà.

Chính trong một khu rừng kỳ ảo như vậy sơn ca chúa Punnamukha đã cư trú. Giọng sơn ca thật du dương êm ái, chính đôi mắt tươi vui ấy là đôi mắt của con chim say sưa với nhiều hoan lạc. Ba ngàn năm trăm chim mái theo hộ tống chim sơn ca Punnamukha này. Cũng vậy, có hai con chim vừa ngậm khúc cây trong mỏ và đặt Punnamukha ở giữa vừa bay lên không gian, vì sợ chim chúa phải chịu mệt nhọc…

Thuở ấy chim Punnamukha được đàn chim này hộ tống ban ngày, đã ca ngợi chúng như vầy:

– Các hiền muội thật đáng tuyên dương, hành động này của các hiền muội rất phù hợp với các mệnh phụ cao sang, vì các hiền muội đã phụng sự chúa công mình.

Lúc ấy, thực ra sơn ca Punnamukha đến gần nơi chim Kunàla đang đậu, và đàn chim hầu cận chim Kunàla đã thấy chim kia, trong khi chim ấy còn ở đằng xa, chúng kéo lại gần chim Punnamukha và cầu thân như vầy:

– Này Hiền hữu Punnamukha, chim Kunàla là một con chim hung bạo với giọng lưỡi thô tục. Có lẽ nhờ hiền hữu giúp đỡ, chúng tôi may ra mới nghe được lời nói tử tế của vị ấy.

– Thưa các quý nương, có lẽ chúng ta làm được việc ấy.

Nói vậy xong, chim ấy đến gần Kunàla, sau lời chào hỏi ân cần, chim ấy cung kính đậu một bên và nói với Kunàla như vầy:

– Này Hiền hữu Kunàla, tại sao Hiền hữu đối xử tàn tệ với các quý nương này mặc dù họ giữ phẩm hạnh tốt đẹp? Hiền hữu Kunàla, ta nên nói lời dịu ngọt ngay cả với các nữ nhân có lời lẽ thiếu tao nhã, huống hồ đối với các quý nương thanh cao thế này.

Khi chim ấy nói vậy xong, Kunàla liền phỉ báng Punnamukha như sau:

– Này quân khốn nạn kia, hãy chết đi, chết tiệt cả đi. Ai lại giống như ngươi cứ mềm lòng trước lời van xin của nữ giới?

Khi bị khiển trách như vậy, chim Punnamukha liền bỏ đi. Rồi chẳng bao lâu sau đó, Punnamukha lâm bệnh nặng, và chịu đau đớn kịch liệt vì chứng xuất huyết, làm chim gần chết. Bầy chim hầu cận sơn ca Punnamukha liền suy nghĩ: “Sơn ca này bị bệnh nặng, chắc là phảiđược vực dậy từ căn bệnh này”.

Nghĩ vậy, chúng liền rời bỏ chim ấy một mình và kéo đến gần chim Kunàla.

Kunàla nhìn chúng bay lại từ xa, khi thấy chúng liền hỏi:

– Lũ khốn nạn kia, chúa của bây đâu?

– Hiền hữu Kunàla, chim Punnamukha bị bệnh. Có lẽ chim ấy phải được vực dậy từ cơn bệnh này.

Khi chúng nói vậy xong, chim Kunàla nguyền rủa chúng:

– Hãy chết đi, lũ khốn nạn kia, chết tiệt đi, chúng bây là lũ trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân như gió cuốn đi nơi nào bây muốn.

Nói vậy xong, chim ấy đến gần nơi sơn ca Punnamukha nằm và nói như sau:

– Chào Hiền hữu Punnamukha.

– Chào Hiền hữu Kunàla – Chim kia đáp.

Sau đó, chim Kunàla dùng đôi cánh và mỏ ôm lấy Punnamukha và vừa nâng bạn lên, vừa cho uống đủ thứ thuốc. Nhờ thế, bệnh tình của sơn ca đã thuyên giảm. Khi chim Punnamukha đã khoẻ mạnh, bầy chim bay trở về và Kunàla cho chim Punnamukha ăn quả rừng trong vài ngày,đến khi bạn đã hồi sức, chim chúa bảo:

– Này Hiền hữu, nay đã bình phục, hãy tiếp tục sống với đàn chim hộ tống bạn, còn ta sẽ trở về nơi cư trú của ta.

Lúc ấy Punnamukha bảo bạn:

– Chúng đã bỏ ta khi ta lâm trọng bệnh và bay đi nơi khác. Ta không cần bọn lừa đảo ấy nữa.

Nghe vậy, Bậc Đại Sĩ đáp:

– Này Hiền hữu, ta sẽ kể cho bạn nghe về tính độc ác của nữ giới.

Rồi ngài ôm lấy Punnamukha và đưa đến Thung Lũng Đỏ trên sườn Tuyết Sơn, đậu trên một tảng hồng thạch tín dưới gốc cây Sàla tỏa rộng bảy dặm đường, trong lúc Punnamukha và đám tùy tùng đậu bên cạnh. Khắp cả vùng Tuyết Sơn vang lên lời bố cáo của chư Thiên:

– Hôm nay điểu vương Kunàla an tọa trên phiến hồng thạch ở Tuyết Sơn sẽ thuyết Pháp với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Xin các vị lắng tai nghe ngài.

Nhờ bố cáo như vậy, lần lượt chư Thiên ở sáu tầng trời Dục giới đều nghe và tụ họp lại nhiều sơn thần, rắn thần, kim sí điểu (chim thần cánh vàng), kên kên cũng loan báo sự kiện trên. Thời ấy thứu vương Ànanda cùng với đoàn tùy tùng mười ngàn kên kên trú ngụ tại đỉnh Thứu Sơn. Khi nghe tin chấn động này, chim ấy suy nghĩ: “Ta sẽ đi nghe thuyết Pháp”. Rồi cùng đàn chim hộ tống đến đậu riêng một nơi.

Ẩn sĩ Ànanda đã đắc năm Thắng trí đang ở vùng Tuyết Sơn cùng đoàn đệ tử gồm mười ngàn ẩn sĩ, khi nghe tin chư Thiên loan truyền, liền suy nghĩ: “Chúng bảo nhau hiền hữu Kunàla sẽ nói về các lỗi lầm của nữ giới, ta cũng phải đi nghe bạn thuyết giảng”. Rồi được một ngàn vị khổ hạnh hộ tống, vị ấy dùng thần thông du hành đến đó và ngồi riêng một nơi. Thế là đã có một hội chúng họp lại đông như vậy để nghe Phật pháp.

Lúc ấy Bậc Đại Sĩ, với trí kiến của một vị nhớ lại cái tiền thân của mình, lấy Punnamukha làm nhân chứng, kể lại một trường hợp trong tiền kiếp liên hệ với lỗi lầm của nữ giới.

*

Bậc Đạo Sư nói để làm sáng tỏ vấn đề:

Thời ấy chim Kunàla nói với sơn ca Punnamukha, vừa mới được vực dậy từ giường bệnh:

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy Kanhà, một nữ nhân có hai cha và năm chồng, lại còn luyến ái một nam nhi thứ sáu là một gã lùn có đầu thụt vào cổ và què chân nữa.

Ở đây chúng ta cũng có thêm một vần kệ:

  1. Chuyện cổ, Kan-hà, được kể rằng:
    Cả năm hoàng tử gả cho nàng,
    Tham lam, nàng vẫn còn ham muốn
    Một gã gù lưng, gái điếm đàng!

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy trường hợp một nữ ẩn sĩ khổ hạnh tên Saccatapàvì sống trong nghĩa địa và bỏ cả buổi ăn thứ tư, song lại phạm tội lỗi với một thợ vàng.

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã chứng kiến trường hợp nàng Kàkàti, vợ của vua Venateyya, sống giữa biển cả, tuy thế đã phạm tội lỗi với nhạc công Natakuvera (Tiền thân số 327, tập III).

– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy nàng tóc vàng Kurangavì, mặc dù yêu Elakamàra, lại phạm tội lỗi với Chalangakumara và Dhanantevàsì.

Ta cũng biết chuyện mẹ của Brahmadatta đã bỏ vua Kosala và phạm tội lỗi với Pancàlacanda ra sao.

Các người này cùng nhiều nữ nhân khác đã theo tà dục, ta không nên đặt lòng tin vào họ hoặc ca ngợi họ. Ví như quả đất có khuynh hướng vô tư đối với toàn thế giới, đem lại tài sản cho mọi loài, cung cấp mái ấm cho mọi người (tốt cũng như xấu) chịu đựng tất cả, không hề rung động, không gì lay chuyển, đối với nữ giới cũng phải như vậy. Đàn ông không nên tin tưởng họ.

  1. Sư tử sống bằng máu thịt tươi,
    Dùng năm móng sắc xé con mồi,
    Tìm vui trong nỗi đau loài khác
    Cẩn thận! Nữ nhân cũng một nòi!

– Này Hiền hữu Punnamukha. Thực vậy, bọn súc sinh này không chỉ là bọn gái giang hồ, điếm đàng, đầu đường xó chợ, chúng không lẳng lơ đĩ thỏa cho bằng sát nhân. Ta muốn nói đến bọ gái đứng đường buôn hương bán phấn này. Chúng giống như quân cường đạo với cuộn tóc vàng kết lại, chúng như thuốc độc, như lũ lái buôn tự khoe mình, quanh co như sừng dê, miệng lưỡi độc địa như loài rắn, như cái hố có nắp đậy, tham lam vô tận như địa ngục, khó làm thỏa mãn như quỷ cái, ngốn ngấu mọi loài như Diêm vương, tàn phá mọi sự như ngọn lửa, cuốn trôi mọi vật ở trước nó như dòng sông; như cơn gió thổi tới nơi nào nó muốn, không biết phân biệt gì như đỉnh núi Neru, kết trái quanh năm như loài cây độc.

Ở đây lại có thêm một vần kệ nữa:

  1. Như độc dược, quân cướp bạo tàn,
    Quanh co như gạc của sơn dương,
    Mãnh xà hai lưỡi là loại chúng,
    Chực sẵn khoe khoang tựa lái buôn.
  2. Giết hại như là hố đậy che,
    Như mồm địa ngục, thỏa không hề,
    Như loài quỷ dữ tham vô độ,
    Thần chết mang theo mọi vật kia.
  3. Ngốn ngấu khác đâu ngọn lửa nồng,
    Mạnh như hồng thủy hoặc cuồng phong,
    Như Ne-ru đỉnh màu vàng chói
    Thiện ác không hề biết biệt phân.
  4. Não hại như cây độc sát nhân,
    Chúng luôn tàn phá cả năm phần,
    Gia tài sự nghiệp đều tiêu tán,
    Phung phí bạc vàng, mọi bảo trân.

*

Chuyện công chúa Kanhà

Truyền thuyết kể rằng thời xưa, vua Brahmadatta ở xứ Kàsi nhờ có quân hùng tướng mạnh chiếm quốc độ Kosala, giết vua kia và cướp vị chánh hậu lúc ấy đang có thai, đưa về Ba-la-nại và phong bà làm vương phi. Về sau bà sinh một gái, và vì vua này không có con trai hay gái gì cùng huyết thống với mình, nên vô cùng hoan hỷ và phán:

– Này mỹ hậu, hãy chọn một điều ước trẫm ban tặng ái khanh.

Bà nhận điều ước nhưng chưa lựa chọn. Bấy giờ họ đặt tên công chúa là Kanhà.

Vừa khi nàng lớn lên, mẫu hậu bảo:

– Này con yêu quý, phụ vương đã ban mẹ một điều ước, mẹ đã nhận song còn trì hoãn sự lựa chọn. Nay con hãy chọn điều gì con thích.

Do dục tình phát triển quá độ phá tan nỗi e thẹn của một thiếu nữ, nàng nói với mẹ:

– Con không thiếu thứ gì cả. Xin phụ vương hãy triệu tập một đại hội để kén phò mã cho con.

Mẫu hậu kể lại chuyện này với vua. Vua phán:

– Hãy cho công chúa thứ gì nàng muốn.

Và vua ban lệnh truyền mở hội kén phò mã. Trong sân chầu, một đám nam nhi tụ tập phục sức cực kỳ lộng lẫy. Kanhà cầm một giỏ hoa trong tay, đứng nhìn từ cánh cửa lầu thượng và không hài lòng về một chàng trai nào cả.

Lúc ấy Ajjuna, Nakula, Bhìmasena, Yudhitthila, Sahadeva, thuộc dòng vua Pàndu, là năm hoàng tử của vua này, sau khi học tập đủ các học thuật tại Takkasilà với một vị giáo sư lừng danh thế giới, đang lãng du đây đó với ý định tìm hiểu thông suốt các phong tục địa phương, và vừa đến Ba-la-nại.

Khi nghe tin loan báo vang dậy khắp kinh thành, và hỏi thăm để biết chuyện gì đang xảy ra, họ liền đến đứng cả năm người thành một hàng, trông hình dáng như năm pho tượng bằng vàng. Thoạt nhìn thấy họ, Kanhà say mê luôn cả năm, liền ném vòng hoa lên đầu của năm chàng trai khi họ đứng trước mặt nàng và bảo:

– Tâu mẫu hậu, con xin chọn cả năm chàng.

Hoàng hậu trình việc này với vua. Vì vua đã ban cho nàng điều ước, nên không thể nói: “Con không được làm việc này”, nhưng lòng vua vô cùng phiền muộn. Tuy thế, sau khi hỏi nguồn gốc năm chàng là con ai, và khi biết đó là con vua Pàndu, vua nghênh tiếp năm chàng vô cùng trọng thể và gả công chúa làm vợ cả năm chàng.

Nhờ mãnh lực của dục tình nồng nhiệt, nàng chiếm được tình yêu của năm chàng vương tử trong cung điện bảy tầng của nàng.

Bấy giờ nàng có một kẻ hầu cận vừa gù, vừa què và dù nàng đã chiếm trọn con tim của năm vương tử, ngay khi năm chàng đã ra khỏi cung đình, nàng tìm được cơ hội và bị lửa dục nung nấu, nên đã phạm tội lỗi với gã nô lệ lưng gù kia.

Trong khi trò chuyện với gã, nàng nói:

– Không có ai được ta yêu quý bằng chàng. Ta sẽ giết năm vương tử này và lấy máu từ cổ họ xoa vào đôi chân chàng.

Khi nàng bầu bạn với vị thái tử trong năm vị kia, nàng thường bảo:

– Chàng thân yêu đối với thiếp hơn bốn chàng kia. Vì chàng, thiếp sẽ hy sinh cả đến tính mạng mình. Khi phụ vương băng hà, thiếp sẽ trao quốc độ cho riêng chàng.

Nhưng khi bầu bạn với các chàng kia, nàng cũng làm y hệt như vậy. Các chàng vô cùng đẹp lòng vì nàng, và suy nghĩ: “Nàng thương yêu chúng ta và nhờ đó vương vị này sẽ thuộc về ta”.

Một hôm nàng bị bệnh, họ tụ tập quanh nàng, một người xoa đầu, kẻ xoa tay chân, trong khi gã nô lệ ngồi dưới chân nàng. Với vị thái tử Ajjuna đang xoa đầu nàng, nàng lấy đầu ra hiệu ngầm bảo: “Không ai được thiếp thương yêu hơn chàng. Bao lâu thiếp còn sống, thiếp sẽ sống vì chàng và khi phụ vương từ trần, thiếp sẽ trao vương quốc cho chàng”, và thế là nàng chiếm trọn tim chàng.

Đới với các người kia, nàng cũng làm dấu bằng tay chân với ý nghĩa như vậy. Nhưng đối với gã gù lưng, nàng làm dấu bằng lưỡi với ngụ ý: “Chỉ có chàng là người duy nhất được ta yêu quý. Ta chỉ sống vì chàng”.

Nhờ những điều nàng đã nói trước kia, tất cả bọn họ đều hiểu các dấu hiệu này có ý nghĩa gì. Nhưng trong khi mỗi người nhận ra dấu hiệu dành riêng cho mình, vương tử Ajjuna vừa thấy các dấu hiệu tay, chân và lưỡi ấy liền suy nghĩ: “Trong trường hợp ta cũng như với các người khác, chắc phải có điều gì đó nàng muốn chứng tỏ bằng dấu hiệu kia, vậy đối với gã lưng gù này hẳn cũng có một thân tình nào đây”.

Thế rồi vừa đi ra ngoài với các em, chàng hỏi:

– Các hoàng đệ có thấy công chúa năm chồng này làm dấu với ta bằng đầu nàng chăng?

– Thưa vâng, có thấy.

– Các em có hiểu ý nghĩa của nó chăng?

– Thưa không.

– Ý nghĩa của nó là như vầy, như vầy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu bằng tay chân của nàng với các em chăng?

– Thưa vâng, chúng em có biết.

– Nàng cũng làm dấu cho ta như vậy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu nàng bảo gã lưng gù bằng lưỡi chăng?

– Chúng em không biết.

Chàng liền bảo họ:

– Nàng cũng phạm tội với gã đó.

Vì họ không tin chàng, chàng bảo gã lưng gù đến và hỏi gã, gã liền kể cho chàng mọi chuyện. Khi họ nghe gã nói, họ đều mất hết lòng say mê đối với nàng và bảo nhau:

– Ôi rõ ràng giống đàn bà thật xấu xa tội lỗi. Vừa rời khỏi các nam nhi như chúng ta vốn quý tộc cao sang và đầy đủ phúc phận, nàng đã phạm tà hạnh với một gã lưng gù gớm ghiếc, đáng ghê tởm như thế này. Ai có trí tuệ lại ham thích kết duyên với đám nữ nhi vô sĩ gian tà như vậy?

Sau khi lần lượt phỉ báng nữ nhân như trên, năm vương tử suy nghĩ: “Chúng ta đã chán chê đời sống vợ chồng rồi”. Các vị lui về ở ẩn tại vùng Tuyết Sơn, và sau khi đã thành tựu pháp Thiền quán Kasina, lúc mạng chung, các vị đi theo nghiệp của mình.

Chim chúa Kunàla là vương tử Ajjuna, chính vì lý do ấy, khi nêu ra điều gì bản thân đã thấy, chim ấy đều bắt đầu câu chuyện với lời: “Ta đã thấy”. Khi kể lại những việc khác mà chim ấy đã thấy thời xưa, chim ấy cũng dùng những lời ấy.

Sau đây là phần giải thích một sự việc được nêu ra ở chuyện khởi đầu.

*

Chuyện nữ khổ hạnh Saccatapàvì

Ngày xưa, tương truyền có một nữ khổ hạnh bạch y tên là Saccatapàvì xây một thảo am ở một nghĩa địa gần Ba-la-nại. Trong lúc sống ở đây, nàng nhịn luôn bốn bữa ăn trong số năm bữa, khắp kinh thành, danh vọng nàng sáng chói gần xa chẳng khác nào đôi vầng nhật nguyệt. Dân chúng thành Ba-la-nại nếu có hắt hơi hay vấp ngã đều bảo: “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”

Bấy giờ vào ngày đầu một lễ hội, một số thợ vàng dựng lều tại một nơi dân chúng tụ tập, vàđem theo cá thịt rượu mạnh, dầu thơm, tràng hoa, v.v. rồi bắt đầu tiệc rượu say sưa.

Lúc ấy một gã thợ rèn nghiện rượu đang lúc nôn tháo, đã kêu lên “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”

Có người khôn ngoan trong bọn họ bảo:

– Ôi thật là điên rồ mù quáng, chú đang tôn trọng một nữ nhân tính khí thay đổi bất thường. Chú thật là đồ điên!

Gã đáp:

– Này bạn, đừng nói vậy, nếu không sẽ phạm tội đọa vào địa ngục đấy.

Người khôn ngoan liền bảo:

– Đồ điên, hãy câm mồm lại. Hãy đánh cuộc với ta một ngàn đồng vàng, trong bảy ngày kể từ nay, cứ ngồi tại chính nơi đây, ta sẽ giao tận tay chú nàng Saccatapàvì phục sức diễm lệ cùng liên hoan rượu mạnh và ta cũng sẽ say sưa đánh chén với nàng. Bọn nữ nhi đều tính tình bấtđịnh như thế.

Gã kia đáp:

– Bạn không thể có khả năng làm việc ấy đâu.

Và gã đánh cuộc một ngàn đồng vàng.

Thế rồi thông báo với đám thợ vàng kia xong, sáng sớm hôm sau chàng trai giả dạng một vị khổ hạnh tiến vào nghĩa địa, không xa nơi nàng cư ngụ và đứng chiêm bái mặt trời. Nàng thấy chàng lúc bắt đầu đi khất thực, và suy nghĩ: “Chắc chắn đây là một vị khổ hạnh có thần thông. Ta ở một bên nghĩa địa, còn Ngài ở ngay chính giữa: tâm Ngài chắc hẳn thuần tịnh như bậc Thánh. Ta muốn tỏ lòng ngưỡng mộ Ngài”.

Thế là nàng đến gần chàng đảnh lễ, nhưng chàng không nhìn cũng không nói gì. Ngày hôm sau chàng cũng cứ làm vậy. Nhưng qua ngày thứ ba, khi nàng đảnh lễ, chàng nhìn xuống và bảo:

– Hãy đi ngay.

Qua ngày thứ tư, chàng ân cần nói với nàng:

– Nàng đi khất thực có mệt nhọc chăng?

Nàng nghĩ thầm: “Ta đã được chào hỏi ân cần rồi” và hoan hỷ ra đi.

Ngày thứ năm nàng lại nhận được một lời chào hỏi ân cần hơn và sau khi ngồi nghỉ chốc lát, nàng đảnh lễ chàng và ra đi.

Nhưng vào ngày thứ sáu, nàng lại đến đảnh lễ chàng khi chàng ngồi đó. Chàng nói:

– Này hiền muội, có tiếng gì ồn ào ca nhạc vang lừng ở Ba-la-nại hôm nay thế?

Nàng đáp:

– Bạch Thánh giả, Ngài không biết có mở lễ hội trong thành và đây là tiếng những người đang liên hoan tại đó ư?

Giả vờ không biết, chàng bảo:

– Phải, chắc đây là tiếng ồn ta nghe được.

Rồi chàng lại hỏi:

– Này hiền muội, nàng nhịn ăn bao nhiêu bữa?

– Bạch Thánh giả, bốn. Còn Thánh giả nhịn bao nhiêu bữa? Nàng hỏi.

– Này hiền muội, bảy.

Nhưng đó là chàng nói dối, vì chàng thường ăn suốt ngày đêm. Rồi chàng lại hỏi:

– Nàng đã thọ giới bao nhiêu năm?

Nàng nói:

– Mười hai năm, thế Thánh giả xuất gia bao lâu?

– Đây là năm thứ sáu – Chàng đáp.

Rồi chàng lại hỏi:

– Này hiền muội, nàng đã đạt đến thanh tịnh của bậc Thánh chưa?

– Bạch Thánh giả, chưa, còn Thánh giả?

– Chúng ta đều chưa đạt cả – Chàng đáp.

– Này hiền muội, chúng ta không hưởng thọ dục lạc cũng không thành tựu viễn ly lạc. Vậy thì địa ngục nóng bỏng có nghĩa gì với ta chứ? Chúng ta hãy theo con đường của đại chúng đi: ta sẽ trở thành gia chủ và vì ta có sẵn tài sản của mẹ ta, ta sẽ chẳng thiệt hại gì cả.

Khi nghe chàng nói và do thiếu tịnh tín bất động, nàng đem lòng say mê chàng, liền nói:

– Thưa ngài, tiện nữ cũng thấy tâm bất mãn, nếu ngài không từ chối, thiếp xin theo về ở nhà cùng chàng.

Chàng đáp ngay:

– Ta không từ chối nàng đâu, nàng sẽ là vợ ta.

Sau đó chàng đưa nàng về thành và sống chung với nàng. Khi cùng nàng đến tửu quán, chính chàng uống rượu mạnh và giao nàng vào tay đám bạn để chè chén say sưa tồi tệ hơn nữa. Vì thế gã trai kia thua cuộc mất một ngàn tiền vàng, còn nàng được chàng thợ vàng này ban cho vô số con trai con gái. Thời ấy chim Kunàla là người thợ vàng và khi kể chuyện này, chim bắt đầu bằng những lời: “Ta biết”.

Chuyện thứ hai là một cổ tích được kể đầy đủ trong Tiền Thân Kàkati (số 327, chương IV, tập III). Vào thời ấy, Kunàla là chim Garuda (Kim sí điểu), và vì lý do này, khi chứng minh điều gì thấy tận mắt, chim ấy bắt đầu bằng lời: “Ta biết”.

*

Chuyện công chúa Kurangavi

Trong chuyện thứ ba, một thuở nọ, vua Brahmadatta giết vua Kosala và chiếm quốc độ. Cướp mất hoàng hậu đang có thai, vua trở về Ba-la-nại, và dù biết rõ tình trạng của bà, vua vẫn phong bà làm hoàng hậu. Đến kỳ khai hoa nở phụng, bà sinh một hoàng nam giống như một bức tượng vàng ròng.

Bà suy nghĩ: “Khi con ta lớn lên, vua Ba-la-nại sẽ bảo: “Nó là con trai của kẻ thù ta. Nó có nghĩa gì với ta đâu? Và sẽ giết nó. Nhưng không, ta không thể để con ta chết vì tay kẻ thù”. Vì thế bà bảo nhũ mẫu:

– Này chị, hãy lấy vải thô quấn hài nhi này và đi quẳng vào nhà xác.

Nhũ mẫu làm theo lời bà, và sau khi tắm rửa xong, liền về nhà.

Còn vua Kosala, sau khi từ trần, tái sinh làm vị thần hộ mạng hài nhi ấy, và do thần lực xui khiến, một con dê cái của một mục tử đang nuôi đàn dê ở vùng này, thấy đứa bé liền đem lòng thương yêu, cho nó bú sữa xong, đi quanh quẩn một lát rồi trở về hai, ba hoặc cả bốn lần để cho nó bú.

Người chăn dê thấy con dê đi quanh đó, liền đến nơi, thấy đứa bé cũng đem lòng thương yêu và ẫm nó về cho vợ. Bấy giờ bà vợ không có con nên không có sữa cho nó bú. Vì thế con dê cái tiếp tục cho nó bú.

Từ hôm ấy, cứ mỗi ngày đều có hai ba con dê chết. Người chăn dê suy nghĩ: “Nếu đứa bé này được ta tiếp tục chăm sóc thì tất cả đàn dê đều chết. Nó có nghĩa gì với ta chứ?” Sau đó y đặt nó vào một nồi đất, đậy lên một cái nắp và xoa lên mặt nó đầy bột đậu không thừa một kẽ hở nào, rồi thả nó xuống sông.

Đứa bé do dòng nước cuốn trôi đến bờ thấp gần cung vua thì được một kẻ vá đồ cũ hạ đẳng trông thấy khi đang đứng rửa mặt với vợ. Y vội vàng chạy đến kéo cái nồi ra khỏi nước và đặt trên bờ. Y suy nghĩ: “Ta lấy được cái gì đây?”. Vừa mở nồi ra, y vội thấy đứa bé. Vợ y cũng không có con nên sinh lòng thương yêu nó. Vì thế bà đem nó về nhà săn sóc.

Khi đứa bé lên bảy tám tuổi, cha mẹ nó thường đem nó theo mỗi khi đến cung vua. Lúc được mười sáu tuổi, chàng trai thường đến cung vua để vá đồ cũ. Vua và hoàng hậu có một công chúa tên Kurangavì là một cô gái nhan sắc phi thường. Từ lúc nàng trông thấy chàng trai, nàng đem ra luyến ái chàng và không còn để ý đến ai nữa, nàng thường đi đến nơi chàng làm việc. Do thường xuyên gặp gỡ nhau, họ say mê lẫn nhau và lén lút phạm tà hạnh trong ngự viên. Dần dần bọn thị tỳ tâu lên vua cha chuyện ấy.

Vua nổi trận lôi đình triệu tập các cận thần lại phán:

– Tên hạ đẳng này đã phạm các tội như vầy như vầy. Các khanh xem phải làm gì để trị nó đi.

Các cận thần tâu:

– Tội nó nặng lắm, sau khi buộc nó chịu mọi hình phạt, ta phải xử tử nó.

Thuở ấy, cha của chàng trai là vua Kosala đã trở thành vị thần hộ mạng của chàng, liền nhập vào thân mẹ chàng, nên nhờ thần lực ấy, bà đến gần vua và thưa:

– Tâu Đại vương, chàng trai này không phải là kẻ hạ đẳng đâu. Nó là con trai thiếp sinh ra với vua Kosala. Thiếp đã nói dối Đại vương khi bảo rằng con thiếp đã chết. Vì biết rằng nó là con trai của kẻ thù Đại vương, nên thiếp đã sai một nhũ mẫu đem nó bỏ vào nhà xác. Sau đó một người chăn dê chăm sóc nó, nhưng khi cả bầy dê bắt đầu chết, y đã thả nó xuống sông và do dòng nước cuốn đến đây, nó được kẻ hạ đẳng vá đồ cũ trong cung này tìm thấy và nuôi nấng. Nếu Đại vương không tin thiếp, xin cứ gọi những kẻ này vào và hỏi họ.

Vua triệu đám người ấy vào, bắt đầu với nhũ mẫu; khi chất vấn, biết rõ các sự kiện do bà kể, vua rất hân hoan thấy chàng trai thuộc dòng quý tộc, liền ra lệnh cho chàng đi tắm rửa, trang điểm thật lộng lẫy và gả công chúa cho chàng. Thuở ấy, do việc chàng đã gây ra cái chết củađàn dê, chàng được đặt tên Elakamàra (Bả thuốc giết dê).

Sau đó, vua giao cho chàng xe cộ, một đạo quân và bảo chàng lên đường:

– Hãy đi làm chủ quốc độ của phụ vương con ngày trước.

Vì thế chàng ra đi cùng với Kurangavì và được tôn lên ngôi báu. Lúc ấy vua Ba-la-nại suy nghĩ: “Con ta chẳng được học hành gì cả”, nên truyền Chalangakumara đến làm thầy dạy chàng các môn học thuật. Khi nhận vị này làm sư trưởng, chàng lại phong ông chức đại tướng. Dần dà, Kurangavì thông gian với ông. Vị đại tướng có một quan hầu cận tên Dhanantevàsì và ông nhờ kẻ ấy trao các món y phục cùng nữ trang khác cho Kurangavì, nàng cũng thông gian với kẻ ấy. Bọn ác nhân thật là hư hỏng vô đạo như vậy nên ta không thể tán dương họ. Bậc Đại Sĩ dạy điều này khi ngài kể một chuyện quá khứ, vì thuở ấy ngài là Chalangakumàra, do đó sự kiện ngài kể là một việc chính mắt ngài thấy.

*

Chuyện vương hậu Kosala.

Trong chuyện thứ năm này có một thời vua Kosala chiếm quốc độ Ba-la-nại và phong bà chánh hậu đang có thai của vua ấy lên ngôi chánh cung rồi trở về kinh đô của mình. Về sau, bà sinh ra một vương tử. Vì không có con riêng của mình, vua rất yêu quý hài nhi và truyền dạy bảo chàng mọi môn học thuật.

Khi chàng trưởng thành, vua cha truyền chàng đi làm chủ quốc độ thuộc quyền cha chàng thuở trước. Chàng ra đi ngự trị xứ ấy.

Sau đó mẫu hậu chàng bảo bà nhớ con trai liền xin phép vua Kosala khởi hành đến Ba-la-nại cùng một đoàn hộ tống đông đúc và trú chân ở một thị trấn giữa hai nước. Tại đây có một thanh niên Bà-la-môn tuấn tú tên gọi Pañcàlacanda đem dâng hoàng hậu một tặng vật. Vừa thấy kẻ ấy, bà liền say mê và phạm tà dục với y.

Sau khi ở lại đó vài ngày, bà đến Ba-la-nại thăm hoàng tử. Lúc trở về, bà lại trú chân ở tại thị trấn nọ và sau nhiều ngày thông gian với tình nhân, bà trở về thành Kosala. Chẳng bao lâu sau, bà lấy cớ này cớ nọ để đi thăm con, bà xin phép vua và đến ở nửa tháng trong thị trấn kia để thông gian với tình nhân. Bọn nữ nhi đầy tội lỗi và giả dối như vậy đó.

Trong khi kể chuyện quá khứ này, ngài bắt đầu với những lời: “Chuyện này cũng có ý nghĩa ấy.”

Về sau với nhiều cách biểu lộ sự khéo léo trong khi thuyết Pháp, ngài nói:

– Này hiền hữu Punnamukha, có bốn thứ tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh; ta bảo bốn thứ này không được đặt vào nhà láng giềng, đó là: bò đực, bò cái, cỗ xe và vợ. Một người có trí phải tránh xa việc này ra khỏi nhà mình:

7- 8. Chớ cho hàng xóm mượn bò xe,
Chớ gửi vợ ta đến bạn bè,
Bò đực chết vì làm quá độ,
Phá xe vì chúng thiếu tay nghề,
Sữa bò cái vắt cho khô cạn,
Vợ đến bà con hỏng thói lề!

Này hiền hữu Punnamukha, có sáu điều tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh: một cái cung thiếu dây, một cô vợ ở gia đình bà con, một chiếc thuyền (không lái), một chiếc xe gãy trục, một bạn thân vắng mặt, một bạn đường độc ác, đôi khi thật tai hại.

Này hiền hữu Punnamukha, thật vậy, có tám duyên cớ khiến đàn bà khinh bỉ chồng: đó là do nghèo khó bệnh tật, già cả, nghiện rượu, ngu đần, phóng túng, bôn ba đủ mọi thứ việc, xao lãng bổn phận đối với vợ. Thật vậy, đàn bà khinh bỉ chồng mình vì tám duyên cớ ấy.

Ở đây lại thêm vần kệ này:

  1. Bệnh, nghèo, già, nghiện rượu, buông lung,
    Việc quá bôn ba, hoặc độn đần,
    Hoặc thấy chồng không lo bổn phận,
    Vợ thường chẳng trọng đấng phu quân.

Thật vậy, do chín nguyên nhân này, một nữ nhân phạm lỗi lầm: giả sử nàng thích lui tới các công viên, vườn hoa, bờ sông, thích thăm viếng nhà bà con hoặc người xa lạ, ham mê trangđiểm y phục của hạng quý phái, hoặc nàng nghiện rượu mạnh, ưa nhìn quanh quẩn bên mình, hoặc đứng tựa cửa, thì này ta bảo, do chín duyên cớ này, một nữ nhân phạm lỗi lầm.

Ở đây lại thêm vần kệ này:

  1. Đàn bà ưa mặc áo quần sang,
    Nghiện rượu, rong chơi, dạ vẫn ham
    Vườn cảnh, công viên, trên bến nước,
    Đến nhà người lạ hoặc thân bằng.
    Nàng thường đến đứng bên khung cửa,
    Lơ đãng nhìn quanh quẩn mặt đàng,
    Theo chín cách này hư hỏng sớm,
    Lạc xa đường đức hạnh hiền lương
    .

Thật vậy, này hiền hữu Punnamukha, nữ nhân làm xiêu lòng nam nhi bằng bốn mươi cách khác nhau: Nàng uốn người lên, nàng cong người xuống, nàng nhảy tung tăng, nàng làm vẻ e thẹn, nàng bóp chặt các đầu ngón tay, nàng đặt chân này lên chân kia, nàng lấy que cào mặt đất, nàng tung chàng trai lên rồi hạ xuống, nàng nô đùa và khiến chàng trai nô đùa, nàng hôn chàng và bảo chàng hôn nàng, nàng ăn và cho chàng ăn, nàng trao tặng hoặc cầu xin vật gì đó, nàng nhại lại những gì chàng làm, nàng nói với giọng lúc bổng lúc trầm, nàng cất tiếng khi rõ ràng khi khó hiểu, nàng lôi cuốn chàng bằng múa ca đàn địch, bằng những giọt nước mắt hay cách làm dáng, hoặc với áo quần lộng lẫy, nàng cười cợt hay trừng mắt, nàng rủ áo hay vén xiêm, khoe đùi ra hoặc che đùi lại, nàng khoe ngực khoe nách, khoe rốn, nàng nhắm mắt, nàng nhướng mày, nàng mím môi, nàng lè lưỡi, nàng thả lỏng hay kéo sát xiêm y, nàng buông lơi hay quấn chặt khăn trùm đầu. Quả thật nàng lôi cuốn nam nhi bằng bốn mươi cách này.

Thật vậy này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư đốn được biết rõ qua hai mươi lăm cách khác nhau: nàng ca ngợi việc chồng nàng vắng mặt, nàng chẳng thích chồng trở về, nàng chê bai chồng, nàng không lên tiếng khen chồng, nàng làm thương tổn chồng, và không làm lợi ích chồng, nàng làm những việc có hại cho chồng chứ không muốn làm gì giúp đỡ chồng, nàng mặc cả xiêm y lúc đi ngủ và nằm ngoảnh mặt làm ngơ chồng, nàng lăn lóc qua lại, gây chuyện ầm ĩ, thở dài sườn sượt, kêu đau nhức mình mẩy, thường hay đi tiểu tiện, xử sự mất nết, hễ nghe tiếng người lạ, nàng chổng tai chăm chú, nàng phung phí tài sản của chồng, nàng giao du thân mật với bạn hàng xóm, nàng hay đi lang thang ra ngoài, thơ thẩn dạo phố, nàng phạm tội ngoại tình, vì khinh bỉ chồng, nàng có nhiều tư tưởng xấu xa trong lòng.

Quả thật, này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư hỏng được biết qua hai mươi lăm cách này.

Và đây lại thêm các vần kệ cảm thán:

  1. Đồng tình sự vắng mặt phu quân
    Chàng bước ra đi, chẳng não lòng,
    Dạ chẳng vui mừng chàng trở lại,
    Chẳng bao giờ tán thán công chồng,
    Đây là dấu hiệu nêu cho rõ
    Lề thói thông thường ác nữ nhân.
  2. Bất tuân, tính kế hại phu quân,
    Làm việc không nên, bỏ lợi chồng.
    Mặt ngoảnh đi, nàng nằm xuống ngủ
    Bên chàng, xiêm áo phủ hoàn toàn,
    Đây là dấu hiệu nàng hư đốn
    Chắc chắn lộ ra thật rõ ràng.
  3. Trằn trọc, chẳng nằm một lát yên,
    Thở dài sườn sượt, lại kêu rên,
    Hoặc nàng cứ giả vờ đau bụng,
    Như muốn tiểu, nàng vẫn đứng lên,
    Các dấu hiệu này người thấy rõ
    Tính tình của phụ nữ hư hèn.
  4. Độc ác trong hành động của nàng,
    Nàng làm những việc phải can ngăn,
    Nghe lời người lạ cầu ân huệ,
    Tài sản chồng, nàng thật phí hoang
    Để được ngoại tình, là dấu hiệu
    Mọi người thấy rõ tính tà gian.
  5. Bạc vàng góp nhặt bởi công chồng,
    Đồ đạc chất đầy thật khổ thân,
    Nàng phí phạm nhanh, cùng lối xóm
    Nàng thân mật quá độ dần dần,
    Chính nhờ dấu hiệu này ta biết
    Tính nết gian tà của nữ nhân.
  6. Hãy ngắm nàng đi dạo phố phường,
    Phủ phàng đối xử với phu quân
    Khinh khi thô lỗ nhất trần thế,
    Chẳng ngớt ngoại tình, loạn trí tâm.
    Nhờ dấu hiệu này, ta thấy rõ
    Bọn hồng quần quả thật tà gian.
  7. Nàng vẫn đứng ngay trước cửa nàng
    Coi thường mọi phép tắc đoan trang,
    Khoe thân trơ trẽn cho hành khách,
    Buồn bực nhìn quanh quẩn mọi phương,
    Các dấu hiệu này cho thấy rõ
    Thói tà gian của bọn hồng quần.
  8. Như rừng cây được gỗ làm thành,
    Như các dòng sông chảy uốn quanh,
    Vậy cứ tạo thời cơ thuận tiện,
    Nữ nhân đều lạc lối vô minh.
  9. Tạo nơi kín đáo, hợp thời cơ,
    Con đường đức hạnh phải rời xa,
    Nữ nhân tất cả đều hư đốn
    Nếu có chốn nơi, lại đúng giờ
    Ví các tình nhân kia chẳng đến,
    Chúng liền phạm tội với tên gù.
  10. Đàn bà phục vụ thú đàn ông,
    Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
    Lòng dạ chúng thường thay đổi mãi,
    Dục tham chúng lại cứ buông lung.
    Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
    Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
    Chúng vẫn giống như là bến tắm
    Thường chung chạ với mọi nam nhân.
    Hơn nữa, Ngài lại kể:

*

Chuyện vương hậu Kinnarà

Ngày xưa tại Ba-la-nại, có vị vua tên là Kandan rất khôi ngô tuấn tú, hằng ngày các cận thần đem đến dâng một ngàn hộp nước hoa. Với nước hoa này, họ làm cho cung điện thật cao sang thanh lịch. Sau đó họ chẻ các hộp ấy nhóm lửa thơm ngát và nấu thức ăn với lửa ấy.

Bấy giờ vương hậu là một nữ nhân diễm lệ có tên Kinnarà và vị tế sư của vua là Pañncalacanda, cùng tuổi với vua và rất thông tuệ. Phía trong bức tường cạnh cung vua có một cây hồng đào, cành lá sà xuống tận bức tường và một tên què dị dạng gớm ghiếc sống ở dưới bóng cây ấy.

Một hôm vương hậu Kinnarà nhìn ra cửa sổ thấy gã, liền đem lòng say mê gã. Ban đêm, sau khi đã chiếm được sự sủng ái của vua nhờ các tài quyến rũ của bà, vừa khi vua ngủ say, và thường rón rén đứng dậy sắp đặt mọi thứ cao lương mỹ vị vào một cái bát bằng vàng và đeo nó bên hông, bà hoàng đu mình qua cửa sổ nhờ một sợi dây vải, trèo lên cây hồng đào và buông mình xuống bằng một nhánh cây, bà đưa cao lương mỹ vị cho gã què ăn rồi giao hoan với gã, xong bà lại trèo lên cung điện theo cách bà đã đi xuống. Sau khi tắm gội toàn thân bằng nước hương, bà liền nằm xuống bên cạnh vua.

Theo cách này, bà thường xuyên phạm tà hạnh với gã què và vua không biết tý gì cả.

Một ngày kia, sau một lễ hội oai nghi diễu quanh kinh thành, vua đi vào cung chợt thấy tên què kia, một sinh vật đáng thương đang nằm dưới bóng cây hồng đào, và vua bảo vị tế sư:

– Khanh hãy nhìn con ma trên đất này.

– Tâu Đại vương, truyền việc gì chăng?

– Này hiền hữu, có thể nào một nữ nhân bị dục tình kích động lại muốn đến gần một sinh vật đáng ghê tởm như thế này chăng?

Nghe lời vua phán, gã què tràn đầy kiêu mạn suy nghĩ: “Vua này nói gì thế? Có lẽ vua không biết tý nào về việc hoàng hậu đến thăm ta”. Rồi chắp hai tay về phía cây hồng đào, gã la to:

– Tâu vị thần hộ mạng cây này, trừ ngài ra, không ai biết chuyện ấy cả.

Vị tế sư thấy hành vi của gã, nghĩ thầm: “Chắc chắn chánh hậu của vua nhờ cây này giúp đi xuống phạm tà hạnh với gã”.

Vì thế vị ấy tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ban đêm Đại vương tiếp xúc với thân thể chánh hậu thì thấy như thế nào?

– Ta không nhận thấy gì cả – Vua đáp – Song vào canh giữa thân thể bà lạnh lắm.

– Thế thì tâu Đại vương, dù trường hợp các nữ nhân khác ra sao đi nữa, chánh hậu Kinnarà cũng đã thông gian với gã kia.

– Hiền hữu nói gì thế này? Lẽ nào một nữ nhân diễm lệ thế kia lại hành lạc cùng với con vật gớm ghiếc này ư?

– Vậy thì tâu Đại vương, ta thử tìm chứng cớ chuyện này.

– Trẫm chấp thuận – Nhà vua bảo.

Và sau buổi cơm tối, vua nằm xuống cạnh bà để thử việc kia. Vào giờ ngủ như thường lệ, vua giả vờ ngủ say và bà cũng hành động như trước. Vua muốn theo dõi bước chân bà, liền đứng nấp trong bóng cây hồng đào. Tên què đang giận dữ với bà hoàng và bảo:

– Tối nay nàng đến chậm quá.

Rồi gã lấy tay đánh vào chiếc vòng tai của bà, vì thế bà đáp:

– Xin lang quân chớ giận. Thiếp phải chờ nhà vua ngủ say đã chứ.

Nói vậy xong, bà làm mọi việc như thể đóng vai một người vợ trong nhà gã què. Nhưng khi gãđánh bà, chiếc vòng tai có hình đầu sư tử, rời khỏi tai bà rớt xuống chân vua. Nhà vua nghĩ thầm: “Chính cái này sẽ là vật tuyệt diệu cho ta”. Rồi vua lượm chiếc vòng dấu đi.

Sau khi phạm tà dục với tình nhân, bà trở về như trước và đi vào nằm cạnh vua. Nhà vua khước từ mọi điệu bộ gợi tình của bà và ngày hôm sau, vua truyền lệnh:

– Hoàng hậu Kinarà phải đến chầu và mang theo mọi món trang sức trẫm đã ban.

Bà đáp:

– Món nữ trang có hình đầu sư tử của ta đang để ở tiệm vàng.

Và bà từ chối đi diện kiến.

Khi lệnh vua ban ra lần thứ hai, bà đến với một chiếc hoa tai độc nhất.

Nhà vua hỏi:

– Hoa tai kia của khanh đâu?

– Ở tiệm vàng.

Vua truyền người thợ vàng đến, phán:

– Tại sao ngươi không để hoàng hậu đeo hoa tai?

– Tâu Đại vương, hạ thần không giữ hoa tai ấy.

Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, bảo:

– Này con tiện tỳ hư đốn kia, gã thợ vàng của ngươi chắc hẳn là một người giống như ta.

Nói vậy xong, vua ném chiếc hoa tai ấy xuống trước mặt bà và bảo vị tế sư:

– Này hiền hữu, khanh đã nói đúng, hãy đi bảo chém đầu nó ngay.

Vị ấy liền đem bà giấu ở một nơi an toàn trong cung, và đến tâu trình vua:

– Tâu Đại vương, xin chớ giận hoàng hậu Kinnarà, mọi nữ nhân đều như vậy cả. Nếu Đại vương muốn thấy bọn nữ nhân vô đạo ra sao, hạ thần sẽ chỉ cho Đại vương thấy tính gian tà và lừa dối của chúng. Thôi, ta hãy cải trang và vi hành xuống thôn quê.

Nhà vua sẵn sàng chấp thuận, giao vương quốc cho mẫu hậu rồi lên đường ngao du với vị tế sư.

Khi hai vị đã đi một dặm đường và ngồi bên đường cái, thì một phú gia nọ đang mở hội đám rước dâu cho con trai, đã đặt cô dâu ngồi vào một cỗ xe đóng kín và hộ tống nàng với mộtđoàn tùy tùng rầm rộ. Khi thấy đám này, vị tế sư nói:

– Nếu Đại vương muốn, ngài có thể làm cho cô gái này thông gian với ngài.

– Này hiền hữu, khanh nói gì thế? Với cả đoàn tùy tùng rầm rộ này, làm sao có chuyện ấy được?

– Vậy thì xin Đại vương hãy nhìn đây.

Rồi tiến lên phía trước, ông dựng lên một bức màn giống như một túp lều không xa đường cái, để vua ở trong màn, còn chính ông ngồi bên đường khóc lóc. Lúc ấy vị phú ông thấy vậy liền hỏi:

– Tại sao hiền hữu khóc?

Ông đáp:

– Tiện nội đang thai nghén nặng nề nên tiểu đệ lên đường đưa nàng về nhà mẹ, đang lúc đi đường nàng lên cơn đau đớn khổ sở trong bức màn kia, và nàng lại không có người phụ nữ nào ở bên nàng, còn tiểu đệ thì không thể vào đó với nàng được. Tiểu đệ không biết việc sẽ ra sao nữa.

– Nàng phải có một người đàn bà ở bên cạnh. Thôi đừng khóc nữa. Ở đây có nhiều đàn bà lắm. Một người trong bọn sẽ đến với nàng.

– Vậy thì xin để tiểu thư này vào. Đây sẽ là điềm lành cho tiểu thư.

Phú ông nghĩ thầm: “Người kia nói đúng đấy. Đây sẽ là việc lành cho con dâu ta. Nó sẽ được phước sinh ra vô số con trai con gái”. Rồi ông đưa nàng vào trong đó.

Vừa bước vào màn, thoạt trông thấy vua, nàng đã say mê và phạm tà hạnh với vua, rồi vua tặng nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình.

Khi việc ấy đã xong và nàng bước ra khỏi liều, chúng bạn hỏi:

– Bà ấy sinh con gì thế?

– Một cậu trai sắc vàng óng!

Thế rồi vị phú ông đem nàng đi mất. Vị tế sư đến gặp nhà vua và nói:

– Tâu Đại vương, ngài vừa thấy ngay cả một thiếu nữ cũng đã hư hỏng như vậy. Còn nói gì các nữ nhân khác càng hư hỏng đến đâu? Xin Đại vương cho biết ngài có ban nàng vật gì không?

– Có ta ban nàng chiếc nhẫn có tín hiệu riêng của ta.

– Hạ thần quyết không cho nàng giữ vật ấy đâu.

Ông liền vội vã chạy theo bắt kịp chiếc xe và khi bọn họ hỏi:

– Thế này là nghĩa lý gì?

Ông đáp:

– Cô tiểu thư này ra đi với chiếc nhẫn mà tiện nội Bà-la-môn đặt trên gối của nàng, vậy tiểu thư hãy trả chiếc nhẫn lại đi.

Khi trao nhẫn lại, nàng cào tay vị Bà-la-môn và nói:

– Hãy cầm lấy, quân đểu giả!

Như vậy vị Bà-la-môn này dùng đủ mọi cách nêu cho vua thấy nhiều nữ nhân khác cũng phạm tà dâm rồi nói:

– Tâu Đại vương, thế này là đủ rồi. Chúng ta sẽ đi nơi khác thôi.

Vua đi khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) và hai vị bảo nhau:

– Tất cả nữ nhân đều giống hệt nhau. Chúng có nghĩa gì với ta đâu? Thôi ta hãy quay về đi.

Thế rồi hai vị đi thẳng về nhà ở Bà-la-nại. Vị tế sư nói:

– Tâu Đại vương, mọi nữ nhân đều như thế cả; bản chất của chúng đều gian tà. Xin ngài tha tội cho chánh hậu Kinnarà.

Thể theo lời khẩn cầu của vị tế sư, vua tha tội cho bà, song truyền đuổi bà ra khỏi cung. Khi vua đã tống bà ra khỏi cung rồi, vua chọn một vương hậu khác và truyền lệnh đuổi luôn tên què cùng chặt nhánh cây hồng đào bỏ đi.

Vào thời ấy chúa chim Kunàla là Pañcàlacanda. Vì thế khi kể lại chuyện ngài đã chứng kiến tận mắt, ngài ngâm kệ để chứng minh:

  1. Từ chuyện Kin-na, Kan-da vương
    Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
    Nữ nhân tất cả đều không thấy
    Thích thú trong nhà chúng trú an;
    Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
    Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
    Vẫn thường đi với đàn ông khác,
    Ngay với gã què cũng lạc đường.

*

Chuyện vương hậu Pañcapàpà

Đây là một chuyện khác nữa: Ngày xưa vị vua Bà-la-nại mệnh danh là Baka cai trị vương quốc đúng chánh pháp. Thời ấy một người đàn ông nghèo khổ sống ở Đông môn thành Ba-la-nại sinh được một gái đặt tên là Pañcapàpà. Chuyện kể rằng trong một đời quá khứ nàng làm con gái nhà nghèo nhào trộn đất sét để đắp tường. Lúc ấy một vị Độc Giác Phật suy nghĩ: “Ta phải tìm đất sét ở đâu để đắp hang núi này cho sạch sẽ gọn gàng? Có thể ta tìm được ở Ba-la-nại”.

Vị ấy liền đắp y, cầm bình bát trong tay đi vào kinh thành và đứng không xa nữ nhân này. Nàng tức giận nhìn vị ấy, nghĩ thầm: “Trong tâm địa xấu xa của y chắc đang cầu xin cả đất sét lẫn thức ăn”. Vị Độc Giác Phật vẫn đứng bất động. Vì thế khi nàng thấy vị ấy đứng yên, nàng hồi tâm, nhìn vị ấy một lần nữa và nói:

– Bạnh Tôn giả, ngài chưa có đất sét.

Rồi nàng lấy một cục đất lớn đặt vào bình bát và với cục đất sét này, vị ấy làm cho một vật trong hang được gọn gàng. Và phần thưởng dành cho cục đất sét ấy là thân thể nàng trở nên êm dịu lúc tiếp xúc, nhưng hậu quả của nét mặt giận dữ kia là tay chân, mồm, mắt, mũi nàng trở nên xấu xí dị dạng, vì thế quần chúng biết nàng qua biệt hiệu Pañcapapà (Ngũ ác tật).

Bấy giờ vua Ba-la-nại có dịp du hành quanh kinh thành ban đêm và khi đi đến chốn này, nàng đang nô đùa với các thôn nữ khác, và vì không biết đó là vua, nàng nắm lấy tay vua. Kết quả việc xúc chạm với nàng là vua mất hết tự chủ và như thể bị rúng động vì xúc chạm với thần tiên, lòng rạo rực dục tình, vua nắm lấy tay nàng mặc dù nàng trông thật xấu xí dị dạng, và hỏi nàng là con gái nhà ai. Nàng đáp:

– Con gái một người cư ngụ bên cổng thành.

Và nghe nàng chưa có chồng, vua bảo:

– Ta sẽ là chồng nàng. Hãy đi xin phép cha mẹ chấp thuận.

Nàng đến gặp cha mẹ và nói:

– Có một anh chàng muốn cưới con làm vợ.

Khi cha mẹ đồng ý và bảo:

– Chắc người kia cũng nghèo khó tội nghiệp lắm mới muốn cưới cô gái như con.

Nàng đến báo tin cho nhà vua biết cha mẹ nàng đã bằng lòng.

Thế rồi vua ở chung với nàng ngay trong chính nhà ấy, và tảng sáng hôm sau lại tìm về cung. Tứ hôm ấy, vua thường cải trang đến đó và không còn quan tâm nhiều đến bất cứ nữ nhân nào khác.

Bấy giờ một hôm cha nàng mắc bệnh lên máu. Liều thuốc chữa bệnh cho là thường xuyên cung cấp cháo nấu với sữa, lạc, mật ong và đường. Song vì nhà nghèo, họ không thể kiếm đâu ra món ấy. Sau đó bà mẹ bảo con gái:

– Này con, chồng con có thể kiếm cho ta một ít cháo này chăng?

Nàng đáp:

– Mẹ ơi, chồng con chắc còn nghèo hơn ta nữa, song dù vậy, con cũng sẽ hỏi chàng, mẹ đừng lo gì.

Nói thế xong, vào lúc vua trở về, nàng ngồi xuống như thể đang buồn bực. Khi vua đến hỏi tại sao nàng buồn như vậy và nghe chuyện ấy, vua bảo:

– Này hiền thê, thế khi nào ta sẽ phải đem về món thuốc công hiệu này?

Rồi vua suy nghĩ: “Ta không thể tiếp tục đến đây bằng cách này mãi được, ta phải xem xét nỗi hiểm nguy vì cứ đi lui đi tới thế này. Song nếu ta đưa nàng về triều, quần thần không biết nàng có được làn da xúc chạm êm dịu, họ sẽ chế nhạo ta và nói: “Đức vua đem về một con quỷ cái”. Còn nếu ta để cho cả kinh thành biết được xúc giác êm dịu ấy của nàng thì ta sẽ gạt bỏ hết mọi lời chê bai chống đối ta”Vì thế vua bảo nàng:

– Này ái thê, thôi đừng buồn bực nữa. Ta sẽ đem cho cha nàng một ít cháo ấy.

Nói xong, sau khi hưởng lạc thú cùng nàng, vua trở về cung. Hôm sau vua bảo nấu món cháo như nàng đã tả và lấy lá kết thành hai cái giỏ, một giỏ đựng cháo gạo và trong giỏ kia vua đặt một vương miện bằng ngọc rồi buộc chặt chúng lại.

Ban đêm vua đến bảo nàng:

– Này ái thê, chúng ta nghèo lắm. Phải khó khăn vất vả lắm ta mới kiếm được cháo này. Nàng phải dặn cha nàng: “Hôm nay ăn cháo trong giỏ này; ngày mai giỏ kia”.

Nàng làm theo lời dặn. Còn cha nàng, sau khi ăn một ít cháo đã thấy thỏa mãn ngay nhờ các chất bổ dưỡng tăng dần sinh lực, phần còn lại nàng đưa cho mẹ và chính nàng cũng ăn một phần, nên cả ba đều cảm thấy vô cùng sung sướng, còn cái giỏ đựng vương miện bảo ngọc ấy, họ để dành cho nhu cầu hôm sau.

Khi về cung thất, vua rửa mặt và bảo:

– Hãy đem vương niệm của trẫm đến đây.

Quần hầu đáp:

– Chúng thần không tìm ra vương miện.

Vua phán:

– Hãy đi tìm khắp kinh thành.

Họ đi tìm nhưng vẫn không thấy đâu cả. Vua phán:

– Thôi được, hãy đi tìm trong các nhà nghèo ngoại thành, bắt đầu từ các giỏ lá đựng thức ăn.

Họ đi tìm và thấy vương miện bảo châu trong nhà này, liền la lên:

– Cha mẹ của cô nàng này là bọn trộm!

Họ trói cả hai và đem đến trình vua. Lúc ấy cha nàng thưa:

– Tâu Chúa thượng, chúng thần không phải bọn trộm, có một ngươi đã mang cho chúng thần bảo vật này.

– Ai thế? Vua hỏi.

– Con rể của thần – Lão đáp.

Khi được hỏi người ấy ở đâu, lão đáp:

– Tiện nữ biết.

Rồi lão nói chuyện với nàng:

– Này con, con biết chồng con là ai chứ?

– Con không biết.

– Nếu vậy thì chúng ta tiêu đời rồi!

– Thưa cha, chàng đến lúc trời tối và đi trước khi trời sáng, vì vậy con không biết hình dáng chàng, nhưng con có thể nhận ra chàng bằng cách nắm tay chàng.

Cha nàng kể việc này với các quan và họ tâu trình vua. Vua giả vờ không biết gì về việc này và phán:

– Được hãy để nữ nhân này ở trong bức màn ở sân chầu, và đục một lỗ trên màn lớn bằng bàn tay đàn ông rồi gọi dân chúng đến đây để tìm cho ra tên trộm bằng cách chạm vào tay nó.

Quần thần làm theo lệnh vua. Khi đến gặp nàng và thấy nàng như vậy, họ đều ghê tởm bảo nhau:

– Nó là con quỷ cái.

Trong nỗi ghê tởm, họ không dám đụng vào nàng. Nhưng họ cũng đưa nàng đặt vào trong bức màn ở sân chầu và tập họp dân chúng lại. Khi cầm tay mỗi người đến dang qua lỗ hỏng, nàng bảo:

– Không phải người này.

Dân chúng đều say mê vì sự xúc chạm thần tiên của nàng nên không thể bỏ đi được. Họ suy nghĩ: “Nếu nàng ấy đáng bị trừng phạt thì dù chúng ta phải lấy gậy đánh nàng, chúng ta cũng sẵn sàng chịu đựng mọi việc phục dịch của bọn tôi đòi vì nàng và rước nàng về nhà làm vợ chánh”.

Sau đó quân hầu của vua đánh đuổi bọn họ đi thì tất cả quần chúng bắt đầu từ vị phó vương đều làm như lũ người điên. Lúc ấy vua bảo:

– Thế trẫm có thể là người ấy chăng?

Rồi vua dang tay ra. Người đàn bà ấy nắm lấy tay vua và la to:

– Ta đã bắt được tên trộm?

Vua hỏi quần thần:

– Khi tay các khanh được nàng ấy nắm, các khanh nghĩ sao?

Họ tâu vua giống hệt cảm giác họ đã nhận được. Vì thế vua phán:

– Do duyên cớ này trẫm đã bảo chúng đưa nàng về cung. Nếu dân chúng không biết gì về xúc giác của nàng, họ sẽ khinh chê trẫm. Này các khanh đã biết mọi sự thật nhờ trẫm, vậy hãy nói ra nàng ấy nên ở nhà ai để làm vợ?

Quần thần đáp:

– Tâu Ðại vương, ở cung của Ðại vương.

Thế rồi cử hành lễ quán đảnh, vua phong nàng làm chánh hậu và ban cho cha mẹ nàng quyền cao chức trọng. Từ đó về sau, vì say mê nàng, vua không bảo tiến hành điều tra về nàng, cũng chẳng ngó ngàng đến nữ nhân nào khác. Các vương phi kia tìm cách khám phá điều bí mật liên quan đến nàng.

Một hôm, nàng nằm mộng thấy điềm nàng làm chánh hậu của hai vị vua, liền kể giấc mộng ấy với vua. Vua triệu các người giải mộng đến hỏi:

– Giấc mộng chánh hậu thấy như vậy có nghĩa gì?

Bấy giờ bọn họ đã nhận hối lộ từ các vương phi kia, liền thưa:

– Việc chánh hậu ngồi trên lưng voi toàn trắng là dấu hiệu Ðại vương băng hà, và việc lệnh bà sờ mặt trăng trong khi cỡi trên lưng voi là dấu hiệu bà đưa một vị địch vương đến chống Ðại vương.

– Vậy phải làm gì bây giời? Vua hỏi.

– Ðại vương không thể xử tử bà, nhưng Ðại vương phải đặt bà lên chiếc thuyền và đẩy xuống cho trôi sông.

Ban đêm, vua sai đặt nàng lên thuyền cùng thức ăn, áo quần và đồ nữ trang rồi đẩy nàng trôi theo dòng. Trong khi nàng được dòng nước cuốn đi trên thuyền, nàng đến diện kiến vua Pàvàriya, lúc ấy đang du hí trong dòng nước.

Vị đại tướng của vua thấy chiếc thuyền liền hỏi:

– Chiếc thuyền này thuộc về ta.

Vua bảo:

– Hàng hóa trên thuyền thuộc về trẫm.

Khi chiếc thuyền đến gần, hai vị thấy nữ nhân kia và vua hỏi:

– Ngươi là ai mà giống như quỷ cái thế?

Nàng mỉm cười đáp nàng là chánh hậu của vua Baka rồi kể cho vua nghe tất cả chuyện đời nàng, rằng nàng lừng danh khắp cõi Diêm-phù-đề với biệt hiệu Ngũ ác tật. Lúc ấy vua nắm tay nàng nhấc ra khỏi thuyền, vừa cầm bàn tay nàng, vua liền thấy rạo rực say mê vì sự xúc chạm ấy, bởi thế các cung tần mỹ nữ của vua chẳng còn được xem là xứng đáng với danh hiệu nữ nhân nữa, vua liền tôn nàng lên địa vị chánh hậu và nàng được vua sủng ái như chính bản thân của vua vậy.

Khi vua Baka nghe mọi chuyện đã xảy ra liền bảo:

– Ta không cho phép vua ấy phong nàng làm chánh hậu đâu.

Rồi truyền triệu tập quân sĩ, vua đến đóng quân ở một cảng đối diện bên kia sông, gửi thôngđiệp với mục đích là bảo vua Pàvàriya hoặc phải giao trả vị chánh hậu của mình hoặc ứng chiến.

Vị địch vương kia sẵn sàng lâm trận, nhưng các quân sư của cả hai vua đều nói:

– Không cần phải chết vì một nữ nhân. Bà ấy thuộc về vua Baka vì đó là phu quân đầu tiên của bà, song bà ấy lại thuộc về vua Pàvàriya vì vua này đã cứu bà ra khỏi chiếc thuyền. Do vậy hãy để bà ấy ở trong khoảng thời gian bảy ngày tại cung của mỗi vị vua.

Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, họ thuyết phục hai vị vua đồng ý quan điểm này và cả hai đều vô cùng hoan hỷ, bảo xây kinh thành ở hai bờ đối diện của sông ấy và ngự đến ở đó, còn nữ nhân ấy nhận địa vị chánh hậu của cả hai vua, và cả hai đều say mê nàng.

Bấy giờ nàng ở bảy ngày cùng một vị vua, rồi nàng lên thuyền qua sông đến cung của vị kia, và lúc ở giữa dòng, nàng lại phạm tà hạnh với tên lái thuyền là một lão già vừa hói vừa què.

Thời ấy chúa chim Kunàla là vua Ba ka, nên ngài kể chuyện này như việc do chính mắt ngài trông thấy, và ngài ngâm kệ để chứng minh điều này:

  1. Pà-và chánh hậu, Ba-ka vương,
    Tham dục hai vua thật khó lường,
    Tuy thế, nàng kia còn phạm tội
    Với tên nô lệ của chồng nàng.
    Vậy còn tên hạ tiện nào khác
    Nàng lại không mong thuốn phạm gian?

*

Chuyện vương hậu Pingiyànĩ.

Tuy nhiên còn một chuyện khác nữa:

Ngày xưa, vương hậu của vua Brahamadata, mệnh danh là Pingiyànĩ, mở cửa sổ nhìn ra và thấy một người giữ ngựa của hoàng gia. Ðến khi vua đã ngủ say, nàng trèo xuống qua cửa sổ, phạm tà dục với y rồi lại trèo lên cung điện, tắm rửa toàn thân với đủ loại nước hoa và nằm xuống cạnh vua. Bấy giờ một hôm, vua suy nghĩ: “Ta không biết vì sao vào lúc nửa đêm, thân thể hoàng hậu luôn giá lạnh, ta muốn xem xét vấn đề này”.

Vì thế một ngày kia, vua giả vờ ngủ rồi trở dậy đi theo nàng và thấy nàng phạm tà hạnh với gã giữ ngựa. Vua trở về bước lên nội cung và nàng cũng vậy, sau khi phạm tội ngoại tình, liền trở vào nằm trên chiếc giường đẩy.

Hôm sau, trước mặt quần thần, vua triệu nàng vào chầu rồi công bố tà hạnh của nàng và phán:

– Tất cả đàn bà đều tội lỗi như thế cả.

Rồi mặc dù tội ấy đáng hành hình, tù đày, xẻo thịt, hoặc phanh thây, vua vẫn tha tội cho nàng, nhưng vua lại truất phế nàng khỏi ngôi cao và phong một nữ nhân khác làm chánh hậu.

Vào thời ấy chúa chim Kunàla là vua Brahmadatta, vì thế chính ngài kể chuyện này như một việc ngài đã thấy tận mắt và ngài ngâm kệ để chứng minh:

  1. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
    Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
    Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
    Của đấng quân vương phạm dục tà,
    Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
    Cả quân vương lẫn gã gia nô.

Sau khi kể tội lỗi của nữ giới trong các chuyện đời xưa, ngài lại nói về tà hạnh của họ bằng cách khác nữa:

  1. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
    Chúng còn bội nghĩa với vong ân
    Nam nhân, ví thử không si ám,
    Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.
  2. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
    Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
    Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
    Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
    Chúng đóng vai người không hổ thẹn
    Khi vi phạm luật lệ công bình,
    Mọi hành vi chúng đều tuân phục
    Ước vọng trong tâm của chính mình.
  3. Dù ở với chàng bao tháng năm,
    Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
    Nồng nàn trong dạ và thân thiết
    Như chính đời chàng quả thật chân,
    Trong lúc gian lao và khốn khổ,
    Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
    Về phần ta chẳng bao giờ nữa
    Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.
  4. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
    Như là loài vượn khỉ leo cây,
    Hoặc như tàn lá cây soi bóng
    Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
    Chủ đích ở trong lòng nữ giới
    Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
    Như thể bánh xe lăn vút mãi
    Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.
  5. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
    Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
    Ðể đi bắt một người giàu có,
    Biến gã thành mồi của chúng săn,
    Những bọn dại khờ như vậy đó,
    Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
    Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
    Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.
  6. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
    Mà không tìm thấy được con đường
    Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
    Biến gã thành mồi của chúng săn,
    Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
    Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
    Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
    Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.
  7. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
    Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
    Hoặc là đẩy gã như dòng nước
    Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
    Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
    Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
    Như con thuyền vẫn thường kề sát
    Cả bến bờ xa lẫn bến gần!
  8. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
    Chúng như hàng quán mở ra mời;
    Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
    Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.
  9. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
    Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
    Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
    Tội chúng làm sao có thể lường!
  10. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
    Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
    Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
    Chúng muốn tình lang lắm của tiền!
  11. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
    Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
    Người được phong vương và quán đảnh,
    Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
    Những ai biết sống luôn phòng hộ
    Xem các thứ này tựa địch quân.
    Quả thật chính là tâm địa chúng
    Làm sao biết rõ, khó vô cùng!
  12. Má hồng tài trì thật thông minh,
    Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
    Và đám mày râu thường ái mộ,
    Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
    Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
    Một phú ông loan phượng hợp thành,
    Năm hạng nữ nhi này tất cả,
    Nam nhân không được kết ân tình!
  13. Dù một nam nhân chứa bạc vàng
    Cả trần gian để tặng riêng nàng
    Mà tim chàng vẫn yêu thương nhất,
    Nàng cũng làm ô nhục đến chàng,
    Nếu có thời cơ nào thuận tiện.
    Vậy nên cẩn thận kẻo e rằng
    Bạn sẽ rơi vào tay độc ác
    Của bọn người hèn hạ dối gian!
  14. Chàng phô dáng khỏe mạnh hùng cường,
    Không phạm lỗi lầm của thế gian,
    Chàng đến cầu hôn cô thiếu nữ,
    Chàng vừa tuấn tú lại yêu thương.
    Gặp cơn hoạn nạn và đau khổ,
    Nàng sẽ rời xa, sẽ bỏ chàng.
    Ta chẳng bao giờ tin tưởng chúng,
    Phần ta đối với bọn hồng nhan!
  15. Chàng chớ tin vì cứ nghĩ rằng:
    “Nàng yêu ta đó, đúng rồi chăng?”
    Chàng đừng tin lẽ thường nhi nữ
    Trước mặt chàng tuôn lệ ướt đầm!
  16. Chớ tin cái ổ lót cành khô
    Cùng các lá cây tự thuở xưa
    Người bạn ngày xưa, đừng tín nhiệm,
    Ngày nay có thể hóa người thù,
    Chớ tin vua chúa vì suy nghĩ:
    “Người ấy, bạn ta thuở trước giờ”
    Và chớ tin vào người phụ nữ
    Dù sinh cho bạn chục con thơ!
  17. Cầu lạc chính là bọn nữ nhân,
    Dục tham sao cứ mãi buông lung,
    Lũ người vi phạm nền luân lý,
    Bọn chúng, bạn đừng có cậy trông.
    Vợ cứ giả vờ trò luyến ái
    Bao la, vô hạn trước ông chồng,
    Chớ tin nàng ấy,vì nhi nữ
    Chung chạ như bao bến tắm sông!

41 . Sẵn sàng chém giết hoặc phân thây,
Không có việc gì chẳng nhúng tay,
Khi đã diễn xong trò cắt cổ,
Chúng còn uống máu của chàng ngay!
Bọn mày râu chớ say mê chúng,
Một lũ dục tham hạ liệt đầy,
Phóng đãng và còn chung chạ nữa
Như là bến tắm sông Hằng vầy!

  1. Lời nói chúng thường chẳng biệt phân
    Giữa điều chân thật với tà gian,
    Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
    Chúng kiếm tình nhân lắm bạc vàng.
  2. Dụ một chàng bằng mắt, nụ cười,
    Chàng kia bằng cách bước đi chơi,
    Giả trang lôi cuốn vài chàng nữa
    Ðám khác bằng câu chuyện ngọt bùi!
  3. Hung bạo, nhẫn tâm, lại bất lương,
    Song lời lẽ chúng ngọt như đường,
    Không gì bọn nữ nhi không biết
    Ðể gạt chàng nào chúng kết hôn!
  4. Quả thật đàn bà thảy ác gian,
    Việc ô nhục của chúng vô lường,
    Chúng đều tham đắm và liều lĩnh
    Thiêu đốt nhanh như ngọn lửa bừng.
  5. Nữ nhân chẳng phải được sinh ra
    Ðể thích người này, ghét kẻ kia,
    Chúng tán chàng nào mà chúng ghét
    Cũng nhiều như kẻ chúng tôn thờ,
    Như con thuyền vẫn thường kề sát
    Cả bến bờ gần lẫn bến bờ xa.
  6. Vì phải đâu là chuyện ghét thương
    Mà ta thường thấy ở hồng quần,
    Ðàn ông chúng bám vì vàng bạc
    Như bám vào cây, đám bọ trùng!
  7. Kẻ làm nghề đốt xác người ta,
    Hoặc quét hoa khô khỏi điện thờ,
    Hoặc gã giữ voi hay giữ ngựa,
    Ðến cùng là đứa giữ trâu bò,
    Tuy nhiên vì bạc tiền, nhi nữ
    Vẫn chạy theo phường hạ đẳng kia.
  8. Bỏ rơi quý tộc nếu nghèo nàn,
    Nhưng chính tên vô loại, hạ tầng,
    Ðối với tên này, như xác thối,
    Nếu giàu, chúng cũng chạy nhanh chân.

Như vậy, Ànanda, vị thứu vương, dựa theo những sự việc do chính ngài biết, đã nói về những tính xấu của nữ giới, rồi giữ im lặng. Còn Nàrada, sau khi nghe những gì Ngài cần phải nói, cũng dựa theo những việc chính mình biết, liền kể ra những tính xấu của họ.

Ðể chứng minh điều này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thật vậy, lúc ấy Nàrada, khi nghe kể đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của câu chuyệnmà Ànanda, thứu vương cần phải nói ra, đến đây, liền ngâm các vần kệ này:

  1. Bốn vật chẳng hề biết thỏa thuê,
    Những lời ta nói, lắng tai nghe:
    Ðại dương, đạo sĩ và vua chúa,
    Hỡi Ðiểu vương, và bọn nữ nhi.
  2. Mọi dòng trong đất gặp quê hương
    Cũng chẳng làm đầy đủ đại dương,
    Vẫn có cái gì còn thiếu thốn,
    Dù cùng nước biển thảy hòa tan.
  3. Bà-la-môn thuộc các kinh thơ,
    Tri kiến theo truyền thuyết thuở xưa,
    Thánh kiến, tuy nhiên, còn thiếu thốn
    Và khao khát mãi, mãi chưa vừa.
  4. Vị vua chinh phục cõi trần ai,
    Tất cả núi đồi, các biển khơi,
    Có thể gọi kho tàng bất tận
    Chứa đầy tài sản của mình thôi,
    Vẫn mơ thế giới bên kia biển
    Vì nghĩ bên này quá nhỏ nhoi!
  5. Nhi nữ kết duyên với tám chồng
    Sẵn sàng tuân phục ý riêng nàng,
    Anh hùng gan dạ đầy tài giỏi
    Nhiệm vụ tình quân thảy vẹn toàn;
    Tuy vậy nàng yêu chàng thứ chín
    Bởi vì còn thiếu thốn trong lòng!
  6. Ðàn bà như lửa nuốt con mồi,
    Như nước lũ tuôn thảy cuốn trôi,
    Tai họa, gai đâm là bọn chúng,
    Chúng thường đi lạc kiếm vàng thôi!
  7. Chàng kia dùng lưới đón xuân phong,
    Hoặc chỉ một mình tát biển đông,
    Vỗ với một tay, xưa lại dám
    Ðể tâm tư hướng đến giai nhân!
  8. Ðối với quần thoa có trí tài,
    Thật chân là của quý trên đời,
    Tính tình phức tạp như tơ rối,
    Như thói các đàn cá biển khơi.
  9. Nói năng dịu ngọt, khó vừa lòng,
    Như thể khó đầy các lạch sông,
    Chúng lắng chìm dần, dần xuống mãi,
    Biết hồng quần, phải chạy nhanh chân!
  10. Hồng nhan phản bội khiến mê say,
    Ðệ nhất tịnh nhân phải đọa đày;
    Chúng cứ chìm dần, dần xuống mãi,
    Những ai biết chúng, phải xa bay!
  11. Bất kỳ chúng phục vụ đàn ông
    Vì bạc vàng, tham dục thỏa lòng,
    Chúng đốt gã như nhiên liệu cháy
    Ðược thả vào trong ngọn lửa hồng!

Khi Nàrada đã nêu ra các tội lỗi của nữ nhân như vậy, bậc Ðại Sĩ một lần nữa dùng những thí dụ đặc biệt chứng minh các tính xấu của họ.

*

Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo Sư nói:

– Thật vậy, chim chúa Kunàla, sau khi biết phần đầu, phần giữa và phần kết thúc câu chuyện Nàrada kể, đến đây liền ngâm các vần kệ sau:

  1. Người khôn dám nói một đôi lời
    Với quỷ cầm gươm sắc mới mài,
    Ðánh đập hung xà, song chớ bạo
    Chuyện trò với gái một mình thôi!
  2. Nữ sắc làm mờ trí tục nhân,
    Nói, cười, ca, múa, cánh tay trần
    Gây phiền lụy những tâm dao động,
    Như quỷ dữ xưa giết lái buôn.
  3. Ðắm say rượu thịt, cố hoài công
    Kiềm chế cơn thèm, nén dục tâm
    Như quái vật xưa trong biển cả
    Nuốt trôi tài sản của nam nhân.
  4. Chúng chiếm riêng tham dục ngũ phần,
    Buông lung kiêu mạn cứ tuôn tràn,
    Như sông tìm đại dương đi tới,
    Bọn phóng dật làm mồi nữ nhân.
  5. Trai tráng được nhi nữ thích ham,
    Ðộng tâm bởi nhục dục tham lam,
    Kẻ kia nung nấu vì cuồng vọng,
    Chúng đốt sạch trơn tựa lửa than!
  6. Kẻ nào nếu chúng biết giàu sang,
    Nhào đến cướp đi, trọn bạc vàng,
    Tay quấn chặt chàng bừng lửa dục,
    Như dây leo quấn chặt cành Sàl.
  7. Như trái vim-ba, miệng đỏ tươi,
    Dùng nhiều mưu kế hại con người,
    Khi thì cười lớn, khi cười nụ,
    Như quỷ sam-va, chúa bẫy mồi!
  8. Nữ nhi trang điểm đủ kim hoàn
    Ðược họ nhà trai đón thật sang,
    Cho dẫu được canh phòng cẩn mật,
    Vẫn thường phạm tội phản phu quân,
    Như nàng kiều nữ ngày xưa ấy
    Ðã được mang trong bụng quỷ nhân.
  9. Người có trí và thật nổi danh
    Ðược tôn sùng dưới mắt quần sinh,
    Tuy nhiên sa dưới quyền nhi nữ
    Sẽ không còn tươi sáng hiển vinh,
    Như cả vầng trăng vừa bị nuốt
    Bởi La-hầu đại lực yêu tinh.
  10. Cừu nhân trút hận xuống cừu nhân,
    Hay bạo chúa phô nỗi hận sân,
    Số phận còn đau hơn thế nữa
    Che mờ tất cả, bởi nguồn căn
    Dục tham, nên phải đành sa đọa
    Ở dưới quyền uy của nữ nhân.
  11. Bị hăm cào cấu khắp thân hình,
    Hoặc nắm tóc lôi kéo khỏi mình,
    Dọa quất bằng roi, hay gậy gộc,
    Hoặc là đấm đá khắp chung quanh,
    Nữ nhi vẫn chạy đi tìm kiếm
    Một gã cùng đinh kết bạn tình,
    Vì thấy lạc hoan trong gã ấy
    Như loài ruồi kiếm xác ương sình!
  12. Tránh bọn nữ nhân ở giữa đường,
    Hoặc kinh thành hoặc ở công trường
    Của vua, thị trấn, thôn làng nhỏ,
    Bậc có trí hiền sẽ lạc an,
    Tránh được bẫy đang giăng vậy đó
    Bởi Na-mu-ci, chính Ma vương.
  13. Kẻ nào buông lỏng luật Sa-môn,
    Tập những thói đê tiện, hạ tầng,
    Kẻ khốn ngu si đành đổi lấy
    Ngục sâu thay thế cảnh thiên đường,
    Giống như những kẻ nào đem đổi
    Ngọc có tỳ thay ngọc vẹn toàn.
  14. Ðời này, đời kế đáng khinh khi
    Là kẻ cố tâm khổ lụy vì
    Bọn ác nữ nhân, đi lảo đảo,
    Ngã nhào liều lĩnh, thật ê chề
    Như con lừa dữ cuồng điên chạy
    Với chiếc xe lăn lóc mọi bề.
  15. Hoặc vào rừng lụa lắm gươm dao,
    Hoặc ngục Pa-ta phải đọa vào,
    Ðội lốt thú rùng đi lãng vãng,
    Chốn ma đói chẳng thoát thân nào.
  16. Trong vườn Hỷ lạc thú vui chơi
    Của các Thiên tiên ở cõi trời,
    Quyền đại đế vương trên mặt đất
    Tiêu vong vì nữ giới, than ôi!
    Thói phường phóng dật buông lung ấy
    Ði đến sầu bi đọa xứ thôi.
  17. Khó đâu thành đạt thú thiên đường,
    Cũng chẳng khó quyền lực đế vương
    Trải rộng khắp nơi trên cõi đất,
    Các nàng Thiên nữ ở lầu vàng
    Ðã thành tựu các điều như vậy,
    Ðoạn diệt từ lâu ác dục tham.
  18. Từ Dục giới này được hóa thân
    Ði vào Sắc giới đủ quyền năng
    Tái sinh vào cõi A-la-hán,
    Những vị đã trừ diệt dục tâm.
  19. Cực lạc vượt qua mọi khổ đau,
    Không duyên sinh, bất động, thâm sâu,
    Ðạt thành bởi những người thanh tịnh
    Ðắc Niết-bàn, ly dục đã lâu.

*

Như vậy bậc Ðại Sĩ chấm dứt Pháp thoại sau khi làm cho hội chúng đắc Ðại Niết-bàn bất diệt. Các loài yêu quỷ mãnh xà và đồng loại ở vùng Tuyết Sơn cùng các vị thần đứng trên không gian, đều reo mừng tán thán:

– Lành thay! Thật là khéo nói với đầy đủ vẻ nhiệm màu của một bậc Giác Ngộ!

Ànanda, thứu vương, Nàrada, vị thần Ba-la-môn, Punnamukha, chim sơn ca chúa, và bậc Ðại Sĩ đều trở về trú xứ của mình. Song các vị kia thỉnh thoảng còn trở lại nhận lời chỉ giáo từ đôi bàn tay của bậc Ðại Sĩ và do tuân thủ giáo pháp của ngài nên được tái sinh vào cõi Thiên.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và ngâm vần kệ cuối cùng để nhận diện Tiền thân:

  1. U-dà-yi ấy chúa Sơn ca,
    Linh thứu vương là À-nan-da,
    Nà-ra-da là Xá-lợi-phất,
    Ku-nà-la hót chính là Ta.

Các vị phải hiểu Tiền thân này như vậy.

Bấy giờ các Tỷ-kheo này, khi đến đây, đã đến bằng thần thông của bậc Ðạo Sư, còn khi về, lại về bằng chính uy lực thần thông của mình. Và ở trong Ðại Lâm, bậc Ðạo Sư đã trình bày cho các vi thấy phương tiện để đạt được chánh định, nên ngay hôm ấy các vị đắc quả A-la-hán. Có một số đông chư Thiên tụ họp nơi ấy nên đức Thế Tôn tuyên thuyết cho các vị nghe Kinh Ðại Hội (Mahàsamaya Sutta).

-ooOoo-

  1. Chuyện đại Sutasoma (Tiền thân Mahà-Sutasoma)

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về Trưởng lão Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay).

Cách vị ấy tái sinh và gia nhập Giáo hội phải được hiểu như đã được miêu tả đầy đủ trong kinh Angulimàla (Trung Bộ II).

Bấy giờ từ khi nhờ phát nguyện một hành động nói lời Chân thật, ông cứu sống một người đàn bà sinh khó, rồi ông kiếm được thực phẩm cúng dường thật dễ dàng. Sau đó nhờ tu tập hạnh viễn ly, ông chứng đắc quả A-la-hán và được công nhận là một trong tám mươi Ðại Trưởng lão.

Bấy giờ Tăng chúng bắt đầu nói về đề tài này, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, thật vi diệu thay là phép thần thông do đức Thế Tôn thị hiện để giáo hóa nhẹ nhàng như vậy và không cần dùng chút bạo lực nào, Ngài đã điều phục một tướng cướp hung bạo khát máu như Angulimàla! Ôi quả thật chư Phật đã thành tựu những việc hy hữu thay!

Bậc Ðạo Sư ngồi trong Hương phòng, với thiện nhĩ thông, hiểu được chuyện đang nói, và biết rằng hôm nay Ngài đến đó sẽ rất lợi ích và sẽ thuyết giảng một đại kinh nên với oai nghi tối thắng của một bậc Giác Ngộ, Ngài đi đến Chánh Pháp đường, ngồi trên sàng tọa dành cho Ngài và hỏi hội chúng đang thảo luận đề tài gì. Khi vị trình Ngài chuyện ấy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, thật không kỳ diệu gì việc Ta giáo hóa vị ấy ngày nay, khi Ta đã chứng đắc Vô thương Chánh giác. Ta cũng đã điều phục vị ấy khi ta còn sống trong một đời trước với một trình độ tri kiến hạn hẹp mà thôi.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, vua Koravya cai trị rất đúng pháp tại thành Indapatta, trong quốc độ Kuru (Câu-lâu). Bồ-tát ra đời làm con của vị chánh hậu, và do ngài thích nước ép trái soma, nên được đặt tên Sutasoma. Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vua gửi ngài đến Takkasilà để thọ giáo với một vị danh sư lẫy lừng khắp thế giới. Thế là khi nhận lãnh học phí để trả cho thầy, ngài lên đường đến đó.

Tại Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta con vua Kàsi cũng được cha gửi đến đó cùng mục đích như trên và cùng lên đường theo hướng ấy. Trong lúc du hành, Sutasoma ngồi nghỉ trên ghế dài trong một sảnh đường cạnh cổng thành. Vương tử Brahmadatta cùng đến ngồi xuống cạnh ngài trên ghế đó. Sau khi chào thân hữu xong, Sutasoma hỏi bạn:

– Này Hiền hữu, bạn đã mệt mỏi vì cuộc hành trình rồi đó. Bạn từ đâu đến?

Khi vị kia đáp:

– Từ Ba-la-nại.

Ngài lại hỏi vị kia là con của ai.

– Con vua Brahmadatta.

– Quý danh là gì?

– Vương tử Brahmadatta.

– Hiền hữu đến đây có mục đích gì?

– Ðể được dạy các môn học thuật.

Sau đó vương tử Brahmadatta bảo:

– Hiền hữu cũng mệt mỏi vì chuyến đi này rồi.

Và hỏi thăm ngài tương tự như trên, Sutasoma kể cho bạn nghe mọi chuyện về mình.

Cả hai vị đều suy nghĩ: “Chúng ta đều là các vương tử đi thọ giáo các môn học thuật từ tay cùng một vị thầy”, liền kết bạn với nhau.

Khi vào thành, hai vị đến nhà giáo sư, đảnh lễ thầy, và sau khi nêu rõ lai lịch danh tánh, hai vị nói đến đây để xin thọ giáo các môn học thuật. Vị thầy sẵn sàng nhận lời thỉnh cầu ấy.

Sau khi trao học phí xong, hai vị bắt đầu học tập và không chỉ hai vị, mà còn nhiều vương tử khác ở xứ Diêm-phù-đề thời ấy, lên đến hơn một trăm vị, xin thọ giáo với vị thầy này.

Sutasoma là đệ tử lớn chẳng bao lâu đạt đến tài năng giảng dạy, nhưng không muốn thăm hỏi các bạn kia, ngài suy nghĩ: “Ðây là thân hữu của ta”, ngài chỉ đến với vương tử Brahmadatta mà thôi, và trở thành thầy riêng của bạn, ngài giáo huấn bạn, trong lúc các vị kia phải từ từ thu thập kiến thức cho mình.

Các vị ấy sau thời gian tinh cần học tập cũng từ giã sư phụ, và tập họp thành một đoàn tùy tùng theo Sutasoma lên đường hồi hương. Sau đó, Sutasoma đứng trước đám đông để từ giã họ, bảo:

– Sau khi các vị chứng tỏ tài học của mình trước phụ vương, các vị sẽ ổn định đời mỗi người trong vương quốc của mình. Khi ổn định xong, xin nhớ tuân theo lời giáo huấn của ta.

– Thưa Tôn sư, đó là những gì?

– Vào những ngày trăng non và trăng tròn, phải giữ Bố-tát giới và cử sát sinh.

Chúng bạn đều đồng ý tuân lời dặn ấy. Bồ-tát nhờ thần lực tiên tri theo tướng mạo mỗi người, biết rằng đại nạn sẽ xảy đến với vương tử Ba-la-nại trong tương lai, và sau khi giảng dạy đầy đủ như vậy, ngài cho họ ra đi.

Các vị ấy đều trở về xứ sở, và sau khi trình bày việc học hành của mình trước các phụ vương, các vị ấy lên nối ngôi trong vương quốc của mình. Rồi để thông báo việc này cùng việc tiếp tục tuân thủ lời dạy của ngài, các vị vua ấy gửi thư cùng tặng vật đến Sutasoma.

Khi biết được tình hình mọi việc, bậc Ðại Sĩ liền trả lời các thư kia cùng dặn các vị giữ vững niềm tin. Một trong các vị ấy là vua Ba-la-nại, vốn chưa bao giờ ăn cơm mà không có thịt, vì thế, để giữ ngày trai giới quần hầu thường lấy thịt cất riêng một nơi.

Bấy giờ, một hôm thịt được cất riêng như vậy, do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó khéo nuôi của hoàng cung ăn hết. Người đầu bếp không tìm ra thịt vội cầm một nắm tiền đi quanh quẩn vẫn không mua được thịt gì cả, tự nhủ: “Nếu ta dọn cơm không có thịt, ta sẽ chết mất. Ta phải làm gì đây?” Nhưng lại nghĩ: “Còn có một cách”. Ðến chiều tối, y ra nghĩa địa phơi đầy xác chết, lấy một ít thịt đùi của một người mới chết, y nướng thịt thật chín và dọn lên làm thức ăn.

Khi một lát thịt vừa chạm vào đầu lưỡi vua thì nó gây rung động khắp bảy ngàn dây thần kinh vị giác và tiếp tục tạo ra sự xáo trộn cả toàn thân. Tại sao vậy? Ðó là do trước kia, vua đã từng dùng thịt này rồi. Vì truyện kể rằng trong đời sống ngay trước đời này, vua đã là một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) từng ăn nhiều thịt người nên nó hợp khẩu vị vua. Vua suy nghĩ: “Nếu ta giữ im lặng mà ăn thịt này, y sẽ không nói cho ta biết đó là thịt gì”. Vì thế, khi nhổ ra, vua để rơi một miếng thịt xuống đất. Người đầu bếp thưa:

– Tâu Ðại vương, xin ngài dùng thịt này, không sao cả đâu.

Vua ra lệnh mọi quân hầu lui ra và bảo:

– Trẫm biết rõ lắm nhưng đó là thịt gì?

– Ðó là thứ thịt Ðại vương đã thưởng thức các lần trước.

– Chắc chắn các lần khác thịt không có mùi thơm này.

– Tâu Ðại vương, hôm nay thịt được nấu kỹ lắm ạ.

– Chắc chắn trước kia ngươi cũng nấu giống thế này chăng?

Rồi khi thấy y im lặng, vua phán:

– Hoặc là phải nói thật với trẫm hoặc ngươi phải chết.

Thế là y cầu khẩn vua cam đoan không trừng phạt và kể đúng sự thật. Vua bảo:

– Ðừng nói gì việc ấy nữa. Ngươi sẽ phải ăn thịt nướng thường lệ và chỉ nấu thịt người cho trẫm.

– Tâu Ðại vương, chắc chắn việc này khó lắm ạ.

– Ðừng sợ, chẳng có gì khó cả.

– Thế tiểu thần kiếm đâu ra thường xuyên thứ thịt ấy?

– Chả có bọn tù nhân trong ngục đó sao?

Từ đó, y làm theo lời vua dặn. Dần dần, khi thiếu tù nhân, y trình:

– Tiểu nhân phải làm gì bây giờ?

Vua phán:

– Hãy ném xuống đường cái một gói có ngàn đồng tiền rồi bắt lấy kẻ nào lượm gói ấy như kẻ trộm và xử tử nó đi.

Y tuân lệnh. Dần dần, không tìm ra kẻ nào có ý nhìn đến gói tiền ấy nữa, gã thưa:

– Tiểu thần phải làm sao đây?

– Vào lúc trống điểm canh khuya, kinh thành thật đông người. Vậy ngươi hãy xuống vào trong một chỗ nứt ở tường nhà hay ở ngã tư, hạ thủ một người và cắt đi vài miếng thịt.

Từ đó, y thường trở về với một ít thịt mỡ và nhiều nơi trong kinh thành phát hiện nhiều xác chết. Tiếng than khóc vang lên: “Tôi đã mất cha, mất mẹ, mất anh em rồi”.

Dân trong thành kinh hoàng bảo nhau:

– Chắc chắn sư tử, cọp beo hay quỷ dữ đã ăn thịt các người này.

Khi quan sát các tử thi, họ thấy có chỗ giống vết thương hở miệng liền nói:

– Kìa, ắt hẳn một người nào đó ăn thịt chúng đấy.

Dân chúng tụ tập ở sân chầu và kêu than. Nhà vua hỏi:

– Này các hiền hữu, có chuyện gì thế?

– Tâu đại vương, trong kinh thành này có kẻ cướp ăn thịt người. Xin ngài ra lệnh bắt nó.

– Làm sao trẫm biết đó là ai được? Trẫm phải đi quanh quẩn kinh thành này mà canh giữ chăng?

Dân chúng bảo nhau:

– Nhà vua không quan tâm đến kinh thành. Chúng ta sẽ báo cáo việc này lên vị đại tướng Kàlahatthi.

Họ đến trình vị tướng ấy việc này và nói:

– Xin Ðại tướng tìm cho ra tên cướp này.

Vị ấy đáp:

– Hãy đợi bảy ngày ta sẽ tìm ra tên cướp và giao cho các vị.

Khi giải tán quần chúng xong, ông ra lệnh cho các tướng lãnh:

– Này các hiền hữu, dân chúng bảo có tên cướp ăn thịt người trong thành này. Các hiền hữu, hãy mai phục ở nhiều nơi và bắt nó.

– Ðược lắm – Họ đáp.

Từ ngày ấy họ vây quanh toàn thành. Bấy giờ người đầu bếp đang ẩn mình trong cái lỗ ở tường nhà kia đã giết một phụ nữ và bắt đầu nhét đầy thịt này vô giỏ của y. Vì thế đám tướng lãnh chụp y, đấm đánh túi bụi và vừa trói y ra sau, vừa la lớn:

– Chúng ta đã bắt được tên trộm ăn thịt người rồi!

Một đám đông vây quanh họ. Rồi vừa đánh đập y một trận mê tơi vừa buộc giỏ thịt trên cổ y, họ đem y đến trước vị đại tướng. Khi thấy y, vị ấy suy nghĩ : “Có thể là kẻ này ăn thịt người hay trộn nó với các thứ thịt khác rồi đem bán, hoặc y giết người theo lệnh ai khác chăng?” và để hỏi vấn đề này, ông ngâm vần kệ đầu:

  1. Hỡi người sành các món cao lương,
    Ðòi hỏi gì sao thật khẩn trương
    Ðã giục ngươi làm điều khủng khiếp?
    Chỉ vì thực phẩm hoặc tiền vàng
    Ngươi tàn sát những người này vậy,
    Hỡi kẻ khốn kia lạc bước đàng?

Ðầu bếp:

  1. Chẳng vì thê tử hoặc thân bằng,
    Quyến thuộc, bản thân hoặc bạc vàng,
    Thần giết bà này vì Chúa thượng,
    Vì vua ngự trị cả giang san
    Vẫn ăn thịt ấy, thần gây tội
    Chính là do lệnh của vua ban
    .

Tướng quân:

  1. Nếu do mua chuộc để chìu lòng
    Thèm khát tham tàn của Chúa công,
    Ngươi đã phạm hành vi khủng khiếp,
    Vậy ngày mai đến lúc hừng đông,
    Chúng ta tìm Chúa công tham kiến,
    Ðưa cáo trạng ra trước mặt rồng.

Ðầu bếp:

  1. Kà-la đại tướng đáng tôn sùng,
    Thần sẽ tuân lời của tướng công,
    Ðến rạng đông thần tìm Chúa thượng
    Và đưa cáo trạng trước sân rồng.

Thế rồi vị đại tướng bảo đặt y xuống, trói thật chặt và rạng ngày mai, ông bàn bạc với tướng lãnh xong, và khi tất cả đều đồng ý, liền cho đóng quân canh mọi hướng. Khi đã kiểm soát kinh thành thật kỹ, ông buộc giỏ thịt vào cổ người đầu bếp và đưa y đến cung điện, còn cả kinh thành náo động lên.

Vua đã dùng điểm tâm ngày hôm trước, nhưng đã bỏ cơm tối và suốt đêm cứ ngồi mãi, chờ đợi người đầu bếp từng giây phút. Vua suy nghĩ: “Hôm nay nữa, gã đầu bếp cũng không đến, và ta nghe tiếng náo động khắp kinh thành. Chuyện gì sắp xảy ra chăng?” Vừa nhìn ra cửa sổ, vua thấy người ấy bị kéo đến đây như đã tả trên, và nghĩ rằng mọi sự đã bị phát giác, vua thu hết can đảm đi đến ngồi trên ngai. Khi tướng quân Kàlahatthi đến gần hỏi chuyện, vua đáp lời.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Vầng nhật vừa lên, mới rạng đông,
    Ðem theo đầu bếp đến sân rồng,
    Kà-la tiến lại gần thiên tử,
    Tâu những lời này với chúa công:

6.”Hỏa đầu quân, có đúng vậy chăng
Ðưa lệnh vua ra tận phố phường,
Tàn sát nam nhi cùng phụ nữ,
Ðể dâng chúa thượng món cao lương

7.”Ðiều này thật đúng đấy, Kà-la,
Việc ấy được làm bởi lệnh ta,
Sao khiển trách tên đầu bếp nọ,
Vì làm theo lệnh của ta mà?”.

Khi nghe vầy, đại tướng suy nghĩ: “Chính miệng nhà vua thú nhận việc ấy, ôi thật là con người hung bạo! Bấy lâu nay vua đã và đang ăn thịt người. Ta phải ngăn chặn việc này mới được” và ông đáp :

– Tâu Chúa thượng, chớ làm việc này, xin chớ ăn thịt người!

– Này Kàlahatthi, khanh nói gì thế? Trẫm không thể ngừng được.

– Tâu Chúa thượng, nếu ngài không ngừng việc này lại, ngài sẽ hủy diệt cả mạng rồng cùng giang san này đấy.

– Cho dù vương quốc ta bị tiêu diệt, ta cũng không thể ngừng việc ấy được đâu.

Lúc ấy vị đại tướng muốn làm vua tỉnh trí hơn, liền kể một chuyện quá khứ để chứng minh.

*

Chuyện Thủy quái Ànanda

Ngày xưa có sáu thủy quái sống ở đại dương. Trong số đó có Ànanda, Timanda, Aijhohàra, ba con này dài năm trăm dặm; và Titimiti, Mingala, Timivapingala, ba con này dài một ngàn dặm; cả bọn chúng tự nuôi sống bằng rong biển sevala mọc trên da.

Trong bọn có Ànanda sống ở một phía đại dương và được nhiều loài thuỷ tộc đến viếng. Một hôm chúng suy nghĩ: “Các loài vật hai chân và bốn chân đều có vua, nhưng chúng ta không có. Vậy ta muốn tôn thủy quái này làm vua”. Thế là chúng đồng lòng tôn Ànanda lên làm vua, từ đó sáng chiều chúng đều đến bày tỏ lòng tôn kính vua mình.

Bấy giờ một hôm, Ànanda ở trên núi nọ ăn rong sevàla và vô ý ăn nhằm một con cá, vì tưởng đó là rong. Thịt nó thật ngon miệng nên thủy quái tự hỏi thứ gì mà ngọt ngào như vậy, liền lấy ra khỏi mồm, và nhìn thấy đó là một miếng cá. Nó suy nghĩ: “Bấy lâu nay ta không hề biết nên chẳng ăn thứ này, mọi sáng chiều loài cá vẫn thường đến để bày tỏ lòng tôn kính ta, ta sẽ ăn một hai con thôi, vì nếu khi chúng đang bị ta ăn và ta lộ rõ mọi việc cho chúng biết, thì không có con nào dám bén mảng đến gần ta, bọn chúng sẽ chuồn hết cả”.

Thế rồi nằm ẩn mình, thủy quái chụp những con cá nào đang bơi lùi lại phía sau và ăn thịt chúng. Khi số cá giảm dần, chúng suy nghĩ: “Hiểm họa này đe dọa chúng ta từ phía nào đây?”

Rồi một con cá tinh khôn trong bọn suy nghĩ: “Ta không hài lòng với việc Ànanda đang làm. Ta muốn tìm hiểu rõ vị ấy sắp làm gì đây”. Khi bầy cá đến kính lễ Ànanda, con cá tinh khôn kia ẩn mình trong lỗ tay Ànanda. Lúc bảo đàn cá quay về, Ànanda vồ lấy những con nào bơi lùi phía sau. Con cá khôn ngoan thấy việc này, thuật lại cho bọn kia, chúng đều kinh hoảng chạy trốn hết.

Từ ngày ấy, Ànanda thèm mùi cá không chịu ăn các thứ khác. Khi phát bệnh vì đói, nó suy nghĩ: “Ðàn cá đi đâu cả trên đời này? Trong lúc tìm chúng, nó thấy một ngọn núi và suy nghĩ: “Vì sợ ta, chắc đàn em đang sống trong núi này. Ta sẽ bao vây núi và canh chừng thật kỹ”. Thế là vừa vây quanh núi với đầu đuôi cuộn tròn cả hai phía, nó suy nghĩ: “Nếu chúng ở đây, chúng sẽ trốn thoát”.

Khi nhìn thấy chính đuôi nó cuộn tròn quanh núi, nó lại nghĩ: “Con cá này sống gần núi vàđang cố tránh ta”. Trong cơn cuồng nộ, nó chụp lấy đuôi mình dài năm mươi dặm mà tưởng là bắt được cá, nó ngấu nghiến kêu ken két, do đó phải chịu đau đớn hành hạ khủng khiếp.

Khi ngửi mùi máu, đàn cá tụ tập cùng nhau kéo từng mảnh đuôi của Ànanda ra ăn hết cho đến tận đầu. Vì thân xác khổng lồ như vậy, nó không thể nào trở mình được nên phải mạng chung. Rồi ở đó có một đống xương cao như núi.

Các vị nam nhi Thánh giả khổ hạnh khi du hành qua không gian, trông thấy đống xương, liền kể cho dân chúng nghe nên dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) đều biết chuyện ấy. Kàlahatthi kể chuyện này để chứng minh và ngâm kệ:

  1. A-nan ăn cá biết bao loài,
    Lúc đám tùy tùng trốn thoát rồi,
    Nó cắn đuôi mình nhai ngấu nghiến
    Ðến khi thủy quái phải lìa đời.
  2. Nô lệ dục tham, chẳng biết gì
    Thú vui nào khác, kẻ ngu si
    Ðui mù, phóng dật, gây đau khổ
    Hủy diệt họ hàng, cả thiếu nhi,
    Rồi biến thân thành mồi béo bở
    Cho lòng tham quái ác ly kỳ.
  3. Nghe lời thần nói, tấu Quân vương,
    Món thịt người, xin chúa chờ ăn,
    Việc ác kiêng làm, e ngại phải
    Cùng chung số phận thật kinh hoàng
    Của con thủy quái và đành để
    Ðất nước Chúa công phải mạt tàn.

Khi nghe vậy, vua bảo:

– Này Kàlahatthi, ta cũng biết một ví dụ như khanh. Rồi kể một chuyện cổ làm ví dụ chứng minh tính thèm thịt người của mình, vua ngâm kệ:

  1. Nam nhi thừa kế Su-jà-ta
    Ðòi quả hồng đào, cứ hét la,
    Cậu bé buồn phiền vì mất chúng,
    Phải đành thiệt mạng, hóa ra ma.
  2. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
    Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
    Thiếu món thịt người, e có lẽ
    Không còn đời sống để lo toan
    .

*

Chuyện Nam tử của phú ông Sujàta

Tương truyền ngày xưa một vị địa chủ trưởng giả có tên Sujàta ở Ba-la-nại làm chỗ cư trú trong hoa viên của mình và cung phụng năm trăm vị ẩn sĩ đến đấy từ vùng Tuyết Sơn để tìm muối và dấm. Trong nhà ông luôn có thực phẩm dọn sẵn mời các vị ấy, nhưng các vị thỉnh thoảng vẫn đi khất thực trong vùng quê và đem về những miếng hồng đào lớn để ăn.

Trong lúc các vị ấy đang ăn hồng đào đã đem về, Sujàta nghĩ thầm: “Hôm nay là ngày thứ ba hay thứ tư rồi mà các Thánh giả này chưa đến nhà ta đây. Không biết các ngài đã đi đâu trên đời này?” Thế rồi bảo cậu con trai cầm tay mình, ông đi đến đó trong lúc các vị ấy đang dùng bữa ăn. Lúc ấy một chú tiểu đang đưa nước để các vị trưởng lão súc miệng và chú đang ăn một miếng đào đỏ. Sujàta đảnh lễ các ẩn sĩ và khi đã an tọa, liền hỏi:

– Thưa các Tôn giả, các ngài đang dùng gì thế?

– Thưa gia chủ, những miếng đào đỏ lớn đấy.

Cậu bé nghe vậy cảm thấy thèm, vì thế vị trưởng chúng ẩn sĩ bảo cho cậu một miếng nhỏ. Cậu bé ăn đào và quá say mê mùi vị thơm ngon ấy nên cứ nằn nì đòi các vị cho thêm miếng nữa. Ông phú hộ đang nghe Pháp, liền bảo:

– Thôi đừng khóc, khi về nhà, con sẽ được ăn một miếng.

Ông đánh lừa cậu bé như vậy vì sợ các Thánh giả kia sẽ mệt nhọc bởi tiếng kêu khóc của con. An ủi cậu bé xong, ông từ giã hội chúng ẩn sĩ và về nhà. Từ lúc đến nhà, cậu bé cứ lãi nhải kêu to:

– Cho con một miếng.

Còn các ẩn sĩ lại bảo:

– Chúng ta đã ở đây lâu ngày rồi.

Và họ ra đi về vùng Tuyết Sơn. Vì không thấy cậu bé trong hoa viên, các ẩn sĩ gửi cho cậu một món quà gồm nhiều miếng xoài, đào, mít, chuối và vài trái cây khác nữa, tất cả trộn chung với đường mịn. Món trái cây trộn đường vừa đặt lên đầu lưỡi cậu bé liền gây tác dụng như một thứ thuốc độc giết người. Suốt bảy ngày cậu không ăn gì được và chết sau đó.

Vua kể chuyện này như một cách tự chứng minh. Lúc ấy Kàlahatthi nghĩ thầm: “Ông vua này thật quá tham ăn của ngon vật lạ. Ta sẽ kể nhiều ví dụ khác nữa”, và nói:

– Tâu Ðại vương, xin chừa món này đi.

– Không thể được. – Vua đáp.

– Nếu ngài không chừa được, ngài sẽ bị gia tộc từ bỏ dần và tước mất hết vương quyền vinh hiển. Xin hãy nghe đây.

*

Chuyện Nam tử Bà-la-môn.

Ngày xưa cũng tại chính trong kinh thành Ba-la-nại này có một gia đình Bà-la-môn tuân hành Ngũ giới. Nhà này chỉ sinh được một con trai độc nhất nên được cha mẹ yêu quý và là niềm vui của hai thân, một cậu trai thông minh, am hiểu thấu suốt ba tập Vệ-đà.

Cậu thường đi chu du cùng đám thanh niên đồng tuổi với cậu. Các người kia trong đám ấy thường ăn cá thịt cùng các thức tương tự và uống rượu mạnh. Còn cậu trai này không ăn thịt cũng không uống rượu mạnh. Chúng bạn chợt suy nghĩ: “Thằng bé này vì không uống rượu mạnh nên không phải trả tiền, ta phải lập mưu bắt nó uống mới được”.

Thế rồi bọn chúng tụ tập nhau lại, bảo:

– Này hiền hữu, chúng ta hãy tổ chức đám hội.

Cậu đáp:

– Các bạn uống rượu mạnh nhưng ta thì không, vậy các bạn cứ đi mà không có ta.

– Này hiền hữu, ta sẽ lấy sữa để bạn uống.

Cậu đồng ý nói:

– Ðược rồi.

Bọn trai lêu lổng ấy ra vườn lấy một ít rượu mạnh buộc vào một ngọn lá làm thành cái chén và đặt nó giữa đám lá sen. Thế rồi khi họ bắt đầu uống, họ cho cậu trai một ít sữa. Một tên ranh mãnh trong bọn kêu lớn:

– Hãy đem cho ta một ít mật hoa sen.

Sau khi đã bảo đem mật ấy vào, y đục một lỗ dưới đáy ngọn lá nằm giữa đám sen kia và đưa lên miệng hút vào. Bọn kia cũng bảo đem một ít cho họ uống. Cậu trai hỏi đó là thức gì, và uống một ít rượu mạnh cứ tưởng đó là mật hoa sen.

Sau đó họ lại đưa cho cậu một ít thịt hầm và cậu cũng ăn luôn.

Khi cậu đã say vì uống nhiều ngụm rượu liên tiếp họ bảo cậu:

– Ðây không phải mật hoa sen đâu. Rượu mạnh đấy.

Cậu đáp:

– Bấy lâu nay ta chưa hề biết vị ngọt là thế nào cả. Này ta bảo, hãy đem cho ta thêm rượu mạnh nữa đi!

Họ mang rượu đến và một lần nữa trao cho cậu vì cậu rất thèm khát. Sau đó khi cậu đòi thêm nữa, họ bảo cậu hết sạch rượu rồi.

Cậu nói:

– Mau lên, ta bảo kiếm thêm cho ta nữa đi.

Và cậu đưa cho họ chiếc nhẫn có tín hiệu của cậu.

Sau khi uống với họ suốt ngày, cậu say túy lúy, mắt đỏ ngầu như máu, người run rẩy, nói lảm nhảm, cậu về nhà nằm vật xuống. Lúc ấy cha cậu nhận thấy cậu đã uống rượu, đến khi hiệu lực của rượu đã qua hẳn, ông bảo cậu:

– Này con, con đã làm một việc rất sai lầm, là người trong gia tộc Bà-la-môn mà con uống rượu mạnh, từ nay đừng bao giờ làm vậy nữa.

– Cha bảo sao? Suốt đời con, chưa bao giờ con nếm được vị gì ngon ngọt đến thế.

Vị Bà-la-môn cứ nài nỉ con chừa rượu. Cậu đáp:

– Con không thể bỏ được.

Sau đó vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Nếu như vậy thì truyền thống gia tộc ta sẽ bị hủy hoại và tài sản ta cũng tiêu tan”. ông liền ngâm kệ này.

  1. Nam tử La-môn tộc quý cao,
    Là trai khả ái, lại thanh tao,
    Con đừng uống vật đầy ghê tởm
    Không một La-môn hưởng thụ nào.
    Sau những lời này, ông lại bảo:

– Này con yêu, phải chừa rượu đi, nếu không cha sẽ tống con ra khỏi nhà và xin vua đuổi con khỏi vương quốc này.

Cậu trai đáp:

– Cho dù vậy, con cũng không thể bỏ rượu mạnh.

Và cậu ngâm hai vần kệ:

  1. Bởi vì cha muốn cản ngăn con,
    Uống thứ này hương vị tuyệt ngon,
    Con sẽ đi xa bất kể số,
    Tìm nơi đâu rượu vẫn trường tồn!
  2. Con sẽ ra đi vội bước chân,
    Chẳng còn ở lại với song thân,
    Vì nay thấy mặt con, e hẳn
    Cha ghét con cay đắng bội phần!

Cậu lại còn nói thêm:

– Con quyết sẽ không chừa rượu đâu. Cha cứ làm gì tùy ý.

Lúc ấy vị Bà-la-môn đáp:

– Ðược rồi, nếu con từ bỏ cha mẹ thì cha mẹ cũng từ bỏ con luôn.

Và ông ngâm vần kệ này:

  1. Ta sẽ tìm vài cậu thiếu niên
    Ðể cho thừa kế mọi kim tiền,
    Cút đi, đồ khốn, nơi ta chẳng
    Nghe thấy tên ngươi đáng rủa nguyền!

Sau đó, đem cậu con ra tòa án, ông truất quyền thừa kế của cậu và sai đuổi chàng ra khỏi nhà. Cậu trai về sau làm kẻ khốn khổ cùng bần, mặc áo quần vải thô, cầm bát khất thực trong tay đi lang thang xin ăn rồi dựa vào một bức tường và chết.

Kàlahatthi kể chuyện này để làm bài học răn vua, và bảo:

– Tâu Ðại vương, nếu ngài từ chối nghe lời chúng thần, thì họ sẽ sai người đuổi ngài ra khỏi quốc độ này.

Nói vậy xong, ông ngâm kệ:

  1. Vậy lắng nghe này, tấu Ðại vương,
    Tuân theo lời dặn của ngu thần,
    Nếu không sẽ giống chàng say rượu
    Ngài bị đuổi ra khỏi thổ cương.

Ngay sau ví dụ được Kàlahatthi dẫn chứng như vậy vua cũng không thể từ bỏ thói quen của mình, và kể một chuyện khác để chứng minh:

  1. Ðồ đệ của chư Ðại Thánh hiền,
    Su-jà ta, cổ tích lưu truyền,
    Nhịn luôn thực phẩm cùng đồ uống,
    Vì đã đắm say một nữ tiên.
  2. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương
    So với mọi nguồn nước đại dương,
    Cũng vậy tình người đem sánh với
    Ái tình dâng tặng một tiên nương.
  3. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
    Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
    Thiếu món thịt người, e có lý
    Không còn đời sống để lo toan.

*

Chuyện Phú ông Sujàta.

Chuyện này cũng giống như chuyện đã kể trên.

Tương truyền phú ông Sujàta này thấy rằng các vị ẩn sĩ kia không trở về vào thời các vị đang ăn những miếng hồng đào lớn, liền nghĩ thầm: “Ta không biết tại sao các vị ấy không trở về. Nếu các vị đi nơi khác, ta sẽ đi tìm cho ra, hơn nữa, ta lại muốn nghe các vị thuyết Pháp”.

Thế rồi ông ra hoa viên nghe vị Trưởng hội chúng ấy thuyết Pháp, và khi mặt trời lặn, dù ông được bảo ra về, ông vẫn nói:

– Ðệ tử muốn ở lại đây hôm nay.

Và đảnh lễ hội chứng hiền nhân xong, ông vào am tranh của mình nằm xuống. Ban đêm, Sakka Thiên chủ được cả đoàn thiên nhân hộ tống, cùng với các thị nữ của ngài, đến đảnh lễ đám Thánh nhân kia khiến cả vùng thảo am sáng rực lên.

Sujàta không biết chuyện gì, đứng dậy nhìn qua khe hở của am tranh, nhìn thấy Sakka đến đảnh lễ hội chúng Thánh nhân và được cả đám tùy tùng tiên nữ Apsarasas hộ tống. Vừa thấy các nàng tiên lòng ông đã bùng lên dục vọng như lửa đốt. Thiên chủ Sakka an tọa và sau khi nghe thuyết Pháp xong, trở về cõi của ngài.

Hôm sau vị địa chủ đến đảnh lễ các ẩn sĩ và hỏi:

– Bạch các Tôn giả, vị nào đêm qua đến đảnh lễ các vị?

– Thưa tôn ông, đó là Sakka Thiên chủ.

– Thế các vị vây quanh ngài là ai?

– Ðó là các tiên nữ Apsarasas.

Sau khi đảnh lễ các vị khổ hạnh, ông về nhà và từ lúc đó, ông cứ điên cuồng kêu gào: “Cho ta một nàng tiên Apsaras”.

Ðám quyến thuộc vây quanh ông, tự hỏi không biết ông có bị quỷ ám chăng, và họ búng tay.

Ông bảo:

– Không phải ta nói đến chuyện búng tay này đâu mà chuyện các nàng tiên Apsaras kia.

Khi họ mặc y phục chỉnh tề và đưa vào cho ông một bà vợ hay thậm chí một kỹ nữ sang trọng và nói:

– Ðây là một nàng tiên Apsaras.

Ông đáp:

– Ðây không phải là tiên Apsaras, mà là con quỷ cái!

Rồi ông cứ lảm nhảm la hét điên cuồng.

– Cho ta một nàng tiên Apsaras!

Sau đó không chịu ăn uống gì cả, ông chết đi.

Khi nghe vậy, Kàlahatthi tự nhủ: “Ông vua này thật là kẻ đại tham của lạ. Ta quyết làm cho vua tỉnh trí hơn lên”. Rồi ông nói:

– Những chim kim nga bay qua không gian cũng chết vì ăn thịt đồng loại của chúng.

Và để chứng minh việc này, ông ngâm hai vần kệ:

  1. Như các thiên nga có sắc vàng
    Du hành qua giữa cõi không gian,
    Thảy đều phải chết vì sinh sống
    Bằng thực phẩm kia trái lẽ thường.
  2. Cũng vậy, xin ngài hỡi Ðại vương,
    Lắng nghe thần nói thật tinh tường;
    Vì ăn thực phẩm này phi pháp
    Dân sẽ đuổi ngài khỏi thổ cương.

*

Chuyện đàn Kim Nga.

Tương truyền ngày xưa chín mươi ngàn thiên nga sống ở Kim động trên đỉnh núi Cittakùta. Suốt bốn tháng mùa mưa, chúng không di chuyển ra ngoài. Nếu chúng làm vậy, đôi cánh chúng sẽ ướt sũng nước, chúng sẽ không thể bay xa và sẽ rơi xuống biển. Do đó chúng không đi ra ngoài. Nhưng khi mùa mưa đến, chúng nhặt thóc lúa hoang ở một cái hồ thiên nhiên đem về chất đầy hang và sống bằng thóc lúa.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi không vào hang, thì một con nhện unnanabhi to bằng cái bánh xe ở cửa hang vẫn thường giăng tơ hằng tháng, mỗi sợi tơ của nó to bằng sợi dây thừng bò. Ðàn thiên nga cho một thiên nga còn trẻ hai phần thức ăn vì nghĩ rằng nó có thể phá thủng màn nhện kia.

Khi trời trở nên quang đãng, con thiên nga trẻ này đứng trước chúng phá hủy màn nhện và cả đoàn thoát ra bằng cách này.

Bấy giờ có một mùa mưa kéo dài năm tháng nên lương thực của đàn thiên nga cạn dần, chúng hỏi ý kiến nhau phải làm gì, rồi nói:

– Nếu muốn sống, chúng ta phải lấy trứng.

Trước hết, chúng ăn trứng, rồi đến lượt ngỗng con và kế đó là ngỗng già. Sau năm tháng mùa mưa chấm dứt, con nhện đã giăng năm màn lưới to tướng, còn đàn thiên nga, vì ăn thịt đồng loại chúng, đã trở nên yếu đuối. Con ngỗng trẻ kia đã nhận phần ăn gấp đôi, cố phá vỡ được bốn màn nhện, nhưng không thể phá nổi màn thứ năm và bị dính chân vào đó. Thế rồi con nhện cắt đầu nó và hút máu. Hết ngỗng đầu rồi đến lượt ngỗng thứ hai đến phá màn nhện, con nhện suy nghĩ: “Ðây lại thêm một con ngỗng nữa dính vào chỗ ấy”, và hút máu cả bầy, thời bấy giờ dòng giống thiên nga dhatarattha phải tuyệt diệt, tương truyền như vậy.

*

Vua nôn nóng kể thêm một chuyện chứng minh, nhưng đám thị dân đứng lên nói:

– Thưa Ðại tướng, ngài đề nghị phải làm gì? Ngài sẽ tiến hành ra sao vì nay ngài đã bắt được tên ăn thịt người dã man ấy? Nếu y không từ bỏ việc ấy, hãy sai người đuổi y ra khỏi vương quốc này.

Và quần chúng không chịu để cho vua nói lời nào nữa. Khi nghe câu chuyện chung của quần chúng, vua kinh hoảng không nói gì thêm, và một lần nữa vị đại tướng hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, ngài có thể từ bỏ việc ấy chăng?

– Không thể được. – Vua đáp.

Thế rồi vị đại tướng sắp vào một phía tất cả hậu cung của vua, gồm các vương tử và công chúa trang sức thật lộng lẫy và nói:

– Tâu Ðại vương, hãy ngắm vòng quyến thuộc, đám cận thận và cảnh huy hoàng vương giả của ngài, xin đừng để ngài phải tiêu tan tất cả, mà xin ngài hãy ngừng ăn thịt người.

Vua đáp:

– Tất cả mọi thứ này không còn thân thiết với ta hơn món thịt người.

– Vậy xin Ðại vương hãy ra đi khỏi kinh thành và quốc độ này.

– Kàlahatthi, – vua đáp – ta không cần quốc độ, ta sẵn lòng ra đi nhưng hãy cho ta một ân huệ: hãy cho ta lấy thanh kiếm và người đầu bếp của ta.

Do đó, họ cho vua lấy một cây kiếm, một cái nồi để nấu thịt người, và một cái thùng cùng người đầu bếp, họ đuổi vua ra khỏi xứ sở.

Ðem theo người đầu bếp, vua ra khỏi kinh thành, đi vào rừng làm chỗ cư trú dưới gốc cây đa. Khi sống ở đó vua thường đứng trên con đường đưa vào rừng, và giết người, đem xác về đưa cho người đầu bếp, y nấu thịt, dọn lên và cả hai đều sống theo cách ấy.

Mỗi khi vua xông ra, hét lớn: “Ta đây là tên cướp ăn thịt người!” không ai đứng vững được nữa, họ đều ngã xuống đất, người nào vua thích thì vua cứ tóm lấy, xách chổng ngược chân lên trời hay không đều có thể cả, rồi đưa cho người đầu bếp.

Một hôm, vua không tìm ra người nào trong rừng cả khi về nhà, người đầu bếp hỏi:

– Tâu Ðại vương, thế nào đây?

Vua bảo y đặt nồi lên lò lửa.

– Nhưng thịt đâu, tâu Ðại vương?

– Ồ ta sẽ tìm ra thịt mà. – Vua đáp.

Người đầu bếp suy nghĩ : “Thôi chết ta rồi? ” và vừa run rẩy, y vừa nhóm bếp và đặt nồi lên lò. Sau đó kẻ ăn thịt người giết y với một nhát kiếm và nấu thịt ăn. Từ đó vua hoàn toàn cô độc và phải nấu ăn cho mình.

Tiếng đồn vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ): “Kẻ ăn thịt người kia giết hại khách qua đường”. Thời ấy có một vị Bà-la-môn giàu đang đi buôn với năm trăm cỗ xe hàng hóa từ Ðông sang Tây và suy nghĩ: “Dân chúng đồn rằng kẻ ăn thịt người ấy giết người trên xa lộ. Ta sẽ đi xuyên qua rừng này bằng cách trả tiền mãi lộ”.

Thế là ông trả một ngàn đồng tiền cho đám dân sống ở lối đi vào rừng, dặn họ chở ông an toàn qua khu rừng rồi lên đường cùng với họ. Ông đặt cả đoàn xe đi trước và sau khi tắm gội, xoa dầu thơm và phục sức lộng lẫy, ông ngồi vào chiếc xe êm ái do đôi bò trắng kéo, và được cả đoàn hộ tống, ông khởi hành cuối cùng.

Kẻ ăn thịt người trèo lên cây ngồi rình đợi người, nhưng dù y không cảm thấy thèm ăn bất cứ người nào trong đoàn xe, vừa chợt thấy vị Bà-la-môn thì nước miếng trong mồm y nhỏ ra vì thèm ăn thịt vị ấy. Khi vị Bà-la-môn đến gần, y xưng danh hiệu thét lớn:

– Ta là tên cướp ăn thịt người đây?

Vừa vung kiếm lên giống như một người tung cát mù mắt kẻ khác, y nhào tới đoàn người và không ai có khả năng chống cự lại y, mà tất cả đều ngã sống soài xuống đất.

Vừa chụp lấy chân vị Bà-la-môn đang ngồi trên chiếc xe êm ái kia, tên cướp ném ông lên lưng mình, đầu dốc ngược xuống đất, đập mạnh vào gót chân y trong khi kéo ông đi xa. Ðám người kia đứng dậy kêu nhau:

– Này bạn hãy dậy mau lên. Ta đã nhận một ngàn đồng tiền từ tay vị Bà-la-môn. Ai trong bọn ta ra dáng nam nhi đây? Cả bọn ta dù mạnh hay yếu, đều phải đuổi theo nó một đoạn đường.

Họ đuổi theo y và kẻ ăn thịt người dừng lại nhìn lui khi không thấy ai, lại tiếp tục đi chầm chầm. Lúc ấy một người bạo gan chạy hết tốc lực bắt kịp y. Khi thấy gã kia, kẻ cướp nhảy lên một hàng rào, dẫm nhầm một mảnh gỗ cây keo nhô ra ở đầu bàn chân khiến y bị thương, phải lê bước trong khi máu rỉ ra từ vết thương.

Lúc ấy người đuổi theo thấy vậy liền nói:

– Chắc chắn ta đã làm y bị thương, các bạn cứ bám sát theo, ta sẽ bắt được y.

Họ thấy y yếu sức quá liền họp sức đuổi bắt y. Khi thấy mình bị đuổi theo y, kẻ cướp thả vị Bà-la-môn và tìm cách thoát thân.

Ðám người hộ tống vị Bà-la-môn suy nghĩ ngay khi cứu được ông: “Chúng ta phải làm gì với kẻ cướp này nữa?”, rồi quay về.

Còn kẻ ăn thịt người đi đến gốc đa, nằm xuống giữa đám cây con và khấn vái thần cây này:

– Lạy nữ thần cây, nếu trong bảy ngày bà có thể làm lành vết thương của ta, thì ta nguyện sẽ tẩm thân cây bằng máu lấy từ cổ họng của một trăm lẻ một vương tử khắp cõi Diêm-phù-đề, và treo ruột gan chúng quanh thân cây rồi dâng lễ tế đàn bằng năm loại thịt ngon ngọt.

Bấy giờ do y không có gì để ăn uống, thân thể y hao mòn dần và trong bảy ngày, vết thương đã lành. Y nhận thấy y lành bệnh là nhờ nữ thần cây đa, và chỉ trong vài ngày, y phục hồi sức mạnh bằng cách ăn thịt người, nên y suy nghĩ: “Vị thần đã giúp đỡ ta rất nhiều. Ta phải thực hiện lời thề nguyện ấy”.

Y cầm kiếm xông ra từ gốc cây và lên đường với mục đích đem về các vương tử.

Bấy giờ, một thần Dạ-xoa, đã từng làm bạn đường cùng đi đây đó với y và cùng ăn thịt người, vì trong một tiền kiếp, y cũng đã là một Dạ-xoa, chợt trông thấy y và biết rằng trong một tiền kiếp y chính là bạn mình, liền hỏi:

– Này bạn có nhận biết ta chăng?

– Ta không biết.

Sau đó Dạ-xoa kể cho kẻ cướp nghe một việc mà cả hai đã cùng làm trong đời trước, kẻ ăn thịt người nhận ra bạn và chào hỏi ân cần. Khi được hỏi tái sinh thời nào, ở đâu, y kể cho bạn nghe nơi sinh trưởng của mình, trước kia đã bị đuổi ra khỏi vương quốc ra sao và hiện đang ở đâu. Y còn kể thêm cho bạn nghe y đã bị thương vì mảnh gỗ như thế nào và bây giờ y đang viễn du để giải lời thề với vị nữ thần cây.

– Ta sẽ phải vượt qua nỗi gian khổ này nhờ sự trợ giúp của bạn: này bạn, chúng ta hãy cùng đi. – Y nói.

– Ta không đi được, nhưng có việc này ta có thể giúp bạn. Ta biết chắc chắn một lá bùa đặc biệt có lời quý vô giá. Nó giữ vững sức mạnh, tốc độ của đôi chân và tăng cường uy lực. Hãy học bùa chú này.

Y đồng ý ngay và vị quỷ thần trao bùa cho y rồi ra đi. Kẻ ăn thịt người học thuộc lòng thần chú ấy, từ đó y đi nhanh như gió và rất gan dạ. Trong vòng bảy ngày y tìm được một trăm lẻ một vị vua đang đi trên đường tới ngự viên và nhiều nơi khác, y chồm lên các vị ấy nhanh như gió cuốn, xưng danh hiệu xong, y nhảy quanh và hét lớn khiến họ kinh hoảng. Rồi y nắm lấy chân họ, dốc ngược đầu xuống đất, mang đi thật nhanh như gió cuốn.

Kế đó, y đục lỗ trong lòng bàn chân họ và treo họ lên bằng dây trên cây đa, gió đánh lên họ khi họ vừa chạm đầu ngón chân xuống đất, họ treo lủng lẳng trên cây, quay cuồng như chuỗi hoa héo trong giỏ.

Nhưng kẻ ăn thịt người lại suy nghĩ: “Sutasoma là thầy giáo riêng của ta. Ðừng để cho toàn cõi Diêm-phù-đề phải suy tàn”. Vì thế y không mang vị ấy về.

Khi có ý định dâng lễ tế thần cây, y nhóm lửa và ngồi xuống mài cọc nhọn. Vị nữ thần cây suy nghĩ: “Y chuẩn bị dâng lễ tế đàn cho ta, nhưng không phải chính ta đã chữa lành vết thương của y. Nay y sắp làm một việc sát sinh trọng đại. Phải làm gì đây? Ta không đủ khả năng ngăn cản y”.

Vì thế bà vội đi kể với Tứ Ðại Thiên vương về sự việc này và xin các vị ngăn cản y. Khi các vị đáp không thể làm việc ấy, bà đến yết kiến Sakka Thiên chủ, kể cho ngài toàn thể câu chuyện và xin ngài ngăn cản y. Ngài nói:

– Ta không thể làm việc ấy, nhưng ta sẽ chỉ cho ngươi một người có thể làm được.

– Ðó là ai? Bà hỏi.

– Trong thế giới chư Thiên và loài người, không có ai khác ngoại trừ Sutasoma, vương tử xứ Kuru ở trong kinh thành Indapatta. Ngài sẽ giáo hóa cho y thuần thục, sẽ điều phục y để cứu mạng các vua kia, chữa cho y khỏi bệnh ăn thịt người và tưới nước cam lồ khắp cõi Diêm-phù-đề. Nếu ngươi muốn cứu mạng các vua kia, hãy bảo y trước tiên phải đem Sutasoma đến rồi dâng lễ tế đàn lên cây.

– Thật chí lý. – Vị thần đáp.

Rồi bà vội vàng ra đi, giả dạng một ẩn sĩ đến gần kẻ ăn thịt người. Nghe tiếng chân, y nghĩ thầm: “Một vua nào đó đã trốn thoát được chăng?” Vừa nhìn lên thấy ẩn sĩ, y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ chắc chắn đều là Sát-đế-lỵ (quý tộc). Nếu ta bắt được nó, ta sẽ làm tròn con số một trăm lẻ một vua và dâng lễ”.

Y đứng lên mang kiếm trong tay đuổi theo ẩn sĩ nhưng dù y đã săn lùng vị ấy suốt ba dặm đường, y vẫn không bắt kịp vị ấy và mồ hôi đổ ròng ròng khắp tứ chi. Y nghĩ thần: “Trước kia ta từng đuổi theo và bắt được voi, ngựa hoặc xe chạy hết tốc lực, nhưng hôm nay dù ta đã chạy hết sức mình cũng không thể bắt được vị ẩn sĩ này vẫn đang đi thật tự nhiên. Vì lý do gì vậy?” Rồi y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ thường có thói quen vâng lời: nếu ta bảo vị ấy dừng lại và vị ấy làm theo, ta sẽ bắt lấy”. Y liền kêu lớn:

– Thánh giả, hãy đứng lại:

– Ta đang đứng đây. – Vị ấy đáp – Ngươi cũng thử đứng lại nào.

Y đáp:

– Ô kìa, các ẩn sĩ dù có phải cứu mạng mình cũng không nói dối, nhưng ngài lại nói dối đấy.

Và y ngâm kệ:

  1. Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,
    Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,
    Ngài lại thét: “Này! Ta đứng đó!”
    Chắc là ngài nói dối ta đây.
    Chuyện này quả thật không phù hợp.
    Ẩn sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,
    Ngài phải giả làm tên bất hại
    Ðiểm lông chim hạc trắng, con mây.

Kế đó nữ thần đáp đôi vần kệ:

  1. Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,
    Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,
    Cường gian đây sống đời phù phiếm,
    Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.
  2. Can đảm lên đi, hỡi Chúa công,
    Bắt So-ma vĩ đại anh hùng,
    Ðem về đây để ngài dâng lễ
    Sẽ đạt thiên đường, có biết không?

Cùng với những lời này, nữ thần cởi lớp áo giả dạng ẩn sĩ và xuất lộ nguyên hình, chói sáng giữa bầu trời như vầng nhật. Kẻ ăn thịt người nghe bà nói và ngắm hình dung bà, liền hỏi bà là ai. Khi nghe bà đáp bà ra đời làm vị thần cây này, y thích thú nghĩ thầm: “Ta đã trông cậy thần hộ mạng của ta rồi” và nói:

– Thưa nữ thần tiên, xin đừng lo ngại về Sutasoma, mà xin ngài hãy nhập vào thân cây lần nữa.

Vị thần nhập vào thân cây ngay trước mắt y. Vừa lúc ấy mặt trời lặn và mặt trăng lên. Kẻ ăn thịt người vốn tinh thông các kinh Vệ-đà và các sách bổ sung vào kinh ấy, lại quen với cách vận hành của các thiên thế, nên khi nhìn lên trời, y suy nghĩ: “Ngày mai sẽ có chòm sao Phussa xuất hiện, Sutasoma sẽ đến tắm ở ngự viên và ta sẽ ra tay với vua ấy”. Nhưng vì vua ấy có một vệ sĩ lực lưỡng và dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề sẽ đến hộ vệ vua trong vòng ba dặm, vậy vào canh một trước khi vệ sĩ đóng quân, ta sẽ đến ngự viên Migàcira, xuống hồ hoàng gia và đứng đó”.

Thế rồi y xuống hồ và đứng đó, che đầu bằng ngọn lá sen. Do uy lực vĩ đại của y, các loài cá, rùa đều lùi lại phía sau và bơi quanh từng đàn lớn bên bờ nước. Ta có thể hỏi: Do đâu y lại có cảnh vinh quang này? Ðó là do lòng mộ đạo của y trong đời trước.

Vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), y bắt đầu phân phát sữa theo phiếu. Nhờ vậy, y trở thành người rất có thế lực, và sau khi bảo Tăng chúng dựng sảnh đường để đốt lửa chống mùa lạnh, y cúng dường lửa, củi và cái rìu chẻ củi. Do kết quả việc này, y rất nổi tiếng. Vì thế bây giờ, khi y vào ngự viên, trời chỉ vừa rạng đông, quân sĩ đã canh phòng suốt ba dặm đường chung quanh, còn vua Sutasoma, sau buổi điểm tâm lúc sáng sớm, đã ngự lên mình voi được tô điểm yên cương thật lộng lẫy, với bốn đội quân hùng hậu hộ giá tiến ra khỏi kinh thành.

Ngay lúc ấy, một Bà-la-môn tên Nanda đi từ Takkasilà, mang theo bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, vừa đến kinh thành sau cuộc hành trình, dài một trăm hai mươi dặm, và trú ngụ ở một vùng ngoại ô.

Vừa rạng đông, vị ấy vào thành thấy vua đang ngự xa giá đi qua đông môn, liền giơ tay lên hô lớn: “Vạn tuế Ðại vương!” Bấy giờ vua bị viễn thị, trong khi đang cỡi voi, vua thấy cánh tay giơ lên của vị Bà-la-môn đang đứng trên một mô đất cao, liền tiến đến gần trên mình voi vừa ngâm kệ vừa hỏi như sau:

  1. Trẫm hỏi ngài sinh ở xứ nào,
    Ðến đây, Ðạo sĩ hỡi, vì sao?
    Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng
    Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.
    Kế đó vị Bà-la-môn đáp lời vua:
  2. Bốn vần thi kệ, tấu Quân vương,
    Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,
    Mang đến đây, xin nghe thật kỹ
    Cao siêu huyền bí thảy am tường.

Vị ấy tiếp:

– Tâu Ðại vương, bốn vần thi kệ này do đức Phật Kassapa dạy tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Sau khi nghe xong, nếu Ðại vương muốn dâng tế lễ nước trái cây soma, tiểu thần sẽ đến chỉ dẫn Ðại vương.

Vua vô cùng hân hoan phán:

– Này Tôn sư, ngài khéo làm việc này lắm, nhưng hôm nay trẫm không trở về triều được. Hôm nay là ngày giao hội của chòm sao Phussa, là ngày trẫm đi gội đầu. Khi trở về, trẫm sẽ nghe lời ngài. Xin đừng phật ý vì trẫm.

Cùng với những lời này, vua ra lệnh đám quần thần:

– Các khanh đến nhà một Bà-la-môn nào đó chuẩn bị một sàng tọa và sắp đặt một nơi ăn dưới mái hiên.

Xong vua đi vào ngự viên. Khu vườn được bao bọc bởi một tường thành cao mười tám cubit (1 cubit: 45cm) và được bầy voi canh phòng chung quanh đứng kề sát nhau. Kế tiếp là bầy ngựa, đoàn xe, cuối cùng là đám xạ thủ và các bộ binh khác; thật giống như cả đại dương dậy sóng làđạo quân được di chuyển đến đây.

Sau khi đã trút bỏ các vật trang sức nặng nề và được cạo râu, gội đầu với dầu thơm rồi, vua đi tắm hồ sen trong dáng diện uy nghi cao quý, và khi bước ra khỏi nước, vua đứng đó trong bộ áo tắm, quân hầu liền đem vòng hoa thơm ngát đến trang điểm cho ngài.

Kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Khi đã phục sức đầy đủ, nhà vua hẳn sẽ nặng lắm. Ta muốn bắt lấy vua khi còn nhẹ để mang đi”. Thế rồi vừa thét lớn vừa nhảy quanh và vung kiếm trên đầu nhanh như chớp, y xưng danh hiệu xong liền nói to:

– Này, ta đây là kẻ cướp ăn thịt người.

Rồi đặt ngón tay trên trán vua, y bước ra khỏi nước.

Ngay khi nghe tiếng thét, các quản tượng cùng đàn voi, các kỵ mã cùng đàn ngựa, các quản xe cùng đàn xe đều ngã xuống đất, cả đoàn quân sĩ đều thả vũ khí đang cầm và nằm sát xuống bụng.

Kẻ ăn thịt người chụp lấy Sutasoma dựng ngài thẳng đứng lên. Tất cả đám vương tử trước kia, y đều bắt lấy từ bàn chân và dốc ngược đầu xuống đất, rồi kéo lê họ đi khiến đầu họ đập vào gót chân y, nhưng nay đến gần Bồ-tát, y cúi xuống nhắc ngài lên và đặt trên vai mình.

Nghĩ rằng có lối đi quanh qua cổng thành, y nhảy lên bức thành cao mười tám cubit, ngay tạiđiểm đối diện con đường ấy, y vừa tiến lên vừa dẫm chân lên trán bầy voi làm rỉ ra chất dịch, lật nhào chúng xuống như thể các đỉnh núi. Kế đó y dẫm chân lên lưng bầy ngựa, dù thường ngày chúng nhanh như gió và quý vô cùng, rồi cũng đạp chúng ngã xuống đất.

Sau đó, y bước lên mặt trước của các cỗ xe lộng lẫy chẳng khác gì người quay con vụ (con cù), hay như thể người dẫm nát cây phalaka xanh biếc hay đám lá bàng, và thoắt một cái, y đã chạy xa ba dặm.

Rồi muốn biết có ai chạy theo để cứu Sutasoma không, y nhìn lên và thấy không ai, y lại đi chầm chậm. Khi nhận ra những giọt nước rơi xuống mình từ tóc Sutasoma, y nghĩ thầm: “Không ai sống mà khỏi sợ chết. Chắc có lẽ Sutasoma cũng đang khóc vì sợ đấy”, và y ngâm kệ:

  1. Những bậc uyên thâm, các trí nhân
    Tư duy cao cả phát sinh luôn,
    Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú
    Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.
  2. Có phải vợ con hoặc họ hàng,
    Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,
    Ðã làm lệ chảy, So-ma hỡi,
    Ðại đế Ku-ru, đáp rõ ràng.

Sutasoma đáp:

  1. Không khóc gì cho chính bản thân,
    Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,
    Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,
    Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.
  2. Trước một La-môn, đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Lời kia ta ước mong gìn giữ
    Danh dự cứu xong, trở lại ngài!

Kẻ ăn thịt người đáp lại:
32. Ta chẳng tin rằng có thế nhân
Vận may thoát móng tử ma thần,
Trở về nộp mạng cho cừu địch,
Nếu để ngài đi, chẳng phục hoàn.

  1. Thoát kè sát nhân ác, trở về
    Hoàng cung, mộng ước đẹp tràn trề,
    Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn
    Hồi phục cho ngài phải đắm mê.
    Vì lý do gì trên thế giới
    Mà ngài trở lại với ta hề?

Khi nghe lời này, bậc Ðại Sĩ vẫn gan dạ như sư tử, đáp:

  1. Vô tội, con người thích chết hơn
    Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,
    Nếu vì cứu mạng, buông lời dối
    Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.
  2. Gió có thể lay chuyển núi cao,
    Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,
    Thưa ngài, và mọi dòng sông cạn,
    Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.

Dù Ngài nói vậy, kẻ ăn thịt người vẫn không tin ngài. Do đó, Bồ-tát suy nghĩ: “Kẻ này không tin ta; ta quyết làm cho y tin bằng một lời thề”, và bảo:

– Thưa Tôn giả ăn thịt người, xin hãy thả ta xuống khỏi lưng, ta sẽ thề nguyền khiến ngài tin ta.

Sau những lời này, ngài được kẻ ăn thịt người đưa xuống, đặt trên mặt đất và ngài phát nguyện:

  1. Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,
    Thề nguyện trang nghiêm trước mặt ngài,
    Hãy thả ta và ta thoát nợ,
    Cứu xong danh dự, trở về đây.

Lúc ấy kẻ ăn thịt người nghĩ thầm: “Vua Sutasoma này thề chịu hình phạt nếu vi phạm luật lệ dòng Khattiya (Sát-đế-lỵ, võ tướng). Ta còn muốn gì với vị ấy nửa? À, ta cũng là một vua Sát-đế-lỵ. Ta sẽ lấy máu từ chính cánh tay mình và tế lễ thần cây. Ðây thật là một chàng trai rất nhát gan”. Rồi y ngâm kệ:

  1. Trước một La-môn, đã hứa lời,
    Khi ngài trị nước với quyền oai,
    Lời kia, ta phải bắt ngài giữ,
    Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.

Sau đó bậc Ðại Sĩ nói:

-Này Hiền hữu, xin chớ phật lòng. Sau khi ta đã nghe bốn vần kệ kia, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, và dâng lễ cúng dường vị Pháp sư xong, ta sẽ trở lại vào lúc rạng đông.

Và ngài ngâm kệ này:

  1. Trước một La-môn đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Lời kia ta ước mong gìn giữ,
    Danh dự cứu xong, trở lại ngài.

Kẻ ăn thịt người đáp:

– Ngài đã thề chịu hình phạt nếu vi phạm phong tục của dòng Sát-đế-lỵ. Ngài hãy cẩn thận hành động cho đúng phép.

Ngài nói:

– Này hiền hữu ăn thịt người, ngài đã biết ta từ bé: trước kia ta chưa bao giờ nói dối dù để đùa chơi, còn nay ta đã được lên ngai vàng và biết điều phải trái thì sao ta nói dối được? Hãy tin ta, ta sẽ dâng lễ vật tế đàn cho hiền hữu.

Ðược thúc giục phải tin tưởng ngài, y đáp:

– Thôi được, Ðại vương hãy ra đi, và nếu Ðại vương không trở lại thì sẽ không có tế lễ và thần cây cũng không chấp nhận lễ nếu không có Ðại vương. Vậy đừng làm trở ngại việc dâng lễ của ta.

Rồi y để bậc Ðại Sĩ ra đi.

Giống như mặt trăng thoát khỏi móng vuốt của thần Rahu (La-hầu) và với sức mạnh của một chú voi còn trẻ, ngài nhanh chân về đến kinh thành.

Còn đám quân sĩ của ngài suy nghĩ: “Ðại vương Sutasoma là bậc hiền trí và là vị Pháp sư tuyệt hảo. Nếu Ngài có thể nói một hai lời với y, ngài sẽ cảm hóa y và trở về như con voi dũng mãnh thoát khỏi mồm sư tử”. Rồi họ lại nghĩ: “Dân chúng sẽ khiển trách chúng ta và nói: Sau khi bỏ mặc đức vua của các ông cho kẻ ăn thịt người, các ông còn trở lại với bọn này ư?”

Vì thế họ cắm trại ngoài kinh thành và khi chợt thấy ngài từ xa đi đến, họ bước ra đón ngài,đảnh lễ ân cần và thưa:

– Tâu Ðại vương, ngài không khiếp sợ kẻ ăn thịt người ấy ư?

Ngài đáp:

– Kẻ ăn thịt người ấy đã làm một việc khó khăn hơn bất cứ việc gì song thân ta đã làm. Là một kẻ hung tàn bạo ngược như vậy mà sau khi nghe ta thuyết Pháp, y đã để ta đi.

Sau đó, quân hầu trang điểm xiêm y cho ngài xong, đưa ngài lên lưng voi và hộ tống ngài về kinh. Khi thấy ngài, dân chúng hân hoan, và do lòng nhiệt thành của ngài đối với Pháp, ngài không đi viếng song thân mà lại nghĩ: “Ta sẽ thăm cha mẹ sau”, và ngài vào cung điện ngự lên ngôi báu.

Rồi ngài triệu vị Bà-la-môn đến, ra lệnh cạo râu cho ông, sau khi râu tóc được tỉa xong, ông được tắm rửa, xoa dầu thơm và phụ sức xiêm y lộng lẫy và họ đưa ông đến trước ngôi vua.

Khi vị Bà-la-môn đã được đưa vào yết kiến, chính vua Sutasoma cũng đi tắm gội, sau đó và ra lệnh đem ngự thiện của ngài dâng vị Bà-la-môn. Ðến khi vị Bà-la-môn đã thọ thực xong, chính vua mới dùng phần ngự thiện ấy.

Sau đó, ngài đặt vị Bà-la-môn lên một bảo tọa và để tỏ lòng tôn kính, ngài cúng dường vị ấy các tràng hoa thơm cùng các lễ vật tương tự, rồi chính ngài ngự trên một bảo tọa thấp và thỉnh cầu vị kia:

– Thưa Tôn sư, chúng ta muốn nghe các vần kệ mà Tôn sư đã đem đến cho chúng ta.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,
    Ðến Ðạo sĩ, người bạn thiết thân,
    Ngài bảo: “Chúng ta đều ước muốn
    Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,
    Nếu ngài chiếu cố ban lời dạy,
    Lợi lạc chúng ta được hưởng phần”.

*

Khi Bồ-tát thỉnh cầu, vị Bà-la-môn liền rửa tay với nước hoa rồi rút ra một quyển sách đẹp từ túi xách, cầm sách cả hai tay và nói :

– Tâu Ðại vương, xin hãy nghe bốn vần kệ của tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Chúng đã được đức Phật Kassapa dạy cho tiểu thần. Chúng có đặc tính hủy diệt tham đắm, kiêu mạn và các ác hạnh tương tự, chúng tạo cho con người khả năng tiêu trừ dục vọng, an tịnh các căn, thậm chí đưa đến Niết-bàn có uy lực vĩnh cửu, đoạn diệt khát ái, chặt đứt vòng luân hồi và nhổ tận gốc chấp thủ.

Cùng với những lời này, ông nhìn vào sách và ngâm các vần kệ sau:

  1. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
    Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
    Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
    Bình an tràn ngập khắp toàn thân
    .
  2. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
    Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
    Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
    Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
  3. Như các xe vua khéo điểm trang
    Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
    Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
    Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
    Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
    Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
    Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
    Qua các thời chưa được bảo ban.
  4. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
    Quả đất trải dài ở dưới ta,
    Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,
    Chúng ta đều biết thật là xa.
    Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
    Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
    Là Ðạo lý về điều thiện, ác
    Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.

*

Như vậy vị Bà-la-môn đã dạy ngài bốn vần kệ, mỗi vần trị giá một trăm đồng, đúng như trước kia đã được đức Phật Kassapa thuyết giảng, rồi ông ngồi yên lặng. Bậc Ðại Sĩ rất hoan hỷ nghe kệ và bảo:

– Chuyến đi của ta về đây không phải là không được phần thưởng xứng đáng.

Rồi ngài suy nghĩ: “Những vần kệ này không phải chỉ là lời của một đệ tử hay một Thánh nhân, cũng không phải là tác phẩm của một thi sĩ, mà đó chính là do một đấng Toàn Tri Kiến nói ra; ta không biết chúng đáng giá ra sao. Dù ta có dâng toàn thế giới trải dài lên tận cõi trời Phạm thiên, sau khi chất đầy cả thế giới ấy với bảy báu vật, ta cũng không thể đền đáp xứng đáng những vần kệ này. Chắc chắn ta có thể trao vương quyền cho vị ấy tại kinh thành Indapatta rộng bảy dặm trong đất nước Kuru trải dài hơn ba trăm dặm này. Dĩ nhiên số phần vị ấy xứng đáng làm vua”.

Nhưng khi nhìn ông với khả năng tiên đoán tương lai của một người theo hình dáng bề ngoài, ngài không thấy các dấu hiệu như thế. Rồi ngài lại nghĩ đến ông với chức vụ đại tướng quân hay những chức vụ tương tự, nhưng cũng không thấy ông có tướng cầm đầu dù chỉ một ngôi làng nhỏ.

Kế đó, khi xem xét trường hợp hưởng thọ tài sản, bắt đầu từ mười triệu đồng, ngài thấy vị ấy đáng được hưởng bốn ngàn đồng, và nghĩ cách làm vinh dự vị ấy với chỉ số tiền này thôi, ngài ban tặng vị ấy bốn cái túi, một túi đựng một ngàn đồng tiền và bảo:

– Thưa Tôn sư, khi ngài dạy các vương tử khác những vần kệ này, ngài nhận được bao nhiêu?

-Tâu Ðại vương, mỗi vần một trăm đồng vậy chúng chỉ đáng giá một trăm thôi.

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Thưa Tôn sư, ngài không biết tính chất vô giá của món hàng mà ngài đem bán đâu. Từ nay phải xem là chúng đáng giá một ngàn đồng tiền.

Nói vậy xong, ngài ngâm kệ này:

  1. Các kệ này không chỉ bốn trăm,
    Ðúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,
    Bốn ngàn đây, Ðạo Sư, cầm lấy,
    Ðem chúng đi ngay, hãy vội vàng.

Sau đó ngài đưa vị ấy đến một cỗ xe êm ái và ra lệnh cho quan hầu:

– Hãy đưa vị Bà-la-môn này về nhà an toàn.

Rồi ngài bảo ông đi về. Lúc này có tiếng tung hô tán thán nổi lên cùng tiếng kêu lớn:

– Hoan hô! Hoan hô! Ðại vương Sutasoma đã tôn vinh các vần kệ này rất trọng thể, khi nghĩ rằng mỗi vần kệ đáng giá một ngàn đồng tiền mà trước kia chỉ đáng giá một trăm.

Song thân của vua nghe tiếng ồn, hỏi chuyện gì, và khi nghe sự thật của việc ấy, do lòng tham lam, hai vị nổi giận với bậc Ðại Sĩ. Còn ngài, sau khi cho vị Bà-la-môn ra về, liền đến thăm song thân và đảnh lễ hai vị. Sau đó, phụ vương bảo:

– Này vương nhi, con đã thoát khỏi tay của kẻ được xem là tướp cướp hung bạo.

Rồi thay vì lộ vẻ vui mừng khi thấy ngài, do lòng tham tiền, vua cha hỏi:

– Có thật chúng nói con ban bốn ngàn đồng tiền vì nghe bốn vần kệ chăng?

Khi nghe ngài thú nhận là đúng, vua cha ngâm kệ này:

  1. Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,
    Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,
    Song hởi So-ma, nên tự chủ,
    Một ngàn là giá kệ chưa từng!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ muốn thúc giục vua cha nhìn sự vật theo cách khác, liền nói:

– Tâu phụ vương, chính là con không muốn tăng thêm tài sản, mà tăng thêm kiến thức thôi.

Và ngài ngâm các kệ này:

  1. Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,
    Bầu bạn thiết thân với Thánh nhân,
    Chẳng có sông nào đầy biển cả,
    Thiện ngôn con học mãi không cùng.
  2. Như lửa khát khao réo củi rơm,
    Biển đòi sông, lạch đổ nhiều hơn,
    Hiền nhân cũng vậy, tâu Hoàng thượng,
    Khao khát nghe lời nói thiện chơn.
  3. Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe
    Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,
    Lời kia con nhận đầy cung kính,
    Ðạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.

Sau khi nói vậy xong, ngài bảo:

– Xin phụ vương đừng chỉ vì tiền mà trách móc con. Con đã về đây, sau khi thề nguyền rằng con sẽ trở lại đó khi đã nghe Pháp xong. Nay con sẽ trở lại với quái nhân kia, xin phụ vương nhận lấy vương quyền.

Ngài trao chủ quyền cho phụ vương và ngâm kệ:

  1. Ðất nước của cha lắm bạc vàng,
    Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,
    Sao còn khiển trách khi con bỏ
    Dục lạc, chết vào tay sát nhân?

Lúc này tim vua cha nóng rực lên và ngài bảo:

– Này, vương nhi Sutasoma yêu quý, con nói gì thế? Cha sẽ đi cùng tất cả bốn đạo quân và sẽ bắt được kẻ cướp ấy.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!
    Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,
    Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,
    Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!

Lúc ấy phụ vương mẫu hậu ngài, mắt đẫm lệ, năn nỉ ngài:

– Này vương nhi, chớ đi, con không thể đi được.

Rồi mười sáu ngàn cung nữ ca múa cùng đám cận thần than khóc:

– Tâu Ðại vương, sao Ðại vương nở đến đó, bỏ chúng thần bơ vơ?

Và khắp kinh thành, không ai giữ được niềm xúc động, họ bảo nhau:

– Người ta nói ngài đã trở về đây sau khi đã hứa lời với kẻ ăn thịt người; giờ đây ngài đã nghe bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng, và đã bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, cùng từ giã song thân, ngài sẽ quay lại lần nữa với kẻ ăn thịt người ấy.

Rồi cả kinh thành náo động dữ dội. Còn ngài khi nghe cha mẹ bảo thế, liền ngâm kệ này:

  1. Hành động cừu nhân ăn thịt người
    Bắt con, rồi thả, thật cao vời,
    Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,
    Ðã hứa, làm sao con nuốt lời?

Ngài lại an ủi song thân:

– Phụ vương và mẫu hậu yêu quý, xin đứng lo âu vì con. Con đã làm một việc công đức, nên việc điều phục ngũ dục tham không phải là vấn đề khó khăn gì đâu.

Vừa từ giã song thân, ngài vừa khuyến giáo quần chúng và ra đi.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,
    Chân thành nhắn nhủ cả quân, dân,
    Giữ lời thệ ước, không lừa dối,
    Vội trở về bên kẻ sát nhân.

*

Lúc ấy kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Nếu hiền hữu Sutasoma của ta muốn trở về, thì cứ để bạn trở về, không thể khác được, và mặc vị thần cây muốn làm gì tùy ý, còn ta sẽ giết các vương tử này và dâng tế lễ tế đàn bằng thịt của chúng với năm món ngon ngọt nữa”.

Thế rồi kẻ ấy chất đống củi hỏa thiêu và châm lửa, nghĩ rằng phải đợi cho đến khi than nóng đỏ lên. Trong lúc y ngồi mài cái xiên thịt thì Sutasoma đến.

Vừa thấy ngài, kẻ ăn thịt người vui mừng trong lòng, liền hỏi:

– Này Hiền hữu, bạn đã đi làm được những gì bạn muốn rồi chứ?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

– Thưa vâng, này Ðại vương, ta đã nghe những vầng kệ do đức Phật Kassapa dạy vị Bà-la-môn kia, ta đã tỏ lòng tôn kính trọng thể đối với vị Pháp Sư và vì thế ta đã trở lại sau khi làm xong việc ta cần làm.

Ðể chứng minh điều này, ngài ngâm kệ:

  1. Trước một La-môn đã hứa lời,
    Khi ta trị nước với quyền oai,
    Nay ta đã trọn lời thề ước,
    Danh dự cứu xong, trở lại rồi.
    Vậy hãy giết ta và tế lễ
    Dâng thần cây gỗ của nhà ngài,
    Hay là thỏa mãn lòng tham muốn
    Ðộc ác bạo hung với thịt người!

Nghe lời vầy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua này không sợ, vị ấy nói lên với lòng đã xua tan mọi nỗi kinh hoàng chết chóc. Ta muốn biết uy lực này phát xuất từ đâu. Không thể có gì khác được. Vị ấy nói: “Ta đã nghe các vần kệ mà đức Phật Kassapa dạy bảo. Chắc hẳn uy lực siêu phàm này phát xuất từ đây. Ta sẽ bảo vị ấy ngâm kệ này cho ta nghe và do đó ta cũng sẽ thoát bất cứ nỗi sợ hãi nào”.

Khi đã quyết định như vậy xong, y ngâm kệ này:

  1. Dù ta trì hoãn một hai ngày,
    Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,
    Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,
    Thịt quay than nóng thật ngon thay!
    Các vần kệ giá trăm đồng chẵn
    Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ ăn thịt người này là kẻ phạm tội ác. Ta sẽ khiển trách y đôi lời và làm y biết ô nhục vì những lời của ta”. Ngài liền bảo:

  1. Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,
    Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,
    Vần kệ dạy cho ta Chánh lý,
    Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?
  2. Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,
    Bàn tay đã nhúng máu đầy tràn,
    Lợi gì Thánh kiến này đem đến,
    Phát xuất từ đâu lẽ Chánh Chân

Cho dù được nghe nói các lời này, kẻ ăn thịt người cũng không tức giận. Vì sao vậy? Ðó là do uy lực từ tâm của bậc Ðại Sĩ. Vì thế y nói:

– Này Hiền hữu Sutasoma, chỉ một mình ta là bất chánh thôi sao?

Và y ngâm kệ:

  1. Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng
    Ðể làm thành món thịt thơm lừng,
    Và người kia giết người đồng loại
    Lấy thịt bà con để nấu ăn,
    Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,
    Sao riêng ta bị trách cùng hung?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ ngâm kệ này để phá tan tà kiến ấy:

  1. Trong ngũ thú, loài có móng, răng,
    Khôn ngoan, vương tử cứ dùng ăn,
    Còn ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,
    Này Ðại vương ôi, thật bạo hung!

Khi nghe lời khiển trách trên, y thấy không còn đường nào thoát được cả, liền cố tìm cánh che dấu tội lỗi của mình và ngâm kệ:

  1. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,
    Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,
    Sao còn nộp mạng cho cừu địch,
    Ngài chắc tinh thông đạo lý trời?

Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Này hiền hữu, một người như ta chắc hẳn phải thông thạo kiến thức truyền thống Khattiya (Sát-đế-lỵ: võ tướng, quý tộc). Ta hiểu rõ lắm chứ, nhưng ta không hướng dẫn hành động của ta theo đó.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Ai thông đạo Khat-ti-ya vầy,
    Ðều xuống ngục sâu sống đọa đày,
    Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,
    Theo lời đã hứa, trở về đây.
    Hãy làm tế lễ và ăn thịt
    Ta trọn, Ðại vương khủng khiếp này
    .

Kẻ ăn thịt người hỏi:

  1. Ðất rộng, cung đình, bò, ngựa, trâu,
    Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,
    Ðại vương đầy đủ bao điều ấy,
    Chánh pháp ngài tìm hạnh phúc đâu?

Bồ-tát đáp lại:

  1. Mọi lạc thú mà cõi thế gian
    Tặng ta, chẳng có thú nào hơn
    Niềm vui Chánh pháp ta tìm thấy:
    Ẩn sĩ, La-môn vẫn trú an
    Trong đạo Chánh chân và giải thoát
    Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.

Như vậy bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng cho kẻ ấy về hạnh phúc trong Chánh pháp. Lúc ấy kẻ ăn thịt người, nhìn vào mặt ngài sáng rực rỡ như đóa sen nở hay vầng trăng tròn đầy, lại suy nghĩ: “Vua Sutasoma này thấy ta đang sửa soạn một đống than hồng và mài nhọn cái xiêng nướng thịt, tuy nhiên không hề tỏ ra chút mảy may sợ hãi. Có thể đây là thần lực của các vần kệ đáng giá một trăm đồng kia hay là nó phát xuất từ một chân lý nào khác? Ta sẽ hỏi vị ấy”. Và y ngâm kệ theo hình thức câu hỏi:

  1. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người
    Về cung, tràn mộng ước xin tươi,
    Sao còn trở lại thăm thù địch?
    Vương tử chắc không sợ chết rồi,
    Ðể giữ trọn lời ngài đã hứa,
    Bỏ qua dục lạc ở trên đời.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

  1. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
    Lễ dồi dào được danh tiếng lừng vang,
    Ðến đời sau, ta giữ thẳng con đường,
    Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
  2. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
    Lễ dồi dào được danh vọng vẻ vang,
    Không ăn năn, ta tiến đến thiên đàng,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
  3. Song thân, ta đã thương yêu khắng khít,
    Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
    Ðến đời sau ta chọn lối quang vinh,
    Ai sợ chết khi trú an Ðạo giáo?
  4. Song thân, ta đã phụng thờ chu đáo,
    Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
    Không ăn năn, ta tiến đến thiên đình,
    Hãy tế lễ và xé mồi ngon ngọt.
  5. Ta phục vụ đám thân bằng quyến thuộc,
    Cai trị công bình được mọi người khen,
    Không ăn năn, ta chọn lối thăng thiên,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn gấp.
  6. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp:
    Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan
    Ðến đời sau, ta chọn lối thiên đàng,
    Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
  7. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp,
    Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan,
    Không ăn năn, ta tiến tới thiên đàng,
    Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.

Nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua Sutasoma này là bậc thiện nhân tài trí: giả sử ta ăn thịt vị ấy, sọ đầu ta sẽ vỡ ra bảy mảnh, hoặc quả đất sẽ há miệng nuốt ta mất”, và y hoảng sợ nói:

– Này Hiền hữu, bạn không phải hạng người mà ta phải ăn thịt đâu.

Và y ngâm kệ:

  1. Thuốc độc kẻ nào uống chủ tâm,
    Ðộc xà hung bạo, lấy tay cầm,
    Tan thành bảy mảnh ngay đầu nó,
    Người chẳng dối lời, lại dám ăn!

Y nói với bậc Ðại Sĩ như vầy:

– Ta chắc bạn như thể là thứ thuốc độc chết người, ai dám ăn bạn chứ?

Và nóng lòng muốn nghe các vần kệ, y van xin ngài ngâm kệ cho y. Nhưng khi muốn tỏ lòng cung kính cao trọng đối với đạo Thánh hiền, lời thỉnh cầu của y bị bậc Ðại Sĩ từ chối vì lý do rằng y không phải là kẻ xứng đáng nhận vần kệ đầy đạo đức vẹn toàn như vậy, y tự nhủ: “Khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không có vị hiền nhân nào như thế này, vì khi vị ấy thoát được tay ta, vị ấy đi về nghe kệ, và sau khi bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, vị ấy trở lại đây với dấu hiệu thần chết in trên trán. Các vần kệ này chắc hẳn có giá trị siêu phàm”. Lòng y vẫn tràn đầy ước vọng cung kính nghe kệ ấy, y van xin bậc Ðại Sĩ và ngâm kệ này:

  1. Những người nghe giáo lý như chân,
    Thiện, ác sẽ mau chóng biệt phân,
    Có lẽ nếu nghe vần kệ ấy,
    Tâm ta sẽ hỷ lạc vô ngần
    .

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Nay kẻ ăn thịt người mong muốn nghe kệ: ta sẽ ngâm kệ cho y”, và ngài nói:

– Thôi được, này hiền hữu, hãy lắng nghe thật kỹ.

Sau khi đã làm kia chú ý, ngài ngâm nga các vần kệ đúng như ngài đã được Bà-la-môn Nanda thuyết giáo, trong lúc chư Thiên thần ở sáu cõi trời Dục giới đều đồng thanh hô lớn và Thiên chúng đều hoan nghênh tán thán, bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp cho kẻ ăn thịt người như vầy:

  1. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
    Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
    Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
    Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
  2. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
    Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
    Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
    Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
  3. Như các xe vua khéo điểm trang
    Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
    Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
    Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
    Song Ðạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
    Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
    Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
    Qua các thời chưa được bảo ban.
  4. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
    Quả đất trải dài ở dưới ta,
    Lãnh thổ bên kia bờ đại hải
    Chúng ta đều biết thật là xa.
    Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
    Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
    Là Ðạo lý về điều thiện, ác
    Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.

Nhờ các vần kệ được bậc Ðại Sĩ khéo ca tụng và cũng chính vì kẻ ăn thịt người có trí khôn ngoan, y nghĩ thầm: “Quả thật các vần kệ này là lời của đức Phật Toàn Tri kiến”. Và toàn thân y rúng động vì năm thứ hỷ lạc, y cảm thấy một niềm từ ái đối với Bồ-tát và nhìn ngài theo cách một người cha sẵn sàng ban chiếc lọng trắng của hoàng gia cho con mình. Rồi y lại nghĩ: “Ta không có tặng vật bằng vàng ròng để tặng Sutasoma, nhưng ta sẽ ban một điều ước cho mỗi vần kệ ấy”. Và y ngâm kệ:

  1. Ý nghĩa chứa chan, giọng sáng trong,
    Lọt tai, vương tử, các chân ngôn,
    Tâm ta hoan hỷ, ta thích thú,
    Muốn tặng bạn hiền bốn đặc ân
    .

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ lại quở trách y:

– Này quả thật còn điều ước nào bạn muốn ban cho ta nữa ư?

Và ngài ngâm kệ:

  1. Người chẳng biết gì phận bản thân,
    Ðiều lành, điều ác chẳng hề phân,
    Chẳng phân địa ngục cùng thiên giới,
    Nô lệ cho lòng dục hám ăn,
    Sao kẻ đê hèn như bạn vậy
    Biết ban ân huệ đến tha nhân?
  2. Nếu bảo:”Cho ta ân huệ này”,
    Rồi ngài lấy lại lời thề ngay,
    Ai khôn ngoan muốn đành lòng chịu
    Liều lĩnh phân tranh vậy hỡi ngài?

Kẻ ăn thịt người tự nhủ: “Vị ấy không tin ta. Ta muốn làm vị ấy tin”, rồi y ngâm kệ:

  1. Chẳng ai đòi tặng một hồng ân,
    Rồi lại nuốt lời hứa, giả nhân,
    Bạo dạn chọn hồng ân, hỡi bạn,
    Dù ta mất mạng, vẫn ban phần.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ này nói như một vị anh hùng và hứa làm những gì ta nói, ta sẽ nhận lời đề nghị của y. Nhưng nếu ta chọn ngay điều ước đầu tiên là y phải chừa ăn thịt người, chắc y sẽ đau lòng lắm. Vậy trước hết ta sẽ chọn ba điều ước khác, sau đó sẽ chọn điều này”, và ngài ngâm kệ:

  1. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
    Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
    Vậy là người trí luôn tin chắc
    Làm đẹp ý lòng bậc trí chân
    Ta nguyện cầu ngài luôn tráng kiện,
    Sống lâu đến cả một trăm năm,
    Ðây lời cầu nguyện đầu tiên vậy,
    Ta muốn ngài ban tặng đặc ân.

Kẻ ăn thịt người nghe vậy, suy nghĩ: “Người này, dù ta đã đẩy ra khỏi vương quyền, nay vẫn cầu chúc trường thọ cho ta, một kẻ cướp lừng danh thèm khát thịt người và muốn làm hại vị ấy. Ôi! Thật là một người đầy thiện ý đối với ta”. Y thấy lòng hân hoan, mà không biết rằng lời ước này được chọn để đánh lừa y và sẽ có lợi cho ngài, y liền ngâm kệ ban lời ước:

  1. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
    Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
    Vậy là người trí luôn tin chắc
    Làm đẹp ý lòng bậc trí chân.
    Ngài nguyện cầu ta luôn tráng kiện
    Sống lâu đến cả một trăm năm,
    Trước lời cầu nguyện đầu tiên ấy
    Hoan hỷ ta ban tặng đặc ân.
    Tiếp theo, Bồ-tát nói:
  2. Các vua bị bắt dưới tay ngài
    Nhiều nước phong vương, quán đảnh rồi,
    Những vị vua hùng trên cõi đất
    Chớ nên ăn thịt, Ðại vương ôi!
    Ðây là điều kế ta cầu khẩn
    Như một lời nguyền ước thứ hai
    .

Như vậy trong khi lựa chọn đặc ân thứ hai ngài đã đạt ước nguyện đem lại mạng sống cho hơn một trăm vị vua Sát-đế-lỵ, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ ban ngài điều ước ấy:

  1. Các vua bị bắt dưới tay ta
    Nhiều nước phong vương, quán đảnh xưa,
    Những vua hùng mạnh, ta thề nguyện,
    Ta sẽ không ăn thịt nữa mà.
    Ước thứ hai này ta cũng tặng
    Thể theo lời bạn nguyện cầu ta.

Như thể các vị vua ấy có nghe được những gì hai vị này nới chăng? Họ chẳng nghe được gì cả vì khi kẻ ăn thịt người châm lửa, và sợ khói lửa làm hại cây, y bước lùi một khoảng xa cây ấy. Bậc Ðại Sĩ đàm luận với y, ngồi ở khoảng giữa cây và đống lửa, cho nên các vua không nghe mọi chuyện hai vị nói, mà chỉ nghe một phần và an ủi lẫn nhau:

– Thôi đừng sợ hãi, nay Sutasoma đang cải hóa kẻ ăn thịt người.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ:

  1. Hơn trăm vua ấy bị ngài giam
    Ðều bị trói tay, lại khóc than,
    Xin trả mỗi người về cố quốc,
    Ðệ tam ân huệ, ước ngài ban.

Như vậy trong khi chọn điều ước thứ ba, bậc Ðại Sĩ xin cho các vị vua được phục hồi quê quán, mỗi vị về vương quốc mình. Tại sao vậy? – Bởi vì kẻ ăn thịt người kia, giả sử không ăn thịt họ, nhưng vì sợ các vua thù oán y, sẽ giam cầm họ lại và bắt họ ở trong rừng hoặc giết họ rồi phơi thây, hoặc đem họ ra vùng biên địa bán làm nô lệ. Do đó ngài chọn điều ước cho các vua phục hồi cố quốc, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ chấp thuận lời thỉnh cầu này:

  1. Hơn trăm vua ấy bị ta giam,
    Ðều bị trói tay, lại khóc than,
    Ta sẽ phục hồi về cố quốc,
    Ðệ tam ân huệ được ta ban.

Bấy giờ Bồ-tát ngâm kệ chọn điều thứ tư:

  1. Vương quốc hãi kinh, hóa dại cuồng,
    Trốn ngài, dân chúng ẩn trong hang,
    Thịt người, Chúa thượng, xin kiêng ky,
    Ấy nguyện thứ tư, ước được ban.

Khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người vỗ tay cười lớn:

– Này Hiền hữu Sutasoma, quả thật đây là điều bạn muốn nói không? Làm sao ta có thể ban cho bạn đặc ân này chứ? Nếu bạn muốn nhận một đặc ân khác, thì hãy chọn một điều nữa đi.

Rồi y ngâm kệ này:

  1. Ta thấy món này, hợp vị ta,
    Nếu ta ẩn náu chốn rừng già,
    Làm sao lạc thú ta kiêng kỵ,
    Nguyện ước thứ tư, chọn lại mà!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:

– Vì ngài thích thịt người nên ngài nói: “Ta không thể từ bỏ nó được”. Người nào làm ác chỉ vì thú vui thì thật là kẻ ngu si.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Vua chúa như ngài chẳng được chơi,
    Hy sinh cuộc sống chỉ vì vui.
    Hãy tìm ý nghĩa cao siêu nhất
    Cuộc sống tặng ban quý tuyệt vời
    Lạc thú vị lai đời kế tiếp
    Rồi ngài hưởng phước đức này thôi.

Khi những lời này được bậc Ðại Sĩ nói xong, kẻ ăn thịt người bị nỗi kinh hoàng trấn áp và suy nghĩ: “Ta không thể từ chối lời ước mà Sutasoma lựa chọn, cũng không thể chừa ăn thịt người. Vậy ta phải làm gì đây?”

Với đôi mắt đẫm lệ, y ngâm kệ này:

  1. Ngài biết ta yêu thích thịt người,
    Su-ta Ðại Sĩ, thế này thôi,
    Ta không bỏ nó bao giờ nữa,
    Suy nghĩ, chọn điều khác, bạn ôi!

Bồ-tát lại đáp:

  1. Người nào luôn hưởng thú vui chơi,
    Hủy diệt cuộc đời để được vui,
    Như kẻ say dùng liều thuốc độc,
    Về sau phải chịu khổ không nguôi.
  2. Người quyết tâm chừa lạc thú đời,
    Con đường phận sự khó theo hoài,
    Như người đau uống liều điều trị,
    Sống lại đời sau cực lạc thôi.

Sau khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người đau đớn khóc than, ngâm vần kệ:

  1. Ngũ lạc phát sinh tự giác quan,
    Ta đều từ bỏ cả song thân,
    Ta vào rừng ở vì nhân ấy,
    Lời bạn ước sao có thể ban?

Bậc Ðại Sĩ ngâm kệ đáp:

  1. Trí nhân không thể nói hai lời,
    Ta biết thiện nhân đúng ước thôi:
    “Hiền hữu chọn đi vài nguyện ước”
    Là điều ngài đã bảo ta rồi,
    Giờ đây những chuyện ngài đang nói
    Khó hợp điều này, Chúa thượng ôi!

Một lần nữa, kẻ ăn thịt người vừa khóc vừa ngâm kệ:

  1. Tổn đức, ô danh, khổ nhục tràn,
    Tham lam, tà hạnh, tội muôn vàn,
    Ta đều phạm, để ăn đồng loại,
    Lời bạn ước, sao ta phải ban?

Bậc Ðại Sĩ lại nói:

  1. “Không ai đòi tự nguyện ban ân,
    Rồi lấy lại lời, kẻ giả nhân,
    Bạo dạn chọn ân này, bạn hỡi,
    Dù ta mất mạng, cũng ban phần.

Khi ngài đã đưa ra vần kệ do chính kẻ ăn thịt người cảm khái thốt lên trong giai đoạn đầu, ngài lại ngâm kệ để khích lệ y can đảm ban điều ước ấy:

  1. Thiện nhân đành mất cả dòng đời
    Song giữ lời xưa, dẫu thiệt thòi,
    Chúa thượng, nếu ngài ban ước nguyện,
    Làm ngay chuyện ấy trọn công ngài.
  2. Ai đem tài sản cứu tay chân,
    Sẽ bỏ tay chân cứu lấy thân,
    Tài sản, tứ chi, thân sẽ mất,
    Chỉ còn Chân lý khẩn cầu ân.

Như vậy bậc Ðại Sĩ dùng nhiều phương tiện an trú kẻ ăn thịt người vào Chánh pháp, và bây giờ ngài ngâm kệ để giải thích việc cần phải tôn trọng danh hiệu của ngài:

  1. Miệng kẻ nào minh chứng Thật chân,
    Ðoạn nghi nhờ các bậc hiền nhân,
    Kẻ ấy chính là nơi ẩn trú,
    Chính là điểm tựa, chốn nương thân.
    Lòng hiền nhân mến thương người ấy
    Sẽ chẳng bao giờ phải diệt vong
    .

Sau khi ngâm kệ xong, ngài bảo:

– Này Hiền hữu ăn thịt người, nếu bạn vi phạm lời dạy của một bậc Ðạo Sư Tối thắng như vậy, thì thật không hợp lẽ phải, và hơn nữa, khi bạn còn trẻ, ta đã làm vị trợ giáo cho bạn, đã chỉ bảo bạn nhiều rồi, nay ta dùng uy lực của một bậc Giác Ngộ ngâm cho bạn nghe các vần kệ trị giá mỗi vần một trăm đồng: vậy bạn hãy vâng lời ta.

Khi nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Sutasoma đã là thầy dạy ta, vừa là bậc đa văn uyên bác và ta đã ban cho vị ấy chọn điều ước. Ta phải làm gì đây? Cái chết quả thật là một sự dĩ nhiên trong cuộc đời mỗi người. Vậy ta sẽ không ăn thịt người nữa nhưng phải ban ân huệ mà ngài yêu cầu”.

Với dòng lệ tuôn tràn từ đôi mắt, y đứng lên và quỳ xuống chân Sutasoma, ngâm kệ ban ân:

  1. Thực phẩm ngọt ngon, thú vị thay,
    Vì duyên cớ ấy, ẩn rừng cây,
    Nhưng nay bạn bảo ta làm vậy,
    Ta tặng bạn – thầy ân huệ đây.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói:

– Này Hiền hữu, mong được như vậy. Ðối với người đã đứng vững vàng trong giới hạnh, thì ngay cái chết cũng là một ân huệ. Thưa Ðại vương, ta xin nhận đặc ân mà ngài đã ban ta. Ngay từ hôm nay, ngài được an trú trong con đường của một bậc Ðạo Sư hướng dẫn, và vì vậy, ta xin ngài một đặc ân này nữa: nếu ngài có lòng thương mến ta, xin ngài chấp nhận Ngũ giới.

Y đáp:

– Tốt lành thay, xin Hiền hữu dạy ta Ngũ giới.

– Xin Ðại vương học Ngũ giới từ ta.

Thế rồi y đảnh lễ bậc Ðại Sĩ với năm phần thân thể sát đất và ngồi xuống một bên, và bậc Ðại Sĩ an trú y vào Ngũ giới.

Lúc ấy các địa thần tụ họp lại, bảo nhau:

– Không ai từ các chúng sinh trong địa ngục Avìci (A-tỳ: Vô gián) đến chư Thiên tối cao trong các cõi Vô sắc mà vì lòng thương mến đối với bậc Ðại Sĩ, có thể làm cho kẻ ăn thịt người này từ bỏ việc sát nhân ấy. Ôi! Sutasoma đã thị hiện một phép thần thông vị diệu thay?

Các vị hoan nghênh làm rừng cây vang dội với những tiếng reo hò lớn, và khi nghe huyên náo, Tứ Ðại Thiên vương cũng reo lớn như vậy toàn thế giới vang rền tiếng tán thán đến tận cõi Phạm thiên.

Các vị vua bị treo trên cành cây nghe tiếng náo động reo mừng của chư Thần, và nữ thần cây vẫn còn đứng ở nơi trú ẩn cũng thốt ra âm thanh hưởng ứng. Như vậy người ta nghe tiếng reo hò của các vị Thần, nhưng không thể thấy được hình dáng các vị.

Khi nghe tiếng reo lớn hoan nghênh của chư Thần, các vị vua suy nghĩ: “Nhờ Sutasoma chúng ta được cứu mạng, Sutasoma đã thị hiện phép thần thông để giáo hóa kẻ ăn thịt người ấy”, và các vị cũng dâng lên lời tán tụng Bồ-tát.

Còn kẻ ăn thịt người đứng sang một bên sau khi đảnh lễ dưới chân Bồ-tát. Bậc Ðại Sĩ bảo y:

– Này Hiền hữu, hãy thả các vương tử này.

Y suy nghĩ: “Ta là kẻ thù của họ. Nếu họ được ta thả ra, họ sẽ nói: “Hãy bắt y, y là kẻ thù của chúng ta”, và sẽ làm hại ta. Nhưng dù có mất mạng sống, ta cũng không thể phạm vào giới hạnh mà ta đã nhận từ tay Sutasoma. Ta sẽ đi cùng ngài và thả họ ra, như thế ta sẽ được bình an”. Rồi vừa đảnh lễ Bồ-tát, y vừa nói:

– Này Sutasoma, chúng ta hãy cùng đi thả các vương tử.

Và y ngâm kệ:

  1. Ngài là thầy giáo của riêng ta,
    Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
    Hãy ngắm, thưa ngài, lời bạn bảo
    Ta vừa mới thực hiện bây giờ.
    Lượt ngài thực hiện lời ta bảo:
    Ta sẽ đi cùng thả các vua.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta là thầy giáo của ngày xưa
    Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
    Quả thật, thưa ngài, lời dạy bảo
    Ngài vừa mới thực hiện bây giờ.
    Lượt ta thực hiện lời ngài bảo:
    Ta sẽ cùng đi thả các vua.

Khi đến gần các vua kia, ngài nói:

  1. Các ngài bị trói trên cây này,
    Nước mắt chảy tuôn đã ngập đầy,
    Vì ác quỷ này làm hại vậy,
    Song ta vẫn muốn các ngài hay
    Một lời ước hẹn cùng vua ấy
    Chẳng có bao giờ đụng ngón tay.

Các vị vua đáp liền:

  1. Khóc than vì bị trói trên cây,
    Ác quỷ hại người, đáng ghét thay,
    Tuy thế, chúng ta long trọng hứa:
    Nếu còn sống, chẳng hại người này.

Lúc ấy Bồ-tát nói:

– Tốt lành thay, xin hãy hứa lời này với ta.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Như với bầy con, bậc mẹ cha
    Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
    Ước mong vua ấy luôn minh chứng
    Là một người cha đúng nghĩa mà.
    Mong ước các ngài như lũ trẻ
    Thương yêu vua ấy thật sâu xa
    .

Các vị vua cũng đều đồng ý việc này và ngâm kệ:

  1. Như với bầy con, bậc mẹ cha
    Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
    Ước mong vua ấy luôn minh chứng
    Là một người cha đúng nghĩa mà.
    Mong ước chúng ta như lũ trẻ
    Thương yêu vua ấy thật sâu xa
    .

Như vậy bậc Ðại Sĩ đã đòi các vị ấy thề ước xong, ngài gọi kẻ ăn thịt người đến và bảo:

– Hãy đến thả các vương tử này ra.

Kẻ ăn thịt người cầm kiếm cắt dây trói một vua trong số đó. Vì vua này đã nhịn ăn suốt bảy ngày cùng chịu đau khổ đến điên cuồng, nên vừa được cắt dây thả ra, vị ấy ngã nhào xuống đất. Bậc Ðại Sĩ thấy vậy động lòng từ bi, liền nói:

– Này Hiền hữu ăn thịt người, đừng cắt dây thả họ xuống như vậy.

Rồi ôm lấy một vị vua thật chặt trong đôi tay, ngài ôm sát vị ấy vào ngực mình và nói:

– Bây giờ hãy cắt dây đi.

Như vậy, kẻ ăn thịt người cắt dây trói họ với thanh kiếm và bậc Ðại Sĩ, nhờ có sức mạnh phi thường, liền ôm mỗi vị vua vào ngực, và đưa xuống nhẹ nhàng như thể đó là con mình, rồi đặt vị ấy nằm sát xuống đất. Cứ vậy ngài đặt tất cả các vị vua xuống đất và sau khi rửa các vết thương, ngài nhẹ nhàng kéo các dây trói khỏi tay họ, giống như thể sợi dây ở tai trẻ con, ngài chùi sạch máu đông, làm cho các vết thương không nhiễm độc. Rồi ngài bảo kẻ ăn thịt người:

– Này Hiền hữu, hãy giã một ít vỏ cây kia trên hòn đá rồi mang đến cho ta.

Sau khi ngài bảo y đi tìm vỏ cây về, ngài thực hiện một lời Thề Chân lý và chà xát lòng bàn tay các vua ấy, thì các vết thương lành lặn ngay lập tức.

Kẻ ăn thịt người lấy một ít gạo đã chà vỏ, nấu thành một thứ thuốc phòng bệnh, rồi hai vị đưa cho một trăm lẻ một vương tử Sát-đế-lỵ uống như thuốc phòng bệnh, vì vậy mọi người đều hân hoan vừa lúc mặt trời lặn.

Hôm sau, vào lúc rạng đông, giữa trưa và xế chiều, hai vị đều cho họ uống nước cháo, nhưng ngày thứ ba, hai vị cho họ ăn cháo gạo và cơm chín, cứ thế cho đến khi họ bình phục. Sau đó bậc Ðại Sĩ hỏi xem họ đủ mạnh hẳn đề về nhà chưa và khi họ đáp họ có thể lên đường, ngài bảo:

– Này, Hiền hữu ăn thịt người, chúng ta cùng đi về vương quốc của mình.

Nhưng y vừa khóc, vừa quỳ xuống chân bậc Ðại Sĩ và kêu to:

– Xin Hiền hữu đem các vua này ra đi, còn ta sẽ tiếp tục ở đây sống bằng củ quả rừng.

– Này Hiền hữu, bạn muốn làm gì ở đây thế?

Vương quốc bạn là nơi đầy lạc thú. Hãy đi về cai trị ở Ba-la-nại.

– Này Hiền hữu nói gì thế? Ta không thể về đó được. Toàn dân kinh thành đều là kẻ thù của ta. Họ sẽ phỉ báng ta và nói: “Kẻ này đã ăn thịt mẹ, cha ta, hãy bắt tên cướp này”, và họ sẽ lấy hònđất đoạt mạng sống ta, nhưng còn ta đã quyết nhờ Hiền hữu an trú vào Ngũ giới, ta không thể giết ai được cả, cho dù để cứu mạng mình. Ta không muốn đi đâu. Vì ta từ bỏ thói ăn thịt người, ta sẽ sống bao lâu nữa đây? Và giờ đây ta cũng sẽ không còn thấy Hiền hữu nữa.

Kẻ ấy vừa khóc vừa nói:

– Thôi bạn hãy ra đi.

Bậc Ðại Sĩ vỗ lưng y và bảo:

– Này Hiền hữu, ta tên là Sutasoma: trước đây ta vừa cải hóa một người độc ác như bạn, và nếu bạn hỏi bạn sẽ phải kể chuyện gì ở Ba-la-nại, tại sao ta muốn an trú bạn ở đó, hoặc chia đôi vương quốc của ta, thì ta sẽ giao bạn một nửa đất nước ấy.

– Trong kinh thành của bạn cũng có những kẻ thù của ta. – Y đáp.

Sutasoma nghĩ thầm: “Khi vâng lời ta, người này đã hoàn thành một nhiệm vụ thật khó khăn. Vậy ta phải dùng phương tiện nào đó đưa y về cảnh vinh quang ngày trước”.

Và để chiêu dụ y, ngài ca tụng cảnh huy hoàng vĩ đại trong kinh thành của y như sau:

  1. Thú vật, chim muông, đủ mọi nơi,
    Ngày xưa thịt của chúng ngài xơi
    Do đầu bếp khéo tài đun nấu,
    Thật đúng cao lương vị tuyệt vời
    Tạo nỗi hân hoan như Đế Thích
    Hưởng bao tiên thực ở trên trời.
    Tại sao ngài bỏ rơi tất cả,
    Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
  2. Cung nữ cao sang, dáng mảnh mai,
    Xiêm y lộng lẫy khoác hình hài,
    Chung quanh Chúa thượng ngày xưa ấy,
    Cả đám vây quanh chật ních người,
    Như Ðế Thích trong Thiên chúng nọ,
    Ngài đi, lòng hạnh phúc vui tươi,
    Sao ngài lìa bỏ đời như vậy,
    Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
  3. Giữa vương sàng rộng rãi mênh mông,
    Ngài ngự, ngày xưa, hỡi Chúa công,
    Nhiều lớp chăn màn lông thú quý,
    Chất lên cao phủ cả mình rồng,
    Dưới đầu ngài gối màu hồng thắm,
    Giường nệm sạch tinh, trắng tựa bông,
    Sao lại giã từ tất cả vậy,
    Tìm vui đơn độc ở trong rừng?
  4. Nơi kia nhiều lúc giữa đêm thanh,
    Ngài vẫn thường nghe tiếng trống canh,
    Và những âm thanh siêu thế tục
    Vẫn thường vang dội đến tai mình,
    Lời ca, tiếng nhạc đồng hòa điệu,
    Khơi dậy tâm tư rộn rã tình.
    Sao lại giã từ tất cả vậy,
    Tìm vui đơn độc giữa rừng xanh
  5. Ngài có hoa viên đẹp đắm say,
    Nơi kia phong phú cỏ hoa đầy,
    Mi-gà vốn đã từng danh tiếng
    Là chốn ngự viên, đô thị này,
    Xa pháo dập dìu vô số kể,
    Ngựa, voi lũ lượt đứng từng bầy,
    Sao ngài lại bỏ rơi tất cả,
    Tìm thú rừng hoang cô độc vầy.

Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Có lẽ khi người này nhớ lại hương vị các món cao lương mà y đã thưởng thức ngày xưa, y sẽ mong muốn trở về với ta”. Vì thế ngài chiêu dụ y trước tiên bằng thức ăn, kế đó là lôi cuốn các sắc dục của y, thứ ba là ý nghĩ về sàng tọa, thứ tư là ca múa nhạc, thứ năm là gợi lại ngự viên và kinh thành.

Ngài làm cho kẻ ấy mê mẩn với những ý tưởng trên rồi nói:

– Thưa Ðại vương, ta sẽ đi cùng ngài về Ba-la-nại và ổn định ngài tại đó xong, ta mới trở về vương quốc ta. Nhưng nếu chúng ta thất bại trong việc ổn định vương quốc Ba-la-nại, thì ta sẽ tặng bạn một nữa giang sơn của ta. Ngài còn làm gì với cuộc sống ở rừng nữa chứ” Chỉ cần làm theo lời ta dặn ngài là được.

Sau khi nghe lời ngài, kẻ ăn thịt người nôn nóng đi với ngài và suy nghĩ: “Sutasoma mong muốn ta an lạc quả thật là người đầy nhân từ. Trước tiên ngài đã an trú ta trong giới đức, nay lại bảo sẽ phục hồi vinh quang cũ cho ta và ngài có khả năng làm việc đó. Ta cần phải đi với ngài. Ta còn làm gì với rừng hoang nữa chứ?”

Lòng đầy hoan hỷ, y ước mong ca ngợi Sutasoma về đức hạnh của ngài, liền nói:

– Này Hiền hữu Sutasoma, không gì tốt đẹp hơn kết giao với bạn hiền, không gì xấu xa hơn kết giao với bạn ác.

  1. Giống như trong nửa tháng đêm đen,
    Mặt nguyệt mỗi ngày một khuyết thêm,
    Cũng vậy kết giao cùng kẻ ác
    Chịu bao hủy hoại, hỡi vua hiền!
  2. Như ta kết bạn hỏa đầu quân,
    Kẻ tối liệt trong bọn hạ tầng,
    Ta đã phạm vào bao ác nghiệp
    Kịp thời xuống địa ngục đày thân.
  3. Ví như trong nửa tháng trời quang,
    Mặt nguyệt ngày thêm một sáng dần,
    Cũng vậy, kết giao cùng bậc thiện,
    Ðại vương ôi, sẽ chẳng suy tàn.
  4. Như với bạn, ta được kết đôi,
    Này Su-ta, phải biết ngay thôi:
    Sau khi thành tựu điều chân chánh,
    Tất cả an vui đến cõi trời.
  5. Như lũ lụt tràn mặt đất khô,
    Thấy thường tạm bợ, chóng trôi qua,
    Cũng vầy kết bạn cùng người ác
    Là việc phù du, nước nổi mà.
  6. Song nước lụt tràn khắp hải dương
    Thấy bền lâu ấy chuyện bình thường
    Cũng như giao kết cùng người thiện,
    Là chuyện lâu dài, hỡi Ðại vương.
  7. Giao kết thiện nhân chẳng chóng qua,
    Tình huynh đệ vững suốt đời ta,
    Kết giao kẻ ác mau tàn lụi,
    Kẻ ác thường đi lạc hướng tà.

Như vậy kẻ ăn thịt người ca tụng bậc Ðại Sĩ qua bảy vần kệ trên. Còn ngài đem kẻ ấy và các vua kia đi đến một làng biên địa. Khi thấy bậc Ðại Sĩ, quần chúng vào kinh thành thông báo việc ấy. Quần thần của vua đi cùng một đạo quân hộ tống bậc Ðại Sĩ và ngài cùng đoàn tùy tùng này vào vương quốc Ba-la-nại.

Trên đường đi, dân chúng mang quà đến tháp tùng ngài, thế rồi cả đám đại chúng theo ngàiđến Ba-la-nại.

Thời ấy vương tử của kẻ ăn thịt người đang làm vua và Kàlahatthi vẫn là đại tướng quân, nên dân kinh thành đến trình vua việc này:

– Tâu Ðại vương, nhiều người kể với chúng thần rằng vua Sutasoma đã giáo hóa kẻ ăn thịt người và đang đến đây với y, chúng thần không muốn cho phép y vào kinh thành đâu.

Họ vội vàng đóng cổng thành và đứng đó với binh khí trong tay. Khi thấy cổng thành đã đóng, bậc Ðại Sĩ để kẻ ăn thịt người và một trăm lẻ một vua kia ở lại rồi cùng với vài cận thần đi kêu lớn:

– Ta là vua Sutasoma, hãy mở cổng ngay.

Các tướng lãnh đi tâu trình vua và vua ra lệnh mở cổng thành lập tức để bậc Ðại Sĩ vào thành. Vua cùng vị đại tướng Kàlahatthi ra nghênh tiếp ngài và đưa ngài cùng lên thượng lầu của cung điện.

Bậc Ðại Sĩ an tọa trên ngai vàng, triệu tập bà chánh hậu của kẻ ăn thịt người cùng cả đám cận thần đến, rồi ngài bảo Kàlahatthi:

– Này Kàlahatthi, tại sao khanh không cho vua ấy vào thành?

Vị này đáp:

– Ðó là một kẻ cùng hung cực ác, trong khi làm vua cai trì kinh thành này, đã ăn thịt nhiều người, làm điều phi pháp đối với các vị vua Sát-đế-lỵ và làm tan nát toàn cõi Diêm-phù-đề: đó là lý do khiến chúng thần hành động như vậy.

Ngài đáp:

– Các khanh chớ nghĩ rằng bây giờ kẻ ấy còn hành động như thế nữa. Ta đã giáo hóa y và an trú y vào giới đức. Y sẽ không làm tổn hại ai cho dù để cứu mạng mình đi nữa. Các khanh không còn gì nguy hiểm do y gây ra cả, vậy các khanh đừng hành động như thế. Thực ra các con phải chăm sóc cha mẹ: ai yêu quý cha mẹ sẽ lên thiên giới, còn các người khác sẽ xuốngđịa ngục.

Ngài khuyên răn vương tử như thế, trong lúc vị ấy ngồi trên một bảo tọa thấp bên cạnh ngài. Rồi ngài giáo huấn vị đại tướng:

– Này Kàlahatthi, khanh là bạn thân cũng là tùy tướng của vua, ngày trước khanh đã được vua phong quyền cao chức trọng, vậy khanh cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.

Ngài lại khuyến giáo vương hậu:

– Này vương hậu, bà xuất thân dòng quý tộc và tự tay vua bà đã đạt ngôi vị chánh hậu, lại đầy đủ con trai con gái với vua ấy. Vậy bà cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.

Rồi ngài thuyết giảng Chánh pháp để đưa vấn đề này lên hàng đầu:

  1. Không vua nào được quyền chinh phục
    Người chẳng nên xâm phạm suốt đời;
    Không bạn nào nên lừa dối bạn
    Bằng hành vi bội bạc tình người.
  2. Nàng nào có ý sợ phu quân,
    Ta bảo chẳng là vợ chánh chân;
    Khi phụ thân già không cấp dưỡng,
    Làm con chẳng đúng với danh xưng.
  3. Chẳng phải là nơi chốn hội trường,
    Nếu hiền nhân chẳng vãng lai luôn,
    Những ai không giảng bày Chân lý
    Rộng khắp, chẳng là bậc trí nhân.
  4. Những bậc ly tham dục, hận sân,
    Si mê, là những Thánh hiền nhân
    Chẳng hề quên giảng bày Chân lý
    Cho các thế nhân khắp mọi vùng.
  5. Bậc hiền ở giữa đám ngu đần,
    Nếu lặng thinh, ai biết trí nhân,
    Vị ấy nói lên thì tất cả
    Nhận ra Thầy dạy Pháp như chân.
  6. Thuyết giảng, tôn vinh Pháp chánh chân,
    Giương cao cờ hiệu của hiền nhân,
    Thánh nhân biểu tượng là lời thiện,
    Ngài phất ngọn cờ Chánh pháp luôn.

Vua và vị đại tướng nghe ngài thuyết Chánh pháp đều rất hoan hỷ, liền nói:

– Chúng ta hãy đi rước Ðại vương về đây.

Sau khi truyền đánh trống báo cáo khắp kinh thành, hai vị triệu tập dân chúng lại và bảo:

– Ðừng sợ nữa, chúng ta nghe tin đức vua đã được an trú vào Chánh pháp. Chúng ta hãy đi đón ngài về đây.

Thế rồi hai vị cùng quần chúng được bậc Ðại Sĩ dẫn đầu đi đảnh lễ vua kia. Họ đưa các thợ cạo đến và khi tóc râu được cạo sạch xong, vua ấy tắm rửa, mặc xiêm y sang trọng vào, họ đặt vua ngồi trên một đống bảo ngọc, làm lễ quán đảnh (rảy nước phong vương), rồi rước vua vào thành.

Vị vua ăn thịt người làm lễ cung kính chào một trăm lẻ một vua Sát-đế-lỵ và bậc Ðại Sĩ. Khắp nước Diêm-phù-đề chấn động vì tin loan truyền rằng Sutasoma, chúa thượng của loài người,đã giáo hóa kẻ ăn thịt người kia và phục hồi vương vị cho y.

Còn dân chúng thành Indapatta dâng sớ cầu xin vua trở về. Bậc Ðại Sĩ ở lại đó đúng một tháng và thuyết giáo vua kia:

– Này Hiền hữu, chúng ta sắp ra đi, hãy chăm lo tinh cần làm thiện pháp và truyền xây năm bố thí đường ở các cổng thành và tại cung vua, tuân hành Thập vương pháp (mười đức tính của vua hiền) và tránh xa ác đạo.

Rồi tứ một trăm lẻ một kinh thành, các đạo quân đông đảo tụ tập lại, cùng với đoàn hộ tống này, ngài lên đường về Ba-la-nại. Vị vua ăn thịt người cũng tiễn đưa ngài đến nửa đường thì dừng lại. Bậc Ðại Sĩ tặng ngựa cho những ai không có ngựa để cỡi rồi cho phép tất cả ra đi. Họ trao đổi những lời từ giã thân tình với ngài và sau các nghi lễ ôm nhau thắm thiết, họ trở về xứ sở riêng của mỗi người.

Bậc Ðại Sĩ cũng đến thành Indapatta trong cảnh uy nghi trọng thể, kinh thành ấy được dân chúng trang hoàng giống như kinh thành của chư Thiên. Sau khi cung kính đảnh lễ song thân, và bày tỏ nỗi hân hoan được gặp lại cha mẹ, ngài đi lên thượng lầu của hoàng cung.

Trong thời gian thực hành nền cai trị chân chánh tại vương quốc, tư tưởng này chợt nảy ra trong trí ngài: “Vị thần cây thật ích lợi cho ta; ta muốn vị ấy được cúng dường lễ vật”.

Vì thế ngài truyền xây một hồ nước rộng ở gần cây đa và di chuyển nhiều gia đình đến đó dựng một ngôi làng. Chẳng bao lâu nó trở thành một vùng rộng lớn có được tám mươi ngàn tiệm buôn.

Và bắt đầu từ mút xa nhất của các cành cây, ngài bảo san bằng mặt đất quanh gốc cây và xây một hành lang bao bọc có các cửa vòng cung và cổng ra vào thế là thần cây được lợi lộc.

Chính nhờ việc thiết lập ngôi làng trên địa điểm quỷ ăn thịt người được giáo hóa, vùng ấy trở thành thị trấn với tên là Kammàsadamma (Kiềm-ma-sắc-đàm: Nơi có quỷ ăn thịt người).

Còn các vị vua kia tuân theo lời giáo huấn của bậc Ðại Sĩ, thực hành các thiện sự như bố thí và nhiều việc khác, nên về sau được lên thiên giới.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Ta mới cải hóa Angulimàla, mà ngày xưa nữa, vị ấy cũng được ta cải hóa.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị vua ăn thịt người là Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay), đại tướng Kàlahatthi là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Bà-la-môn Nanda là Ànanda (A-nan), thần cây là Kassapa (Ca-diếp), Sakka Thiên chủ là Anuruddha (A-na-luật-đà), quần thần của các vua là hội chúng của đức Phật, song thân của vua là các vị trong hoàng gia của Ðại vương, và vua Sutasoma trong chuyện chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XXII

Đại Phẩm

  1. Chuyện Vương tử què câm (Tiền thân Mùga-Pakka)

Con ơi đừng lộ trí thông minh…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Một ngày nọ, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường tán thán công hạnh xuất gia cao cả của đức Thế Tôn. Khi đức Thế Tôn đến hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì, và khi được biết đề tài ấy, Ngài bảo:

– Không đâu, này các Tỷ-kheo, việc xuất thế của ta ngày nay, sau khi từ bỏ ngai vàng, không có gì kỳ diệu, khi Ta đã thành tựu đầy đủ Thập Ba-la-mật (Mười Hạnh Viên mãn của Bồ-tát). Vì trước kia, ngay khi trí Ta chưa thành tựu và Ta đang tinh tấn đạt đến các Hạnh Viên mãn, Ta đã rời bỏ ngai vàng và xuất thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua tên là Kàsiràja trị vì quốc độ rất đúng pháp tại Ba-la-nại. Ngài có mười sáu ngàn phi tần, nhưng không bà nào có con cả. Quần thần họp lại (như trong Tiền thân Kusa) bảo nhau:

– Chúa thượng không có con trai nối dõi.

Rồi họ xin nhà vua cầu tự. Nhà vua ra lệnh cho mười sáu ngàn phi tần cầu tự, nhưng dù họ thờ phượng và cầu tự thần mặt trăng và nhiều thần linh khác, họ vẫn không có con.

Lúc bấy giờ Chánh cung vương hậu Candà, con gái nhà vua thuộc dòng họ Madda, vốn chuyên tâm làm các việc thiện, vua liền bảo bà cũng phải cầu tự. Thế là vào một ngày rằm trăng tròn, bà thọ giới Uposatha (Bố-tát giới) và trong khi nằm trên chiếc giường nhỏ, suy gẫm về cuộc đời đức hạnh của bà, bà thực hiện một lời cầu nguyện Chân lý như sau:

– Nếu ta chưa bao giờ phạm các giới luật thì hãy vì lòng thành của lời cầu nguyện này, xin ban cho ta một đứa con trai.

Vì uy lực của lòng thành này, cung thất của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) nóng rực lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xem xét và xác định rõ nguyên cớ xong, liền bảo:

– Vương hậu Candà đang cầu tự, ta sẽ cho bà thỏa nguyện.

Vì thế trong khi Thiên chủ tìm một đứa con xứng đáng cho bà, chợt trông thấy Bồ-tát.

Lúc bấy giờ Bồ-tát, sau khi trị vì hai mươi năm tại Ba-la-nại, đã tái sinh vào ngục Ussada và chịu đọa đày trong tám vạn năm, rồi lại hóa sinh vào cõi trời Ba mươi ba.

Sau khi kỳ hạn ở đó đã mãn, ngài mạng chung và ước mong lên các thiên giới cao hơn. Thiên chủ Sakka đến bảo ngài:

– Này Hiền giả, nếu Hiền giả sinh vào thế giới loài người, Hiền giả sẽ thành tựu đầy đủ các hạnh Ba-la-mật và sẽ làm lợi lạc quần sinh. Hiện nay chánh hậu Candà đang cầu tự, xin hãy nhập mẫu thai của bà.

Ngài bằng lòng và được năm trăm vị Thiên tử hộ tống, ngài nhập mẫu thai của chánh hậu, còn năm trăm vị Thiên tử được cưu mang trong lòng các phu nhân của các quan đại thần. Tử cung của chánh hậu như chúa đầy kim cương. Khi nhận thấy thế, bà liền tâu chuyện với vua. Ngài ra lệnh chăm sóc thật chu đáo cho hài nhi sắp chào đời được mọi sự bình an, và cuối cùng bà hạ sinh một hoàng nam đầy đủ mọi tướng tốt lành. Cùng ngày ấy, năm trăm hài nhi quý tộc ra đời trong dinh các quan. Vào lúc đó, nhà vua ngự trên bệ rồng, quần thần vây quanh thì có kẻ trình lên:

– Tâu Ðại vương, một vương tử vừa ra đời.

Vua nghe vậy, tình phụ tử khởi lên, xuyên suốt da thịt ngài đến tận xương tủy, lòng ngài rộn rã niềm vui, ngài thấy như trẻ lại. Ngài hỏi quần thần:

– Các khanh có hoan hỷ khi nghe vương tử được sinh không?

Quần thần đều đáp:

– Sao Ðại vương lại bảo thế? Trước đây chúng thần thật bơ vơ, nay đã có nơi nương tựa, chúng thần đã có một vị chúa tể.

Vua ra lệnh cho vị tể tướng:

– Hãy chuẩn bị một đám hầu cận cho con ta, hãy xem số hài nhi công tử vừa ra đời hôm nay là bao nhiêu?

Vị này xem thấy đủ năm trăm, liền trình lên. Vua ban năm trăm vương bào danh dự cho năm trăm công tử ấy cùng năm trăm nhũ mẫu.

Ngài lại ban sáu mươi bốn nhũ mẫu cho Bồ-tát, những người này không được có khuyết điểm nào như quá cao, quá gầy v.v… Ngực không xệ xuống, và phải đầy sữa ngọt. Nếu một hài nhi bú sữa trong lòng một nhũ mẫu quá cao, thì cổ hài nhi sẽ bị dài ra, nếu bú sửa trong lòng một nhũ mẫu quá thấp thì xương vai hài nhi sẽ bị co lại. Nếu nhũ mẫu quá gầy thì đùi hài nhi sẽđau nhức, nếu quá thô kệch thì hài nhi sẽ bị chân cong; cơ thể của một nhũ mẫu da đen sẽ quá lạnh; thân của nhũ mẫu da trắng sẽ quá nóng; hài nhi nào bú sữa của một nhũ mẫu ngực cao quá sẽ bị đầu mũi tẹt; một số nhũ mẫu lại có sữa chua, sữa đắng, v.v…

Vì vậy để tránh mọi khuyết điểm trên, vua gởi đến sáu mươi nhũ mẫu có sữa ngọt và không bị khuyết điểm nào; và sau khi ngợi khen Bồ-tát với đủ lời tán tụng, ngài cũng ban cho vương hậu một điều ước. Bà thọ lãnh ân huệ đó và ghi nhớ trong lòng.

Ðến ngày đặt tên cho hài nhi, triều thần ca ngợi các vị Bà-la-môn đã thấy được những điềm lành khác nhau, cùng hỏi xem họ có thấy điềm bất tường nào chăng. Các Bà-la-môn chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thân tướng ngài, đồng nói:

– Tâu Hoàng thượng, thái tử có đầy đủ mọi tướng mạo của phúc phận mai sau, ngài sẽ có tài cai trị không những một châu mà cả bốn châu thiên hạ, ngoài ra không có điềm bất tường nào khác.

Vua đầy hoan hỷ, đặt tên con là Temiya-Kumàro vì ngày sinh ra vương tử, trời mưa khắp cả vương quốc Kàsi và vương tử sinh ra đã bị ướt đầm.

Khi vương tử đầy tháng, ngài được chưng diện thật đẹp và đem vào yết kiến vua. Nhìn đứa con yêu, vua liền ôm vào lòng chơi đùa với con. Cùng lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt vua; một trong bốn tên đó bị ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn, một tên khác phải bị gông cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên cuối cùng bị đâm cọc xuyên suốt toàn thân. Bồ-tát nghe vua cha nói, kinh hãi nghĩ thầm: “Ôi cha ta vì làm vua mà mang lấy những ác nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục”.

Ngày hôm sau ngài được đặt nằm trên một chiếc giường lộng lẫy che lọng trắng. Khi ngài tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn, mở mắt nhìn lên lọng trắng cùng vẻ nguy nga của hoàng cung, nỗi kinh hãi càng tăng lên, ngài tự hỏi: “Từ đâu ta lại đến cung này?”, và hồi tưởng lại các đời trước, ngài nhớ ra rằng xưa kia ngài đã đi từ thế giới chư Thiên và đã chịu đọa đày ở địa ngục, rồi ngài cũng đã làm vua trong chính kinh thành này.

Trong lúc ấy, ngài suy nghĩ: “Ta đã làm vua hai mươi năm, rồi chịu đọa đày tám vạn năm ở ngục Ussada, bây giờ ta lại sinh vào ngôi nhà có trộm cướp này, và cha ta, khi thấy bốn tên cướp được đưa vào, đã thốt ra những lời ác độc khiến người phải đọa địa ngục. Nếu ta làm vua, ta cũng sẽ lại bị đọa vào địa ngục và chịu khổ hình”.

Ngài vô cùng kinh hãi, thân thể vàng óng của ngài tái nhợt đi và héo úa như đóa sen bị giày vò trong tay, ngài nằm suy nghĩ tìm cách thoát khỏi ngôi nhà đầy kẻ cướp này.

Lúc ấy vị nữ thần trong chiếc lọng, ở một kiếp xa xưa nào đó đã là mẹ của ngài, hiện ra an ủi ngài:

– Này con Temiya của ta, con đừng sợ hãi, nếu con thật sự muốn thoát khỏi đây, con cứ giả vở què dù con không thực què, cứ giả điếc dù con không thực sự điếc, cứ giả vờ câm dù con không thực sự câm. Cứ khoác lên mình những dị tật đó, đừng lộ chút dấu hiệu thông minh nào cả.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ nhất:

  1. Con ơi, đừng lộ trí thông minh,
    Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
    Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
    Cuối cùng con đạt đến quang minh.

Ðược lời an ủi của bà, ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Con sẽ làm theo ý nữ thần,
    Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
    Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
    Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.

Vì thế ngài thực hiện ngay ba ác tật trên. Vua muốn con trai khỏi buồn, liền bảo đem năm trăm công tử đến bên ngài. Những hài nhi này bắt đầu khóc đòi bú, nhưng Bồ-tát vì sợ đọa địa ngục, nghĩ rằng thà chết khát còn hơn làm vua, nên không khóc. Các nhũ mẫu tâu chuyện đó với vương hậu, và lại tâu lên vua, vua liền cho mời các Bà-la-môn giỏi tướng số đến hỏi ý. Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy cho vương tử bú sau thời hạn qui định, vương tử sẽ khóc rồi ngậm chặt vú để bú tùy thích.

Thế rồi họ cho vương tử bú sau một thời hạn qui định, có khi họ để thời hạn qui định quá một lần, có khi cả ngày họ không cho ngài bú sữa. Nhưng ngài sợ đọa địa ngục nên dù khát cũng không khóc đòi bú. Thế rồi mẹ ngài cùng các nhũ mẫu cứ cho ngài bú, dù ngài không khóc, họ bảo:

– Hài nhi đói lả rồi.

Các hài nhi khác khóc la khi chưa bú, nhưng ngài không khóc, không ngủ, cũng không co duỗi tay chân, cũng không tỏ ra nghe được tiếng động nào. Thế là các nhũ mẫu suy nghĩ: “Tay chân người què không giống thế này, hình dáng quai hàm người câm không giống thế này, hình dáng tai kẻ điếc cũng không phải thế này, chắc phải có lý do gì đây, chúng ta phải xem kỹ ra sao”.

Vì vậy họ quyết định lấy sữa thử ngài, cả ngày họ không cho ngài bú, nhưng dù khát khô cổ họng, ngài vẫn không thốt một tiếng kêu đòi bú. Sau đó mẹ ngài nói:

– Con ta đói lả rồi. Hãy cho nó bú.

Và bà bảo họ cho ngài bú. Như vậy thỉnh thoảng họ cho ngài bú để thử ngài suốt năm trường nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:

– Trẻ con thường thích bánh kẹo và của ngon vật lạ ta hãy đem ra thử hài nhi này xem.

Họ đặt năm trăm ấu nhi cạnh ngài , đem đủ cao lương mỹ vị đến, bảo các ấu nhi lựa món ăn tùy thích rồi họ lánh mặt đi. Các trẻ kia gây gỗ đánh nhau rồi chụp giựt bánh kẹo ăn, nhưng Bồ-tát tự nhủ: “Này Temiya, cứ ăn bánh kẹo cùng cao lương mỹ vị đó nếu ngươi muốn xuống địa ngục”. Rồi vì sợ đọa địa ngục, ngài không muốn nhìn các thức ăn nữa. Và cứ thế dù họđem kẹo bánh, cao lương mỹ vị ra thử ngài cả năm ròng, họ cũng không khám phá chỗ yếu của ngài.

Sau đó họ lại bảo:

– Trẻ con thường thích đủ loại trái cây.

Và họ đem đủ thứ trái cây ra thử ngài. Các trẻ kia đòi ăn trái cây nhưng ngài không buồn nhìn chúng và cứ thế suốt năm ròng họ đem trái cây đủ loại ra thử ngài. Rồi họ lại bảo:

– Trẻ con thích đồ chơi.

Thế là họ đem đồ chơi bằng vàng, các hình voi ngựa v.v… đến gần ngài. Các trẻ kia giành nhau như thể đoạt chiến lợi phẩm, nhưng Bồ-tát không buồn nhìn đến chúng và cứ thế suốt cả năm ròng họ đem đồ chơi ra thử ngài. Rồi họ lại bảo nhau:

– Có một thức ăn đặt biệt đối với một trẻ lên bốn, ta thử xem sao.

Thế là họ đem ra đủ loại thức ăn, các trẻ kia bẻ chúng ra từng miếng ăn ngay, nhưng Bồ-tát tự nhủ: “Này Temiya, trong quá khứ đã có vô số kiếp mà ngươi chẳng được ăn uống gì cả”. Và vì sợ đọa địa ngục ngài chẳng nhìn các món ăn, cho đến khi lòng mẹ ngài muốn tan nát ra vì đau khổ, chính tay bà phải cho ngài ăn.

Sau đó họ bảo nhau:

– Trẻ con năm tuổi thường sợ lửa, ta hãy thử xem sao.

Rồi họ bảo làm một ngôi nhà lớn có nhiều cửa, che bằng lá cây tala (cọ dừa), họ đặt ngài giữađám trẻ con rồi nổi lửa lên. Ðám trẻ la hét chạy trốn, nhưng Bồ-tát tự nhủ thế này còn hơn các khổ hình ở địa ngục. Vì vậy ngài hoàn toàn ngồi yên như thể vô tri giác nên khi lửa đến gần, họ đành mang ngài đi nơi khác.

Sau đó họ bảo nhau:

– Trẻ con sáu tuổi thường sợ voi lung.

Thế là họ bảo luyện một con voi cho thuần tính, rồi họ để Bồ-tát ngồi cùng đám trẻ trong sân rồng và thả voi ra. Voi rống to, lấy vòi dậm đất thình thịch khiến ai nấy khiếp đảm. Ðám trẻ chạy tứ tán vì sợ nguy đến tính mạng. Riêng Bồ-tát vì sợ địa ngục, vẫn ngồi yên. Con voi đã được huấn luyện kỹ, nhấc ngài lên rồi đặt xuống và bỏ đi chứ không hại ngài.

Ðến khi ngài được bảy tuổi, lúc ngồi chơi có đám bạn ngồi vây quanh ngài, họ thả ra bầy rắnđã bị nhổ hết răng và buột miệng chặt lại, bọn trẻ la hét bỏ chạy, nhưng Bồ-tát nhớ lại những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên, tự nhủ: “Thà chết vì miệng rắn độc còn tốt hơn”. Rồi bầy rắn vây quanh thân ngài và cuộn vòng tròn trên đầu ngài nhưng ngài vẫn ngồi bấtđộng. Cứ thế họ thử ngài mãi nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của ngài. Sau đó họ bảo nhau:

– Thiếu nhi thường thích hội hè.

Thế là họ đem ngài vào sân rồng cùng năm trăm trẻ kia và cho một bầy hề họp lại làm trò. Lũ trẻ thấy bầy hề liền la hét cổ võ và cười đùa vang dội, nhưng Bồ-tát tự nhủ thầm, nếu ngài thác sinh vào địa ngục sẽ không bao giờ được một phút cười vui, nên ngài vẫn ngồi yên, suy nghĩđến địa ngục và không hề để mắt đến đám hề nhảy múa. Họ cứ thử ngài như thế mãi, vẫn không tìm ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:

– Ta hãy lấy kiếm ra thử xem sao.

Thế là họ đặt ngài ngồi giữa sân rồng trong khi đám trẻ đang chơi đùa, bỗng một người đàn ông chạy vụt qua bọn chúng, vung kiếm sáng loáng như gương vừa nhảy vừa la to:

– Con quỷ của vua Kàsi đâu rồi, ta sẽ cắt đầu nó đây.

Ðám trẻ thấy vậy kinh hãi chạy trốn, la hét ầm ỹ. Nhưng Bồ-tát đã suy nghĩ nhiều về những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên bất động như thể vô tri giác, dù người đó cọ xát thanh kiếm trên đầu ngài và dọa cắt cổ, cũng không làm ngài kinh hoàng, nên cuối cùng gã phải bỏ đi. Thế là dù thử ngài nhiều lần như thế, họ vẫn không tìm ra điểm yếu của ngài.

Khi ngài lên mười tuổi, họ muốn thử xem ngài có điếc thật không, liền treo một cái màn quanh giường, có đục lỗ bốn phía và đặt ống thổi hơi bằng vỏ ốc dưới đó mà không cho ngài biết. Họ đồng loạt thổi qua vỏ ốc bật ra một tiếng vang ầm ỹ, nhưng đám quần thần dù đứng cả bốn phía nhìn xuyên qua những lỗ trên màn suốt ngày vẫn không tìm ra được một dấu hiệu ngài bị rối trí hay cựa quậy tay chân, ngay cả một cái giật mình cũng không có.

Một năm ròng trôi qua như vậy, rồi họ lấy trống thử một năm nữa vẫn không khám phá ra điểm yếu của ngài.

Sau đó họ bảo:

– Ta lấy đèn ra thử xem.

Thế là để thử xem trong đêm tối ngài có cử động tay chân không, họ thắp đèn trong các bình thủy tinh sau khi đã tắt hết mọi đèn khác. Họ dấu các đèn thủy tinh trong bóng tối một lát rồi thình lình giơ cao các ngọn đèn ấy lên, tạo ra một luồng sáng lòa đồng loạt để xem cử chỉ ngài ra sao. Nhưng dù họ thử ngài như vậy cả năm trời, họ vẫn không thấy ngài giật mình lần nào cả.

Thế rồi họ bảo nhau:

– Ta lấy mật mía thử xem sao.

Và họ bôi mật mía khắp thân ngài, đặt ngài vào một nơi đầy ruồi nhặng rồi xua chúng ra. Chúng bu đặc trên thân ngài và chích ngài như kim châm nhưng ngài vẫn nằm như thể vô tri giác. Cứ thế suốt năm ròng họ thử ngài nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm nào.

Ðến năm ngài lên mười bốn tuổi, họ bảo nhau:

– Bây giờ đã lớn rồi, thiếu niên này chỉ thích sạch sẽ và ghét dơ bẩn, vậy ta lấy đồ dơ ra thử xem.

Thế là từ đó họ không cho ngài tắm rửa, súc miệng hay tẩy uế thân thể cho đến khi ngài bị đẩy vào một tình cảnh vô cùng khốn khổ như tên tù giam lỏng.

Khi ngài nằm mình mẩy đầy ruồi nhặng, mọi người vây quanh nhạo báng ngài:

– Này Temiya, cậu đã lớn rồi, còn ai hầu hạ cậu nữa, cậu không hổ thẹn sao cứ nằm đó mãi, dậy và tắm rửa cho sạch sẽ”.

Nhưng ngài nhớ lại những nỗi thống khổ đọa đày ở địa ngục Gù tha (Phân dơ) nên ngài vẫn nằm bất động trong tình trạng dơ bẩn khổ sở đó. Suốt năm trường họ vẫn không tìm ra nhược điểm nơi ngài.

Sau đó họ đặt những chảo lửa dưới giường ngài, và bảo nhau:

– Khi vương tử bị lửa nóng hành hạ, sẽ không chịu nổi và sẽ tỏ dấu hiệu đau đớn quằn quại.

Những vết bỏng dường như muốn nứt ra trên người ngài, nhưng ngài vẫn nhẫn nhục tự nhủ: “Lửa ở địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián) tỏa lan ra cả trăm dặm, chứ ngọn lửa này còn dễ chịu hơn trăm, ngàn lần”. Vì thế ngài nằm bất động. Vua cha và vương hậu lòng đau như cắt, bảo đám cận thần trở lại đem ngài ra khỏi lửa và năn nỉ ngài:

– Này Temiya, ta biết con sinh ra không què quặt vì người què không thể có tay chân mặt mày như con được. Ta đã sinh được con sau bao năm cầu tự, vậy con đừng làm tuyệt dòng họ ta, hãy tránh cho ta khỏi bị sự chê trách của các vua trong cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề, Ấn- Độ).

Nhưng dù họ van xin thế nào đi nữa ngài vẫn nằm im bất động như không nghe thấy gì. Thế là phụ vương và mẫu hậu đành khóc lóc và bỏ đi.

Thỉnh thoảng phụ vương hay mẫu hậu trở lại một mình van xin ngài như thế cả năm ròng nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm của ngài.

Ðến khi ngài lên mười sáu tuổi, họ suy nghĩ: “Dù què quặt câm điếc đi nữa, không ai lớn lên lại không thích hưởng lạc, ghét điều bất lạc. Chuyện này đến thời hạn thì cũng tự nhiên như hoa nở đó thôi. Vậy ta sẽ bảo đóng tuồng cho con ta xem thử sao”. Vì thế họ triệu tập một số nữ nhân thật đẹp như tiên và giao hẹn rằng nàng nào làm được cho vương tử cười to hay gây cho ngài tư tưởng dục vọng thì sẽ được tôn làm chánh hậu. Rồi họ tắm cho ngài bằng nước thơm và trang điểm cho ngài thật đẹp như thiên thần, đặt ngài nằm trên long sàng ở trong một dãy cung thất trang hoàng như các động tiên. Nội thất của ngài được xông sực nức đủ mùi hương hoa, thuốc cao, trầm, linh tửu đủ loại . . . và họ rút lui.

Trong lúc đó, đám nữ nhân cứ vây quanh ngài tìm cánh làm vui lòng ngài với tiếng ca, điệu múa cùng những lời lẽ êm dịu ngọt ngào, nhưng ngài nhìn chúng bằng trí tuệ tối thắng và bế hết hơi thở vô ra vì sợ chúng đụng vào thân ngài, vì thế là cơ thể ngài thành cứng đờ. Chúng không thế nào đụng vào ngài được, liền tâu với vua cha:

– Cơ thể vương tử cứng đờ, ngài không phải là người, mà có lẽ là quỉ dữ.

Như vậy, cha mẹ ngài, dù trong mười sáu năm liền thử thách ngài bằng mười sáu cách ghê rợn, cùng nhiều lối thử lặt vặt khác, cũng không thể nào khám phá chỗ yếu của ngài. Thế là vua chađầy phẫn nộ, cho triệu tập đám thầy tướng số đến bảo:

– Khi vương tử ra đời, các ngươi đã bảo là vương tử tốt số có đủ mọi điềm lành và không có dấu hiệu bất tường nào. Nhưng vương tử sinh ra đã què, câm, điếc. Thế là lời các ngươi khôngđúng sự thật.

Họ đồng đáp:

– Tâu Ðại vương, không có gì các đạo sư của ngài không thấy cả, nhưng chúng thần biết ngài sẽ buồn khổ ghê gớm ra sao nếu chúng thần nói rằng hoàng nam do cả triều cầu tự này lại bạc phước, vì thế chúng thần không nói ra điều đó.

– Vậy phải làm thế nào đây?

– Tâu Ðại vương, nếu vương tử ở lại trong cung sẽ có ba mối hiểm họa đe dọa tính mệnh của Ðại vương hoặc ngôi báu của ngài hoặc cho Chánh hậu. Vậy thì thượng sách là xin cho vài con ngựa yếu hèn buộc vào một cỗ xe thật xui xẻo rồi đặt vương tử lên đó, đưa qua cửa Tây vàđem chôn vương tử trong nghĩa địa.

Vua đồng ý, vì sợ các hiểm họa sẽ xảy ra. Khi vương hậu hay tin, và vội đến gặp vua:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban cho thần thiếp một lời ước và thần thiếp vẫn chưa thỉnh nguyện, vậy giờ đây xin ban cho thiếp ân huệ đó.

– Ái hậu cứ thỉnh cầu.

– Xin Chúa thượng hãy trao ngôi báu cho con thiếp.

– Không thể được, này ái hậu, con trai của khanh quá bạc phước.

– Nếu Chúa thượng không ban cho con trai thiếp cả đời, thì hãy cho con trai thiếp làm vua trong bảy năm.

– Không thể được đâu, ái khanh.

– Vậy thì trong sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm hoặc bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng hoặc nửa tháng.

– Không thể được, ái khanh.

– Thế thì bảy ngày vậy.

– Thôi được rồi, ái hậu nhận lấy ân huệ này.

Thế là vương hậu ra lệnh cho các cung nữ trang điểm vương tử thật lộng lẫy và cả kinh thành phải chưng bày thật đẹp mắt. Rồi một lệnh được truyền đi cùng với tiếng trống vang dội:

– Ðây là triều đại của thái tử Temiya.

Và ngài được đặt trên mình voi đi ngất ngưỡng khắp kinh thành với chiếc lọng trắng trên đầu. Khi trở về, ngài được đặt trên long sàng, vương hậu lại van xin suốt đêm:

– Vương tử Temiya con ơi, vì con trong mười sáu năm qua mẹ đã khóc than và không hề ngủ được. Mắt mẹ đã khô ráo hẳn, lòng mẹ đã tan nát vì buồn phiền. Mẹ biết, con không thật què quặt câm điếc gì, đừng làm mẹ khốn khổ tuyệt vọng nữa.

Cứ thế bà van xin ngài hết ngày này qua ngày khác trong năm hôm liền. Qua ngày thứ sáu, vua triệu người quản xa Sunanda đến bảo:

– Sáng sớm mai ngươi hãy cột vài con ngựa thật xấu xa vào một cỗ xe thật xui xẻo, bỏ vương tử vào, đem ra cửa tây và đào một hố có bốn góc trong nghĩa địa, ném nó vào, lấy xẻng đập đầu nó và giết chết nó đi, rồi lấp đất lên thành một đống cao, xong tắm rửa sạch sẽ rồi trở về đây.

Ðêm thứ sáu đó, vương hậu lại van xin:

– Con ơi , vua Kàsi đã ra lệnh ngày mai đem chôn con vào nghĩa địa, ngày mai chắc con phải chết rồi con ạ.

Khi Bồ-tát nghe nói vậy, ngài nghĩ thầm rằng: “Này Temiya, hoạn nạn của ngươi trong mười sáu năm đã mãn”, và ngài vui mừng lắm nhưng lòng mẹ ngài dường như tan nát thành hai mảnh. Tuy thế ngài không muốn gì với bà, sợ rằng ước nguyện của ngài không thành tựu. Hết đêm đó, mới sáng tinh sương người quản xa Sunanda đã lái cỗ xe đến trước cổng thành, vào hoàng cung tâu:

– Xin Vương hậu chớ giận dữ, đây là lệnh của Ðại vương.

Nói xong trong khi vương hậu đang ôm con trong lòng, gã lấy tay đẩy bà ra, nhấc hoàng tử lên nhẹ như một đóa hoa và ra khỏi cung. Hoàng hậu còn lại trong phòng đấm ngực than khóc thảm thiết.

Khi đó Bồ-tát nhìn mẹ và nghĩ: “Nếu ta không nói mẹ ta sẽ chết vì buồn phiền”. Nhưng dù ngài định nói, ngài lại suy nghĩ: “Nếu ta nói thì công phu của ta trong mười sáu năm sẽ trở thành tro bụi, còn nếu ta không nói thì ta sẽ cứu được chính ta và cả cha mẹ ta nữa”.

Sau đó người quản xa nhấc ngài lên xe và bảo:

– Ta sẽ lái xe qua cửa tây.

Nhưng gã lại lái xe qua cửa đông, và bánh xe lăn chạm mạnh vào bậc thềm. Bồ-tát nghe tiếng động nhủ thầm: ” Ước nguyện của ta đã đạt rồi”. Lòng ngài càng hoan hỷ lên.

Khi xe ra khỏi kinh thành, nó đã đi được chừng ba dặm nhờ các thần trợ lực, thì đến khoảng cuối một khu rừng mà người lái xe tưởng như là nghĩa địa. Vì thế gã nghĩ rằng đây là chỗ thích hợp, gã liền quay xe ra khỏi đường cái, dừng bên đường, bước xuống, lấy hết đồ trang hoàng của Bồ-tát cột thành một bó, đặt xuống đất rồi lấy xẻng ra bắt đầu đào hố.

Lúc đó Bồ-tát nghĩ: “Ðây là lúc ta phải vận dụng tận lực, mười sáu năm qua ta không hề cử động tay chân, không biết nay ta có điều khiển chúng được chăng? Thế là ngài đứng dậy, chà xát tay phải với tay trái, tay trái với tay phải, chà hai tay vào hai chân rồi quyết định bước ra khỏi xe. Khi chân ngài chạm đất, đất dội lên như cái túi da đầy khí và ngài sờ đuôi xe. Sau khi xuống xe, đi lui đi tới vài vòng ngài cảm thấy đã dư sức đi như thế này trong một trăm dặm một ngày.

Rồi ngài lại nghĩ: “Nếu gã lái xe chống đối ta, ta có đủ sức chống lại gã chăng?”. Vì thế ngài cầm lấy đuôi xe, nhấc nó lên như đồ chơi trẻ con và ngài tự nhủ: “Ta đủ sức chống lại gã”. Khi ngài nhận thức điều này, lòng ngài khởi lên một ước muốn được trang hoàng cho thật đẹp. Vào lúc ấy, cung Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) nóng rực lên. Thiên chủ Sakka tìm ra duyên cớ, liền bảo:

– Ước nguyện của Vương tử Temiya đã thành tựu rồi, ngài muốn được trang hoàng cho đẹp. Ngài có cần gì đồ trang sức của hạ giới?”.

Vì thế Thiên chủ truyền Thiên thần Vissakamma đem đồ trang sức thiên giới ra tô điểm cho con trai vua Kàsi. Vị này quấn lên mình vương tử cả vạn tấm vải vóc tua tỏ và trang điểm ngài bằng đủ loại trang sức của thiên đình lẫn hạ giới, chẳng khác nào Thiên chủ Sakka. Vương tử được điểm tô đủ mọi oai nghi lộng lẫy của một vị Thiên chủ, đi đến bên bờ hố mà người lái xe đang đào, vừa đứng vừa ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Sao chú lái xe lại vội vàng
    Bới đào hố nọ ở bên đàng,
    Trả lời câu hỏi ta thành thật:
    Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?

Người lái xe vẫn tiếp tục đào hố không ngước mắt lên nhìn và ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chúa thượng của ta thấy thiếu nhi
    Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
    Nên ta được lệnh đi đào hố
    Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.

Bồ-tát đáp lời:

  1. Hiền hữu, ta không bị điếc câm,
    Và ta cũng chẳng bị què chân,
    Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
    Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.
  2. Hãy ngắm tay chân đây của ta,
    Và nghe giọng nói thốt lời ra:
    Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
    Nếu chôn ta ở chốn rừng già
    .

Lúc đó người lái xe hỏi:

– Ai đấy? Chỉ từ lúc ta tới đây người mới lộ nguyên hình như người tả.

Vì thế gã dừng đào hố, ngước mắt lên chiêm ngưỡng dung mạo sáng ngời của ngài, gã không biết ngài là người hay thần thánh liền ngâm kệ:

  1. Chàng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
    Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
    Xin nói là con ai đấy nhỉ,
    Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?

Lúc ấy, Bồ-tát vừa lộ diện vừa thuyết Pháp và ngâm kệ:

  1. Chẳng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
    Cũng chẳng Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
    Ta chính Kà-si vương tử ấy
    Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.
  2. Ta chính con vua triều đại này
    Ngươi đang phục vụ hiển. vinh thay,
    Nếu đem ta đến đây chôn sống,
    Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.
  3. Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
    Tàn cây đổ bóng để che thân,
    Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
    Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.
  4. Cây che chỗ ấy chính là vua,
    Ta chính là cành lá tỏa ra,
    Ngươi lái xe là người lữ khách
    Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
    Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
    Nếu ở rừng này chôn sống ta.

Nhưng dù Bồ-tát nói vậy, gã này vẫn không tin ngài. Vì thế Bồ-tát quyết định thuyết phục gã, nên ngài làm cho cả khu rừng vang dậy tiếng nói của ngài và lời tán thán của chư Thiên, trong khi ngài bắt đầu ngâm mười vần kệ này để tôn vinh tình bằng hữu:

  1. Một kẻ trung thành với bạn thân,
    Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
    Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
    Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.
  2. Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
    Kinh thành, thị trấn khắp gần xa,
    Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
    Cũng được vinh quang danh vọng mà.
  3. Không đạo tặc nào dám tổn thương,
    Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
    Người nào trung tín cùng bằng hữu
    Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.
  4. Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
    Lòng không mòn mỏi với ưu sầu;
    Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
    Giữa đám bà con, đệ nhất cao.
  5. Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
    Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.
  6. Người nào biết quý trọng người đời,
    Sẽ được mọi người quý trọng thôi;
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Phần mình được tiếng tốt cao vời.
  7. Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
    Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên thần,
    Người nào trung tín cùng bằng hữu
    Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.
  8. Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
    Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành;
    Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
    Tất nhiên gặt hái mọi công thành.
    20. Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
    Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
    Người nào chung thủy cùng bằng hữu
    Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.
  9. Cây đa thách đố mọi cuồng phong
    Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
    Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
    Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.

Dù ngài đã thuyết Pháp như vậy, gã Sunanda vẫn không nhận ra ngài và cứ hỏi ngài là ai. Nhưng rồi gã đến gần xe và trước khi thấy rõ chiếc xe cùng mọi thứ trang sức mà vương tử mang trên người ngài, gã đã nhận ra ngài trong lúc nhìn ngài, liền quỳ xuống chắp tay lại, ngâm kệ:

  1. Ðến đây, này hỡi vị Vương gia,
    Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
    Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
    Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Ta không màng của cải, ngai vàng,
    Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
    Vì chính ngôi vua ta đã đạt
    Là do những ác nghiệp ta làm.

Người lái xe nói:

  1. Chén rượu đón mừng, Thái tử ôi,
    Ðược người chuẩn bị để chờ ngài,
    Phụ vương, mẫu hậu đầy hoan hỷ
    Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.
  2. Cung phi, mỹ nữ các vương gia,
    Vệ xá, Bà-la-môn, mọi nhà,
    Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
    Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.
  3. Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
    Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
    Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
    Khi Thái tử quay trở lại nhà.
  4. Thần dân thành thị đến thôn quê
    Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
    Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
    Khi nhìn Thái tử đã quay về.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Ta bị bỏ rơi bởi mẹ cha,
    Kinh thành, thị trấn ờ gần xa,
    Vương tôn bỏ mặc ta đành phận,
    Ta chẳng có nhà của chính ta.
  2. Mẫu hậu của ta cho phép đi,
    Phụ vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
    Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
    Ẩn sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.

Ðang khi nhớ lại các công hạnh của mình, một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài, và trong niềm hạnh phúc cao độ ngài thốt lên khúc đạo ca toàn thắng:

  1. Cũng giống những ai chẳng vội vàng
    Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
    Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
    Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.
  2. Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
    Tối cao cứu cánh được viên thành,
    Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
    Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.

Người lái xe đáp lại:

  1. Những lời ngài nói thật êm tai,
    Chân thật, sáng trong, lý lẽ ngài,
    Tại sao thuở trước đành câm lặng
    Khi thấy song thân ở cạnh hoài?

Bậc Ðại Sĩ bảo:

  1. Ta chẳng què vì thiếu khớp xương,
    Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
    Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
    Như dáng ta nay hiện rõ ràng.
  2. Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
    Trong tiền thân ấy được làm vua
    Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
    Ta thấy mình trong chốn ngục tù.
  3. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
    Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
    Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
    Ta đền tội ác đã gây ra.
  4. Dư vị hoàng gia thuở đã qua
    Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
    Cho nên ta phải đành câm lặng
    Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
  5. Phụ vương bồng bế trẻ vào lòng,
    Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
    Nghe lệnh vua ban đầy khắc nghiệt:
    “Tức thì giết kẻ đại cường gian,
    Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
    Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng”.
  6. Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
    Ta cố làm què lại điếc câm,
    Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
    Làm người ngu dại cũng đành phần.
  7. Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
    Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
    Ai vì đời sống mà khơi dậy
    Sân hận cho người khác khổ lây?
  8. Ai vì đời sống hại tha nhân,
    Ðể mặc cho mình trút hận sân,
    Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
    Và mù quáng trước lẽ công bằng?

Lúc đó gã Sunanda suy nghĩ: “Vương tử này từ bỏ vàng son cung điện như thể bỏ thây ma, nay vào rừng cương quyết sống đời ẩn sĩ, thế thì ta còn làm gì với cuộc đời khốn nạn này nữa? Thôi ta cũng muốn làm ẩn sĩ như ngài cho rồi”. Gã liền ngâm kệ:

  1. Tôi cũng ước mong chọn cuộc đời
    Của người khổ hạnh ở cùng ngài,
    Xin ngài hãy gọi tôi, Vương tử,
    Ẩn sĩ, như ngài muốn vậy thôi.

Khi nghe gã thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta nhận ngay gã này làm ẩn sĩ, thì cha mẹ ta không đến đây được và như thế sĩ chịu thiệt thòi, rồi ngựa xe và các vật trang sức này sẽ bị huỷ hoại. Ta sẽ bị buộc tội vì người đời sẽ bảo: “Hắn là quỷ dữ đã nuốt sống người lái xe”. Vì thế muốn tránh tiếng xấu cho mình và đem lại an lạc cho cha mẹ, ngài giao ngựa xe và các thứ trang sức lại cho gã rồi ngâm kệ:

  1. Trước tiên đem trả lại vương xa,
    Ngươi chẳng phải người được tự do,
    Trả nợ trước tiên, đời vẫn bảo,
    Rồi sau nguyền khổ hạnh ly gia.

Người lái xe nghĩ thầm: “Nếu ta về kinh thành trong lúc ngài bỏ đi nơi khác, rồi khi cha mẹ ngài hay tin ngài còn sống, sẽ cùng đến đây với ta để gặp ngài mà không tìm thấy ngài, họ sẽ trừng phạt ta. Thôi ta phải nói rõ hoàn cảnh này của ta cho ngài biết và xin ngài hứa ở lại đây”.

Vì thế gã ngâm hai vần kệ:

  1. Vì lẽ tôi theo lệnh của ngài,
    Thỉnh cầu Vương tử hãy nghe tôi,
    Xin ngài hãy rộng lòng hoan hỷ
    Làm những việc tôi sẽ mở lời:
  2. Xin hãy làm ơn nán lại chờ
    Ðến khi tôi thỉnh được vương gia,
    Phụ vương sẽ ngập tràn hoan hỷ
    Nhìn thấy dung nhan Vương tử mà.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Mong được như ngươi nói, quản xa,
    Ta đây hoan hỷ gặp vua cha,
    Mau đi chào hỏi toàn gia tộc,
    Ðặc biệt vấn an cha mẹ ta.

Người lái xe tuân lệnh.

  1. Rồi gã quản xa dậm bước chân
    Tỏ lòng cung kính thật ân cần,
    Bắt đầu công cuộc hành trình ấy
    Như mệnh lệnh ban của chủ nhân
    .

Vào lúc ấy Vương hậu Candà mở cửa, bà đang bồn chồn đợi tin con, cứ nhìn ra phía conđường người lái xe trở về, nên khi thấy gã về một mình, bà thét lên than khóc.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. Khi thấy một mình gã quản xa,
    Chiếc xe trống vắng, chợt nhìn ra,
    Tâm hồn tràn ngập niềm lo sợ,
    Mắt mẹ hiền dâng lệ ướt nhòa:
  2. Người quản xa kia mới trở về,
    Con ta bị giết ở đằng kia,
    Rừng hoang hiu quạnh con nằm đó,
    Ðất lại hòa cùng đất phủ che.

49-50. Cừu nhân cực ác sẽ hân hoan
Thấy kẻ sát nhân được vạn an,
Câm điếc, lại què chân, thử hỏi,
Làm sao con cất tiếng kêu van,
Nằm trên nền đất bơ vơ quá,
Con chiến đấu sao với sức tàn?

  1. Tay chân con chẳng đủ công năng
    Xô đẩy ngươi ra để thoát thân,
    Trong lúc nằm trên nền đất lạnh,
    Mặc dù câm điếc lại què chân?

Người lái xe tâu:

  1. Lệnh bà, xin thứ tội cho tôi,
    Xin để cho tôi được mở lời,
    Tôi sẽ kể bà nghe tất cả
    Những gì tôi đã thấy nghe rồi.

Vương hậu đáp:

  1. Ta nay hứa thứ tội cho ngươi,
    Ta để cho ngươi được mở lời,
    Hãy kể cho ta nghe tất cả
    Những gì ngươi đã thấy nghe rồi.

Người lái xe liền tâu:

  1. Ngài không câm điếc, chẳng què chân,
    Giọng nói ngài trôi chảy, sáng trong,
    Ngài đóng vai trò kia giả dạng
    Bởi vì ngài sợ chốn vương cung.
  2. Ngài vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
    Trong tiền thân ấy được làm vua,
    Nhưng từ ngôi báu, ngài rơi xuống
    Ngài thấy mình trong chốn ngục tù.
  3. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
    Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
    Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục
    Ngài đền tội ác đã gây ra.
  4. Dư vị hoàng gia một thuở xưa
    Làm ngài kinh hãi ngập tâm tư,
    Cho nên ngài phải đành câm lặng
    Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
  5. Thân thể ngài nay được kiện toàn,
    Cao sang tuyệt mỹ, dáng hùng cường,
    Giọng ngài trong sáng, tâm minh mẫn,
    Ngài chọn đời thanh tịnh bước đường.
  6. Nếu lệnh bà mong muốn gặp con,
    Tức thì hãy đến đó cùng thần,
    Ngắm nhìn Vương tử Te-my ấy
    An tịnh, thong dong thật vẹn toàn.

Nhưng khi vương tử cho người lái xe đi rồi, ngài muốn thực hiện ngay lời nguyền khổ hạnh. Biết được ước nguyện đó, Thiên chủ Sakka truyền gọi Vissakàmma (Thần xây dựng) và bảo:

– Vương tử Temiya nguyền khổ hạnh, vậy khanh hãy dựng cho ngài một túp lều lá với đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ.

Vì thế vị ấy vội ra đi, và đến một khu rừng rộng chừng ba dặm, vị ấy dựng một am ẩn sĩ có một gian dành để ở ban đêm và một gian để ở ban ngày, có một hồ nước, một cái giếng, nhiều cây ăn trái và chuẩn bị đầy đủ mọi vật dụng cần thiết cho một vị tu khổ hạnh rồi ra về.

Khi Bồ-tát thấy cảnh này, ngài biết đây là lễ vật cúng dường của Thiên chủ Sakka. Vì thế ngài bước vào lều, cởi trang phục của mình ra, mặc vào bộ y bằng vỏ cây màu đỏ, cả y trên lẫn y dưới và đắp tấm da hươu đen một bên vai, buộc mới tóc được bện chặt của ngài lại, rồi mang đòn gánh lên vai kia, cầm cây gậy và bước ra khỏi lều. Ngài đi quanh quẩn trong bộ y khổ hạnh ấy và đắc thắng nói to:

– Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!

Rồi trở về lều, ngồi kiết-già trên tấm thảm vải, ngài chứng đắc Năm Thắng trí (Năm Thần thông).

Buổi chiều ngài bước ra lượm vài lá cây kàra gần đó, nhúng vào bình bát nước của Thiên chủ Sakka cúng dường ngài, không có tý muối, chút bơ hay gia vị gì cả. Ngài ăn lá cây như thể ăn cao lương mỹ vị, rồi trong khi ngài quán sát Tứ Vô lượng tâm (Từ, bi, hỷ, xả), ngài quyết định an trú ở đó.

Trong lúc ấy vua Kàsi nghe lời gã Sunanda tâu, liền triệu tập vị tể tướng vào, ra lệnh thu xếp cuộc hành trình, vua phán:

  1. Thắng đủ ngựa vào các cỗ xe,
    Buộc cân đai cả đám voi kia,
    Tù và, trống nhỏ khua vang khắp,
    Ðánh dậy trống to cả tứ bề!
  2. Trống cao ầm ỹ tận không gian,
    Trống nhỏ âm vang thật dịu dàng,
    Tất cả kinh thành theo gót trẫm,
    Ta đi lần nữa đón hoàng nam.
  3. Các vương phi, tất cả hoàng gia,
    Vệ-xá, Bà-la-môn trẻ, già,
    Hết thảy thắng cương xe ngựa sẵn,
    Ta đi đón Thái tử về nhà.
  4. Các vị cởi voi, cỡi mã xa,
    Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia,
    Mọi người chuẩn bị lên đường gấp,
    Ta đến đón Vương tử lại nhà.
  5. Thần dân thành thị đến thôn quê,
    Khắp nẻo đường đông đảo tựu tề,
    Tất cả sẵn sàng theo gót trẫm,
    Ta đi đón Thái tử quay về
    .

Thế rồi đám quản xa ra lệnh thắng yên cương ngựa xong, đem xa giá đến trước cung môn, rồi thông báo để vua biết.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Ngựa Sindh dòng giống tuyệt cao sang
    Nai nịt yên cương trước ngọ môn,
    Các quản xa trình tin tức đến:
    “Cả đoàn chờ yết kiến long nhan”.

Nhà vua phán:

  1. “Bầy ngựa bất kham hãy loại ra,
    Ðừng đem ngựa yếu đến xe ta”.
    Lệnh vua như vậy vừa ban xuống,
    Tuân phục tức thì đám quản xa.

Quần hầu bảo đám quản xa:

– Ðừng đem theo các loại ngựa như thế.

Trước khi đi đón con, vua triệu tập bốn đẳng cấp trong triều, mười tám hội đoàn và toàn quânđội cũng tập họp trong ba ngày. Vào ngày thứ tư, sau khi đã đem tất cả đoàn tùy tùng lênđường, vua ngự giá đến thảo am ẩn sĩ. Ngài được Vương tử đón tiếp tại đó và đáp lễ con theo đúng nghi thức.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Lúc ấy vương xa đã sẵn sàng,
    Không còn trì hoãn, đấng quân vương
    Bước lên, gọi các bà phi hậu:
    “Tất cả cùng ta tiến bước đường”.
  2. Với quạt đuôi trâu, mão đội đầu,
    Lọng vua màu trắng ở trên cao,
    Ngài lên ngự giá vương xa ấy,
    Trang điểm ngọc vàng tuyệt mỹ sao.
  3. Rồi nhà vua lập tức đăng trình
    Cùng gã quản xa ở cạnh mình,
    Vội vã ngài đi ngay đến chốn
    Te-mi-ya trú thật thanh bình.
  4. Vương tử Te-mi thấy phụ vương
    Ðến đây, lộng lẫy, đại huy hoàng,
    Quanh mình chiến sĩ đoàn hầu cận,
    Vì vậy ngài lên tiếng nói rằng:
  5. “- Phụ vương, con chắc được an bình,
    Cha có đủ tin tức tốt lành,
    Con chắc các vương phi, mẫu hậu
    Thảy đều khang kiện ở triều đình?”
  6. “- Này con, cha vẫn được an bình,
    Cha có đủ tin tức tốt lành,
    Tất cả các vương phi, mẫu hậu,
    Quả đều khang kiện ở triều đình”.
  7. “- Con chắc cha không uống rượu men,
    Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
    Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
    Bố thí và hành động chính chuyên?”
  8. “- Thật vậy, cha không đụng rượu men,
    Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
    Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
    Bố thí và hành động chính chuyên.
  9. “-Bầy ngựa và voi của phụ vương,
    Con mong đều mạnh khỏe hùng cường,
    Không con nào phải mang thân bệnh,
    Không có yếu hèn hoặc bất tường”.
  10. “-Vâng, các bầy voi của phụ vương,
    Và bầy ngựa mạnh khỏe, hùng cường,
    Không con nào phải mang thân bệnh
    Không có yếu hèn hoặc bất tường”.
  11. “- Biên thùy cùng địa phận trung ương,
    Tất cả đều trù mật, lạc an,
    Xin hỏi các nơi này có đủ
    Các ngân khố với các kho tàng?
  12. Phụ vương, nay trẻ đón chào mừng,
    Hạnh ngộ giờ đây với phụ thân,
    Hãy đặt vương sàng ra tại chỗ
    Ðể ngài an tọa, hỡi ba quân!”

Nhà vua vì tỏ lòng cung kính đối với bậc Ðại Sĩ nên không muốn ngự trên long sàng. Bậc Ðại Sĩ liền nói:

– Nếu phụ vương không muốn ngự long sàng, hãy đem tọa sàng kết bằng lá trải cho ngài.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Xin hãy ngự trên thảm lá này,
    Trải cho đẹp ý phụ vương đây,
    Quân hầu lấy nước nơi này đến
    Ðể rửa tay chân Chúa thượng ngay.

Nhưng nhà vua vì lòng cung kính con ngài nên không chịu ngồi trên giường lá, chỉ ngồi dưới đất. Lúc ấy Bồ-tát vào thảo am lấy ra cây kàra, vừa mời vua cha, vừa ngâm kệ:

  1. Con không có muối, lá cây này
    Là thực phẩm con sống mỗi ngày,
    Cha đã đến đây làm khách quý,
    Xin vui lòng nhận thức ăn vầy
    .

Vua cha đáp:

  1. Lá cây không phải món cha ăn,
    Ðem đến cho cha chén gạo trong,
    Nấu với thịt hầm thơm dịu ngọt
    Ðể làm thành một món canh ngon
    .

Ngay lúc ấy, vương hậu Candàdevì được các vương phi hộ tống vừa đến nơi liền ôm chân con đảnh lễ, ngồi xuống một bên, đầm đìa nước mắt. Nhà vua bảo bà:

– Này ái hậu, hãy xem thức ăn của vương nhi.

Và vua đặt vài ngọn lá trong tay bà cùng các vương phi kia. Các bà này cầm lá và kêu:

– Ôi vương tử, ngài ăn uống như thế kia sao, ngài chịu khổ hạnh biết dường nào.

Rồi họ ngồi xuống, lúc ấy nhà vua bảo:

– Ôi vương nhi thật kỳ diệu thay!

Và vua ngâm kệ:

  1. Quả thật diệu kỳ đối với ta
    Vương nhi cô độc phải lìa nhà,
    Sống bằng thực phẩm nghèo hèn vậy,
    Tuy thế con không đổi sắc da.

Vương tử đáp:

  1. Trên thảm lá này được trải ra,
    Con nằm cô độc ở rừng già,
    Tọa sàng quả thật đầy an lạc,
    Vì thế con không đổi sắc da.
  2. Không đoàn vệ sĩ ác canh phòng
    Bao bọc chung quanh với kiếm trần,
    Sàng tọa thật là an lạc quá,
    Nên màu da trẻ vẫn tươi hồng.
  3. Con chẳng tiếc thương gì quá khứ,
    Cũng không than khóc chuyện tương lai,
    Con chờ hiện tại đang đi tới,
    Nên sắc da con giữ được hoài.
  4. Khóc than quá khứ đã qua rồi,
    Còn chuyện tương lai bất định thôi,
    Việc ấy làm khô sinh lực trẻ,
    Như khi người cắt cỏ xanh tươi.

Nhà vua nghĩ thầm: “Thôi để ta tấn phong cho vương nhi rồi đem con về triều với ta”. Vì thế ngài ngâm kệ mời vương tử về chung hưởng ngai vàng:

  1. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
    Bộ binh, kỵ sĩ của hoàng gia,
    Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  2. Và các hậu cung, cha cũng ban
    Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
    Con là vua ở ngôi duy nhất
    Ngự trị, không ai ở cạnh con.
  3. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
    Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha
    Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
    Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
  4. Con gái của bao vị địch quân,
    Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
    Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
    Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
  5. Con đầu lòng, kế vị cha đây,
    Trong tuổi đầu xuân rực rỡ vầy,
    Hãy tận hưởng ngai vàng trọn vẹn,
    Con làm gì ở thảo am này?

Bồ-tát đáp lại:

  1. Không, trẻ muốn từ giã thế gian,
    Tránh bao phù phiếm ở phàm trần,
    Cuộc đời khổ hạnh con yêu nhất,
    Khuyên nhủ như vầy mọi trí nhân.
  2. Không, con trẻ muốn xuất trần gian,
    Ẩn sĩ đơn thân ở thảo am,
    Con sẽ đi theo đời khổ hạnh,
    Con không thiết phú quý, ngai vàng.
  3. Con ngắm bé trai, miệng trẻ thơ
    Vừa kêu bập bẹ “mẹ” cùng “cha”,
    Lớn lên thành một chàng trai tráng,
    Rồi cũng già nua, phải chết mà.
  4. Cũng vầy, thiếu nữ độ hoa cười,
    Vui vẻ, đẹp xinh trước mọi người,
    Phút chốc úa tàn vì lưỡi hái
    Tử thần cắt bỏ tựa măng tươi.
  5. Mọi người nam nữ dẫu còn xuân,
    Phút chốc úa tàn, vậy thế nhân
    Ai đặt lòng tin vào cuộc sống
    Bị lừa phỉnh bởi tuổi xuân hồng?
  6. Ðêm tàn, nhường chỗ ánh bình minh,
    Phút chốc cũng thu ngắn lộ trình,
    Như cá ở vùng khô cạn nước,
    Nghĩa gì tuổi trẻ của nhân sinh?
  7. Ðời này bị đánh ngã, đau thương,
    Luôn bị canh phòng bởi địch quân,
    “Chúng” mãi đi qua đầy ác ý,
    Sao còn nói mão miện, ngai vàng?
  8. Ai đánh ngã đời sống thế gian?
    Nào ai canh giữ thật hung tàn?
    Nào ai ác ý đi qua mãi?
    Hãy nói chuyện huyền bí rõ ràng.
  9. – Thần chết đánh tan thế giới này,
    Tuổi già canh giữ cửa ta đây,
    Chính đêm tối vẫn trôi qua mãi,
    Ðạt thành mục đích chóng hay chầy.
  10. Như khi bà nọ bên khung cửi
    Ngồi dệt vải trong suốt cả ngày,
    Công việc của bà dần ít lại,
    Ðời ta tàn lụi cũng như vầy.
  11. Như thể dòng sông cuồn cuộn trôi
    Vẫn luôn trôi chảy chẳng hề lui,
    Dòng đời thế tục là như vậy,
    Cũng cứ luôn đi tới mãi thôi.
  12. Như thể dòng sông cuốn thật xa
    Những cây bật gốc ở đôi bờ,
    Con người cũng chịu lao đầu tới
    Hủy hoại do thần chết, tuổi già.

Khi nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, vua sinh nhàm chán cuộc sống thế tục, chỉ muốn xuất gia, liền bảo:

– Ta không muốn trở về kinh thành nữa, ta sẽ sống đời tu hành tại đây, nếu con ta chịu về thành ta sẽ truyền trao cho cây lọng trắng này.

Vì thế vua cố thử mời mọc lần nữa để vương tử trở lại ngai vàng:

  1. Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
    Bộ binh, ky sĩ của hoàng gia,
    Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  2. Và các hậu cung, cha cũng ban
    Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
    Con là vua ở ngôi duy nhất
    Ngự trị, không ai ở cạnh con.
  3. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
    Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha,
    Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
    Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
  4. Con gái của bao vị địch quân
    Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
    Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
    Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
  5. Công khố và kho báu của cha,
    Bộ binh, ky mã của hoàng gia,
    Ðền đài cung điện đầy hoan lạc,
    Cha sẽ cho con tất cả mà.
  6. Nô lệ từng bầy phụng sự luôn,
    Vương phi, mỹ hậu để yêu thương,
    Ngai vàng tận hưởng, đầy khang kiện,
    Sao ở mãi đây chốn thảo đường?

Nhưng bậc Ðại Sĩ tỏ ra không chút gì ham thích ngai vàng:

  1. Sao kiếm giàu sang chẳng vững bền,
    Sao mong cầu vợ cũng quy tiên,
    Sao suy nghĩ mãi về xuân sắc,
    Thoáng chốc xuân xanh sẽ hết liền?
    Còn lại tuổi già hăm dọa đó
    Bao giờ cũng đứng cạnh triền miên.
  2. Ðâu lạc thú đem đến cuộc đời,
    Ðẹp giàu, ngự thiện, thú vui chơi,
    Thê nhi có nghĩa gì con nữa?
    Xiềng xích con nay giải thoát rồi.
  3. Ðiều con biết: mọi chốn đi đường
    Số phận luôn canh giữ chẳng ngừng,
    Lạc thú sang giàu đâu ích lợi
    Cho người thấy móng vuốt ma thần?
  4. Hôm nay làm việc bạn cần làm,
    Ai chắc ngày mai có ánh quang?
    Thần chết chính là viên đại tướng
    Không cho ai bảo đảm an toàn.
  5. Trộn luôn rình rập lấy kho tàng,
    Con đã thoát bao mối buộc ràng,
    Cha hãy trở về vương vị cũ,
    Con màng gì nữa với giang san?

Khi Bậc Ðại Sĩ chấm dứt bài giảng đầy thực tiễn của ngài, không những chỉ nhà vua và vương hậu nghe theo ngài, mà cả mười sáu ngàn cung phi cũng muốn sống đời tu hành. Rồi vua ban lệnh đi khắp kinh thành, cùng với tiếng trống vang dậy rằng ai muốn làm ẩn sĩ đều được đi tu với vương tử ngài.

Vua bảo mở cửa kho báu ra, truyền viết chiếu chỉ trên một chiếc dĩa vàng, dựng trên một cột tre, ban lệnh rằng các bình châu báu của vua sẽ được đem chưng bày ra nhiều nơi và kẻ nào muốn lấy cũng được.

Dân chúng bỏ nhà mở hết mọi cửa ngõ, như mở hội chợ, và ra đường vây quanh nhà vua. Vua cùng đám dân chúng ấy đều thề nguyền sống khổ hạnh trước Bậc Ðại Sĩ. Am ẩn sĩ được Thiên chủ Sakka cho dựng lên suốt ba dặm đường. Bậc Ðại Sĩ bước qua các túp lều làm bằng lá cành cây này, chỉ định các lều ở giữa dành cho đám phụ nữ vì họ bản tánh rụt rè. Còn những lều bên ngoài dành cho phái nam. Vào ngày Trai giới, họ đều đứng ở vùng đất ấy, tụ tập lại, ăn trái cây do Vissakamma trồng trước đây, và họ giữ giới luật tu hành. Bậc Ðại Sĩ biết rõ tâm mỗi người nào đang chìm đắm vào dục tưởng, sân tưởng hay hại tưởng, liền ngồi trên không mà thuyết Pháp cho từng người, và trong khi nghe Pháp, họ chóng tăng trưởng các Thắng trí và các Thiền chứng.

Một vị vua láng giềng hay tin vua Kàsi đã trở thành vị khổ hạnh, liền quyết định lập vương quốc của mình tại Bàlani. Vì thế vua ấy vào kinh thành, thấy khắp nơi trang hoàng rực rỡ. Vua bước vào cung chiêm ngưỡng đồ thất bảo và nghĩ thầm chắc phải có chuyện nguy hiểm gì đó quanh ngôi báu này. Vua bảo đi triệu vào vài kẻ đang say rượu và hỏi họ vị vua trước đây rời cung điện bằng cung môn nào.

Họ tâu lên:

– Bằng đông môn.

Vì thế vua thân hành ra cổng thành ấy và đi thẳng tới dọc theo bờ sông. Bậc Ðại Sĩ biết vua ấyđến, bước ra đón vua và ngồi trên không thuyết Pháp. Rồi lúc đó vị vua định chiếm nước này lại nguyện xuất gia cùng với hội chúng của mình. Và việc này lại xảy ra một lần nữa cho một vị vua khác.

Như vậy có cả ba quốc độ không người cai trị, voi ngựa được thả đi lang thang khắp các khu rừng. Xe ngựa gãy tan tành vứt trong rừng, tiền bạc trong các kho báu nhiều như cát bụi, tung vãi quanh vùng am ẩn sĩ. Các cư dân tại đó chứng đắc tám Thiền chứng và lúc mạng chungđều được sinh lên Phạm thiên giới. Ngoài ra, ngay cả ngựa voi có tâm được an tịnh nhờ chiêm ngưỡng các bậc Hiền trì, cuối cùng được tái sinh vào sáu cõi thiên ở dục giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại này xong, Ngài bảo:

– Không phải chỉ ngày nay, mà ngày xưa kia ta cũng đã từ bỏ ngai vàng và xuất gia sống đời khổ hạnh.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Nữ thần trong chiếc lọng là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), người lái xe là Sàriputta (Xá-lợi-phất), cha mẹ ta là vương tộc ngày nay, triều đình là hội chúng của đức Phật và Hiền giả què câm Mùgapakka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại vương Mahàjanaka (Tiền thân Mahà-Janaka)

Chàng là ai chiến đấu anh hùng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi đang ở tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự xuất thế cao cả của Ngài.

Một ngày kia, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bàn luận về việc xuất thế của đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư đến và thấy vấn đề này, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai thực hành Ðại sự Xuất thế, trước kia Như Lai cũngđã làm như vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua tên là Mahàjanaka trị vì ở Mithilà trong quốc độ Videha. Ngài có hai con trai là Aritthajanaka và Polajanaka. Ngài phong thái tử làm vua kế nghiệp và vương tử thứ hai làm Ðại tướng quân. Sau đó, khi vua Mahàjanaka qua đời, Aritthajanaka lên ngôi vua và lại phong vương đệ làm vị kế nghiệp.

Một ngày kia có một nô lệ vào tâu vua rằng vương đệ muốn giết ngài. Nhà vua nghe tâu chuyện đó nhiều lần, đâm ra nghi ngờ, ra lệnh cầm tù Polajanaka trong gông cùm và canh giữ chàng kỹ ở một nơi không xa hoàng cung. Vương tử phát nguyện:

– Nếu ta là kẻ thù của anh ta, thì cứ cho các xiềng xích và cửa ngõ không ai mở ra được; nếu không, thì xin các xiềng xích cửa ngõ hãy mở ra hết.

Lập tức các xiềng xích đứt ra từng mảnh và cửa ngõ bật tung. Vương tử liền thoát ra, đi đến một làng ở biên thùy và sống ở đó.

Dân chúng nhận ra vương tử, liền đến hầu hạ chàng, vì thế nhà vua không thể nào ra lệnh bắt chàng được. Dần dà chàng trở thành người cai trị xóm làng ở biên địa ấy. Với đám tùy tùng đông đảo, chàng nghĩ thầm: “Ngày trước ta không phải là kẻ thù của anh ta, nhưng nay ta lại là kẻ thù của anh ta rồi”. Thế rồi chàng trở lại Mithilà với đám hầu cận đông đảo đóng quân phía ngoài kinh thành.

Dân chúng hay tin vương tử trở về, liền đem voi ngựa đến đón chàng, và dân chúng các thành thị khác cũng đến tụ tập quanh vương tử. Sau đó chàng gửi một thông điệp cho anh của chàng: “Ngày xưa ta không phải là kẻ thù của ngươi, nhưng nay ta chính là kẻ thù của ngươi đó. Hãy trao lại ta cây lọng trắng của vua, không thì ta gây chiến”.

Khi vua sắp ra chiến trường, ngài giã từ chánh hậu:

– Này ái khanh, không ai biết trước được thắng bại ở sa trưởng. Nếu ta có mệnh hệ nào, ái khanh phải bảo vệ vương nhi trong bụng thật cẩn thận.

Rồi ngài ra đi và binh lính của vương tử Polajallaka đã sớm kết liễu đời ngài trong chiến địa. Tin nhà vua tử trận gây đại hỗn loạn khắp kinh thành. Vương hậu hay tin dữ vội thu góp tư trang quý giá nhất vào trong một chiếc giỏ, trải khăn và gạo trên mặt, ăn mặc dơ bẩn và cải trang, đội giỏ lên đầu và trốn đi vào lúc bất ngờ không ai hay biết.

Bà đi ra cửa bắc nhưng bà không biết đường, vì bà chưa hề đi đâu cả, lại không biết nhắm hướng địa bàn. Trước kia bà có nghe nói đến kinh thành Kàlacampà, nên bà ngồi chờ hỏi thăm xem có ai đi đến đến Kàlacampà không.

Lúc bấy giờ hài nhi trong bụng bà không phải đứa trẻ tầm thường, mà đó là Bậc Ðại Sĩ tái thế, sau khi đã thành tựu các công hạnh Viên mãn (Ba-la-mật), nên Thiên giới Sakka rúng động vì uy lực của vị ấy. Thiên chủ Sakka xem xét duyên cớ và nghĩ rằng có lẽ một Bậc Ðại Sĩ tài đức đang được cưu mang trong bụng chánh hậu, nên ngài phải đi xem sao. Thế là ngài làm phép hiện ra một chiếc xe có phủ trần và đặt một chiếc giường lên, rồi đứng đợi trước cửa ngôi nhà vương hậu đang ngồi, giả dạng làm một lão già lái xe ngựa và hỏi có ai muốn đi đến Kàlacampà không.

– Cha ơi, con muốn đi đến đó.

– Thế thì leo lên mà ngồi, thưa bà.

– Cha ơi, con có thai gần ngày nên không leo được con muốn ngồi đằng sau, cho con chỗ để chiếc giỏ này của con thôi.

– Bà mẹ ơi, nói gì vậy? Không ai biết lái xe như lão đâu đứng sợ, cứ leo lên và ngồi xuống.

Nhờ thần lực của Thiên chủ, mặt đất trồi lên cao đưa bà leo lên đến tận phía sau xe. Khi nằm trên giường, bà đoán biết đây phải là một vị thần. Vừa đặt mình xuống chiếc giường thần, bà liền ngủ ngay. Sau chừng ba mươi dặm đường, Sakka Thiên chủ đến một con sông, đánh thức bà dậy, bảo:

– Bà mẹ ơi, hãy dậy mà tắm sông, đầu giường có một cái áo choàng, cứ mặc vào, trong xe có bánh, cứ ăn nhé.

Bà làm theo lời Thiên chủ rồi lại lên giường nằm đến chiều tối. Khi đến Campà, bà thấy cổng thành, tháp chuông và thành lũy, bà hỏi thành này tên gì, Thiên chủ đáp:

– Thành Campà đó, bà mẹ ơi?

– Cha nói gì thế, từ kinh thành của con đến Campà không phải sáu mươi dặm đường đó sao?

– Ðúng vậy, bà mẹ ơi, nhưng lão biết đường tắt.

Thế rồi ngài để bà xuống xe ở cổng nam.

– Bà mẹ ơi, làng của lão ở đằng kia kìa, bà mẹ cứ vào kinh thành đó.

Nói xong Thiên chủ Sakka biến đi, trở lại cõi trời.

Vương hậu ngồi xuống một thềm nhà bên đường. Lúc bấy giờ có một Bà-la-môn dạy kinh Vệ-đà, ở tại thành Campà, đang cùng năm trăm đệ tử đi tắm, chợt thấy vương hậu ngồi đó, dáng điệu xinh đẹp và thanh lịch. Và nhờ thần lực của Bậc Ðại Sĩ trong bụng bà, nên người này thấy mến yêu bà ngay như đối với một cô em gái, liền bảo các đồ đệ đợi bên ngoài, một mình đi vào thềm nhà, hỏi bà:

– Này cô em, cô ở xóm làng nào?

Bà đáp:

– Ta là Chánh hậu của vua Aritthajanaka ở kinh thành Mithilà.

– Tại sao bà đến đây?

– Vua mới bị em ngài giết chết, ta sợ quá phải đến đây để cứu mạng đứa con sắp ra đời.

– Thế bà có họ hàng tại đây không?

– Không ai cả, cha à.

– Ðừng lo gì cả, ta là một Bà-la-môn miền Bắc thuộc gia đình có thân thế lớn, ta là một đại sư danh tiếng khắp xa gần, ta sẽ chăm sóc bà như em gái ta vậy, hãy gọi ta là anh và ôm chân ta mà la khóc to lên nào!

Bà liền khóc lóc thảm thiết, gục dưới chân ông ta, và họ an ủi lẫn nhau. Các đệ tử của ông thầy chạy đến hỏi cớ sự ra sao.

– Ðây là em gái út của ta, cô ấy sinh ra lúc ta đã đi xa nhà.

– Ồ sư phụ đừng buồn, bây giờ sư phụ đã gặp lại sư muội rồi.

Ông thầy liền bảo đem lại một xe lớn có mui trên, mời bà lên ngồi và đưa về nhà mình, dặn họ bảo bà vợ ông ta rằng đây là em gái mình và phải đón tiếp tử tế. Bà vợ vị Bà-la-môn này đem nước ấm cho bà tắm xong, dọn giường cho bà nằm. Người Bà-la-môn đi tắm về, vào giờ cơm ông cho gọi cô em gái ra cùng ăn và chăm sóc bà chu đáo trong nhà ông.

Chẳng bao lâu bà hạ sinh một con trai, họ đặt tên hài nhi theo tên tổ phụ là vương tử Mahàjanaka. Khi lớn lên, cậu bé thường chơi đùa với các thiếu niên khác, và khi chúng trêu ghẹo cậu để khoe dòng dõi chính thống quý tộc (Khattiya) của chúng, cậu thường đánh lại chúng bằng sức mạnh siêu đẳng và lòng dũng cảm của mình.

Khi chúng kêu khóc và được hỏi ai đánh chúng, chúng thường trả lời:

– Con bà góa.

Vương tử suy nghĩ: “Chúng cứ gọi ta là con bà góa mãi, ta sẽ hỏi mẹ xem sao”.

Một hôm cậu hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con là con của ai?

Bà nói dối cậu, bảo rằng vị Bà-ba-môn là cha cậu. Khi cậu đánh chúng bạn, chúng lại gọi cậu là con bà góa, cậu trả lời vị Bà-la-môn là cha của cậu, chúng vặn lại:

– Vị Bà-la-môn là gì của bạn?

Cậu suy nghĩ: “Mấy tên này bảo ta: Vị Bà-la-môn là gì của ta. Mẹ ta không muốn giải thích việc này cho ta, bà không muốn nói thật vì danh dự của bà, thôi ta phải xin bà nói sự thật cho ta rõ”.

Thế rồi khi bú sữa mẹ, cậu cắn vú bà và bảo:

– Mẹ hãy cho con biết cha con là ai, nếu không con sẽ cắn đứt vú mẹ đấy.

Bà không thể dối cậu được nữa, đành đáp:

– Con ơi, con là con vua Aritthajanaka ở thành Mithila đó, cha con bị chú Polajanaka giết, mẹ phải đem con đến đây để cứu mạng con; vị Bà-la-môn này xem mẹ như em gái và săn sóc mẹ chu đáo.

Từ đó cậu không tức giận khi ai gọi cậu là con bà góa nữa. Trước năm mười sáu tuổi, cậu đã thuộc ba tập kinh Vệ-đà và nhiều môn học khác. Khi đến mười sáu tuổi, cậu rất khôi ngô tuấn tú. Cậu nghĩ thầm: “Ta sẽ chiếm lại ngai vàng của cha ta”. Thế rồi cậu hỏi mẹ:

– Mẹ có tiền không mẹ? Nếu không, con sẽ đi buôn kiếm tiền và dành lại ngai vàng của cha con.

– Con ơi, mẹ đến đây không phải hai tay trắng đâu, mẹ có để dành ngọc ngà châu báu kim cương đủ để chiếm lại ngai vàng. Hãy đem chúng đi giành lại ngôi vua, đừng tính đi buôn nữa.

– Thưa mẹ, hãy cho con một nửa số châu báu đó, con sẽ đi đến Suvannabhùmi (Xứ vàng) và làm giàu tại đó xong mới đi lấy lại ngai vàng.

Cậu xin bà một nửa số châu báu và cùng với số vốn liếng đi buôn của cậu, cậu đem theo chiếc tàu buôn một số thương nhân đi đến Suvannabhùmi. Cậu từ giã mẹ và nói cho bà biết nơi cậu sắp đến.

– Con ơi, đi biển may ít rủi nhiều, con đừng đi. Con có đủ vàng bạc để chiếm lại ngôi báu mà.

Nhưng cậu nói với mẹ rằng cậu muốn đi, nên cậu từ giã bà và lên tàu ra khơi. Cùng ngày ấy, vua Polajanaka phát trọng bệnh không ngồi dậy được. Còn chiếc tàu buôn chở cả bảy đoàn lữ hành cùng đám gia súc của họ, trong bảy ngày đi được bảy trăm dặm đường. Nhưng vì quá nặng nề không thể chịu đựng được nữa, ván tàu nứt ra, nước ùa vào mỗi lúc một cao thêm. Tàu bắt đầu chìm giữa biển cả trong lúc các thủy thủ la khóc thảm thiết và cầu cứu các thần linh.

Riêng bậc Ðại Sĩ không hề kêu khóc cầu cứu gì cả. Biết rằng con tàu đã tận số, ngài trộnđường với bơ tươi ăn thật no nê, rồi bôi dầu vào áo quần sạch, thắt chặt đồ đạc quanh mình cậu và đứng dựa cột buồm. Khi con tàu chìm, chiếc cột buồm vẫn đứng thẳng. Người vật trên tàu đều làm mồi cho cá và rùa trạnh. Nước biển nhuộm màu máu cả một vùng.

Nhưng bậc Ðại Sĩ đứng trên cột buồm, định hướng thành Mithilà, rồi bay bổng lên từ đỉnh cột buồm, vận dụng hết sức mạnh băng qua bầy cá rùa biển ấy và rơi xuống cách con tàu chừng khoảng một trăm bốn mươi cubit (1 cubit: 45cm). Cũng vào ngày đó vua Polajanaka từ trần.

Sau đó, bậc Ðại Sĩ vượt dòng sóng biếc, rẽ sóng như một khối vàng ròng. Một tuần trôi qua như chỉ một ngày. Khi đã thấy bờ, ngài liền súc miệng và nhịn ăn. Lúc bấy giờ tiên nữ Mammekhalà (Ngọc Ðới) được Bốn vị Thiên vương cai quản thế gian phong làm thần giữ biển. Các vị ấy bảo nàng:

– Những con người có đạo hạnh như hiếu thảo với mẹ không đáng bị chết chìm dưới biển. Hãy tìm thử và cứu họ.

Nhưng trong bảy ngày liền, nàng chẳng nhìn ra biển và có người cho là tâm trí nàng đã ngẩn ngơ vì ham hưởng lạc thú thiên giới. Có người lại cho là nàng bận đi dự hội ở thiên đình. Tuy thế, đến ngày thứ bảy nàng cũng nhìn ra biển và tự nhủ: “Hôm nay là ngày thứ bảy rồi ta không nhìn ra biển, ai đang tiến tới kia?” Khi thấy Bậc Ðại Sĩ , nàng nghĩ thầm: “Nếu vương tử Mahàjanaka đã chết chìm dưới biển thì lẽ ra ta đã phải đi dự hội tại thiên đình rồi”.

Vì thế này hóa hình thật lộng lẫy đứng trên không gần chỗ Bồ-tát và ngâm vần kệ thứ nhất để thử năng lực của ngài:

  1. Chàng là ai chiến đấu anh hùng
    Giữa đại dương xa hẳn đất bằng,
    Bạn hữu là ai chàng tín nhiệm
    Ðến bên chàng giúp một tay cùng?

Bồ-tát đáp lời:

– Ðây là ngày thứ bảy ta ở trên đại dương, ngoài ta ra không có bóng người thứ hai nào cả. Aiđang nói với ta vậy kìa?

Rồi nhìn lên không trung, ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Biết phận sự ta ở cõi trần,
    Khi ta nỗ lực, hỡi Thiên thần,
    Nơi đây giữa đại dương xa đất,
    Ta đấng nam nhi gắng hết lòng.

Vì muốn nghe Pháp lành, nữ thần liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ðây giữa biển sâu rộng chẳng cùng,
    Bến bờ xa tít mắt vời trông,
    Sức chàng tận dụng thành mây khói,
    Giữa đại dương, chàng gặp tử thần
    .

Bồ-tát trả lời:

– Tại sao nàng nói như vậy? Nếu ta mất lòng trong lúc ta gắng hết sức mình thì dẫu sao đi nữa ta cũng không còn bị ai chê trách.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ai làm gắng hết sức nam nhân,
    Ðối với người thân, chẳng lỗi lầm,
    Thiên đế cũng không đòi trả nợ,
    Chẳng hề ân hận ở trong lòng.

Kế đó nữ thần ngâm kệ:

  1. Chiến đấu như vầy ích lợi sao,
    Phí công vô ích được gì nào?
    Báo đền không có gì thành đạt,
    Chỉ có tử thần đổi khổ đau.

Thế là Bồ-tát ngâm các vần kệ sau để cho nữ thần thấy nàng nhận xét thiếu sáng suốt:

  1. Ai nghĩ không gì để đấu tranh,
    Và không chiến đấu hết lòng mình,
    Bại vong là lỗi cần chê trách,
    Vì chính lòng hèn yếu bất thành.
  2. Con người dự định việc trên đời,
    Làm việc mình xem tốt tuyệt vời,
    Dự định thành công hay thất bại,
    Tương lai chỉ rõ cuối cùng thôi.
  3. Nữ thần chẳng thấy đó hay chăng,
    Chính việc ta nay quyết định phần:
    Bao kẻ chết chìm, ta được sống,
    Và nàng đang đứng cạnh trên không.
  4. Vậy ta chiến đấu hết sức ta
    Qua giữa đại dương thẳng đến bờ,
    Trong lúc sức tàn, ta vẫn gắng,
    Quyết không lùi đến lúc nguy cơ.

Nữ thần nghe những lời lẽ anh dũng đó, liền ngâm vần kệ tán thán ngài:

  1. Chàng đang chiến đấu thật hùng cường,
    Giữa biển mênh mông thật bạo tàn,
    Chẳng thối lui, chối từ nhiệm vụ,
    Gắng công nơi phận sự chờ chàng,
    Hãy đi đến chốn lòng chàng muốn,
    Ðứng để gian nan cản bước đường.

Sau đó nữ thần hỏi ngài muốn đưa đi đâu, ngài đáp:

– Tới kinh thành Mithilà.

Nàng liền tung ngài lên không như một tràng hoa, rồi ôm ngài vào lòng như đứa con thân yêu, và vụt lên giữa không gian. Bồ-tát ngủ suốt bảy ngày, thân thể ướt đầm nước muối và rúng động vì sự tiếp xúc với thần tiên này. Rồi nữ thần mang ngài đến Mithilà, đặt ngài nằm nghiêng bên hữu trên bệ đá dùng để tế lễ trong một vườn xoài, giao cho các nữ thần trong ngôi vườn phò trợ ngài rồi trở về nơi cũ.

Lúc bấy giờ vua Polajanaka không có vương tử, chỉ có một công chúa thông thái và hiền đức, tên là Sìvalidevì. Quần thần hỏi nhà vua khi ngài sắp băng hà:

– Tâu Ðại vương, chúng thần sẽ trao ngôi báu cho kẻ nào khi Ðại vương về chầu trời?

Nhà vua bảo:

– Hãy giao lại cho kẻ nào làm đẹp lòng công chúa Sìvalì, hoặc người nào biết được đâu là phía đầu của chiếc ngự sàng hình vuông, hoặc người nào giương được chiếc cung cần sức mạnh của cả ngàn người, hoặc người nào tìm ra được mười sáu kho báu.

– Tâu Ðại vương, xin cho chúng thần biết danh sách mười sáu kho báu ấy.

Nhà vua liền lập lại danh sách ấy:

  1. Kho báu mặt trời mọc buổi mai,
    Kho tàng kia lại ở phương đoài,
    Kho tàng trong với kho ngoài ấy,
    Kho báu không trong cũng chẳng ngoài.
  2. Kho ở nơi lên xuống của ta,
    Ở nơi có bốn trụ sà-la,
    Ở đầu răng với đầu đuôi ấy,
    Và ở vòng dây yo-ja-na,
    Ở các đầu cành cây cổ thụ,
    Ở trứng nước lạnh ke-bu-ka.
  3. Mười sáu kho châu báu ngọc vàng,
    Phải tìm nơi để các kho tàng,
    Chiếc cung cần một ngàn nam tử,
    Làm đẹp lòng công chúa, ngự sàng.

Ngoài các kho báu trên, vua còn nêu danh sách các kho báu khác. Sau khi vua từ trần, các đại thần làm lễ tống táng xong, vào ngày thứ bảy, họ hội họp lại và quyết định:

– Ðại vương ban lệnh chúng ta giao ngôi báu cho kẻ nào làm đẹp lòng con gái ngài, nhưng ai là kẻ có khả năng làm vừa ý công chúa đây?

Họ đồng đáp:

– Viên đại tướng là một kẻ được vua sủng ái.

Thế rồi họ cho triệu vị này đến. Vị này liền đến trước cung môn và báo cho công chúa biết ông ta đã đến chầu. Công chúa hiểu duyên cớ gì ông ta đến và để thử xem ông ta có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng của hoàng gia không, nàng cho triệu ông ta vào. Nghe lệnh công chúa và ước mong làm đẹp lòng nàng, ông liền chạy lên bệ rồng và đứng cạnh nàng. Muốn thử ông, nàng bảo:

– Chạy ra ngoài sân, nhanh lên!

Ông ta vùng lên chạy, tưởng là công chúa hài lòng lắm. Công chúa lại bảo:

– Ðến đây.

Ông ta vội chạy đến. Công chúa thấy ông ta thiếu hẳn tài trí, nàng nói:

– Ðến xoa chân ta.

Ông ta liền ngồi xuống xoa chân công chúa cho nàng hài lòng. Thế là nàng đá vào ngực ông ta té lăn rồi bảo đám thị nữ:

– Ðánh tên khùng mù quáng ngu ngốc này và lôi cổ nó ra.

Chúng dạ vang tuân lệnh. Rồi chúng nói với ông:

– Thưa Ðại tướng. . .

Ông ta đáp:

– Thôi đừng nói nữa, nàng ấy không phải là người.

Sau đó viên quan giữ kho tàng đến, nàng cũng làm nhục ông ta như vậy. Lần lượt các viên quan giữ kho, giữ lọng, giữ kiếm đều bị nàng hạ nhục.

Thế rồi quần thần quyết định:

– Không kẻ nào làm đẹp lòng công chúa, vậy hãy gả nàng cho kẻ nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Nhưng không ai giương cung nổi cả. Sau đó họ bảo:

– Hãy gả nàng cho người nào biết được đâu là đầu của chiếc ngự sàng hình vuông.

Nhưng không một ai biết cả.

– Vậy thì gả nàng cho kẻ nào tìm được mười sáu kho tàng.

Nhưng rồi cũng chẳng ai tìm ra. Sau đó quần thần họp lại bảo nhau:

– Ngôi báu không thể nào không có vua trị, vậy phải làm gì bây giờ?

Lúc đó vị tế sư của hoàng gia bảo họ:

– Ðừng lo, ta phải đem ra một chiếc xe hoa, hễ vị nào được xe hoa rước về là sẽ có đủ uy lực cai trị cõi Diêm-phù-đề.

Họ chấp thuận, ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, cho bốn con ngựa màu đỏ tía buộc vào chiếc xe hoa, phủ kín màn vải lên chúng, gắn năm phù hiệu của hoàng gia vào và một đám tùy tùng vây quanh bốn phía xe. Bấy giờ tiếng kèn khua vang dội trước xe, chỉ có một người lái xe, ngoài ra không có ai ở trong xe cả. Sau đó, vị tế sư ra lệnh khua chiêng trốngđằng sau, và sau khi rảy nước trong chiếc bình bằng vàng lên dây cương và roi ngựa, vị này ra lệnh cho xe đi tìm vị vua đủ tài đức cai trị quốc độ.

Chiếc xe hoa oai vệ đi quanh hoàng cung rồi tiến ra đường cái. Vị đại tướng cùng nhiều viên quan trong triều đều tưởng rằng xe đang đi tới phía nhà mình. Nhưng rồi xe cứ đi thẳng ngang qua mọi phố phường trang nghiêm diễn hành quanh kinh thành, ra khỏi đông môn và tiến tới ngự viên. Khi ấy xe đi quá nhanh, đám hầu cận bảo xe dừng lại, nhưng vị tế sư bảo:

– Đừng dừng lại, cứ để nó đi một trăm dặm tùy thích.

Xe tiến vào ngự viên, trịnh trọng đi vòng quanh bệ đá và dừng lại như thể sẵn sàng cho người bước lên. Vị tế sư ngắm Bồ-tát đang nằm đó và bảo các vị đại thần:

– Thưa các ngài, ta thấy có người nằm đó, ta không biết người đó có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng trắng của hoàng gia không. Nếu vị này là người có tài thánh thì sẽ không thèm nhìn ta đâu, nhưng nếu đó là một kẻ hạ tiện thì sẽ giật mình khiếp sợ khi nhìn thấy ta, vậy hãy đánh chiếng trống lên cả nào.

Vì thế họ khua dậy hàng trăm thứ trống kèn chẳng khác nào tiếng gầm thét của biển cả. Bậc Ðại Sĩ lúc đó thức giấc vì nghe tiếng ồn ào, mở khăn che đầu ra nhìn quanh, thấy đám đông rầm rộ. Ngài nghĩ có lẽ chiếc lọng trắng đã đến tay ngài nên lại che đầu và quay sang nằm phía bên tả. Vị tế sư mở chân ngài ra xem, ngắm các tướng mạo của ngài và bảo:

– Ðừng nói một châu thiên hạ mà làm gì, vị này có đủ uy lực cai trị cả bốn châu.

Thế là ông ta ra lệnh đáng chiêng trống lại lần nữa.

Bồ-tát mở khăn trùm mặt ra, quay người sang bên hữu và nhìn đám đông. Vị tế sư trấn an mọi người xong, chắp hai tay lại, cúi xuống trước ngài cung kính nói:

– Xin Ðại vương đứng dậy, vương quốc này thuộc quyền ngài rồi.

Bồ-tát trả lời:

– Thế đức vua đâu?

– Vua đã băng hà.

– Ngài không có vương tử, vương đệ gì sao?

– Tâu Ðại vương, không.

– Thôi được, thế thì ta nhận ngai vàng.

Rồi ngài đứng dậy, ngồi xếp bằng trên bệ đá. Quần thần làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh lênđầu để phong vương) cho ngài tại đó và thế là ngài trở thành vua Mahàjanaka. Rồi ngài bước lên xe về thành với vẻ uy nghi lẫm liệt của bậc đế vương. Ngài vào cung, bước lên ngai vàng, ban chức tước cho vị đại thần và các quan lại khác.

Lúc bấy giờ công chúa muốn thử tài của ngài qua cách xử sự đầu tiên, liền cho gọi một thị vệđến bảo:

– Ngươi hãy tâu với Ðại vương là công chúa Sìvalì muốn mời ngài đến lập tức.

Vị vua tài trí này làm như không nghe lời gã, cứ tiếp tục phát họa cung điện:

– Phải thế này mới được.

Biết không thể nào làm nhà vua chú ý tới mình, gã trở lại tâu công chúa:

– Tâu công chúa, Ðại vương nghe công chúa nói vậy mà cứ tiếp tục phát họa sơ đồ hoàng cung thôi, ngài chẳng quan tâm gì đến công chúa cả.

Công chúa tự nhủ: “Ðây phải là người có tâm hồn cao cả lắm”. Và nàng cho một sứ giả thứ hai rồi thứ ba đến nữa. Sau cùng vua vào cung, dáng điệu thong dong thư thái, ngáp dài dáng như sư tử. Khi ngài đến gần, công chúa không thể nào đứng yên được trước vẻ uy nghi của ngài, liền bước lên đưa tay ra cho ngài vịn. Ngài cầm lấy tay nàng đi lên bệ vàng và sau khi ngự trên vương sàng, dưới cây lọng trắng, ngài hỏi các đại thần:

– Khi tiên đế thăng hà, ngài có chỉ dạy các ngươi điều gì không?

Họ đáp:

– Vương quốc phải được giao cho kẻ nào có thể làm đẹp lòng công chúa.

– Thế công chúa đã đưa tay cho ta vịn khi ta đến gần nàng, như vậy ta đã làm đẹp lòng nàng rồi, còn điều gì khác nữa?

– Tiên đế bảo vương quốc phải được trao lại cho kẻ biết được phía đầu của ngự sàng hình vuông này.

Vua đáp:

– Ðiều này khó nói thật, nhưng cũng có thể biết được nhờ sáng kiến.

Thế là ngài rút ra một cây kim vàng trên đầu ngài và đưa đưa cho công chúa, bảo:

– Đặt cái này vào cho đúng chỗ.

Nàng cầm lấy kim đặt vào đầu của chiếc ngự sàng.

Thấy vậy, họ đưa ra câu tục ngữ:

– Nàng trao tặng chàng thanh kiếm.

Nhờ dấu hiệu này, ngài biết đâu là phía đầu ngự sàng, nhưng cứ vờ làm như ngài không nghe họ nói. Ngài hỏi họ nói gì, và khi họ lập lại câu đó. Ngài bảo:

– Biết đầu chiếc ngự sàng cũng không kỳ diệu gì.

Rồi ngài hỏi:

– Còn gì để thử tài nữa.

Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, tiên đế ra lệnh trao ngôi báu cho người nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Khi họ đem cây cung đến theo lệnh ngài. Ngài giương nó lên ngay lúc đang ngồi trên long sàng như thể đó là cái khung xe chỉ của đàn bà.

– Cái gì nữa cứ nói đi – Ngài bảo.

– Tiên đế ra lệnh trao vương quốc cho kẻ nào tìm ra được mười sáu kho tàng.

– Danh sách đâu?

Các đại thần kể lại danh sách đã nói trên. Trong lúc nghe họ nói, ngài thấy ý nghĩa dần dần sáng tỏ ra như thể trăng hiện lên trên bầu trời.

– Hôm nay chưa phải lúc, để ngày mai ta sẽ đi lấy các kho báu.

Ngày hôm sau ngài họp quần thần lại và hỏi:

– Tiên đế trước đây có cúng dường các vị Ðộc Giác Phật không?

Khi nghe họ bảo có, ngài nghĩ thầm: “Mặt trời ở đây không phải là mặt trời thật, mà các vị Ðộc Giác Phật thường được gọi là mặt trời vì hình dáng tương tự như thế; vậy kho tàng phải ở nơi tiên đế thường đến gặp các vị này”. Rồi ngài bảo họ:

– Khi các vị Ðộc Giác Phật đến, tiên đế thường gặp các Ngài ở đâu?

Họ tâu lại nơi này nơi nọ. Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên và tìm ra kho tàng.

– Thế khi tiên đế tiễn các vị Ðộc Giác Phật ra về, tiên đế đứng ở đâu để tạ từ?

Họ tâu lại và ngài ra lệnh đào chỗ đó lên. Quần thần reo hò vang dậy tỏ lòng hân hoan đồng nói:

– Khi nghe nói chỗ mặt trời mọc, dân chúng trước kia đã quanh quẩn đào đất về phía mặt trời mọc thật, rồi khi nghe phía mặt trời lặn, họ lại đào đất phía đó, nhưng đây mới đúng là kho tàng châu báu, thật là kỳ diệu!

Khi họ bảo:

– Kho tàng bên trong.

Ngài liền cho đào lên kho tàng ở bậc thềm nhà bên trong đại môn của hoàng cung.

– Kho tàng bên ngoài.

Ngài liền cho đào kho tàng ở bên ngoài thềm.

– Không ở trong cũng không ở ngoài.

Ngài cho đào kho tàng ở dưới thềm.

– Ở nơi bước lên.

Ngài cho đào kho tàng ở nơi đặt chiếc thang bằng vàng để nhà vua ngự lên vương tượng.

– Ở nơi bước xuống.

Ngài cho lấy ra kho tàng ở nơi nhà vua ngự xuống từ vương tượng.

– Ở bốn cột trụ lớn bằng gỗ sàla.

Có bốn chân chống lớn dưới vương sàng, làm bằng gỗ sàla, nơi triều thần phủ phục trên sân chầu, từ đó ngài cho lấy ra bốn bình đầy châu báu.

– Vòng dây cương yojana.

Lúc bấy giờ yojana là vòng dây cương xe ngựa, thế là ngài cho đào quanh long sàng cỡ bằng một vòng dây cương ngựa, rồi lấy ra các bình châu báu.

– Kho tàng ở đầu răng.

Ở nơi vương tượng đứng, ngài lấy ra hai bình châu báu ngay trước hai ngà voi.

– Ở mút đuôi.

Từ nơi vương mã đứng, ngài lấy ra những bình châu báu nằm chỗ đối diện với cái đuôi của vương mã.

Trong nước kebuka.

Lúc bấy giờ, nước được gọi là kebuka, thế là ngài cho tát hết nước trong hồ của hoàng cung và lấy lên kho báu.

– Kho báu ở ngọn cây.

Ngài lấy ra các bình báu vật chôn trong khoảng tàng cây sàla che bóng trưa giữa vườn ngự uyển. Như vậy ngài đã lấy ra đủ mười sáu kho báu và hỏi xem còn nữa không, họ đồng đáp:

– Không còn.

Dân chúng vô cùng hoan hỷ. Nhà vua lại bảo:

– Ta sẽ đem châu báu này ra bố thí.

Thế là ngài bảo dựng lên năm sảnh đường bố thí giữa kinh thành và tại các cung môn rồi ban lệnh đại chẩn tế. Sau đó ngài truyền đi mời mẹ ngài và người Bà-la-môn từ Kalacampà về tuyên dương tán thán công đức của hai vị.

Trong những ngày đầu tiên trị nước, vua Mahàjanaka, con trai của vua Aritthajanaka, cai trị khắp mọi quốc độ ở Videha. Dân chúng bảo nhau:

– Hoàng đế thật tài đức, chúng ta muốn yết kiến long nhan.

Thế là cả kinh thành xôn xao muốn yết kiến tân vương, đem đến kinh đô đủ lễ vật từ khắp nơi. Họ chuẩn bị đại lễ tại kinh đô, phủ lên hào lũy cả hoàng cung một lớp hồ vữa in dấu tay của họ, treo đầy hương liệu và tràng hoa, tung vãi ngũ cốc rang, hoa, hương trầm mù mịt cả bầu trời và soạn sẵn đủ thức ăn uống. Khi mang lễ vật vào dâng lên vua, họ đứng vây quanh với đủ loại phẩm vật cứng, mềm, mọi thức uống, trái cây.

Ðám đại thần ngồi một bên, một bên là các Bà-la-môn, một phía nữa là các thương nhân giàu có, một phía nữa là các vũ nữ xinh đẹp, các Bà-la-môn danh ca có tài về lễ nhạc, hát vang những khúc hoan ca, với hàng trẫm nhạc cụ được khua động, cho nên hoàng cung vang dậy lên một âm thanh ầm ỹ như giữa lòng đại dương Yugandhara. Khi vua nhìn quanh mọi nơi, hết thảy đều rúng động.

Bồ-tát ngồi dưới cây lọng trắng, ngắm cảnh huy hoàng rực rỡ chẳng khác nào cung của Sakka Thiên chủ, và ngài hồi tưởng những chiến đấu gian nan của ngài trên đại dương. “Dũng cảm làđiều chính đáng cần phải biểu dương, nếu ta không biểu lộ lòng dũng cảm trên đại dương thì làm sao ta được huy hoàng như ngày nay?” Một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài trong lúc hồi tưởng quá khứ, khiến ngài lập tức bật lên một tiếng kêu to đắc thắng.

Sau đó ngài hoàn thành Thập vương pháp (mười nhiệm vụ của một anh quân), cai trị rất đúng pháp và thường cúng dường các vị Ðộc Giác Phật. Cùng với thời gian này, hoàng hậu Sìvalì hạ sinh một hoàng nam đầy đủ các tướng tốt lành và được đặt tên là Dìghàvu-Kumàra (Vương tử Trường Thọ).

Khi hoàng tử lớn lên, nhà vua phong con làm kẻ phó vương.

Một ngày kia, người giữ vườn ngự uyển đem dâng vua đủ loại hoa quả. Vua rất đẹp ý và muốn làm vinh dự cho gã, ngài bảo gã trang hoàng ngôi vườn ngự uyển rồi ngài sẽ đến viếng. Người làm vườn vâng lời ngài dạy, xong tâu vua. Ngài liền ngự vương tượng có đám cận thần theo hầu, đi vào cổng ngự viên.

Bấy giờ gần đó có hai cây xoài xanh tươi, một cây không trái, còn một cây đầy trái rất ngon ngọt. Trước đây vua chưa nếm trái nào nên không ai dám hái cả. Ngay khi nhà vua đi ngang qua trên mình voi ngài hái một trái ăn thử. Lúc quả xoài đụng đầu lưỡi ngài một mùi hương cao quý xông lên khiến ngài nghĩ thầm: “Khi trở về, ta sẽ hái thêm nhiều trái nữa”. Nhưng khi được biết vua đã nếm trái đầu tiên rồi thì mọi người từ thái tử đến các người quản tượng đều tụ tập lại ăn xoài, còn những người không ăn trái thì lại lấy gậy phá cây, ngắt lá cho đến lúc cây tơi tả, xơ xác trong lúc cây kia vẫn đứng sững tươi đẹp như một ngọn núi ngọc bích. Khi ra khỏi ngự viên, thấy vậy vua liền hỏi các đại thần. Họ tâu:

– Khi đám người này thấy Hoàng thượng đã “ngự” trái đầu tiên rồi, thì họ phá cây.

– Nhưng cây kia không mất một ngọn lá nào.

– Nó không thiệt hại gì vì nó không có quả.

Vua vô cùng xúc động: “Cây này giữ được màu xanh tươi vì nó không có quả, trong lúc cây bạn nó bị tan tành vì có quả. Vương quốc này cũng như cây có quả kia, còn đời người tu hành chẳng khác nào cây không trái. Chính người có của cải mới sợ hãi, chứ kẻ mình trần thân trụi thì chẳng phải sợ gì. Ta sẽ giống như cây không trái kia, chứ chẳng giống cây có trái nọ tý nào. Ta quyết sẽ từ bỏ tất cả cảnh huy hoàng lại, từ bỏ thế gian và trở thành vị khổ hạnh”. Quyếtđịnh vậy xong, ngài mới vào thành, đứng ở cửa cung, cho mới vị đại tướng vào bảo:

– Này Tướng quân, từ hôm nay đừng cho ai yết kiến ta, trừ một thị giả đem cơm cho ta và một thị giả khác đem nước và bàn chải cho ta súc miệng. Còn khanh hãy cùng các Chánh phán quan lão thần trong triều lo cai trị nước. Từ nay ta sẽ sống tu hành như một ẩn sĩ đệ tử Phật trên tháp hoàng cung.

Nói xong, ngài đi lên đỉnh tháp hoàng cung một mình và sống đời tu sĩ theo đạo Phật.

Thời gian qua, dân chúng tụ tập trong sân chầu mà không yết kiến Bồ-tát được, họ bảo nhau:

– Ngài chẳng giống Ðại vương của ta ngày trước.

Rồi họ ngâm kệ:

  1. Chúa thượng, Ðại vương cõi thế gian,
    Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,
    Hoan ca, ngài chẳng lưu tâm đến,
    Vũ nữ, ngài không thiết ngó ngàng.
  2. Hươu nai, ngự uyển, đám thiên nga
    Chẳng quyến rũ đôi mắt hững hờ,
    Tĩnh tọa, ngài thành câm lặng quá,
    Ðể bao việc nước cứ trôi qua.

Họ lại hỏi thị giả và người hầu cận của vua:

– Ðại vương có bao giờ nới chuyện với quý vị không?

– Không bao giờ cả – Họ đáp.

Rồi họ kể lại chuyện đức vua với tâm trí luôn luôn trầm mặc, xa rời mọi dục lạc. Ngài nhớ lại các bậc hiền hữu của ngài, các vị Ðộc Giác Phật, và tự nhủ: “Ai có thể chỉ cho ta biết nơi an trú của các Hiền nhân đã giải thoát mọi tham ái và đầy đủ mọi công đức này?” .

Rồi ngài cảm khái ngâm lớn ba vần kệ:

  1. Tránh ngoại cảnh, chuyên chú lạc tâm,
    Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,
    Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,
    Ðồng trú bao Hiền Thánh trí nhân?
  2. Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,
    Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,
    Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,
    Chư vị ly tham, bước tịnh an.
  3. Các Ngài phá hết lưới ma thần,
    Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,
    Thoát mọi buộc ràng, thanh thản bước,
    Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?

Ngài sống đời ẩn sĩ tu hành trong cung vua được bốn tháng, cuối cùng ngài quyết tâm từ bỏ đời thế tục. Ngài thấy cung vua chẳng khác nào một tầng địa ngục ở giữa các thế gian, và ba cõi sinh hữu (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) đang bốc cháy. Trong tâm trạng ấy, ngài bỗng phát họa cảnh kinh thành Mithilà cùng với ý tưởng: “Bao giờ thì đến lúc ta từ giã kinh thành Mithilà huy hoàng rực rỡ như cung trời Sakka (Ðế Thích) này để đi vào rừng Himavat (Tuyết Sơn) khoác áo khổ hạnh?”

  1. Khi nào rời bỏ Mi-thi-là,
    Lộng lẫy nguy nga quả thật là,
    Bao kiến trúc sư đà tạo dựng
    Công trình đồ sộ đẹp lòng ta.
  2. Chiến lũy, cung môn, các dãy thành,
    Phố phường giăng trải khắp chung quanh,
    Ngựa, bò, xe chạy từng đoàn lũ,
    Hồ nước, vườn hoa thật đẹp xinh.
  3. Kinh thành danh vọng khắp xa gần,
    Rộn rịp bao binh sĩ, tướng quân,
    Mình khoác chiến bào da hổ báo,
    Vẫy cờ, khí giới sáng tưng bừng.
  4. Bà-la-môn mặc lụa Kà-si
    Sực nức trầm hương, điểm ngọc chi,
    Cung điện và cung phi mỹ nữ
    Mang đầy mão miện, đủ hoàng y.
  5. Bao giờ ta bỏ chúng, đi ra
    Tìm cực lạc đơn độc xuất gia,
    Mang phấn tảo y, bình nước uống,
    Bắt đầu đời hạnh phúc riêng ta?
  6. Bao giờ ta lạc bước vào rừng,
    Ăn trái cây hoang dã đón mừng,
    Hòa điệu lòng ta vào độc trú
    Như người hòa điệu thất huyền cầm?
  7. Tâm ta giải thoát khỏi mong cầu
    Lợi lạc đời này hoặc kiếp sau,
    Như thể thợ giày làm guốc gỗ
    Bào mòn các cạnh láng trơn mau.

Lúc bấy giờ ngài sinh vào thời kỳ con người thọ đến muôn tuổi. Vì vậy sau khi trị nước bảy ngàn năm, ngài làm ẩn sĩ, ngài còn ba ngàn năm nữa và lúc bắt đầu sống đời khổ hạnh, ngài vẫn còn ở hoàng cung bốn tháng kể tử ngày thấy cây xoài, nhưng rồi ngài tự nhủ ở am ẩn sĩ tốt hơn ở hoàng cung.

Thế là ngài bí mật bảo người hầu cận tìm cho ngài vài chiếc y vàng và một bình bát bằng đất bán ở chợ. Ngài cho mời người hớt tóc vào cạo bỏ râu tóc ngài, xong mặc một y vàng bên trong, một y vàng bên ngoài, đắp một y nữa lên vai. Rồi cầm chiếc gậy, ngài đi lui tới nhiều lần trên gác hoàng cung với những bước chân ngất ngưỡng của một vị Ðộc Giác Phật. Ngày hôm ấy ngài còn ở đây, nhưng sáng sớm hôm sau, ngài bắt đầu đi xuống.

Hoàng hậu Sìvalì cho gọi bảy trăm cung nữ được sủng ái vào bảo:

– Ðã lâu lắm rồi, cả bốn tháng tròn kể từ khi chúng ta gặp Thánh thượng lần cuối, hôm nay chúng ta sẽ giáp được mặt rồng. Vậy các nàng hãy trang điểm mình thật đẹp, làm sao cố mê hoặc Thánh thượng để ngài tham đắm dục lạc không thoát ra nổi.

Ðược các cung nữ trang sức lộng lẫy hộ tống, hoàng hậu bước lên hoàng cung để yết kiến vua. Nhưng dù thấy ngài đi xuống, bà không nhận ra ngài, cứ tưởng đó là một vị Ðộc Giác Phật đến giáo hóa vua. Bà đảnh lễ và đứng qua một bên; rồi Bồ-tát bước xuống khỏi hoàng cung. Nhưng hoàng hậu, khi lên lầu ngắm các lọn tóc của vua màu ong nghệ rớt trên long sàng, cùng các vật dụng tắm rửa của ngài, liền thét lên:

– Ðó không phải vị Ðộc Giác Phật đâu, có lẽ đó là Thánh thượng tôn quý của ta rồi. Thôi ta phải van xin ngài trở lại.

Thế là từ gác hoàng cung đi xuống sân rồng, hoàng hậu cùng các cung phi xõa tóc ra rũ rượi trên lưng, đấm ngực đi theo nhà vua than khóc thảm thiết:

– Ôi Ðại vương, sao ngài nỡ làm vậy?

Cả kinh thành náo động lên, dân chúng ùa theo đức vua khóc lóc:

– Thánh thượng đã làm ẩn sĩ rồi, ta còn tìm đâu ra một vị anh quân như vậy nữa?

*

Lúc ấy bậc Ðạo Sư tả cảnh các cung phi khóc lóc và nhà vua cứ bỏ mặc họ mà đi, đã ngâm kệ này:

  1. Kìa đứng bảy trăm vị thứ phi
    Dang tay cầu khẩn, dáng sầu bi,
    Ðiểm trang đầy ngọc vàng châu báu:
    “Ðại đế sao ngài nỡ bỏ đi?”
  2. Giã từ tất cả bảy trăm nàng
    Xinh đẹp, thanh tao, lại dịu dàng,
    Ðại đế đi theo lời ước nguyện
    Với lòng kiên định quyết không sờn.
  3. Giã từ chén rượu lễ đăng quang,
    Dấu xưa vương giả cảnh huy hoàng,
    Hôm nay ngài lấy bình bằng đất,
    Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.

Hoàng hậu Sìvalì thấy khóc than không thể cản bước vua được, liền nghĩ một cách khác. Bà cho triệu viên đại tướng quân đến ra lệnh đốt lửa trước mặt vua, giữa đám nhà hoang phế, nằm trên hướng vua đi tới chất cao cỏ rác thành từng đống, khói tỏa mịt mù khắp nơi. Vị này tuân lệnh. Rồi bà chạy đến chân vua, quỳ xuống chân ngài, tâu rằng kinh thành Mithilà đang bốc cháy qua hai vần kệ này:

  1. Thật là khủng khiếp, lửa hoành hành,
    Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,
    Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,
    Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.
  2. Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,
    Tất cả gặp chung phận phủ phàng,
    Tâu Chúa thượng, xin mau trở lại
    Cứu tài sản trước lúc tiêu vong.

Bồ-tát trả lời:

– Ô hay, hoàng hậu nói gì vậy? Kẻ nào có của cải mới lo bị đốt cháy, chứ ta có gì đâu?

  1. Ta chẳng có đâu của cải gì,
    Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
    Mi-thi-la có nguy cơ cháy,
    Ta cũng chẳng còn cháy vật chi!

Nói xong ngài đi ra phía bắc môn, các cung phi cũng theo sau. Hoàng hậu Sìvali ra lệnh bảo họ chỉ cho ngài xem các làng mạc bị tàn phá, đất bị bỏ hoang và họ lại chỉ cho ngài thấy nhiều người mang khí giới chạy đi cướp bóc khắp nơi, trong khi một số người khác được phết sơn đỏ lên người và khiêng đi trên các tấm ván như thể bị thương hay đã chết rồi. Dân chúng la hét lên:

– Tâu Ðại vương, trong khi ngài gìn giữ giang sơn chúng phá phách giết hại đồng bào như vậyđó.

Thế là hoàng hậu ngâm vần kệ van xin vua trở về:

  1. Bọn giữ rừng đang bỏ đất hoang,
    Xin ngài về cứu độ toàn dân,
    Giang sơn đừng để ngài không trị,
    Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.

Nhà vua suy nghĩ: “Khi ta đang cai trị, không có cướp bóc nào nổi lên phá hoại đất nước cả, chắc đây là trò bịa đặt của hoàng hậu Sìvalì”. Vì vậy ngài ngâm các vần kệ này như thể ngài không biết bà nói gì:

  1. Ta chẳng có đâu của cải gì,
    Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
    Giang sơn có thể nằm hoang vắng,
    Nhưng chính ta không thiệt hại chi.
  2. Chúng ta không có của gì riêng,
    Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,
    Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc
    Khác gì một vị Quang âm Thiên.

Dù ngài nói vậy, dân chúng vẫn đi theo ngài, ngài tự nhủ: “Họ không muốn trở về, vậy ta phải buộc họ trở về”. Rồi khi ngài đi được chừng nửa dặm, ngài quay lui hỏi vị Ðại thần:

– Ðất nước này của ai đây?

– Tâu Ðại vương, đất nước của Ðại vương.

– Vậy thì hãy trừng phạt kẻ nào vượt khỏi ranh giới này.

Nói xong ngài vạch một lằn ranh bằng cây gậy của ngài. Không một kẻ nào dám vi phạm ranh giới này cho nên dân chúng đứng sau lằn ranh la khóc ầm ỹ. Hoàng hậu cũng không thể vượt lằn ranh, chỉ biết nhìn theo nhà vua đang đi xa dần, quay lưng về phía bà. Rồi bà không ngăn được sầu khổ, đấm ngực khóc lóc, ngã xuống, cố vượt qua khỏi lằn ranh. Dân chúng la to:

– Quân canh giữ đã phá lằn ranh rồi.

Thế là họ theo gương hoàng hậu bước qua.

Bậc Ðại Sĩ đi về phía bắc rừng Himavat (Tuyết Sơn), hoàng hậu cũng đi theo ngài, kéo theo cả binh sĩ cùng đoàn voi ngựa để cỡi. Vua không ngăn chặn họ được nên cứ tiếp tục cuộc hành trình chừng sáu mươi dặm nữa.

Lức bấy giờ có một ẩn sĩ tên gọi Nàrada ở trong Kim cốc núi Himavat đã chứng được năm Thắng trì. Sau bảy ngày nhập định, vị ấy xuất Thiền và đắc thắng reo lên:

– Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!

Rồi trong khi vị ấy dùng thiên nhãn nhìn xem có ai trong cõi Diêm-phù-đề này đang đi tìm cực lạc như vậy không, chợt vị ấy thấy Bồ-tát Mahàjanaka. Vị ấy nghĩ: “Ông vua này đã làm đại sự xuất thế, nhưng lại không ngăn được đám đông dân chúng do hoàng hậu Sìvalì dẫn đường; chúng có thể gây cản trở cho ngài. Vậy ta phải khích lệ sao cho nhà vua giữ chí nguyện vững vàng hơn nữa”.

Rồi vị ấy dùng thần lực đứng trên không trước mặt vua ngâm kệ để giúp tăng cường quyết tâm của ngài:

  1. Do đâu huyên náo ở đằng kia
    Như thể là đình đám hội hè,
    Sao đám đông này đang tụ tập,
    Xin ngài ẩn sĩ nói cho nghe?

Vua liền đáp:

  1. Ta đã vượt ranh giới, xuất gia,
    Cho nên dân chúng đến đây mà,
    Ta xa đời với lòng an lạc,
    Người đã biết rồi, sao hỏi ta?

Vị ẩn sĩ ngâm vần kệ để xác nhận ý chí của vua:

  1. Ðừng nghĩ rằng ngài đã vượt ranh ,
    Vẫn còn dao động ở trong mình,
    Vẫn còn cừu địch ngay đằng trước,
    Chiến thắng ngài chưa thể đạt thành.

Bậc Ðại Sĩ lớn tiếng tuyên bố:

  1. Không dục lạc dầu thuộc loại nào
    Làm sờn ý chí vững bền đâu,
    Cừu nhân nào cản đường ta được,
    Trong lúc ta đang tới đích mau?

Sau đó ẩn sĩ ngâm vần kệ nêu rõ các chướng ngại:

  1. Hôn trầm, phóng dật theo tham dục,
    Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,
    Thân đón bọn này như khách quý,
    Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.

Bậc Ðại Sĩ liền khen ngợi vị ấy qua vần kệ:

  1. Ðạo sĩ, lời khuyên đáng bậc hiền,
    Cám ơn người đã nói lời trên,
    Trả lời ta hỏi như người muốn:
    Xin nói là ai đó, họ tên?

Ẩn sĩ đáp:

  1. Ta đây danh hiệu Na-ra-da,
    Từ chốn ẩn cư tiên giới ta,
    Vừa đến, nói điều này với bạn:
    Kết giao bậc trí tối ưu mà.
  2. Thực hành bốn pháp tối cao thay,
    Tìm cực lạc trong Thánh đạo này,
    Dù thiếu thứ gì, ngài cũng mặc,
    Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.
  3. Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao
    Ðều không xứng với bậc hiền đâu,
    Hãy xem giới luật và tri kiến
    Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.

Rồi Nàrada bay về cõi an trú của mình. Sau đó một ẩn sĩ khác tên Migàjina, vừa mới xuất Thiền định, đang chiêm ngưỡng bậc Ðại Sĩ và quyết định khuyến khích ngài bảo đám dân chúng ra về, nên vị này hiện ra trên không trước mặt ngài và ngâm các vần kệ sau:

  1. Các đám ngựa voi, các cỗ xe,
    Thần dân thành thị lẫn thôn quê,
    Ja-na-ka đã lìa xa chúng,
    Bình bát đất làm ngài thỏa thuê.
  2. Hãy nói, phải chăng các đại thần,
    Chư hầu, quyến thuộc hoặc thân bằng,
    Làm ngài thương tổn vì lừa phản,
    Ngài chọn đây làm chỗ trú chân?

Bồ-tát đáp:

  1. Hiền nhân, không thể có khi nào,
    Bất cứ nơi nào, hoặc cớ sao
    Ta đã làm sai cho chúng bạn,
    Hoặc là bạn khiến ta buồn đau.
  2. Thấy đời tan nát bởi đau thương,
    Tăm tối vì lầm lỗi, khổ buồn,
    Thấy nạn nhân gông xiềng, giết chết,
    Bơ vơ trong lưới khổ khôn lường,
    Ta tìm lời dạy cho mình vậy,
    Khổ hạnh từ đây khởi bước đường.
    Vị khổ hạnh muốn nghe thêm nữa, liền hỏi ngài:
  3. Không ai muốn khổ hạnh lang thang
    Nếu chẳng đạo sư chỉ lối đường,
    Dù cách thực hành hay lý thuyết,
    Ai là sư phụ nói cho tường.

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Hiền giả, chưa hề trước đến giờ
    Ta nghe lời nói động tâm ta
    Từ môi đạo sĩ hay du sĩ
    Khuyên bảo ta làm khổ hạnh gia.

Bồ-tát nói cho vị ấy đầy đủ chi tiết lý do ngài xuất thế:

  1. Ta đã nhàn du chốn ngự viên,
    Một ngày mùa hạ đại trang nghiêm
    Với bao ca khúc và đàn địch
    Tràn ngập không gian khắp mọi miền.
  2. Nơi kia ta thấy một cây xoài
    Ðứng cạnh bức tường gốc rễ phơi
    Vì bọn phàm nhân tìm hái trái,
    Toàn thân xơ xác, lá tơi bời.
  3. Giật mình rời cảnh tượng oai hùng,
    Dừng bước ngắm cây, mắt lạ lùng
    So sánh cây xoài này có trái
    Với cây không trái mọc kề gần.
  4. Cây có trái kia đứng lụi tàn,
    Mọi cành trơ trụi, lá tan hoang,
    Cây không trái đứng xanh, cường tráng,
    Tàn lá vẫy trong gió nhẹ nhàng.
  5. Cây đầy trái cũng giống như vua,
    Lắm địch thủ mong giết hại ta,
    Và cướp của ta bao trái ngọt
    Trong thời gian ngắn phô bày ra.
  6. Voi bị giết vì chính bộ ngà,
    Cọp beo bị giết bởi vì da,
    Bơ vơ, không cửa nhà, bằng hữu,
    Người đại phú sau rốt hiểu ra:
    Tài sản chính là tai họa lớn;
    Hai cây xoài ấy chính thầy ta,
    Từ hai cây ấy ta tìm được
    Bài học dạy ta sống xuất gia
    .

Ẩn sĩ Migàjina nghe lời vua nói thế, liền khuyên nhủ ngài nên nhất tâm, rồi trở về nơi trú của mình.

Khi ẩn sĩ đi rồi, hoàng hậu Sìvalì liền quỳ xuống chân vua và tâu:

  1. Ở trên vương tượng hoặc vương xa,
    Kỵ mã, bộ binh khắp mọi nhà,
    Tất cả thần dân đều khóc lớn:
    “Ðại vương đã xuất thế ly gia!”
  2. Xin trấn an lòng chúng trĩu buồn,
    Hoàng nhi ngài hãy đợi phong vương,
    Rồi xa trần thế như ngài muốn
    Khổ hạnh đơn thân tiến bước đường.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta bỏ đằng sau đám cận thần,
    Thân bằng, quyến thuộc khắp non sông,
    Nhưng còn vương tộc Vi-đề ấy
    Huấn luyện Di-ghà để trị dân
    Hoàng hậu Mi-thi-là chớ sợ,
    Quần thần sẽ hỗ trợ kề gần.

Hoàng hậu kêu lên:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương đã làm ẩn sĩ, vậy thần thiếp phải làm gì bây giờ?

Nhà vua liền bảo:

– Ta khuyên hoàng hậu thế này, hãy gắng thực hiện lời ta.

Rồi ngài nói với bà như sau:

  1. Nếu dạy hoàng nhi lúc trị dân
    Sai lầm trong ý tưởng, lời, thân,
    Sau bà sẽ gặp nhiều đau khổ,
    Vận mạng này đây đã định phần.
    Vật bố thí dành cho khất sĩ
    Bậc Hiền bảo đấy chúng ta cần.

Ngài khuyên nhủ hoàng hậu như thế xong, cùng đàm đạo với bà trên đường đi cho đến khi mặt trời lặn.

Hoàng hậu cho cắm trại vào một nơi thích hợp, còn nhà vua đến một gốc cây ngủ quá đêm. Ngày hôm sau, khi tắm rửa xong, ngài lại tiếp tục ra đi. Hoàng hậu ra lệnh cho binh lính phải đi theo và bà cũng theo ngài.

Vào giờ khất thực, họ đến kinh thành Thùna. Lúc đó có một người đàn ông mua một miếng thịt lớn ở hàng thịt xong đem nướng chín trên vĩ và đặt trên một tấm thớt chờ nguội. Nhưng trong khi gã bận rộn việc khác thì một con chó đến tha thịt đi mất. Người ấy đuổi theo đến cửa Nam kinh thành, nhưng vì mệt quá phải dừng lại.

Vua và hoàng hậu đang đi đến trước mặt con chó, nó hoảng sợ khi thấy hai vị nên làm rơi miếng thịt và chạy mất. Bậc Ðại Sĩ thấy vậy, liền nghĩ: “Nó đã làm rớt miếng thịt và chạy trốn, không màng đến thịt nữa, mà chủ nhân thì chả biết là ai, thật không có của bố thí nào tốt hơn cái này, ta phải ăn mới được”.

Thế rồi ngài lấy bình bát đất ra, cầm miếng thịt, phủi bụi dơ, đặt vào bình bát, tìm một nơi dễ chịu mát mẻ, có nước chảy rồi ăn thịt.

Hoàng hậu nghĩ thầm: “Nếu đức vua xứng đáng ngồi trên ngai vàng thì ngài đã không ăn vật thừa đầy bụi bặm của chó, thật bây giờ ngài không còn là quân vương của ta nữa”. Rồi bà nói to:

– Ðại vương ôi! Ngài ăn miếng thịt ghê tởm như vậy sao?

– Ấy chính sự ngu dại mù quáng của bà làm cho bà không thấy được giá trị đặc biệt của vật bố thí này.

Rồi ngài thận trọng quan sát chỗ miếng thịt đã rơi xuống và ăn thịt ngon lành như thể cao lương mỹ vị của thần tiên xong rửa miệng và tay chân.

Lúc ấy hoàng hậu nói giọng khiển trách ngài:

  1. Tứ thời ăn cứ đến xoay vần,
    Nếu nhịn ăn, người phải bỏ thân,
    Tuy thế, một người dòng quý tộc
    Sẽ không nếm vật bẩn kinh hồn!
  2. Ngài đã làm đây việc trái sai,
    Ðại vương ôi, đáng thẹn cho ngài,
    Lấy ăn đồ vật thừa từ chó
    Việc bất xứng kia đã phạm rồi!

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Vật thừa từ chó hoặc từ người
    Ta chắc chẳng là của cấm ai,
    Nếu được vật kia theo đúng pháp,
    Thức ăn hợp lý, sạch mà thôi!

Ðang lúc nói chuyện, vua và hoàng hậu đi đến cổng thành. Trẻ con đang chơi đùa ở đó, một cô bé đang sảy cát trong một cái sàn sảy thóc nhỏ. Trên tay cô bé có một chiếc vòng không gây tiếng động nào, còn tay kia có hai chiếc vòng kêu reng reng. Nhà vua thấy vậy nghĩ thầm: “Sìvalì cứ đi theo ta mãi, kẻ khổ hạnh còn có vợ thật là tai hại, người đời sẽ chê trách ta và bảo rằng ngay cả khi ta đã xa lìa thế tục mà ta lại không xa vợ được. Vậy nếu cô gái này khôn ngoan, cô bé có thể nói cho Sìvalì hiểu tại sao nàng phải quay về và xa lìa ta cho rồi. Ta sẽ nghe chuyện cô này và bảo Sìvalì phải đi ngay”. Rồi ngài bảo:

  1. Cô bé nép mình dưới mẹ hiền,
    Với vòng nho nhỏ ấy đeo trên,
    Vì sao chỉ một tay rung nhạc,
    Trong lúc tay kia mãi lặng yên
    ?

Cô bé đáp:

  1. Hai vòng đeo ở cánh tay tôi,
    Chẳng phải một vòng, khất sĩ ôi!
    Vì xúc phạm nhau gây tiếng động,
    Việc này do chính chiếc vòng đôi.
  2. Nhưng chú ý xem tay phía này,
    Chiếc vòng độc nhất nó đeo vầy
    Ðứng yên tại chỗ, không lên tiếng,
    Im lặng chỉ vì chẳng có hai.
  3. Chính chiếc vòng đôi tạo tiếng ồn,
    Một vòng độc nhất ấy thì không,
    Ngài tìm hạnh phúc? Nên đơn độc:
    Hạnh phúc chỉ người sống độc thân.
    Nghe lời cô gái, ngài hiểu ý và bảo hoàng hậu:
  4. Hãy nghe lời nói của cô này,
    Cô gái làm ta hổ thẹn đầy,
    Ví thử nghe lời bà thỉnh nguyện:
    Lỗi lầm chính kẻ thứ hai gây.
  5. Ðây hai đường: chọn một cho bà;
    Còn lối kia, ta chọn chính ta,
    Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
    Bà không còn vợ: hãy chia xa!

Hoàng hậu nghe ngài nói thế, liền xin ngài đi rẽ về phía tay phải tốt hơn, còn bà đi về phía trái. Nhưng chỉ đi được một đoạn, bà không ngăn chặn được sầu khổ, liền trở lại với ngài và cùng ngài đi vào thành.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích chuyện này và nói như sau:

Cùng với những lời này trên môi, hai vị đi vào thành Thùna.

Sau khi đã vào thành, Bồ-tát tiếp tục đi khất thực, đến cửa nhà một người làm cung tên, trong khi đó hoàng hậu đứng một bên. Bấy giờ người thợ đang nung đỏ mũi tên trên một lò than rồi nhúng ướt tên đó trong một ít bột hồ chua, nheo một mắt lại, còn mắt kia nhắm mũi tên cho thẳng. Bồ-tát nghĩ: “Nếu người này khôn ngoan thì có thể giải thích cho ta rõ chuyện này. Ðể ta hỏi gã thứ xem”. Rồi ngài đến gần gã.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh này qua vần kệ:

  1. Ðến nhà khất thực kẻ làm tên,
    Người ấy nheo con mắt đứng lên,
    Và với mắt kia nhìn một hướng
    Ðể làm cho thẳng mũi tên rèn.

Lúc ấy Bậc Ðại Sĩ bảo gã:

  1. Một mắt sao ngươi cứ nhắm hoài,
    Chỉ nhìn một mắt chẳng hề sai?
    Xin ngươi giải thích hành vi ấy:
    Ngươi nghĩ nó hoàn thiện mắt ngươi?

Gã đáp lại:

  1. Tầm mắt hai tròng mở rộng ra
    Chỉ làm lạc hướng nhãn quan ta,
    Nếu ngài duy nhất nhìn đường thẳng,
    Ðích xác định, ngài nhắm đúng mà.
  2. Ðiều gây rối loạn chính hai tròng,
    Chỉ một tròng thôi thì lại không,
    Muốn hạnh phúc? Ngài cần đơn độc,
    Người đơn độc hạnh phúc vô song!
    Sau mấy lời khuyên nhủ này, gã yên lặng.

Bậc Ðại Sĩ lại tiếp tục đi khất thực, khi đã thọ lãnh đủ loại thức ăn, liền đi ra khỏi thành tìm chỗ mát mẻ có nước chảy ngồi xuống. Khi đã ăn uống xong xuôi, ngài cất bình bát vào chiếc bị và bảo Sìvalì:

  1. Bà nghe lời gã nhắm tên vầy
    Chẳng khác gì cô gái trước đây,
    Gã sẽ làm cho ta rối trí
    Với bao hổ thẹn ngập đầu này.
    Nếu ta nhượng bộ bà cầu thỉnh:
    Gây lỗi chính là kẻ thứ hai.
  2. Ðây hai đường: chọn một cho bà,
    Còn lối kia ta chọn chính ta,
    Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
    Ta không có vợ: giã từ bà!

Dù nghe lời ngài nói vậy, hoàng hậu vẫn đi theo ngài, nhưng bà hiểu bà không thể nào thuyết phức vua quay trở về được nữa, còn đám dân chúng cũng cứ tiếp tục theo sau bà. Lúc bấy giờ có một khu rừng không xa đó mấy, bậc Ðại Sĩ thấy bóng cây đổ xuống tối mờ, ngài muốn bảo hoàng hậu quay về, nên khi thấy cỏ mùnja mọc bên lề đường, ngài ngắt một cọng cỏ, bảo bà:

– Này Sìvalì, thân cây cỏ này không thể nối lại được nữa, vậy từ nay mối liên lạc giữa ta và bà cũng không bao giờ nối lại được nữa đâu.

Rồi ngài ngâm lớn nửa vần kệ:

  1. Như cỏ mun-ja đã lớn này,
    Sì-va-lì, độc trú từ đây …

Khi hoàng hậu nghe thế, bà nói:

– Từ nay ta cũng không liên lạc gì với vua Mahàjanaka nữa.

Rồi không thể ngăn được sầu khổ, bà đấm ngực la khóc và ngất xỉu bên vệ đường. Bồ-tát thấy bà đã bất tỉnh mê man rồi, lập tức đi sâu vào rừng, cẩn thận xóa mờ dấu chân của ngài. Các quan đại thần chạy đến rảy nước vào thân thể hoàng hậu, xoa bóp tay chân của bà một lát thì bà hồi tỉnh. Bà hỏi:

– Ðại vương đâu rồi?

– Thế Hoàng hậu không biết sao? Họ tâu.

– Ði tìm Hoàng thượng ngay – Hoàng hậu bảo họ.

Nhưng dù họ đi quanh quẩn khắp nơi, họ cũng không tìm thấy ngài đâu. Vì thế bà than khóc thảm thiết, và sau khi bảo dựng đền thờ nơi ngài đứng trước kia, bà cúng dường hương hoa rồi trở về.

Bồ-tát trong núi Himavat, trong bảy ngày ngài chứng đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, rồi ngài không trở lại cõi đời này nữa. Hoàng hậu bảo dựng đền thờ ở các nơi ngài đã đến và nói chuyện với người thợ làm tên, với cô bé gái, nơi ngài đã ăn miếng thịt, nơi ngài nói chuyện với hai ẩn sĩ Migàjina và Nàrada; xong bà làm lễ cúng dường hương hoa.

Rồi được binh lính hộ tống, bà vào thành Mithilà cử hành lễ phong vương cho hoàng tử trong vườn xoài, và ra lệnh đem hoàng tử cùng binh lính vào thành. Còn phần bà, sau khi chọn đời khổ hạnh của một nữ ẩn sĩ, bà sống ở trong vườn xoài và hành trì các pháp môn đưa đến Thiền định cho đến khi bà chứng đắc Thiền định và được sinh vào cảnh giới Phạm thiên.

*

Sau khi kể Pháp thoại xong, Bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:

– Ðây không phải lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, mà xưa kia Như Lai cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc ấy vị nữ hải thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Hiền giả Nàrada là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Hiền giả Migàjina là Moggalàna (Mục-kiền-liên), cô gái là công chúa Khemà, người làm tên là Ànanda (A-nan), hoàng hậu Sìvalì là mẹ của Ràhula (Ràhulamàtà), hoàng tử Dìghàvu là Ràhula (La-hầu-la). Cha mẹ của Bồ-tát là hai vị trong vương tộc ngày nay và vua Mahà janaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN HIẾU TỬ SÀMA  (Tiền thân Sàma)

Ai đó đang mai phục bắn mình…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ- kheo phụng dưỡng mẹ.

Chuyện kể rằng có một thương nhân giàu có tại thành Xá-vệ, của cải lên đến một trăm tám mươi triệu, người này có một cậu con trai rất được yêu quý. Một ngày nọ, cậu trai đi lên lầu, mở cửa nhìn xuống đường, khi thấy đám đông dân chúng đang đi đến Kỳ Viên, tay cầm hương hoa cúng dường để nghe thuyết Pháp, cậu bảo rằng cậu cũng muốn đi. Cậu truyền đem hương hoa lại, rồi cậu đi đến tịnh xá cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức ăn uống cho chúng Tỷ-kheo ở đó và đảnh lễ đức Thế Tôn với hương hoa, rồi ngồi xuống một bên…

Sau khi nghe thuyết Pháp, cậu nhận thức được các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi khi hội chúng ra về, cậu xin đức Thế Tôn cho cậu thọ giới. Nhưng đức Như Lai bảo cậu rằng ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha mẹ. Vì thế cậu ra về, nhịn ăn một tuần, cuối cùng được cha mẹ chấp thuận, cậu trở lại và xin thọ giới. Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho cậu.

Sau đó vị Tỷ-kheo mới này được tán thán và đạt nhiều công hạnh, được sự ái mộ của các vị sư trưởng và giáo thọ và khi đã thọ đại giới, ông tinh thông Giáo pháp trong vòng năm năm. Rồi vị Tỷ-kheo này nghĩ: “Ta sống viễn ly ở chốn này thật không hợp với ta”. Và ông nóng lòng đạt cứu cánh của Thiền định. Thế là sau khi nghe lời dạy của vị giáo sư về Thiền định, ông đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu hành trì phép Thiền định, nhưng không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù ông đã tinh cần tu tập trong mười hai năm liền mà tâm không được định tĩnh.

Cũng trong thời gian này, cha mẹ của Tỷ-kheo này trở nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng cho nhà này thấy trong nhà không có con em gì đến buộc họ trả nợ, cho nên đãđoạt hết của cải nào rơi vào tay họ và tha hồ chạy trốn; gia nhân tôi tớ trong nhà lại trộm vàng bạc trốn đi. Vì thế cuối cùng hai người lâm vào cảnh khốn cùng, không còn đến cái bìnhđựng nước nữa, phải bán nhà đi lang thang hết sức cùng cực, phải đi ăn xin, mặc áo rách rưới và mang chiếc bình mẻ trong tay.

Lúc bấy giờ có một trưởng lão Tỷ-kheo từ Kỳ Viên đến nơi cư trú của người con trai ấy, ông tiếp đón ân cần vị khách kia xong, ngồi yên lặng hỏi thăm khách từ đâu đến. Khi được biết từ Kỳ Viên, ông hỏi thăm sức khỏe của bậc Đạo Sư cùng các đại đệ tử của ngài, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ mình.

– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả cho biết tình cảnh của một gia đình thương nhân ở Xá-vệ.

– Này hiền hữu, đừng hỏi thăm tin tức gia đình ấy nữa.

– Tại sao thế, thưa Tôn giả?

– Người ta nói gia đình ấy có một cậu con trai, nhưng cậu ta đã đi tu theo đạo pháp, và từ khi cậu ấy xuất gia thì gia đình cậu bị sạt nghiệp, lúc này cả hai ông bà lão đang lâm vào tình cảnh rất thê thảm và phải đi ăn xin.

Khi ông nghe khách nói xong, không thể nào cầm lòng được, nước mắt cứ ràn rụa và khi khách hỏi tại sao lại khóc, ông đáp:

– Thưa Tôn giả, đó chính là cha mẹ tôi, tôi là con của các vị ấy.

– Này Hiền hữu, cha mẹ bạn đã sạt nghiệp vì bạn,vậy hãy về phụng dưỡng các vị.

Ông liền nghĩ: “Trong mười hai năm liền ta tinh cần tu tập mà không thể nào đạt đạo hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí. Vậy ta có làm gì được với đời sống Phạm hạnh này? Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải. Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên thiên giới”. Quyết định xong ông nhường chỗ cư trú của mình trong rừng cho vị Trưởng lão kia.

Hôm sau ông ra đi, qua nhiều chặng đường thì tới tinh xá phía sau Kỳ Viên không xa thành Xá-vệ mấy. Tại đó ông thấy hai con đường, một đường dẫn đến Kỳ Viên, một đường dẫn đến Xá-vệ. Khi đứng đó, vị Tỷ-kheo này suy nghĩ: “Ta đến viếng cha mẹ ta trước hay đức Phật trước? Rồi ông tự nhủ: “Ngày xưa ta gặp cha mẹ ta luôn, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến đức Phật; vậy ta hãy yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe thuyết Pháp, rồi ngày mai ta sẽ đi thăm cha mẹ”.

Thế là ông bỏ con đường đi Xá-vệ và đi đến Kỳ Viên lúc chiều tối. Vào ngày đó, lúc tảng sáng, bậc Đạo Sư nhìn xuống trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của vị này, nên khi ông đến yết kiến Thế Tôn, ngài tán thán công đức của cha mẹ theo kinh Màtiposaka (voi hiếu dưỡng mẹ-Tiền thân số 455). Trong khi đứng cuối hội chúng Tỷ-kheo và nghe thuyết Pháp, ông nghĩ: “Nếu ta trở thành người gia chủ, ta có thể phụng dưỡng cha mẹ ta”, nhưng bậc Đạo Sư cũng dạy: “Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ cha mẹ mình”. Trước kia ta rời thế tục mà không đến yết kiến đức Thế Tôn, và ta đã thất bại trong sự thọ giới không trọn vẹn như vậy. Bây giờ ta muốn phụng dưỡng cha mẹ ta mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ”. Vì vậy ông cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình và cảm thấy như thể mình đã phạm trọng tội đáng bị khai trừ sau mười hai năm độc cư trong rừng.

Sáng hôm sau ông đi đến Xá-vệ và nghĩ thầm: “Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ ta trước đây?”. Ông nghĩ lại và thấy rằng đi thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ mà không có gì trong tay để biếu thì thật là không phải đạo. Vì thế ông đi lấy cháo trước rồi đến cửa nhà cũ. Vừa thấy cha mẹ ngồi cạnh bức tường đối diện, sau khi đã đi một vòng khất thực được cháo lòng, ông đứng không cách xa họ mấy và bỗng thấy nỗi sầu thương nổi lên, mắt đẫm lệ. Còn họ thấy ông nhưng không nhận ra, rồi bà mẹ tưởng rằng đó là một kẻ đang chờ của bố thí, liền nói:

– Chúng ta không có gì để bố thí cho người cả, người chịu khó đi nơi khác.

Nghe bà mẹ nói vậy, ông cố nén nỗi buồn đang tràn đầy trong lòng, đứng yên mắt đẫm lệ, và khi được bảo lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn đứng yên. Cuối cùng ông cha bảo bà mẹ:

– Bà đến xem thử có phải con trai bà đó không?.

Bà vùng dậy chạy đến nhìn ra con, gục xuống chân mà than khóc, ông cha cũng khóc theo, bao nỗi sầu khổ đều tuôn ra hết. Thấy lại cha mẹ, ông không thể nén được lòng mình, cũng bật khóc. Sau cơn xúc động, ông nói:

– Đừng buồn nữa cha mẹ ôi, con sẽ phụng dưỡng cha mẹ.

Thế là sau khi an ủi cha mẹ và cho họ húp nước cháo rồi ngồi xuống bên đường, ông lại ra đi khất thực đem về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình. Xong bữa ăn, ông liền đi tìm nơi trú chân không xa đó mấy. “Từ ngày ấy về sau ông chăm sóc cha mẹ bằng cách này; ông đem cho cha mẹ đồ khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng bố thí hằng nửa tháng một lần, và ông đi khất thực nhiều lần để thọ dụng. Còn những vật thực dành cho mùa mưa cũng đều đem cho cha mẹ dùng, trong khi ông đem áo quần rách của cha mẹ về đóng cửa kín mà nhuộm lại để mặc. Nhưng rất ít ngày ông đi khất thực được đồ dùng, phần nhiều là chẳng được gì cả, nên y trong cũng như y ngoài đều tả tơi cả. Trong thời gian chăm sóc cha mẹ như thế, ông dần dần trở nên xanh xao gầy ốm, bạn hữu thấy vậy bảo:

– Da dẻ bạn trước đây tươi sáng, nhưng nay bạn xanh xao quá, hẳn có bệnh gì?

Ông đáp:

– Ta không có bệnh gì cả, nhưng ta đang gặp một chướng ngại.

Rồi ông kể cho họ nghe câu chuyện nhà. Họ đáp:

– Thưa hiền giả, bậc Đạo Sư không cho phép ta phí phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ, bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật cúng dường của thí chủ cho người thế tục.

Nghe nói vậy, ông hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, nhưng vẫn chưa thỏa dạ, họ đem chuyện kể với bậc Đạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, người này đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục.

Bậc Đạo Sư cho gọi vị Tỷ-kheo trẻ ấy đến và hỏi:

– Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?

Ông thú nhận là có. Rồi bậc Đạo Sư muốn ngợi khen việc làm của ông và nói về một việc cũ của Ngài, liền hỏi:

– Thế ông phụng dưỡng người thế tục nào đó?

– Bạch Thế Tôn, chính cha mẹ của con.- Ông đáp.

Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của ông hơn nữa, Ngài bảo ba lần:

– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ Ta.

Như thế vị Tỷ-kheo được Ngài khích lệ vì việc đó. Rồi theo lời thỉnh cầu của chúng Tỷ-kheo, bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ để cho biết các nghiệp đời trước của Ngài.

*

Ngày xưa, không xa thành Ba-la-nại, ở phía bên này sông, có một làng thợ săn và một làng nữa ở bên kia sông, mỗi làng có chừng năm trăm gia đình cư trú. Lúc bấy giờ có hai nhà thiện xạ trong hai làng đó là đôi bạn thân thích, họ giao ước với nhau từ trẻ rằng nếu đôi bên sinh con trai và con gái thì sẽ gả con cho nhau. Theo thời gian trôi, một cậu trai được hạ sinh trong nhà thiện xạ bên này sông và một cô gái sinh vào nhà thiện xạ kia. Cậu bé được đạt tên Dukùlaka vì khi sinh ra đời cậu được quấn trong lớp tã lót thật đẹp, còn cô gái được đặt tên là Parikà, vì cô sinh ra bên kia sông. Cả hai đều xinh đẹp với làn da óng ả như vàng và mặc dù được sinh ra trong làng săn bắn, chúng không hề sát sinh hại mạng. Khi cậu bé lên mười sáu tuổi, cha mẹ cậu bảo:

– Này con, cha mẹ sẽ cưới vợ cho con.

Nhưng cậu là một người thanh tịnh từ Phạm thiên giới mới xuống đây, cho nên cậu bịt tai lại bảo:

– Con không muốn ở trong nhà, đừng nói chuyện ấy với con.

Rồi mặc dù cha mẹ cậu nói chuyện đó ba lần, cậu không tỏ ý ham thích chút nào. Còn nàng Parikà cũng vậy, khi cha mẹ nàng bảo:

– Con trai của ông bạn nhà ta thật khôi ngô với làn da óng ả như vàng, cha mẹ định gả con cho cậu ấy đấy.

Nàng cũng bịt tai lại và trả lời như chàng trai kia.Vì chính nàng cũng xuống đây từ Phạm thiên giới. Cậu Dukùlaka bí mật gửi cho cô gái một lời nhắn nhủ: “Nếu nàng muốn sống đời vợ chồng thì hãy tìm đến một gia đình khác, vì ta không muốn như vậy”. Và nàng cũng gửi cậu một lời nhắn nhủ tương tự như thế. Nhưng dù họ không đồng ý, cha mẹ họ vẫn cử hành hôn lễ. Thế là cả hai người sống riêng lẻ như các vị Phạm thiên, không hề sa vào bể ái dục. Dakùlaka không hề giết cá hay nai hươu, cũng không hề bán các thứ cá mà người khác mang đến cho cậu. Cuối cùng cha mẹ cậu bảo:

– Con sinh ra trong gia đình săn bắn mà con lại không thích sống trong nhà, cũng không sát sinh hại vật, vậy con muốn gì?.

Cậu đáp:

– Nếu cha mẹ cho phép, con xin làm ẩn sĩ ngay ngày hôm nay.

Cha mẹ họ đều cho phép họ ngay lập tức. Thế là họ từ giã cha mẹ, ra đi dọc theo bờ sông Hằng, rồi rời bỏ sông Hằng, họ đi lên núi dọc theo sông Migasammatà. Lúc bấy giờ cung của Sakka Thiên chủ bỗng nóng rực lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xác định duyên cớ, liền bảo thần Vissakamma:

– Này Vissakamma, có hai bậc Đại nhân đã xuất thế và đang đi vào núi Himavat, chúng ta phải tìm nơi trú ẩn cho họ, vậy hãy đi dựng am lá và cung cấp mọi vật dụng cần thiết cho cuộc đời tu hành của họ ở một nơi cách sông Migasammatà chừng một phần tư dặm đường, xong rồi trở lại đây.

Thế là vị này đi chuẩn bị đủ mọi vật dụng giống như được mô tả trong Tiền thân Mùgapakkha, rồi trở về nhà; sau khi đã xua hết mọi súc vật có thể gây ồn ào khó chịu trong rừng và mở một con đường mòn gần đó. Hai vị ẩn sĩ thấy có đường mòn liền theo đó đến am. Khi Dukùlaka bước vào trong am, thấy đủ mọi vật dụng cần thiết liền kêu lên:

– Đây chính là lễ vật của Thiên chủ Sakka cúng dường ta.

Thế rồi Dukùlaka cởi áo ngoài ra, mặc vào chiếc y màu vỏ dà, đắp tấm da hươu qua một bên vai, cột túm tóc lại ra dáng một vị khổ hạnh, rồi cũng làm lễ truyền giới cho Parikà như vậy, xong rồi họ sống ở đó, tu tập lòng Từ thuộc về cõi Dục. Nhờ ảnh hưởng lòng Từ của họ đối với mọi vật, chim muông và thú rừng cũng khởi lên lòng từ ái đối với nhau, chứ không hề làm hại lẫn nhau.

Parikà lo kiếm nước và thức ăn, quét dọn am, làm đủ mọi việc cần thiết, rồi cả hai người đi kiếm đủ loại trái cây về ăn. Sau đó họ ở vào trong thảo am riêng của mình hành trì đủ mọi giới luật của đời Phạm hạnh. Thiên chủ Sakka cung cấp đủ mọi nhu cầu của họ.

Một ngày kia, ngài tiên tri được một hiểm họa sắp xảy ra cho họ: “Họ sẽ mất thị giác”. Vì thế ngài tìm đến Dukùlaka, đảnh lễ xong, ngồi xuống một bên, ngài bảo:

– Thưa Tôn giả, ta thấy trước một hiểm họa sắp đe dọa các Tôn giả, vậy các Tôn giả phải sinh một đứa con trai để phụng dưỡng các vị sau này, hãy đi theo đường lối của thế gian.

– Thưa Thiên chủ, tại sao ngài lại bảo vậy? Ngay cả khi chúng con còn ở chung một nhà trước kia, chúng con cũng đã chán ghét ái dục, giờ đây làm sao chúng con thực hiện điều ấy được khi chúng con đã vào rừng sống đời Phạm hạnh của kẻ xuất gia.

– Được rồi, nếu Tôn giả không muốn làm như ta nói, thì đợi đến lúc thuận tiện hãy lấy tay sờ rốn của Parikà.

Dukùlaka ưng thuận làm theo. Thiên chủ Sakka từ giã ra về. Bậc Đại Sĩ kể chuyện ấy với Parikà và đến lúc thời cơ thuận lợi, lấy tay sờ vào rốn Parikà. Ngay lúc ấy Bồ-tát từ Thiên giới xuống nhập vào bụng bà và bà mang thai từ đó. Sau mười tháng, bà hạ sinh một hài nhi da vàng óng, vì thế nên họ đặt tên là Suvannasàma (Hoàng Kim).

Lúc bấy giờ các nữ thần Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần của Sakka) ở núi bên kia đến chăm sóc Parikà lúc bà lâm bồn. Đôi cha mẹ này tắm rửa hài nhi xong đặt vào chòi lá và đi kiếm đủ loại trái cây. Trong khi họ ra ngoài, các nữ thần Kinnara đem hài nhi vào động của họ tắm rửa vàđem lên đỉnh núi trang hoàng cho hài nhi đủ loại hoa, lấy chất sơn vàng đỏ xanh làm dấu đặc biệt trên thân thể, rồi đem về để lại trên giường trong chòi lá, sau đó Parikà về chòi cho con bú.

Họ yêu quý con, nâng niu chăm sóc con cho đến năm mười sáu tuổi, họ thường để con ở trong chòi rồi đi vào rừng kiếm củ và trái cây. Bồ-tát suy nghĩ: “Mối hiểm họa một ngày kia sẽ xảy ra”. Ngài thường canh chừng con đường cha mẹ ngài đi ra.

Một ngày kia họ trở về lúc chiều tối sau khi đã nhặt củ và trái cây. Vừa đến gần chòi thì một đám mây lớn kéo tới. Họ vội ẩn mình dưới gốc cây trên một ổ kiến. Trong ổ kiến này có một con rắn độc. Lúc bấy giờ nước trên thân họ nhỏ giọt xuống mang theo mùi mồ hôi đến mũi con rắn làm nó tức giận, thổi phà hơi độc lúc họ đứng đó để tấn công họ, khiến cho cả hai đều bị mù không nhìn thấy nhau được nữa. Dukùlaka gọi lớn Parikà:

– Mắt ta mù rồi, ta không thấy nàng nữa.

Họ bảo nhau trong khi quờ quạng đi quanh, khóc lóc và không sao tìm được lối về.” Đời trước ta đã phạm tội gì?” Họ nhủ thầm như vậy. Thuở tiền kiếp, họ sinh vào gia đình một y sĩ. Vị y sĩđó chữa bệnh mắt cho một người giàu có, nhưng người này không chịu trả y phí, vị y sĩ tức giận nói với vợ:

– Ta phải làm sao đây?

Bà vợ cũng tức giận bảo:

– Ta không cần tiền của nó, cứ chế ra một thứ thuốc rồi bảo đó là thuốc chữa bệnh và ta làm mù mắt nó đi.

Vị y sĩ đồng ý làm theo lời vợ và chính vì tội này mà giờ đây cả hai đều bị mù lòa.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Trước đây cha mẹ ta thường về vào giờ này, ta chẳng biết chuyện gì xảy ra cho cha mẹ ta, ta phải đi tìm mới được”. Vì thế ngài ra đi tìm họ và gây nên một tiếngđộng. Họ nhận ra tiếng động ấy nên cũng làm một tiếng động đáp lại và vì lòng thương con, họ bảo con:

– Sàma ơi, ở đây nguy hiểm lắm, đừng tới gần. Vì thế ngài đưa cho cha mẹ một cây dài, bảo họ cầm lấy đầu cây gậy rồi đi lần về phía ngài. Ngài bảo với họ:

– Cha mẹ bị mù mắt vì duyên cớ gì?

– Khi trời mưa ta núp dưới gốc cây trên một tổ kiến, thế là ta bị mù mắt.

Nghe thế ngài biết ngay sự việc đã xảy ra. “Có lẽ ở đó có rắn độc, đang lúc nổi giận, nó phun nọc độc ra đấy”. Khi ngài nhìn cha mẹ, ngài bật khóc rồi lại bật cười. Cha mẹ ngài hỏi tại sao, ngài đáp:

– Con khóc vì cha mẹ bị mù lúc còn trẻ, nhưng con lại cười vì từ đây con sẽ phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ đừng buồn, con sẽ chăm nom cha mẹ chu đáo.

Thế rồi ngài dẫn họ về chòi, buộc dây thừng tứ phía phân chia các gian để ở ban ngày và banđêm, các trai phòng và các phòng khác nữa. Từ ngày ấy ngài bảo cha mẹ ở nhà, còn ngài đi kiếm củ và trái rừng. Buổi sáng dọn dẹp nhà cửa, đi lấy nước sông Migasammatà về, nấu thức ăn và nước, rồi lấy nước rửa mặt đánh răng cho cha mẹ, đem đến cho cha mẹ đủ trái cây ngon ngọt. Khi cha mẹ súc miệng xong, ngài mới dùng. Ăn xong ngài chào cha mẹ, rồi được một đàn nai hộ tống, ngài vào rừng hái quả.

Sau khi hái quả cùng với đám nữ thần Kinnara trên núi, ngài trở về lúc chiều tối, nấu nước nóng tắm rửa chân tay cho cha mẹ rồi mang lại một mẻ chậu than hồng hơ ấm tay chân cha mẹ. Ngài đem đủ loại trái cây cho cha mẹ dùng. Cuối cùng ngài mới ăn phần mình và cất dọn các thứ còn lại. Cứ thế ngài chăm sóc cha mẹ mỗi ngày.

Lúc ấy có một vị vua tên Pilliyakkha trị vì tại Ba-la-nại. Vị này rất thích thịt thú rừng nên đã giao việc triều chính cho mẹ rồi nai nịt năm loại vũ khí đi vào núi Himavat săn bắn hươu nai để ăn thịt, tiến lần đến con sông Migasammatà và cuối cùng tới nơi Sàma thường xuống múc nước. Thấy có vết chân hươu nai, vua dựng chỗ trú ẩn dưới các bụi cây màu ngọc bích, lấy tên tẩm thuốc độc vào, sẵn sàng giương lên và nằm mai phục.

Buổi chiều bậc Đại Sĩ đã hái trái cây xong, đem về lều, chào hỏi cha mẹ rồi nói:

– Con sẽ đi tắm và múc ít nước.

Ngài cầm bình, cả một đoàn nai vây quanh, ngài chỉ chọn ra hai con, buộc bình vào lưng chúng, rồi dẫn chúng đến nơi tắm sông. Nhà vua thấy ngài đến gần tự nhủ: “Suốt thời gian ta đi quanh quẩn nơi đây, ta chưa hề thấy bóng người nào cả, vậy đó là Thiên thần hay rắn thần? Bây giờ nếu ta đến gần hỏi nó ắt nó sẽ bay lên trời nếu đó là Thiên thần, hoặc sẽ độn thổ nếu đó là rắn thần. Nhưng ta có ở núi Himavat này mãi đâu, một ngày kia ta sẽ trở về Ba-la-nại. Lúc đó các quan đại thần sẽ hỏi ta có thấy được việc gì kỳ lạ trong thời gian ta lang bạt ở đây không. Nếu ta bảo họ ta có thấy một người như vầy như vầy, họ sẽ gạn hỏi ta tên nó là gì, nếu ta trả lời không biết thì họ sẽ chê trách ta; vậy thì ta cứ bắn nó cho bị thương, rồi hỏi nó sau”.

Vừa lúc ấy, bầy nai đi xuống trước để uống nước rồi bước lên khỏi chỗ tắm. Sau đó Bồ-tát chầm chậm bước xuống nước như thể một vị đại Trưởng lão đầy đủ giới luật uy nghi đang chuyên tâm đạt đại định, khoác bộ áo bằng vỏ cây và đắp tấm y bằng da nai qua một bên vai, nhấc bình lên múc đầy nước, rồi đặt trên vai trái. Ngay lúc này, vua thấy rằng đã đến thời, liền bắn mũi tên tẩm thuốc độc, làm bậc Đại Sĩ bị thương ở sườn bên phải, rồi mũi tên xuyên qua sườn bên trái.

Bầy nai thấy ngài bị thương kinh hoàng chạy trốn, nhưng Suvannasàma, mặc dù bị thương nặng, vẫn hết sức giữ bình nước cho vững và cố định thần, ngài chầm chậm bước ra khỏi nước. Ngài đào cát chất lên một ụ cao, kê đầu lên hướng về phía chòi của cha mẹ, và ngài nằm xuống chẳng khác nào một bức tượng vàng trên bãi cát màu sáng bạc. Rồi hồi tưởng lại, ngài suy xét mọi việc đã xảy ra: “Ta không có kẻ thù nào trong vùng núi Himavat này, ta cũng không thù oán ai cả”. Khi ngài nói như vậy, máu từ miệng ngài tuôn ra và vì không nhìn thấy vua, ngài liền ngâm kệ:

  1. Ai đó đang mai phục bắn mình,
    Khi ta đã múc nước đầy bình,
    Bà-la-môn, quý tộc, nô lệ,
    Ai ám hại ta chẳng biết danh?

Rồi ngài ngâm thêm một vần kệ cho biết thịt của ngài vô dụng, không làm thức ăn được:

  1. Người chẳng thể nào ăn thịt ta,
    Cũng không thể sử dụng bao da,
    Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
    Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?

Ngài lại ngâm thêm một vần kệ khác hỏi họ tên của vua:

  1. Người là ai, hãy nói con ai,
    Là gì ta sẽ gọi tên người,
    Tại sao người lại nằm mai phục?
    Thành thật xin người hãy trả lời.

Khi nghe vậy, vua tự nhủ: “Mặc dù kẻ này đã bị ta bắn trọng thương bằng tên độc, vẫn không mạ lỵ ta, oán trách ta, lại còn nói năng dịu dàng như thể ru lòng ta vậy. Thôi ta đến xem sao”. Thế là vua đến gần bên ngài và ngâm kệ:

  1. Chúa tể Kà-si quốc chính ta,
    Đại vương danh hiệu Pi-yak-kha,
    Ta rời ngôi báu vì thèm thịt,
    Thơ thẩn tìm nai rừng núi xa. 
  2. Tài thiện xạ ta thật khéo thay,
    Tâm ta can đảm chẳng lung lay,
    Chẳng rồng rắn thoát tên ta được
    Khi nó đã vào tầm bắn đây.

Sau khi tự khen ngợi tài năng mình như vậy, vua hỏi gia thế của ngài:

  1. Ngươi là ai đó vậy, con ai,
    Là gì ta sẽ gọi tên ngươi?
    Và tên thân phụ cùng gia tộc,
    Tên của nhà ngươi, hãy trả lời.

Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta bảo rằng ta là Thiên thần hay dòng dõi các nữ thần Kinnara (Khẩn-la-na), hoặc bảo ta là một Sát-đế-lỵ hay thuộc một quý tộc tương tự, vị này sẽ tin ngay, nhưng ta phải nói sự thật”. Vì thế ngài nói:

  1. Lúc ta sinh được gọi Sà-ma,
    Con thợ săn cùng khổ chính ta,
    Nay ở đây nằm trên đất lạnh,
    Người nhìn ta đã gặp nguy cơ.
  2. Tên độc của người bắn trọng thương,
    Ta nằm đơn độc tựa linh dương,
    Nạn nhân người giết nhờ tài nghệ,
    Lăn lóc ta nay nhuộm máu hường.
  3. Tên của người xuyên suốt thịt da,
    Theo từng hơi thở máu trào ra,
    Ngất ngư, ta vẫn còn than hỏi:
    Sao muốn giết người mai phục ta?
  4. Ngươi chẳng thể nào ăn thịt ta,
    Cũng không thể sử dụng bao da,
    Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
    Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?

Khi vua nghe vậy, biết rằng không thể nói thật được, liền bịa một câu chuyện như sau:

  1. Một nai đã đến đúng vừa tầm,
    Ta nghĩ rằng ta sắp hưởng phần,
    Nhưng thấy ngươi, nai kinh hoảng chạy,
    Với ngươi, ta chẳng có lòng sân.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tại sao Đại vương nói vậy được? Cả vùng núi Himavat này không có nai nào thấy ta mà bỏ chạy:

  1. Từ khi ta mới biết suy tư,
    Nhớ lại thời xưa mãi đến giờ,
    Không thú mồi hay nai chạy trốn,
    Kinh hoàng khi gặp bước ta qua.
  2. Từ lúc ta mang áo vỏ cây,
    Bỏ đằng sau chuỗi ngày thơ ngây,
    Không nai hay thú mồi đào tẩu,
    Khi thấy ta qua các lối này.
  3. Các thú hoang kia chính bạn mình,
    Cùng ta phiêu bạt khắp rừng xanh,
    Nai này sao lại, như người nói,
    Khi thấy ta liền chạy hãi kinh
    ?

Khi vua nghe nói, liền nghĩ thầm: “Ta đã làm trọng thương con người vô tội này và lại còn nói dối, thôi ta phải thú tội mới được”. Nghĩ vậy, vua nói:

  1. Chẳng có nai nào thấy Sà-ma,
    Sao ta nói dối quá dư thừa?
    Lòng ta tràn ngập niềm tham, hận,
    Và bắn đầu tên đó ấy, chính ta.

Rồi vua nghĩ: “Suvanna không thể sống một mình trong rừng được, chắc phải có thân thích ở đây, để ta thử hỏi xem”. Vì thế vua ngâm kệ:

  1. Sáng sớm từ đâu đến, bạn lành,
    Ai người bảo bạn phải cầm bình,
    Đổ đầy nước múc bờ sông ấy,
    Mang gánh nặng lui bước lộ trình?

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ cảm thấy một nỗi đau đớn vô cùng và ngâm vần kệ trong khi máu trào ra từ miệng:

  1. Cha mẹ sống rừng vắng phía xa,
    Mù lòa chỉ lệ thuộc con thơ,
    Vì hai thân, đến bên bờ nước,
    Ta đổ đầy bình nước của ta.

Rồi ngài tiếp tục than khóc số phận của cha mẹ:

  1. Đời sống chỉ như lửa chập chờn,
    Một tuần thực phẩm trữ không hơn
    Nếu không có nước ta đem lại,
    Yếu đuối, mù lòa chết thảm thương.
  2. Ta chẳng sợ đau khổ tử vong,
    Ấy là số phận mọi loài chung,
    Sống không còn được nhìn thân phụ,
    Điều ấy khiến tâm trí hãi hùng.
  3. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn,
    Mẹ ta ấp ủ nỗi sầu thương,
    Nửa đêm và cả khi trời sáng,
    Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
  4. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn.
    Cha ta ấp ủ nỗi sầu thương,
    Nửa đêm và cả khi trời sáng.
    Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
  5. Họ lang thang khắp chốn rừng hoang,
    Than vãn con đi quá muộn màng,
    Chờ đợi hoài công nghe tiếng bước,
    Hay chờ ta vuốt tấm thân tàn.
  6. Ý tưởng này, tên độc thứ hai,
    Đâm sâu hơn trước nữa, than ôi!
    Vì ta nằm tại đây chờ chết
    Không thể nhìn cha mẹ nữa rồi!

Nhà vua nghe ngài than khóc, nghĩ thầm: “Người này phụng dưỡng cha mẹ hết lòng hiếu thảo tận tụy, ngay bây giờ đang lúc đau đớn mà cũng chỉ nghĩ đến cha mẹ, thật ta đã gây tội ác với một thánh nhân như vậy, làm sao ta an ủi được người đây? Khi ta đọa xuống địa ngục rồi thì ngai vàng có ích gì cho ta? Thôi ta nguyện phụng dưỡng cha mẹ người như người đã phụng dưỡng họ. Như thế cái chết của người không ảnh hưởng mấy đến họ”. Liền sau đó vua nói lên quyết tâm của mình qua các vần kệ sau:

  1. Này hỡi Sà-ma dáng cát tường,
    Chớ nên tuyệt vọng ngập tâm hồn,
    Vì ta phụng dưỡng hai thân lão
    Trong cảnh cô đơn nặng khổ buồn.
  2. Ta nay thành thạo với cây cung,
    Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
    Ta sẽ thay người và phụng dưỡng
    Mẹ cha người sống ở trong rừng.
  3. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
    Đủ dùng củ rễ, trái cây tươi,
    Rồi ta hầu hạ hai thân lão,
    Ta chính gia nô của các ngài.
  4. Hiện nay hai vị ở rừng nào?
    Này hởi Sa-ma, hãy nói mau,
    Ta thề bảo vệ, nuôi hai vị
    Như chính người làm tự bấy lâu.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Thế thì tốt quá, xin Đại vương nuôi nấng cha mẹ ta dùm.

Rồi ngài chỉ đường cho vua:

  1. Nơi chốn đầu ta đặt ở đây,
    Hai trăm tầm chạy giữa rừng cây,
    Con đường dẫn đến lều cha mẹ,
    Xin đến, làm ơn phụng dưỡng thay.

Sau khi chỉ đường và kiên nhẫn chịu đựng đau đớn khủng khiếp vì lòng thương yêu cha mẹ, ngài kính cẩn chấp tay lại, thỉnh cầu vua một lần cuối hãy nuôi dưỡng cha mẹ thay mình:

  1. Cung kính lễ ngài, bậc Đại vương,
    Ngài đi như vậy đúng con đường,
    Mù lòa, cha mẹ ta đơn độc,
    Xin bảo vệ, nuôi dưỡng, đoái thương.
  2. Kính lễ Kà-si Chúa thượng ôi,
    Hai tay ta chắp khẩn cầu ngài,
    Nhân danh ta gửi về cha mẹ
    Lời nhắn nhủ ta đã nói rồi.

Vua nhận lời ủy thác và bậc Đại Sĩ, sau khi nói xong lời nhắn nhủ cuối cùng, liền bất tỉnh.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Sà-ma với vẻ mặt hiền lương,
    Đã nói lời này với Đại vương,
    Rồi ngất lịm dần vì thuốc độc,
    Nằm mê man tựa bỏ thân tàn.

*

Từ trước đến giờ ngài cố gắng thốt ra những lời lẽ trên như thể người bị hụt hơi, nhưng đến đây tiếng nói đã đứt quãng vì toàn thân, tim óc, sinh lực của ngài đều lần lượt chịu tác động dữ dội của thuốc độc, nên miệng và mắt ngài khép lại, tay chân cứng đờ, toàn thân đẫm máu. Vua kêu lên:

– Người này đang nói với ta cho đến giờ phút này, bỗng dưng tại sao lại hết thở vô ra rồi kìa? Các cơ quan đã ngưng hoạt động, thân thể đã cứng đờ, chắc chắn Sà-ma đã chết rồi,

Và không thể nào ngăn được sầu thương, vua đấm vào đầu than khóc thảm thiết.

*

Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Đau đớn nhà vua đã khóc than:
    – Trước kia chưa xảy đến tai nạn,
    Ta không hề biết già rồi chết,
    Trời hỡi, giờ ta biết rõ ràng!
  2. Nay thấy mọi người phải chết thôi,
    Chính Sà-ma cũng chết, than ôi!
    Chàng vừa khuyên nhủ, lời trăn trối,
    Khi hấp hối từ giã cõi đời.
  3. Địa ngục đày, ta đọa hiển nhiên,
    Thánh nhân bị giết đó, nằm yên,
    Mọi người thôn xóm nào ta gặp,
    Sẽ nói đồng thanh tội lỗi trên.
  4. Sống ở rừng hoang vắng vẻ này,
    Họ tên ta có kẻ nào hay?
    Đây miền hiu quạnh không người ở,
    Ai sẽ nhắc ta mối nhục này?

*

Lúc bấy giờ có một nữ thần tên gọi Bahusodarì ở tại núi Gandhamàdana (Hương Sơn) đã là mẹ của Bồ-tát cách đây bảy đời trước của ngài, vẫn thường tưởng nhớ đến ngài với tình mẹ thương con; nhưng ngày hôm đó vì ham tưởng lạc thú thiên giới nên bà không nhớ đến ngài như thường lệ. Các bằng hữu của bà lại bảo bà đã đi dự hội họp trên thiên giới cho nên đã im hơi lặng tiếng.

Bỗng nhiên bà nghĩ đến ngài đúng lúc ngài đang bất tỉnh. Bà tự nhủ: “Việc gì đã xảy ra cho con ta?” và bà nhìn thấy vua Piliyakkha đã giết ngài bằng mũi tên tẩm thuốc độc bên bờ sông Migasammatà, ngài đang nằm trên bờ cát, còn nhà vua đang than khóc thảm thiết. “Nếu ta không đến đó thì con ta sẽ chết, vua sẽ đau đớn lắm, còn cha mẹ Sà-ma sẽ chết đói, chết khát. Nhưng nếu ta đến, thì vua sẽ mang bình nước lại cho cha mẹ của con ta. Sau khi nghe họ nói, vua sẽ dẫn họ đến gặp con, rồi ta và họ sẽ cùng thành tâm thực hiện lời nguyền trang nghiêmđể đánh tan chất độc trong thân thể Sàma cho con ta sống lại. Cha mẹ của con ta lại được sáng mắt ra và sau đó khi đã nghe Sàma thuyết giảng, vua sẽ làm bố thí lớn và được tái sinh lên cõi trời, vậy ta phải đi liền”. Thế rồi bà đến bờ sông Migasammatà, và tàng hình đứng trên không, thuyết Pháp cho vua nghe.

*

Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
    Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
    Rót vài câu kệ vào tai nọ,
    Vì bởi xót thương vị chúa công:

37.- Ngài đã tạo ra một ác hành,
Tội kia đè nặng ở trên mình,
Mẹ, cha, con thảy đều vô tội,
Mũi tên ngài giết cả gia đình.

  1. Đến đây ta bảo với ngài nào:
    Tìm chỗ trú an nương tựa vào,
    Cấp dưỡng người mù rừng vắng nọ,
    Tâm ngài sẽ hạnh phúc dường bao!

Nghe nữ thần dạy bảo, vua tin lời bà ngay rằng nếu đi phụng dưỡng hai kẻ mù lòa đó, vua sẽ được lên thiên giới. Vì thế vua quyết định: “Ta còn cần gì ngai vàng nữa, ta sẽ bỏ đi và hết lòng phụng dưỡng họ”. Sau một hồi tuôn trào lời than khóc, vua cố nén nỗi sầu bi vì cho rằng Sàma đã chết thật rồi, vua làm lễ cung kính thi thể ngài với đủ loại hoa thơm, vẩy nước lên thi thể ngài, đi diễu quanh ba vòng, thân phía bên hữu hướng về thi thể và lễ bái khắp bốn phương. Rồi vua cầm bình nước đã được giao và đi về hướng nam, lòng nặng trĩu u sầu.

Đến đây, bậc Đạo Sư giải thích thêm qua vần kệ:

  1. Sau một hồi tuôn lệ khóc than,
    Thương chàng xấu số nửa chừng xuân,
    Vua liền tiến lại cầm bình nước,
    Và hướng mặt đi đến phía nam
    .

*

Nhà vua vốn là người mạnh khỏe, nên cầm bình nước cương quyết băng rừng đến am ẩn sĩ và cuối cùng cũng đến trước cửa am hiền giả. Hiền giả đang ngồi trong am, nghe tiếng chân người đến gần, phân vân không biết là ai, liền thốt lên lời kệ:

  1. Ta đang nghe các bước chân này,
    Một kẻ nào đi đến lối đây,
    Không phải tiếng chân Sàma bước,
    Xin nói, thưa ngài, cho lão hay.

Vua nghe nói liền suy nghĩ: “Nếu ta bảo thật cho ông lão biết ta đã giết con ông và không nói rõ ta là vua thì họ sẽ phẫn nộ và mắng chửi ta, và lòng sân hận của ta sẽ nổi lên khiến ta xúc phạm đến họ, lại càng gây thêm tội ác; nhưng thường tình ai gặp vua mà lại không kinh sợ, vậy ta phải nói cho họ biết”. Vì thế vua đặt bình vào đúng chỗ, rồi đứng trước cửa am nói to:

  1. Kà-si Chúa tể chính là ta,
    Tên được gọi là Pi-yak-kha,
    Từ giã ngôi vì thèm món thịt,
    Săn nai, phiêu bạt chốn rừng già.
  2. Có tài thiện xạ chính ta đây,
    Cương quyết lòng ta chẳng chuyển lay,
    Chẳng rắn thần nào hòng thoát khỏi,
    Một khi đã đến trong tầm tay!

Lão hiền nhân chào mừng vua với tình thân hữu, và đáp lời:

  1. Kính mừng vạn tuế Đấng Quân vương!
    Hạnh ngộ ngài đi lạc bước đường,
    Chúa thượng vinh quang và vĩ đại,
    Sứ mạng gì xin được tỏ tường?
  2. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
    Kà-su-mà trái ngọt ngào thay,
    Dù còn chỉ ít oi đôi chút,
    Chọn thứ thiệt ngon có sẵn đây.
  3. Nước mát này từ dưới động sâu,
    Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
    Kính mời Chúa thượng, xin ngài ngự,
    Cầm lấy, uống vào thỏa ước ao.

Vua nghe lời tung hô nọ liền nghĩ: “Nếu ta nói ngay với ông lão rằng ta vừa giết chết con lão thì thật là thất sách. Vậy ta phải khởi đầu câu chuyện như ta chẳng biết gì cả, rồi sẽ nói sau”. Vì thế vua hỏi:

  1. Sao ngươi mù lẩn quẩn rừng hoang,
    Các trái này đây ai đã mang?
    Người ấy phải là người sáng mắt,
    Hái nhiều loại tích trữ kho hàng
    .

Lão hiền nhân ngâm hai vần kệ sau cho biết hai vợ chồng lão không đi hái trái mà con trai đã mang về:

  1. Sà-ma, con trẻ tuổi hoa niên,
    Tầm thước, đẹp sao mắt ngắm xem,
    Tóc dài, đen nhánh quanh đầu nọ,
    Cứ cuộn tròn trông thật tự nhiên.
  2. Đem trái cây rồi lại bước ra,
    Vội đi đổ nước đầy bình ta,
    Sẽ quay trở lại tức thì đó,
    Đường đến bờ sông cũng chẳng xa.

Vua đáp lời:

  1. Sà-ma hiếu tử của hai người,
    Người tả đẹp sao, tốt tuyệt vời,
    Ta đã giết chàng nằm ở đó,
    Tóc đen kia nhuộm máu hồng rồi!

Chòi lá của Parikà gần đó, trong lúc bà ngồi nghe giọng nói của vua, bà lo ngại không biết việc gì đã xảy ra và khi đi đến gần men theo sợi dây thừng, bà kêu lên:

  1. Cho biết là ai, Du-kù-la,
    Nói rằng con bị giết, Sà-ma,
    “Sà-ma đã chết”, đây tin dữ,
    Như xẻ làm đôi tim của ta!
  2. Như thể chồi cây sung trẻ non,
    Bị cơn gió mạnh xé lìa tan,
    “Sà-ma đã chết”, nghe tin ấy,
    Đau khổ làm ta nát ruột gan.

Lão nhân khuyên nhủ bà:

  1. Đây là Chúa tể nước Kà-si,
    Cung ác của ngài đã giết đi,
    Con của chúng ta bên bến nước,
    Song ta đừng có rủa nguyền gì.

Parikà đáp lại:

  1. Chỗ dựa, con yêu, độc nhất đời,
    Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
    Sao tâm chứa đủ niềm căm hận,
    Với kẻ ra tay giết hại người?

Lão nhân nói lớn:

  1. Chỗ dựa, con yêu độc nhất đời,
    Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
    Nhưng hiền nhân cấm ta căm hận,
    Với kẻ ra tay giết hại người!

Rồi cả hai ông bà đều lớn tiếng khóc than đấm ngực tán thán công đức của Bồ-tát. Lúc đó vua cố hết sức an ủi hai vị:

  1. Thôi đừng khóc nữa, ta van người,
    Vì trẻ Sà-ma bạc phận rồi,
    Ta sẽ phụng thờ hai vị mãi,
    Đừng buồn như thể quá đơn côi.
  2. Ta đây thành thạo với cây cung,
    Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
    Ta sẽ hầu bên hai vị mãi.
    Và nuôi hai vị ở trong rừng.
  3. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
    Đủ dùng củ, rễ, trái cây tươi,
    Rồi ta hầu hạ bên hai vị,
    Ta chính gia nô của các người,

Hai ông bà lão liền phản đối vua:

  1. Chuyện này chẳng phải đạo, Quân vương,
    Chẳng thích hợp đâu, trái lẽ thường,
    Ngài chính là Quân vương hợp pháp,
    Chúng thần xin đảnh lễ đôi chân.

Khi nghe vậy vua rất hoan hỷ nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay! Họ đã không mở lời hung hăng trách mắng ta là kẻ gây tội lỗi, lại còn tiếp đón ta thật ân cần”. Rồi vua ngâm kệ:

  1. Sơn nhân tuyên bố lẽ công bằng,
    Tiếp đón như vầy thật chí thân,
    Ngài chính từ đây cha của trẫm,
    Và bà là mẹ của thần dân.

Cả hai ông bà đều cung kính giơ tay lên trời thỉnh cầu vua.

– Chúng tôi không dám nhờ Đại vương phụng dưỡng, chỉ mong Đại vương cầm đầu cây gậy dẫn chúng tôi đến chỗ Sà-ma nằm.

Rồi họ ngâm hai vần kệ:

  1. Kà-si Chúa tể thật huy hoàng!
    Ngài sẽ làm dân tộc phú cường,
    Xin hãy đưa ta đi đến chỗ,
    Sà-ma yêu quý của ta nằm.
  2. Tại đó, ta quỳ xuống dưới chân,
    Chúng ta sờ mắt, mũi, toàn thân,
    Chúng ta quyết đợi chờ thần chết,
    Kiên nhẫn bên con mãi đến cùng.

Trong lúc họ đang nói chuyện thì mặt trời lặn. Vua nghĩ thầm: “Bây giờ nếu ta đưa họ đến đó, họ sẽ tan nát cõi lòng trước cảnh đau thương và nếu ba mạng người chết vì ta, thì chắc chắn ta sẽ đọa vào địa ngục. Thôi ta đừng dẫn họ đến đó nữa”. Thế rồi vua ngâm ba vần kệ này:

  1. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
    Như tận cùng biên giới cõi đời,
    Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
    Như vầng trăng rụng xuống trần rồi.
  2. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
    Như tận cùng biên giới cõi đời,
    Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
    Như vầng duong rụng xuống trần rồi.
  3. Ở chốn tận cùng của thế gian,
    Chàng nằm, bụi, máu, phủ lên chàng,
    Vậy nên ở lại trong am thất,
    Đừng mạo hiểm trong chốn núi ngàn.

Hai ông bà đáp lời chứng tỏ lòng gan dạ của họ:

  1. Mặc loài dã thú phá tan hoang,
    Hàng vạn triệu con cứ ngập tràn,
    Ta chẳng sợ đâu bầy dã thú,
    Chúng không thể hại đến thân tàn.

Như thế vua không thể ngăn cản họ được, đành phải cầm tay dắt họ đến đó.

Khi đến nơi, vua bảo:

– Con trai của hai vị nằm đây rồi.

Ông lão liền ấp đầu vào lòng con và bà mẹ gục đầu xuống chân con khóc lóc thảm thiết.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ này để làm sáng tỏ vấn đề;

  1. Lấm bụi và tan nát ruột gan,
    Vừa nhìn cảnh tượng Sà-ma nằm,
    Họ quỳ xuống giống như nhìn thấy,
    Vầng nhật nguyệt rơi rụng xuống trần;
    Cha mẹ giơ cao đôi tay họ,
    Khóc than thật thống thiết muôn phần.
  2. -Phải chăng con ngủ hỡi Sà-ma,
    Con giận hờn, quên cả mẹ cha?
    Hãy nói việc gì làm mệt trí,
    Khiến con nằm chẳng trả lời ta?
  3. Ai sẽ, bây giờ, kết tóc ta,
    Rồi ai sẽ phủi bụi trong nhà,
    Khi Sà-ma chẳng còn đây nữa
    ,
    Ở lại chỉ hai kẻ mắt lòa?
  4. Ai sẽ quét sàn cho chúng ta,
    Ai đem nước nóng, lạnh bây giờ,
    Ai tìm củ, quả rừng về nữa,
    Cô độc, già, mù cả mẹ cha?

Bà mẹ than khóc đấm ngực hồi lâu, rồi suy xét kỹ nỗi sầu thương của mình, bà tự nhủ: “Tất cả chuyện đau thương này là do con ta bị hôn mê vì chất độc quá mạnh, vậy ta phải thành khẩn thề nguyền để giải độc cho con”. Vì thế bà thực hiện một lời thề Chân lý qua các vần kệ sau:

  1. Nếu quả thật là thuở trước đây,
    Sà-ma luôn sống chánh chân đầy,
    Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
    Mất hết hiệu năng, vô hại ngay.
  2. Nếu thuở trước con nói thật chân,
    Ngày đêm lo phụng dưỡng song thân,
    Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
    Mất hết công năng, hạ xuống dần.
  3. Công đức ngày xưa đã tạo ra,
    Chính ta và cả lão thân gia,
    Cầu mong giải độc cho tan hết,
    Con trẻ quý yêu được tỉnh ra.

Sau khi bà trang nghiêm thề nguyền như vậy, Sàma bỗng nghiêng mình và khi ông cha cũng thành khẩn thề nguyền như vậy thì Sàma xoay người sang phía bên kia. Sau đó nữ thần cũng lập lại lời thề nguyền trang nghiêm như vậy.

Bậc Đạo Sư giải thích thêm qua các vần kệ:

  1. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
    Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
    Thực hành lời nguyện cầu chân lý,
    Vì với Sà-ma, dạ xót thương. 
  2. -Ở đây trên thượng đỉnh Hương Sơn
    Ta đã chọn đời sống độc đơn,
    Trong chốn rừng sâu thăm thẳm ấy
    Mọi loài hoa tỏa ngát hương thơm.
  3. Không có một ai giữa thế nhân,
    Còn thân thiết đối với ta hơn,
    Vì đây quả thật là chân chánh,
    Mong chất độc trong máu thoát dần.
  4. Trong khi thương xót họ thay phiên,
    Chứng thực trang nghiêm, họ phát nguyền,
    Kìa thấy Sà-ma vùng đứng dậy,
    Xinh tươi, cường tráng, thật hồn nhiên.

Thế là bậc Đại Sĩ đã phục hồi khỏi vết trọng thương, cha mẹ ngài lại phục hồi thị giác, bình minh cũng vừa xuất hiện. Các phép lạ ấy xảy ra cùng một lúc tại chốn am tranh nhờ thần lực của tiên nữ. Đôi cha mẹ vui mừng không sao kể xiết khi thấy mình sáng mắt ra và con trai họ đã phục sinh . Lúc ấy Sà-ma ngâm kệ này:

  1. Con chính Sà-ma được vạn an,
    Nhìn con trước mặt, hãy hân hoan,
    Hãy lau khô hết đôi dòng lệ,
    Và đón chào con, hạnh phúc tràn.
  2. Vạn tuế, cầu mong bậc Đại vương,
    Phước phần phục vụ lệnh ngài luôn,
    Ngài là chúa tể thần dân đó,
    Ước nguyện gì xin hãy tỏ tường.
  3. Tin-duk, pi-yal, ma-dhuk tươi,
    Trái cây quý hiếm nhất, xin mời,
    Dâng lên thượng khách, ngon như mật.
    Ngài ngự dùng cho thỏa ý ngài
  4. Nước mắt đây từ dưới động sâu
    Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
    Suối trong làm dịu ngay cơn khát,
    Ngài ngự dùng cho thỏa khát khao.

Vua nhìn cảnh tượng kỳ dịu này liền nói to:

  1. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
    Ta không thể nói hướng phương nào,
    Một giờ trước thấy chàng nằm chết,
    Nay sống dậy đây thật nhiệm mầu!

Sà-ma nghĩ thầm: “Vua tưởng ta đã chết, vậy ta phải giải thích rõ là ta vẫn còn sống” và ngài nói:

  1. Một người đầy đủ các công năng,
    Tình cảm, tâm tư chẳng thoát thân,
    Vì bất tỉnh là ngưng hoạt động,
    Người ngoài tưởng kẻ ấy từ trần.

Rồi muốn cho hiểu rõ ý nghĩa thật sự của chuyện này, ngài ngâm kệ thuyết pháp:

  1. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
    Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,

    Chư thiên nhìn thấy lòng con hiếu,
    Và đến chữa lành các bệnh luôn.
  2. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
    Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,
    Chư thiên thế giới này ca tụng,
    Đời kế cõi thiên hưởng phước phần.

Vua nghe vậy nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay, ngay cả các thiên thần cũng xuống trần chữa lành bệnh cho người phụng thờ cha mẹ, khi kẻ này bị bệnh hoạn, chàng Sà-ma này thật vinh quang vượt bậc”.

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
    Ta không thể thấy hướng phương nào,
    Sà-ma, ta đến nhờ chàng giúp,
    Chàng chính là nơi ta trú vào.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương muốn lên thiên giới và hưởng an lạc ở đó, thì Đại vương phải thực hành Mười phận sự như sau:

Rồi ngài ngâm kệ về vấn đề này:

  1. Trước tiên là đối với song thân,
    Ngài phải làm tròn phận sự luôn,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
  2. Đối với vương phi, với các con,
    Phải làm tròn phận sự, Quân vương,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
  3. Với thân bằng và các triều thần,
    Binh sĩ trong tất cả đạo quân,
    Với các thôn làng và thị trấn,
    Giang sơn ngài với mọi tùy tùng.
  4. Với người thanh tịnh, Bà-la-môn,
    Ẩn sĩ, thú, chim, hỡi Chúa công,
    Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
    Sẽ đưa ngài đến cõi thiên thần.
  5. Phận sự tròn đem lại phước ân,
    Phạm thiên, Đế Thích, các thiên thần,
    Nhờ làm phận sự đầy an lạc,
    Vậy phải hoàn thành phận thế nhân.

Sau khi thuyết giảng Thập vương pháp cho vua xong, bậc Đại sĩ còn thuyết giảng thêm nhiều pháp nữa và dạy vua giữ Năm giới. Vua cuối đầu tín thọ lời thuyết giảng và sau khi cung kính từ tạ ra về, liền trở lại Ba-la-nại thực hành đại bố thí cùng nhiều công đức khác, rồi đi theo nghiệp của mình cùng với triều thần gia nhập hội chúng thiên giới. Còn Bồ-tát cùng với cha mẹ ngài đều đạt các Thắng trí và nhiều cấp độ Thiền chứng khác nhau, rồi đi lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, người hiền phụng dưỡng cha mẹ là một phong tục tối cổ.

Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật (sau đó vị Tỷ-kheo đắc quả Dự-Lưu) và nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), nữ thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), người cha là Kassapa (Ca-diếp), người mẹ là Bhaddakàpilàni và Sàma chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG NIMI  (Tiền thân Nimi)

Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi trú tại vườn xoài của vua Makhàdeva gần thành Mithilà, về một nụ cười.

Một buổi chiều nọ, bậc Đạo Sư cùng hội chúng đông đảo Tỷ- kheo đang dạo chơi trong vườn xoài, Ngài chợt thấy một nơi hợp ý Ngài. Vì muốn kể lại hành nghiệp của Ngài ở thời quá khứ, ngài liền để lộ một nụ cười trên khuôn mặt cho hội chúng chiêm ngưỡng. Khi Tôn giả Ànanda hỏi tại sao ngài mỉm cười, Ngài đáp:

– Này Ànanda, ở chỗ kia, ngày xưa Ta đã nhập Thiền định vào thời vua Makhàdeva.

Rồi theo lời thỉnh cầu của Tôn giả, đức Thế-tôn ngồi xuống nơi Tôn giả mời Ngài, và kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, ở quốc độ Videha, trong kinh thành Mithilà có một vị vua tên là Makhàdeva. Khi còn thanh xuân, vua hưởng dục lạc trong khoảng tám mươi bốn ngàn năm, kế đó Ngài làm thái tử trong tám mươi bốn ngàn năm rồi Ngài lên làm vua trong tám mươi bốn ngàn năm nữa.

Lúc bấy giờ Ngài bảo người thợ hớt tóc phải báo cho ngài biết ngay khi gã thấy sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu Ngài. Thời gian qua, khi người ấy thấy sợi tóc bạc liền tâu với vua, vua bảo gã lấy nhíp nhổ ra để lên tay Ngài, Ngài thấy như thể thần chết đang bám vào trán Ngài vậy. Ngài nghĩ thầm: “Bây giờ đã đến lúc ta phải rời thế tục”. Vì thế Ngài cho phép người hớt tóc lựa chọn một làng theo ý gã, còn ngài cho triệu thái tử đến giao việc triều chính cho thái tử, vì là Ngài sẽ xuất gia.

– Tâu phụ vương, tại sao vậy? Thái tử hỏi.

Ngài đáp:

  1. Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra,
    Cướp dần đời sống tháng năm qua,
    Chúng là thiên sứ nhắc ta nhớ,
    Nay đến thời ta phải xuất gia.

Cùng với những lời này, Ngài phong vương cho con theo nghi lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu), huấn dạy tân vương phép trị nước, rồi Ngài rời kinh thành, sống theo đời của một sa-môn. Suốt tám mươi bốn ngàn năm ngài tu tập Tứ Vô lượng Tâm (bốn phạm trú: Từ, bi, hỷ, xả), rồi Ngài được sinh lên Phạm thiên giới.

Con của Ngài cũng theo gương cha, xuất thế và được sinh lên Phạm thiên giới. Các hoàng tử về sau cũng vậy, cứ lần lượt xuất gia bốn mươi tám ngàn vị thiếu hai. Khi thấy sợi tóc bạc đầu tiên xuất hiện, vị ấy liền ẩn cư trong vườn xoài, hành trì Tứ Vô lượng Tâm và được sinh lên Phạm thiên giới.

Là vị vua đầu tiên trong hoàng tộc được sinh cõi này, vua Makhàdeva đứng trên Phạm thiên giới nhìn xuống số phận của hoàng tộc, Ngài rất hoan hỷ khi thấy gần tám mươi bốn hoàng tửđã xuất gia. Ngài suy nghĩ: “Sẽ có Niết-bàn bây giờ hay không?” Ngài thấy là không thể cóđược, nên Ngài quyết định chính Ngài chứ không ai khác nữa phải kế tục sự nghiệp hoàng gia. Vì thế Ngài từ thiên giới xuống nhập mẫu thai hoàng hậu của vị vua thành Mithilà.

Vào ngày đặt tên, các nhà tiên tri nhìn các tướng mạo của hài nhi, đồng tâu:

– Tâu Đại vương, vương tử này ra đời để kế tục sự nghiệp hoàng gia. Sẽ không có vị nào trong hoàng tộc làm ẩn sĩ nữa.

Nghe vậy, vua bảo:

– Hài nhi này ra đời để nối nghiệp hoàng gia như thể chiếc vành bánh xe vậy.

Vì thế Ngài đặt tên con là: Nimi-kumàra hay vương tử A Luân.

Từ thuở ấu thơ, vương tử này đã chuyên tâm bố thí, làm công đức, giữ giới luật Bồ-tát. Khi vua cha theo lệ thường, trông thấy sợi tóc bạc đầu tiên, liền ban một ngôi làng cho người hớt tóc, phong vương cho con rồi trở thành ẩn sĩ trong vườn xoài và được sinh lên Phạm thiên giới.

Còn vua Nimi chuyên tâm bố thí, nên đã lập năm bố thí đường tại bốn cổng thành và ngay chính giữa thành để thực hành đại bố thí. Trong mỗi bố thí đường, Ngài ban phát một trăm ngàn đồng tiền, thế là Ngài phát ra năm trăm ngàn đồng tiền mỗi ngày. Ngài thường xuyên giữ Ngũ giới, vào các ngày rằm Ngài giữ giới hạnh Bố-tát. Ngài khuyến khích dân chúng bố thí và làm công đức, Ngài chỉ dạy cho họ con đường đi lên thiên giới, khiến họ thấy kinh sợ thần chết. Rồi Ngài thuyết pháp cho họ nghe.

Dân chúng tin theo lời thuyết giảng của Ngài, bố thí, làm lành, nên khi từ trần đều lần lượt được sinh lên thiên giới, vì thế thiên giới trở nên đông đảo, còn địa ngục như thể trống vắng.

Lúc ấy ở cõi trời Ba mươi ba, chư Thiên đang tụ họp tại Thiện Pháp đường (Sudhammà) đồng thanh hô to:

– Hoan nghênh bậc sư trưởng của chúng ta, Đại vương Nimi vạn tuế! Chính nhờ Ngài hành thiện nghiệp, nhờ tri kiến Phật của Ngài mà chúng ta đã đạt được an lạc vô biên ở thiên giới này.

Như thế họ tán thán công đức của bậc Đại Sĩ. Ngay trong cõi nhân gian tiếng tán thán cũng lan tràn khắp nơi như dầu loang trên mặt biển cả.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này cho hội chúng Tỷ-kheo qua các vần kệ sau:

  1. Quả thật diệu kỳ ở thế gian,
    Các hiền nhân đã được vinh thăng,
    Vào thời minh chúa Ni-mi ấy,
    Thánh giả, hiền nhân đã ngập tràn.
  2. Vi-đề-ha, đại đế ngày xưa,
    Bậc chiến thắng bao kẻ địch thù,
    Trong lúc ngài thi hành bố thí,
    Vẫn thường sinh khởi mối suy tư:
    “Điều gì đem lại nhiều thành quả,
    Bố thí? Tu hành? Ai bảo cho?

Lúc ấy cung của Sakka Thiên chủ (Đế Thích) bỗng nóng rực lên. Thiên chủ tìm hiểu lý do, thấy vua đang suy nghĩ như vậy, ngài nói:

– Ta sẽ giải quyết vấn đề này.

Rồi ngài ra đi, bỗng chốc đã biến hoàng cung thành một vùng sáng lòa, ngài bước vào điện sừng sững tỏa hào quang rực rỡ và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài làm sáng tỏ mọi sự.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Đại đế chư thiên, đấng vạn năng,
    Là ngài ngàn mắt [*] tỏa hào quang,
    Nhận ra tư tưởng trong vua ấy,
    Trước ánh sáng ngài, bóng tối tan.

[*] Sahassakkka: Sakka có ngàn mắt.

Đại đế Nimi tâu Thiên chủ Vàsava (tức Sakka), trong lúc toàn thân rợn thịt da:

  1. Ngài là ai, có phải Thiên thần,
    Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
    Vì trẫm chưa từng nghe hoặc thấy,
    Hào quang như vậy ở trên trần.

Sau đó Thiên chủ Vàsava nói với vua Nimi, vì biết vua đang rợn cả thịt da:

  1. Ta chính Sak-ka Thiên chủ đây,
    Đến thăm ngài chính ở nơi này,
    Hỏi điều ngài muốn, kìa Hoàng thượng,
    Chớ rợn thịt da sợ hãi vầy!

Rồi vua Nimi hỏi Thiên chủ Vàsava, khi nghe lời mời này:

  1. Sak-ka Thiên chủ đấng toàn năng,
    Giải quyết cho ta nỗi khó khăn:
    Bố thí hay tu hành Thánh hạnh,
    Việc gì đem kết quả nhiều hơn?
  2. Rồi Và-sa lại bảo Ni-mi
    Giải quyết cho vua chính vấn đề,
    Nói quả tu hành đời Thánh hạnh,
    Với nhà vua ấy vẫn vô tri:
  3. Người sinh làm một Khat-ti-ya,
    Kẻ sống đời thanh tịnh bậc ba,
    Một vị Thiên thần vào bậc giữa,
    Thánh hiền bậc nhất đạt tinh hoa.
  4. Nhờ bố thí thôi khó đạt thành,
    Như vầy những quả vị an lành,
    Những gì bậc Thánh nhân xuất thế
    Chứng đắc nhờ tu tập khổ hành.

Qua các vần kệ này, Ngài làm sáng tỏ thành quả vĩ đại của đời tu hành, rồi Ngài đọc các bài kệ khác, nêu tên các vị vua trong quá khứ đã không thể vượt qua Dục giới nhờ thực hành đại bố thí, đó là các vị vua:

  1. Du-dì-pa, Sà-ga-ra, Se-la,
    Mu-ca-lin-da, Bhagì-ra-sa,
    U-sì-na-ra và At-tha-ka,
    As-sa-ka và Pu-thuj-ja-na.
  2. Các vua, giáo sĩ, Khat-ti-ya,
    Và biết bao nhiêu kẻ đã qua,
    Vì chỉ chuyên thi hành tế lễ,
    Không ai vượt khỏi cảnh Pe-ta.

Sau khi giải thích thành quả của đời sống tu hành cao hơn hẳn thành quả của bố thí. Như vậy ngài nêu rõ những vị ẩn sĩ nhờ sống đời Thánh hạnh đã vượt qua thế giới Peta (ma quỷ) và được sinh lên Phạm thiên giới, rồi ngài nói:

  1. Và đây bảy ẩn sĩ hiền nhân,
    Những vị đã siêu thoát cõi trần:
    Yà-ma-ha-nu, So-ma-yà-ga,
    Ma-no-ja-va, Sa-mud-da,
    Mà-gha, Bha-ra-ta, Kà-li-ka-ra.
    Còn có bốn hiền nhân khác nữa:
    Kas-sa-pa, An-gì-ra-sa,
    A-kit-ti, Ki-sa-vac-cha,
    Thảy đều lên cõi Phạm thiên thần.

Từ trước đến giờ ngài theo truyền thuyết mô tả thành quả vĩ đại của đời Thánh hạnh, bây giờ ngài tiếp tục tuyên bố những gì chính ngài đã thấy:

  1. Sì-dà phương bắc, một trường giang,
    Sâu thẳm, thuyền bè khó vượt ngang,
    Quanh nó, giống như rừng lửa sậy,
    Sáng ngời các dốc núi màu vàng.
  2. Cát đằng bao phủ ở quanh vùng,
    Thơm ngát cây trên núi dưới sông,
    Ở đó mười ngàn nhà ẩn sĩ.
    Một thời đã trú ngụ tu thân.
  3. Ta giữ lời nguyền của Thánh nhân,
    Chuyên tâm tiết dục, tự điều thân,
    Thực hành bố thí, đời đơn độc,
    Chăm sóc tâm từng bước vững vàng.
  4. Bất cứ ở trong đẳng cấp nào,
    Phải tìm bậc Thánh để theo hầu,
    Vì con người thảy đều ràng buộc,
    Do chính mọi hành nghiệp bấy lâu.
  5. Xa chánh đạo, tất phải đọa thân,
    Vào miền địa ngục mọi giai tầng,
    Mọi giai tầng trở thành thanh tịnh,
    Nếu tạo thiện hành, sống chánh chân.

Sau đó ngài bảo:

– Tuy nhiên, này Đại vương, mặc dù đời tu hành đạt kết quả cao hơn bố thí nhiều, các bậc đại nhân đều phải lưu tâm đến cả hai việc này: Bố thí và giữ giới hạnh.

Với lời nhủ này, Thiên chủ trở về cảnh giới của ngài.

Lúc ấy hội chúng chư Thiên giới liền hỏi ngài:

– Tâu Thiên chủ, lâu nay chúng con không được yết kiến Thiên chủ, chẳng hay ngài ở đâu vậy?

– Này các hiền giả, vua Nimi ở thành Mithilà đang có mối hoài nghi trong lòng nên ta phải đi giải quyết vấn đề để vua khỏi nghi ngờ nữa.

Rồi ngài tả sự việc qua các vần kệ:

  1. Này chư Thiên hãy lắng nghe ta,
    Tất cả đây tề tựu nảy giờ:
    Các bậc chánh nhân đều khác hẳn,
    Cả về đẳng cấp lẫn tài hoa.
  2. Ni-mi chúa tể ở phàm trần,
    Là bậc trí hiền đức, chánh chân,
    Vua nước Vi-đề, chuyên bố thí,
    Là người chiến thắng các cừu nhân.
  3. Trong lúc ngài ban phát rộng tay,
    Khởi sinh trong trí mối nghi này:
    “Điều gì kết quả nhiều hơn hẳn,
    Bố thí? Tu hành? Ai có hay?”.

Sau đó Ngài kể các đức tính của vua, không sót điều gì khiến chư Thiên mong ước được gặp vua, liền nói:

– Tâu Thiên chủ, vua Nimi là bậc sư trưởng của chúng con, nhờ lời dạy bảo của Ngài, cùng các phương tiện của Ngài, chúng con đã đạt được niềm an lạc trên Thiên giới. Chúng con ao ướcđược gặp Ngài. Vậy xin Thiên chủ hãy cho mời Ngài đến để chúng con được bái yết Ngài.

Thiên chủ Sakka chấp thuận, truyền gọi thần Màtali đến:

– Này hiền hữu, hãy buộc ngựa vào xa giá của ta, rồi xuống kinh thành Mithilà, rước vua Nimi lên thiên xa và đem Ngài về đây.

Thần Màtali vâng lệnh ra đi. Trong khi Thiên chủ Sakka đàm đạo với chư Thiên và ra lệnh cho Màtali đem xe xuống trần, tính ra đã một tháng trôi qua hạ giới.

Lúc đó đúng ngày trai giới trăng tròn, vua Nimi mở cửa sổ hướng đông ra, ngồi trên lầu, các triều thần vây quanh, suy ngẫm đến công hạnh của mình. Vừa lúc trăng lên ở hướng đông thì thiên xa xuất hiện. Dân chúng đã ăn cơm tối xong, đang cùng nhau trò chuyện thong dong trước cửa:

– Ô kìa! Sao hôm nay, lại có đến hai vầng trăng thế? Họ kêu lên.

Trong lúc họ đang bàn tán thì chiếc xe lộ rõ dần:

– Ồ không phải vầng trăng, mà là chiếc xe ngựa.

Lúc đó đoàn tuấn mã cả ngàn con của thần Màtali cùng xe của Thiên chủ Sakka xuất hiện, dân chúng tự hỏi: “Xe này dành cho ai đây? Phải rồi, vị vua của họ thật anh minh, chắc Thiên chủ Sakka dành xe này cho vị vua của họ rồi, chắc Thiên chủ muốn gặp vua”.

Vì thế họ hoan hỷ reo hò:

  1. Một việc diệu kỳ ở thế gian,
    Làm ta rợn gáy bởi hân hoan:
    Vì Vi-đề Đại vương vinh hiển,
    Nên chiếc thiên xa xuống cõi phàm.

Trong lúc dân chúng đang bàn tán mải mê như vậy thì nhanh như gió, Màtali quay xe lại, dừng xe bên song cửa hoàng cung, mời vua lên xe.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Mà-ta-li, đại-lực Thiên thần,
    Điều ngự thiên xa của Ngọc hoàng,
    Đến thỉnh Vi-đề-ha Chúa tể,
    Ở Mi-thi điện: “Tấu minh quân,
    Chúa công dưới thế, lên xa giá,
    Thiên chủ In-dra với các thần,
    Ở cõi Băm ba, cung Thiện pháp,
    Đang chờ để yết kiến tôn nhan”.

*

Vua suy nghĩ: “Ta sắp viếng cõi trời mà ta chưa từng biết, vậy ta phải tỏ lòng tri ân đối với thần Màtali”. Thế rồi ngài bảo các cung phi cùng thần dân:

– Chẳng bao lâu ta sẽ trở về trần thế, vậy các người phải chuyên tâm làm việc thiện và bố thí.

Rồi Ngài lên xe.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi ấy Vi-đề-ha Đại quân,
    Vội vàng tiến đến chiếc xe thần,
    Bước vào, khi Đại vương an tọa,
    Thần lái thiên xa lại hỏi rằng:
    – Thánh chúa, đường nào ngài muốn chọn,
    Nơi người ác ở hoặc hiền nhân?

*

Nghe nói vậy, vua liền nghĩ: “Cả hai chốn này ta đều chưa hề thấy bao giờ cả, vậy ta muốn xem cả hai”. Ngài đáp lại:

  1. Mà-ta-li, hỡi quản xa thần,
    Hai chỗ, ta đều muốn ngắm trông,
    Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
    Và nơi kẻ ác đọa đày thân.

Màtali suy nghĩ: “Không thể đi xem cả hai nơi cùng một lúc được, vậy ta phải hỏi lại vua xem sao”. Rồi thần ngâm kệ:

  1. Chỗ nào đi trước, Đại minh quân,
    Nơi trước tiên ngài muốn ngắm trông,
    Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
    Hay nơi kẻ ác đọa đày thân?

Vua suy nghĩ thế nào ngài cũng sẽ lên Thiên giới và ngài lại ước mong thấy địa ngục, nên ngài ngâm kệ:

  1. Ta muốn xem nơi của tội nhân,
    Hãy đưa ta đến ngục sau cùng,
    Nơi người đã phạm hành vi ác,
    Nơi kẻ ác nay đang trú thân.

Lúc ấy Màtali chỉ cho vua thấy dòng sông ở địa ngục, tên gọi Vetarani.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này:

  1. Thần lái thiên xa chỉ chúa công,
    Dòng sông hôi thối Ve-ta-ran,
    Chứa đầy chất nước đang thiêu hủy,
    Nóng bỏng, phủ toàn lửa cháy bừng.

Vua kinh hoàng khi nhìn thấy những tội nhân bị hành hạ đau đớn trong dòng sông Vetarani, ngài liền hỏi Màtali họ đã mắc những tội gì, Màtali liền kể lại:

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vua Ni-mi thấy tội nhân sa xuống,
    Dòng sông sâu, liền hỏi Mà-ta-li :
    “Ta kinh hoàng thấy cảnh tượng đằng kia,
    Những kẻ này phạm tội gì, xin nói,
    Mà ngày nay bị sa vào sông thối?”.
  2. Thần đáp, nêu tội chín, quả liền sinh:
    – Ai trong đời ỷ sức mạnh riêng mình,
    Lại ức hiếp kẻ nghèo hèn, yếu đuối,
    Kẻ ác kia đã gây bao tội lỗi,
    Bị thả vào dòng nước Ve-ta-ran.

Màtali đáp lời vua như vậy. Khi vua đã thấy địa ngục Vetarani rồi, Màtali liền làm cho cảnh này biến mất, rồi lái xe đến xem nơi tội nhân bị các loài chó và ác thú khác xâu xé. Thần Màtali đáp lời vua hỏi như sau.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này :

  1. Bầy chó đen, đàn kên kên cùng quạ,
    Đang đợi mồi kinh khủng, lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta kinh hãi trong lòng,
    Tội lỗi gì họ gây ra, xin nói,
    Quạ rình ai? Mà-ta-li đáp lại:
  2. Nếu tội chín muồi và quả phải mang;
    – Những kẻ xan tham, sân hận, nói sàm,
    Làm tổn hại Bà-la-môn, ẩn sĩ,
    Những kẻ ác đã gây bao tội thế,
    Nay làm mồi cho diều quạ, ngài xem!

*

Những câu hỏi khác của vua cũng đều được thần Màtali đáp lại tương tự như trên.

  1. Mình rực lửa khi họ nằm phủ phục,
    Đống than hồng vùi dập, lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng.
    Tội lỗi gì các kẻ này phạm phải,
    Thần quản xa, nói cho ta biết với,
    Nay nằm vùi dập dưới đống than hồng?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, tỏ tường,
    Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
    – Những kẻ này trên đời đầy gian trá
    Hành hạ người vô tội, tạo đau thương,
    Cả nữ nhi cùng với bọn nam nhân,
    Những kẻ ác đã gây tạo tội lỗi,
    Nay nằm vùi dưới đống than đỏ ối.
  3. Những người kia nằm hố than vật vã,
    Gầm thét lên, thân cháy. Lúc ta trông,
    Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng,
    Bọn này phạm tội gì, cho ta rõ,
    Ai nằm vẫy vùng trong hầm lửa đỏ?
  4. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu quả mang khi tội đã chín muồi:
    – Những người trước đám đông dân chúng,
    Làm chứng nhân sai, nợ nần lật lọng,
    Làm hại người như vậy, tấu Anh quân,
    Những ác nhân này phạm tội bất nhân,
    Nay nằm đó vẫy vùng trong hố lửa.
  5. Khói lửa rực trời một hầm than đỏ,
    Ta thấy kìa chảo sắt lớn gớm ghê,
    Khi ta nhìn, lòng sợ hãi tràn trề,
    Mà-ta-li, nói cho ta biết với,
    Tội lỗi gì các kẻ này mắc phải,
    Nay bị thả vào chảo sắt khổng lồ?
  6. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua:
    Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
    – Kẻ làm hại Bà-la-môn, hiền giả,
    Kẻ xấu xa làm hại các thiện nhân,
    Những ác nhân mang ác nghiệp vào thân,
    Nay phải chịu rơi đầu vào chảo sắt.
  7. Cổ bị tóm thả vào trong chảo sắt,
    Đầy nước sôi sùng sục thật kinh hồn,
    Mà-ta-li, ta sợ hãi từng cơn,
    Tội lỗi nào những kẻ này mắc phải,
    Giờ đây đầu nát tan nằm chịu tội?
  8. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua :
    Nêu tội chín muồi nên quả sinh ra;
    – Đó là những ác nhân trên hạ giới,
    Bắt chim muông, rồi lại còn sát hại,
    Và sát sinh như vậy, hỡi Quân vương,
    Do ác hành gây tội lỗi đau thương,
    Nay nằm đó với cổ đầu siết chặt.
  9. Dòng sông kia sâu thẳm, bờ nông cạn,
    Dễ đi qua bờ bên ấy, thế nhân,
    Nóng như thiêu, liền uống, nhưng vừa dùng,
    Nước thành trấu lửa, khi ta nhìn thấy,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hãi,
    Nói cho ta, tội lỗi của thế nhân,
    Sao uống vào, nước hóa trấu cháy bừng?
  10. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Đây những người trộn gạo với trấu tro,
    Đem bán gian cho những kẻ đi mua,
    Nên giờ phải chịu khát thiêu cổ họng,
    Nhưng uống vào, nước hóa ra trấu nóng.
  11. Bao gươm giáo cung tên đâm xuyên thủng,
    Hai bên sườn những kẻ nọ thét gào,
    Mà-ta-li,ta kinh hãi, nói mau,
    Tội lỗi gì các kẻ kia đã tạo,
    Nên ngày nay chịu biết bao gươm giáo,
    Phải nằm kia hứng lấy mọi cung tên?
  12. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp liền,
    Tả tội chín muồi và nay mang quả;
    – Kìa những thế nhân lòng đầy gian trá,
    Đã lấy của người để sống giàu sang,
    Trâu, dê, cừu, ngựa, thóc, lúa, bạc, vàng,
    Những ác nhân này gieo trồng tội báo,
    Nên giờ đây nằm hứng bao gươm giáo.
  13. Những kẻ này bị cột cổ là ai,
    Kẻ xé thịt, người chặt xương từng mảng,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hoảng,
    Nói cho ta tội tạo bởi chúng sinh,
    Đang nằm kia thân bị xé tan tành?
  14. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    N êu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Dân chài, hàng thịt, săn bắn hươu nai,
    Kẻ giết trâu dê đem bán ở đời,
    Những ác nhân đã gây bao tội ác,
    Nay nằm kia với tấm thân tan nát.
  15. Hồ hôi đầy phân bẩn ở đằng kia,
    Mùi thối xông lên, bao người chết đói,
    Ăn đồ dơ! Lòng ta đầy kinh hãi,
    Khi ta nhìn, hãy nói, Mà-ta-li,
    Các thế nhân kia mắc tội lỗi gì,
    Nay ta thấy ăn toàn đồ dơ thối?
  16. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nếu tội chín muồi nay quả phải mang:
    – Những kẻ tinh ma ích kỷ hại nhân,
    Sống với bạn mà đem lòng hại bạn,
    Những ác nhân này đã gây nghiệp chướng,
    Nay ăn đồ dơ bẩn tội tình thay.
  17. Hồ đằng kia đầy máu đỏ hôi tanh,
    Mùi thối xông lên, kìa đám sinh linh,
    Khát thiêu họng, uống vào! Ta kinh hãi,
    Khi ta nhìn, Mà-ta-li, hãy nói
    Bọn người kia đã tạo lỗi lầm gì,
    Nên bây giờ phải uống dòng máu kia?
  18. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Những kẻ này đã giết mẹ hoặc cha,
    Chúng phải tôn sùng, tội ngỗ nghịch mà,
    Bọn ác này đã tạo ra trọng tội,
    Chúng đang uống đằng kia dòng máu thối.
  19. Kìa lưỡi xuyên ngang bằng cái móc câu,
    Như trăm mũi gai trên gỗ cắm vào,
    Ai vẫy vùng như cá nằm trên cạn?
    Khi thấy người đang thét gào lảm nhảm,
    Ta kinh hoàng, hãy nói, Mà-ta-li,
    Tội lỗi gì phạm bởi đám người kia,
    Nay nằm đó nuốt móc câu như vậy?
  20. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
    Nêu tội chín muồi và quả phải mang:
    – Những thế nhân kia buôn bán chợ hàng,
    Tranh giành mua rẻ vì tham tư lợi,
    Tưởng đâu che được bao trò gian dối,
    Như người câu cá. Nhưng kẻ dối đời,
    Phải lâm nguy, bởi nghiệp cũ theo hoài,
    Bọn gian ác này đã gây tội ấy,
    Đang nằm kia, nuốt móc câu như vậy.
  21. Những nữ nhân, tơi tả, đứng giơ tay,
    Gào thét lên, khốn khổ, máu bôi đầy,
    Như thú trong lò. Thân vùi đến ngực,
    Còn nửa người trên lửa thiêu rừng rực!
    Ta kinh hoàng cho biết, Mà-ta-li,
    Đám nữ nhân kia phạm tội ác gì,
    Nay phải đứng chôn vùi trên mặt đất,
    Nửa người trên lửa đang thiêu hừng hực,
    Phần nằm sâu dưới đất đến nửa người?
  22. Mà-ta-li, khi ấy vội đáp lời,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    – Những kẻ kia cao sang trên thế giới,
    Đời sống dâm ô, gây nghiệp bất nhân,
    Phản bội, trốn chồng làm việc vô luân,
    Để thoả mãn những tấm lòng tham dục,
    Họ phung phí cuộc đời trong trụy lạc;
    Giờ đây mình rực lửa đứng chôn thân.
  23. Sao những kẻ kia bị người lôi cẳng,
    Và thả vào dòng nước Na-ra-ka?
    Lòng kinh hoàng, Mà-ta-li, nói ra,
    Tội lỗi gì những thế nhân tạo vậy,
    Nên ngày nay trôi vào dòng sông ấy?
  24. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu nghiệp nhân mang quả đã chín muồi:
    – Những kẻ kia trên thế gian độc ác,
    Trộm báu vật, tư thông vợ người khác,
    Nên giờ đây bị thả xuống dòng sông,
    Chịu khổ hình trong địa ngục muôn năm,
    Không an lạc cho người gây tội lỗi,
    Vì nó luôn bị nghiệp mình theo dõi.
    Những ác nhân này gây tạo lỗi lầm,
    Nên ngày nay bị thả xuống dòng sông.

Nói xong, Màtali làm cho cảnh địa ngục biến mất rồi tiếp tục lái xe tiến lên, chỉ cho vua xemđịa ngục hành hình kẻ theo tà giáo. Theo lời vua yêu cầu, thần Màtali giải thích:

  1. Ta chứng kiến bao nghiệp nhân gây quả,
    Thật kinh hoàng trong địa ngục, khi trồng,
    Mà-ta-li, ta sợ hãi trong lòng,
    Tội lỗi gì những thế nhân phạm phải,
    Nên ngày nay bị trầm luân khổ ải,
    Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua,
    Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
    Bọn ác tà kiến kia trên thế giới,
    Đặt lòng tin vào vọng tưởng hư danh,
    Buộc tha nhân phải tín ngưỡng theo mình.
    Vì tà kiến đã gây bao tội lỗi,
    Nên ngày nay phải chịu bao khổ ải,
    Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua.

Bấy giờ trên thiên giới, chư Thiên đang tụ tập tại Sudhamma (Thiện pháp đường) chờ đợi nhà vua đến. Thiên chủ Sakka nghĩ thầm: “Màtali đã đi lâu lắm rồi” và khi xét thấy lý do, ngài bảo:

Màtali đang đi vòng quanh làm vị hướng dẫn, chỉ các cảnh giới địa ngục cho nhà vua xem và giải thích các tội lỗi đã đưa đường đến mỗi địa ngục ấy.

Rồi cho gọi một vị Thiên đồng trẻ tuổi nhanh nhẹn, ngài bảo vị này:

– Hãy đi bảo Màtali mang nhà vua đến đây ngay. Vị ấy đang tiêu phí hết cuộc đời của nhà vuađấy, không nên đi quanh các địa ngục quá lâu như vậy.

Lập tức vị Thiên đồng ra đi, truyền lệnh của Thiên chủ cho Màtali. Nghe xong Màtali đáp:

– Chúng tôi không dám chậm trễ nữa.

Rồi trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ tất cả mọi cảnh giới địa ngục rộng lớn cho vua xem khắp bốn phương và ngâm kệ sau:

  1. Giờ Đại vương đã chứng kiến nhiều nơi,
    Của thế nhân mắc tội lỗi trên đời,
    Nên đọa đày và đây Minh quân hỡi,
    Nhanh lên thăm Đại đế của cõi trời.

Nói xong thần quay xe lên thiên giới. Khi ấy vua thấy trên không tòa lâu đài của một thiên nữ, tên là Bìrani, với các đỉnh tháp đầy ngọc vàng, được trang hoàng thật lộng lẫy, có hoa viên và hồ hoa sen súng cùng những cây quý bao quanh xứng đáng với cảnh đẹp ấy. Thiên nữ này ngồi trên đó tọa sàng trong căn phòng có đỉnh tháp hướng ra phía trước và được cả ngàn tiên nữ hầu hạ chung quanh, bà đang nhìn ra cửa sổ. Vua liền hỏi Màtali nữ thần ấy là ai và Màtali giải thích như sau:

  1. Ngắm lâu đài kia với năm đỉnh tháp,
    Đầy tràn hoa tô điểm, ngự tọa sàng,
    Một nữ thần thật diễm lệ huy hoàng,
    Muôn vẻ uy nghi, muôn phần kỳ lực,
    Mà-ta-li, lòng ta vui náo nức,
    Nói ta nghe những thiện nghiệp của nàng,
    Khiến nàng nay hạnh phúc ở thiên đàng.
  2. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại :
    Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
    Ngài nghe chăng ở xứ Bì-ra-ni,
    Một Bà-la-môn có một nô tỳ,
    Tiếp một khách đúng thời, lòng niềm nở
    Như mẹ đón con mình, nên từ đó,
    Cao sang, trong sạch, sống hưởng lâu đài.

Nói xong, Màtali lái xe tiến lên và chỉ vua xem bảy lâu đài bằng vàng của Thiên thần Sonadanna. Vua thấy cảnh tượng huy hoàng của Thiên thần này, liền xin Màtali giải thích:

  1. Kia bảy lâu đài sáng ngời chói lọi,
    Một thiên nhân đang ngự trị huy hoàng,
    Cùng các vợ tiên trú ngự thiên đường.
    Ta hoan hỷ nhìn, Mà-ta-li hỡi,
    Thiện nghiệp nào thế nhân kia vun xới,
    Mà bây giờ lạc trú cảnh thiên đình?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, lại trình,
    Tuyên thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
    – So-na-din-na trước làm vua đã,
    Đem cúng dường với đại lượng quân vương,
    Bảy am tu cùng tất cả đồ dùng,
    Cung cấp đủ tâm thành và vật thực:
    Sàng tọa, đèn, hương, cùng nhiều y phục,
    Hoan hỷ, tam hòa với các chánh nhân,
    Ngài giữ ngày trai giới, mỗi hai tuần:
    Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
    Nên bây giờ tận hưởng lạc thiên cung.

Màtali kể rõ các thiện nghiệp của vua Sonadinna xong, liền lái xe tiến tới nữa. Rồi thần lại chỉ một lâu đài bằng pha lê, cao ngất đến hai mươi lăm dặm, có hàng trăm cột trụ làm bằng thất bảo, hằng trăm đỉnh tháp, rải rác các rèm treo và chuông nhỏ. Một chiếc cờ bằng bạc và vàngđang phất phới, cạnh đó là một công viên đầy hoa lá tốt tươi, một hồ thả hoa súng xinh xinh, các nữ thần yêu kiều ca hát muôn điệu nhạc. Khi vua thấy cảnh này liền hỏi các nữ thần này đã tạo những thiện nghiệp gì, Màtali đáp:

  1. Kìa cung pha lê sáng ngời, rực rỡ,
    Các đỉnh cao chất ngất đến tầng mây,
    Thức uống, đồ ăn la liệt đủ đầy,
    Thiên nữ kỳ tài cả đoàn tuyệt sắc,
    Đang trình diễn múa ca cùng tiếng hát.
    Ta hân hoan, hãy nói, Màtali,
    Các nữ nhân này đã tạo nghiệp gì,
    Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần quản xa, liền đáp,
    Tả những thiện duyên mang lại quả lành;
    – Các nữ nhân này Thánh hạnh tu hành,
    Tín nữ tại gia giữ ngày Bố-tát,
    Rộng lượng, điều thân, tịnh tâm, tịnh giác,
    Nên giờ đây hạnh phúc ở Thiên cung,
    Mà Đại vương đã tận mắt ngắm trông.

Rồi thần lái xe tiến lên, chỉ một lâu đài bằng ngọc bích, sừng sững trên một nơi bằng phẳng, hùng vĩ như ngọn núi ngọc bích sáng ngời, các Thiên tử đang nô đùa ca hát khúc nhạc thiên đường. Thấy cảnh này, vua liền hỏi về các thiện nghiệp của các Thiên tử này và vị kia đáp lại:

  1. Lâu đài ngọc kia tỏa đầy ánh sáng,
    Cảnh nguy nga, tráng lệ, thật huy hoàng,
    Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
    Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
    Ta chưa từng nhìn cảnh nào ngoạn mục,
    Âm thanh kia êm dịu chẳng hề nghe,
    Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Nghiệp lành nào những vị này tạo tác,
    Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay đem quả chín muồi:
    – Đây các vị tại gia trong đời trước,
    Bố thí nhiều vườn cây và giếng nước,
    Kéo nước và thành tín cúng Thánh nhân:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hoan hỷ cùng chân nhân chính trực,
    Cứ mỗi hai tuần giữ ngày Bố-tát:
    Mùng tám, mười tư cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú trong lâu đài hoan lạc.

Như vậy, khi đã nêu các thiện nghiệp của các vị Thiên thần kia, Màtali liền lái xe đến một lâu đài pha lê khác, với nhiều đỉnh tháp, hoa thơm cỏ lạ và cây xinh đẹp mọc khắp nơi, vang dội muôn tiếng chim ca, bên cạnh một dòng sông trong vắt. Đó là nơi cư ngụ của một thiện nhân, có cả một đoàn tiên nữ hầu hạ quanh mình. Thấy cảnh tượng này, nhà vua lại hỏi Màtali về các nghiệp quả của vị ấy và được giải thích như sau:

  1. Kìa cung pha lê chói ngời ánh sáng,
    Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
    Thức uống đồ ăn la liệt, cả bầy,
    Thiên nữ diễm kiều đủ tài múa hát;
    Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát.
    Ta hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Nam nhân này đã tạo nghiệp lành gì?
    Nay thọ hưởng lâu đài đầy thiên lạc?
  2. Mà-ta-li, thần lái xe, liền đáp,
    Nêu nghiệp lành, nay quả tốt sinh ra:
    – Một chủ nhà ở tại Kim-bi-là,
    Hào phóng cúng các vườn cây, giếng nước,
    Kéo nước dâng Thánh nhân lòng thành thực:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hân hoan cùng các bậc chánh nhân,
    Ngày Bố-tát giữ hai lần nửa tháng:
    Mùng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Điều thân, rộng lượng, theo bước Thánh hành,
    Nay trú an trong lạc thú thiên đình.

Như vậy, sau khi tả nghiệp lành của Thiện nhân này xong, thần lái xe đi nữa, rồi thần chỉ cho vua một lâu đài pha lê khác: Lâu đài này lại còn nhiều cỏ cây hoa trái muôn màu bao quanh hơn các lâu đài trước nữa. Thấy vậy vua liền hỏi các thiện nghiệp của vị Thiên thần đầy diễm phúc kia và Màtali liền đáp:

  1. Kìa ngọc cung đang tỏa đầy ánh sáng,
    Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
    Thức uống đồ ăn bày la liệt, cả bầy,
    Thiện nữ diễm kiều đủ tài múa hát,
    Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát:
    Sà-la, xoài, tượng, vương giả cây cao,
    Pi-yal, tin-duk, đào đỏ ngọt ngào,
    Vườn cây trái mọi nơi sinh quả quý.
    Mà-ta-li, nói đi, ta hoan hỷ,
    Thiên nhân này đã tạo nghiệp lành gì,
    Nay hưởng lâu đài thiên lạc tràn trề?
  2. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang trái:
    – Một chủ nhà ở tại Mi-thi-là,
    Hào phóng, đem cho giếng nước, vườn hoa,
    Kéo nước, cúng Thánh nhân, lòng ngưỡng mộ:
    Y phục, thức uống ăn và tọa cụ,
    Mọi nhu cầu, hòa hợp với chánh nhân,
    Người giữ ngày trai giới mỗi hai tuần,
    Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
    Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
    Nên giờ đây an trú lạc thiên cung.

Tả xong thiện nghiệp của vị này như vậy, thần tiếp tục lái xe đi đến một lâu đài bằng ngọc, giống lâu đài đầu tiên, và vua lại yêu cầu thần kể các hành nghiệp của vị Thiên thần đang hưởng lạc tại đây:

  1. Kìa ngọc cung đang chiếu đầy ánh sáng,
    Cảnh nguy nga tráng lệ thật huy hoàng,
    Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
    Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
    Ta chưa từng thấy cảnh nào ngoạn mục,
    Âm thanh êm dịu quá chẳng hề nghe.
    Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
    Các nghiệp lành những vị này tạo tác,
    Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
    – Một vị tại gia ở thành Bê-na-rét,
    Bố thí nhiều vườn cây cùng giếng nước,
    Kéo nước và dâng cúng Thánh nhân:
    Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
    Lòng hòa hợp cùng thiện nhân chánh trực,
    Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố-tát,
    Mồng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú trong lâu đài an lạc.

Vừa lái thiên xa tiến lên, thần vừa chỉ một lâu đài bằng vàng, như mặt trời đang tỏa ánh sáng và theo lời thỉnh cầu của nhà vua, thần kể các thiện nghiệp của vị Thiên nhân đang an trú ở đấy:

  1. Ngắm lâu đài kia sáng ngời ánh lửa,
    Đỏ như mặt trời đang lúc lên cao,
    Mà-ta-li, long hoan hỷ, nói mau,
    Thiện nghiệp gì thế nhân này vun xới,
    Nay an trú hưởng lâu đài trên thiên giới?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
    – Một chủ nhà xưa ở thành Xá-vệ,
    Giếng nước, vườn cây, rộng lòng bố thí,
    Kéo nước, dâng các Thánh với tín tâm:
    Thức uống ăn và y phục, tọa sàng,
    Vật cần thiết, tâm hòa người chánh trực,
    Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố- tát,
    Mùng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
    Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
    Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc.

Trong khi thần Màtali tả cảnh tám lâu đài này, Sakka Thiên chủ, Đại đế của chư Thiên, tưởng rằng Màtali còn lâu lắm mới trở về, nên đã phái một Thiên tử nhanh chân khác đi đưa tin triệu hồi. Màtali nghe lệnh, thấy không thể nào trì hoãn được nữa, liền trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ một lượt nhiều lâu đài và nêu cho vua thấy những thiện nghiệp của các Thiên nhân ở trong đó:

  1. Nhìn những lâu đài rực sáng trên không,
    Như tia chớp xuyên qua đám mây hồng.
    Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
    Thiện nghiệp gì các vị này vun xới,
    Nên bây giờ an hưởng cảnh thiên đường?
  2. Mà-ta-li đáp lại đấng quân vương,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
    – Sống hướng thiện, tín thành và thức giả,
    Thi hành những lời dạy của Đạo Sư,
    Nhờ sống như Phật Đại Giác dạy cho,
    Nay lên các thiên cung ngài đang ngắm!

Sau khi đã chỉ cho nhà vua các lâu đài trên không, thần lên đường trở về yết kiến Sakka Thiên chủ với những lời này:

  1. Ngài đã thấy cảnh người lành, kẻ dữ,
    Giờ ta mau bái yết đấng Thiên hoàng.

Nói xong, thần tiếp tục lái xe đi và chỉ cho nhà vua xem bảy ngọn đồi bao quanh núi Sineru (Tu-di) làm thành một vòng tròn, rồi để giải thích cách vua hỏi Màtali khi thấy cảnh này, bậc Đạo Sư nói:

  1. Khi Đại vương du hành lên thiên giới,
    Ngự thiện xa ngàn thiên mã kéo đi
    Thấy những đỉnh non cao ngất đằng kia,
    Trên biển cả Si-dà, ngài liền hỏi:
    – Núi đồi này là gì xin hãy nói,
    Nghe vua Nimi hỏi, thần Màtali đáp:
  2. Núi hùng vĩ Sudassara, Karavìka,
    Ìsadhara, Yugandhaka,
    Nemindhara, Yinatara Assakanna,
    Những đồi này ở Sìdantara,
    Theo lớp hàng đồi núi đứng gần xa,
    Cao sừng sững giữa không gian chất ngất,

    Mà Đại vương đang ngắm nhìn tận mắt.

Rồi thần chỉ thiên giới của Tứ đại Thiên vương và tiếp tục đi cho đến lúc thấy các tượng thần Indra đứng sừng sững quanh Đại Thiên môn Cittakùta ở cõi trời Ba mươi ba.

Thấy cảnh tượng này, vua liền hỏi và Màtali đáp lại:

  1. Cảnh đẹp tinh vi, tráng lệ, huy hoàng,
    Tượng thần Indra sừng sững thiên môn,
    Như thần hổ đứng canh, ta nhìn kỹ,
    Mà-ta-li, lòng ta đầy hoan hỷ,
    Nói cho ta tên cảnh đẹp tuyệt vời.
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
    – Ci-ta-kù-ta, nơi ngài chiêm bái,
    Cổng đi vào cung Đại đế Thiên hoàng,
    Đây Đại môn quan của ngọn Mỹ Sơn,
    Diễm lệ, huy hoàng, bao quanh sừng sững,
    Với tượng Indra như bầy hổ đứng.
    Mời Hiền vương vào chốn thanh tịnh này.

Nói xong Màtali dẫn vua vào trong, và việc ấy được tả lại như sau:

83.Khi Đại vương ngự giá chiếc thiên xa,
Được cả ngàn tuấn mã kéo đi qua,
Nhà vua ngắm nơi chư Thiên hội họp.

Trong khi Ngài đi ngang qua, ngắm nơi chư Thiên hội họp tại Thiện pháp đường Sudhammà, Ngài liền hỏi và Màtali đáp lại:

  1. Như mùa thu, trời cả một màu xanh,
    Tòa lâu đài ngọc bích hiện nguyên hình,
    Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
    Tên lâu đài mà ta đang chiêm bái?
  2. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
    Nêu thiện duyên đem quả tốt chín muồi:
    – Đây Thiện pháp đường chư Thiên tụ tập,
    Trụ đứng nguy nga, công trình mỹ thuật,
    Tám bề xây bằng ngọc bích, bảo trân,
    Tam thập tam thiên với đấng Ngọc hoàng,
    Đại đế In-dra cầu mong lạc phước,
    Cho trời, người; mời Đại vương hãy bước,
    Chốn diễm kiều, nơi trú ngụ chư Thiên.

Các vị Thiên lúc ấy đang ngồi đợi vua đến. Khi nghe tin, họ bước ra đón ngài với hoa hương cõi trời thơm tỏa ngào ngạt đến tận cổng Cittakùta ấy và mời ngài vào Thiện pháp đường. Vua xuống xe vào sảnh đường, chư Thiên mời ngài ngồi và Sakka Thiên chủ cũng ban tặng ngài đủ mọi hoan lạc của thiên giới.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Chư Thiên ngắm đức vua vừa mới đến,
    Đồng chào mừng vị quý khách Minh quân:
    – Cung nghênh ngài! Thiên chủ rất hân hoan,
    Được diện kiến! Bên Sak-ka Thiên chủ,
    Chúng Thiên đồng kính mời Minh quân ngự.
  2. Thiên chủ mời Đại đế Vi-đề-ha,
    Vị Minh quân ngự trị Mi-thi-là,
    Và-sa-va liền tặng ngài tất cả,
    Thiên lạc và thỉnh Minh quân an tọa.
  3. – Giữa các quân vương cai trị cõi đời,
    Xin cung nghênh chúa tể đến cung trời,
    An trú với chư Thiên, này Chúa tể,
    Ngài sẽ được mọi ước nguyền như ý,
    Hưởng trường xuân nơi Tam thập tam thiên.

Như vậy Thiên chủ Sakka ban ngài các thiên lạc, nhưng vua từ chối khéo và đáp lại:

89.- Như khi ta được ngự giá xe tiên,
Hay được tặng phỉ nguyền bao phúc lạc,
Chính là hưởng đặc ân từ kẻ khác.

  1. Ta không màng những phúc lạc đặc ân,
    Nhận từ tay do kẻ khác phát phân,
    Các thiện nghiệp đều của ta duy nhất,
    Trên các nghiệp riêng, ta luôn vững chắc.
  2. Ta sẽ đi làm thiện nghiệp cho người,
    Bố thí cúng dường ở khắp mọi nơi,
    Ta sẽ bước theo con đường giới đức,
    Tập phòng hộ và tự thân điều phục,
    Người thực hành như vậy sẽ hân hoan,
    Không còn lo phải gặp lúc ăn năn.

Như vậy bậc Đại sĩ thuyết Pháp cho chư Thiên với âm thanh ngọt như mật. Ngài ở lại đó bảy ngày theo ước tính của loài người, đem đến niềm hân hoan cho Thiên chúng. Rồi đứng giữa các vị Thiên thần, ngài nêu rõ công đức của Màtali:

  1. Mà-ta-li, thần quản xa thiên giới,
    Là vị thần đặc biệt đã ban ân,
    Vị ấy chỉ cho ta thấy rõ ràng
    Nơi kẻ dữ, người lành đang cư trú.

Rồi vua từ giã Thiên chủ Sakka, nói rằng ngài muốn trở về hạ giới. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Này hiền hữu Màtali, hãy rước Đại vương Nimi về thành Mithilà ngay lập tức.

Xa giá đã sẵn sàng và vua đáp lại những lời chúc tụng thân hữu của chư Thiên rồi tạ từ lên xe. Màtali lái xe về hướng đông, đến thành Mithilà. Dân chúng thấy thiên xa, hoan hỷ biết vua đã trở về. Một đám người vây quanh vua và hỏi ngài cảnh Thiên giới. Ngài tả cho họ nghe cảnh an lạc của chư Thiên và Thiên chủ Sakka, rồi khuyến dụ họ làm lành, bố thí để được tái sinh lên cõi trời.

Sau đó khi người thợ hớt tóc thấy sợi tóc bạc đầu tiên và bảo cho ngài hay, ngài liền bảo gã cất sợi tóc bạc ấy, rồi ban cho gã một ngôi làng. Ngài muốn rời thế tục nên phong vương cho con ngài. Khi được hỏi tại sao ngài muốn xuất thế, ngài đọc câu kệ:

Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra …

Và cũng như các vua trước, ngài xuất gia, vào sống trong vườn xoài, tu tập Tứ Vô lượng tâm, rồi được sinh lên cõi Phạm thiên .

Việc xuất gia của ngài được các bậc Đạo Sư tả trong vần kệ cuối cùng:

  1. Ni-mi, Chúa tể Mi-thi-là,
    Khi đã làm Đạo Sự xuất gia,
    Ngài bước vào con đường Thánh hạnh.
    Bản thân chế ngự với Thiền na.

Và con ngài, vua Kalàra-Janaka, cũng xuất gia, chấm dứt cả triều đại của ngài.

*

Khi bậc Đạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nói:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai xuất thế, mà Như Lai đã xuất thế trong đời trước.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), Màtali là Ànanda (A-nan), tám mươi bốn vị vua là đệ tử đức Phật và vua Nimi chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN TẾ SƯ KHANDAHÀLA (Tiền thân Khandahàla)

Ngày xưa có một vị hôn quân…,

Trong lúc trú tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu), bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này liên quan đến Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) .

Nội dung câu chuyện của Ngài nói đến tội phá hòa hợp Tăng (gây chia rẽ trong Giáo hội) đã được Tăng chúng biết rõ qua việc nghiên cứu tư cách đạo đức của Như Lai từ khi Ngài xuất gia tu hành cho đến việc mưu sát vua Bimbisàra. Ngay sau khi ông đã lập mưu sát hại vua này, ông liền đi tìm vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và nói:

– Tâu Đại vương, ý nguyện của ngài đã thành, nhưng ý nguyện của ta chưa thành.

Vua trả lời:

– Ngài muốn gì?

– Ta muốn cho người giết đấng Thập Lực và ta làm đức Phật.

– Vậy thì ta phải làm sao đây?

– Ta phải tập họp một số thiện xạ tại đây.

Vua chấp thuận, truyền triệu tập năm trăm thiện xạ có thể bắn cung nhanh như chớp, trong số đó chỉ lựa ra ba mươi mốt người, đưa họ đến hầu cận Đề-bà-đạt-đa và bảo họ phải tuân lệnh ông.

Ông gọi người trưởng đoàn ra dặn:

– Này Hiền hữu, Sa-môn Gotama đang sống trên núi Linh Thứu, hằng ngày Ngài thường kinh hành trong tịnh thất của Ngài vào một thời điểm nào đó; vậy bạn hãy đến đó bắn Ngài với tên tẩm thuốc độc, khi đã giết hại Ngài xong, hãy trở về đường này.

Rồi ông lại cho hai người thiện xạ đi theo con đường kia, bảo họ:

– Các vị sẽ gặp một người trên đường đi, vậy hãy giết nó và hãy trở về bằng đường này.

Ông lại cho bốn người thiện xạ đi đường kia với lời dặn dò như vậy. Sau đó ông lại dặn thêm tám người, rồi mười sáu người thiện xạ như trên. Tại sao ông làm như vậy? Chính là để che giấu lòng thâm độc của mình.

Thế rồi người trưởng đoàn thiện xạ buộc kiếm bên sườn trái, bao đựng tên bên lưng, cầm lấy chiếc cung làm bằng sừng dê và đi đến chỗ đức Như Lai trú ngụ; nhưng sau khi gã giương cung lên và nhắm mũi tên để bắn Ngài, gã lại không thể thả dây cung được. Toàn thân gã cứng đờ, như thể bị đè bẹp. Gã cứ đứng đó kinh hoàng với nỗi sợ chết.

Khi bậc Đạo Sư thấy gã, Ngài liền nói với giọng dịu dàng:

– Đừng sợ, hãy đến đây.

Gã lập tức ném vũ khí và vừa nói vừa sụp người xuống đảnh lễ chân Thế Tôn:

– Bạch đức Thế Tôn, tội lỗi đã trấn áp con như một đứa trẻ, một tên khùng hoặc một tên tội nhân. Trước đây con không biết công hạnh của Ngài, con đã đến theo lệnh của lão già điên rồ mù quáng Đề-bà-đạt-đa để lấy mạng của Ngài, con xin Ngài tha mạng cho.

Gã lại cầu xin tha tội và ngồi qua một bên. Lúc ấy bậc Đạo Sư tuyên thuyết Các Sự thật cho gã nghe khiến gã chứng quả Dự Lưu. Ngài bảo gã trở về bằng con đường khác với con đường màĐề-bà-đạt-đa đã dặn gã. Còn chính Ngài bước ra khỏi lối đi có mái che của Ngài và ngồi xuống một gốc cây.

Trong khi người bắn cung thứ nhất chưa trở về, hai người kia đi trên con đường dự đinh gặp gã kia và băn khoăn không hiểu sao gã lại chậm trễ như vậy, cuối cùng họ thấy đức Phật. Khi đến đảnh lễ đức Phật xong, họ ngồi xuống bên Ngài. Ngài lại tuyên thuyết Các Sự thật cho họ nghe khiến cả hai gã cùng chứng quả Dự Lưu. Rồi Ngài bảo họ trở về bằng con đường khác với con đường mà Đề-bà-đạt-đa đã ra lệnh. Cứ như thế những tay thiện xạ kia lần lượt đi đến, ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp, được an trú vào quả Dự Lưu và được Ngài bảo đi về bằng một con đường khác.

Rồi khi người thiện xạ đầu tiên trở về gặp Đề-bà-đạt-đa, gã nói:

– Bạch Sư trưởng, tôi không thể nào giết bậc Toàn Giác được, Ngài là đấng Toàn Năng, đức Thế Tôn đầy đủ mọi uy lực siêu phàm.

Như vậy cả đám thiện xạ nhận ra là họ đã thoát chết nhờ bậc Toàn Giác nên họ xuất gia sống đời tu hành theo Ngài và trở thành các bậc A-la-hán. Sự kiện này được cả hội chúng Tỷ -kheo biết và một ngày kia họ bắt đầu nói đến chuyện này trong Chánh pháp đường:

– Này các Tỷ-kheo, các vị có nghe chuyện Đề-bà-đạt-đa, vì thù ghét một người là đức Thế Tôn, mà đã quyết tâm làm thiệt mạng nhiều người và rồi các người này lại được chính đức Thế Tôn cứu mạng như thế nào không?

Lúc ấy bậc Đạo Sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi nói chuyện gì đấy?

Khi chúng Tỷ-kheo đáp lại, Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên, mà trước đây kẻ ấy cũng đã quyết hại nhiều mạng người chỉ vì thù ghét Ta.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa thành Bà-la-nại có tên là Pupphavati. Thái tử của vua Vasavatti lên ngôi trị vì tại đó tên là Ekaràja và con của vua là Candakumàra làm phó vương. Một Bà-la-môn tên gọi Khandahàla là vị tế sư của vương tộc. Ông làm cố vấn cho vua trong mọi vấn đề thế sự cũng như thánh sự và vua rất tôn trọng tài trí của ông nên để ông làm phán quan. Nhưng ông lại thích hối lộ, thường nhận của đút lót và tước đoạt tài sản của nhiều người trao cho người khác làm chủ.

Một ngày kia có người thua kiện, bước ra khỏi tòa án lớn tiếng than phiền, khi thấy Candakumarà đi ngang qua để bái yết vua cha, gã liền quỳ xuống. Vương tử hỏi sự tình, gãđáp :

– Tâu Chúa công, Khandahàla bóc lột các kẻ thưa kiện khi ông ta xử án, thần đã thua kiện mặc dù thần đã hối lộ ông ta rồi.

Vương tử bảo gã đừng sợ, rồi khi dẫn gã đến tòa án, chàng trả lại quyền sở hữu về các tài sản bị tranh tụng cho gã. Dân chúng reo hò hoan nghênh vang dội. Khi vua nghe được, hỏi lý do, họ đáp:

– Vương tử đã xử án phân minh một vụ kiện mà ông Khandahàla đã xử sai, vì thế có tiếng reo hò như vậy.

Khi vương tử đến chúc tụng, vua bảo:

– Này vương nhi, dân chúng bảo con vừa xử án phân minh?

– Tâu phụ vương, chính phải .

Vua liền trao tòa án cho vương tử và dặn vương tử từ nay được quyền xử án. Lợi lộc của Khadahàla giảm sút dần, từ đó ông sinh lòng thù ghét vương tử và rình rập cố tìm lỗi lầm của chàng.

Lúc bấy giờ vua rất ít tu tập nội tâm. Một buổi sáng kia, khi gần thức dậy, vua mơ thấy cõi trời Ba mươi ba với mái đình trang hoàng lộng lẫy, đường xá lót vàng cao cả ngàn dặm, được điểm tô bằng cung Vejayanta và nhiều cung khác cùng với tất cả vẻ huy hoàng của Lạc Viên Nandana và nhiều cánh rừng khác, với hồ Nanda và nhiều hồ khác nữa, khắp nơi đông đảo chư Thiên. Vua muốn lên cõi trời và nghĩ thầm: “Khi Sư trưởng Khandahàla đến, ta sẽ hỏi ngài conđường lên thiên giới, và sẽ lên đó nhờ con đường ngài chỉ dẫn”.

Sáng sớm hôm ấy Khandahàla vào cung và vấn an vua xem ngài có được hưởng một đêm đầy mộng đẹp chăng? Vua liền truyền đem cẩm đôn cho ông ngồi, rồi hỏi ngay ông vấn đề ấy.

*

Bậc Đạo Sư kể lại như sau:

  1. Ngày xưa có một vị hôn quân,
    Ở xứ Pup-pha, gặp lúc cần,
    Liền hỏi tế sư hèn hạ ấy,
    Nghiệp tà, danh chánh Bà-la-môn:

2.- Ngài là bậc trí, mọi người đồn,
Thánh điển am tường đủ mọi môn,
Hãy nói công năng gì dẫn lối,
Đưa đường hành giả đến thiên cung?

Đây là câu hỏi mà trừ đức Phật Đại Giác hoặc các đệ tử của Ngài ra, ta phải hỏi một vị Bồ-tát, nhưng ở đây, vua đã đem ra hỏi Khandahàla, chẳng khác nào một người lạc đường bảy ngày lại đi hỏi đường một kẻ đi lạc đã nửa tháng. Thế là ông tự nhủ: “Đã đến lúc ta trừ khử được kẻ thù của ta rồi, ta sẽ giết Candakumàra, thế là toại nguyện”.

Ông liền nói với vua:

  1. Hãy dâng nhiều lễ vật đầy tràn,
    Giết những ai không đáng chết oan,
    Nhờ vậy đạt công đức vĩ đại,
    Người ta sẽ hưởng lạc thiên đàng.

Vua lại hỏi:

  1. Những gì là lễ vật đầy tràn,
    Những kẻ nào không đáng chết oan?
    Ta sẽ giết người, dâng tế lễ,
    Nếu ngài nói ý nghĩa cho tường.

Sau đó ông giải thích ý nghĩa này:

  1. Đem vợ con làm vật tế thần,
    Phú thương quý tộc cũng tiêu vong.
    Ngựa trâu tuyệt hảo, nòi cao quí,
    Bốn loại tội đồ phải cúng dâng.

Như vậy khi vua hỏi đường lên Thiên giới, ông lại chỉ đường xuống địa ngục. Ông tự nhủ: “Nếu ta chỉ chọn một mình Candakumàra, mọi người sẽ nghĩ rằng ta làm thế vì thù ghét nó”. Cho nên ông đặt chàng vào chung với một số người khác. Khi vấn đề này được đem ra bàn tán, các vương phi nghe tin lòng đầy kinh hãi, đồng cất tiếng khóc than.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích việc này như sau:

  1. Cung phi mỹ nữ biết tin này:
    “Vương tử, vương phi phải đọa đày”,
    Khóc thét bỗng nhiên vì sợ hãi,
    Vang rền mọi phía tận trời mây.

Cả vương cung náo loạn như thể rừng cây Sàla bị gió bão rung chuyển vào giờ tận thế, khiến lão Bà-la môn phải hỏi vua xem ngài có thể thực hiện được việc tế lễ ấy không.

– Sao ngài lại hỏi thế này Sư trưởng? Nếu ta dâng tế lễ, ta sẽ được lên thiên đàng mà.

– Tâu đại vương, những kẻ nào yếu hèn, không quyết chí thì không thể nào tế lễ kiểu này được. Xin Đại vương triệu chúng về đây cả rồi bần đạo sẽ dâng lễ vật ở huyệt tế thần.

Thế rồi ông đem đủ lực lượng cần thiết ra khỏi thành, bảo họ đào huyệt tế lễ với đáy bằng, có hàng rào bao quanh, vì các Bà-la-môn từ thời xưa đã ra lệnh phải làm hàng rào quanh đàn tế kẻo sợ các vị chân tu có thể đến ngăn cản buổi lễ. Vua cũng ban lệnh cho quân thần:

– Ta sẽ được lên thiên giới bằng cách đem hết vợ con ra cúng tế, vậy các khanh hãy đi báo tin cho chúng rõ rồi mang chúng về đây.

Lập tức vua ra lệnh đem các vương tử đến:

  1. Báo Can-da, kế Su-ri-ya,
    Lần lượt Bhad-da, biết ý ta,
    Rồi đến Sù-ra, Và-ma nữa,
    Chúng đều phải chết: ý vua cha.

Trước hết bọn họ đi tìm Candakumàra và nói:

– Tâu điện hạ, phụ vương muốn đem tế ngài để được lên thiên giới, nên ra lệnh cho chúng thần đi triệu ngài về.

– Phụ vương ra lệnh bắt ta theo lời khuyến dụ của ai thế?

– Tâu điện hạ, theo lệnh của Khandahàla.

– Ngài muốn bắt một mình ta hay còn ai khác nữa?

– Tâu điện hạ, còn nhiều người khác vì ngài muốn dâng lễ tế đủ bốn loại lễ vật.

Vương tử nghĩ thầm: “Lão ấy không thù oán với những người kia, nhưng lão định cho họ chết chỉ vì thù oán ta đã ngăn chặn lão phạm tội ăn hối lộ qua việc xử án bất công của lão, vậy ta có phận sự phải đi yết kiến vua cha xin ngài thả các người kia ra mới được”. Rồi chàng bảo họ:

– Các ngươi cứ thi hành lệnh phụ vương.

Họ liền đem chàng đến sân chầu ngồi một mình tại đó, xong lại đem các người kia đến để gần chàng rồi tâu với vua. Sau đó vua ra lệnh đem các công chúa đặt bên các người kia:

  1. Up-pa-se-ni, Ko-li-ta,
    Lần lượt Mu-di-ta, Nan-da,
    Bảo các công nương đều phải chết,
    Thật là kiên định, ý vua cha!

Vì thế họ liền đi đem các công chúa đang kêu gào đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt các vương phi:

  1. Trước tiên vương hậu Vi-ja- yà,
    Kế tiếp Ke-si-ni, Nan-dà,
    Với mọi sắc hương đầy diễm lệ,
    Chúng đều phải chết: ý nguyện ta.

Họ liền đem các vương phi đang gào khóc đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt bốn phú thương của hoàng gia:

  1. Pun-na-muk-kha, Bhad-di-ya,
    Lần lượt Sin-ga-la, Vad-dha,
    Bảo các phú thương nghe thượng lệnh:
    Chúng đều phải chết: ý nguyện ta!

Đám thị vệ tuân lệnh ra đi. Khi các vương tử và vương phi bị bắt, dân chúng không nói gì, nhưng các phú thương có rất đông đảo quyến thuộc, nên cả kinh thành náo động khi họ bị bắt và dân chúng la ó phản kháng việc đem họ ra tế lễ, nên họ cùng quyến thuộc kéo đến yết kiến vua . Lúc ấy các phú thương được đám quyến thuộc vây quanh xin nhà vua tha mạng.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Các phú thương kêu khóc não nùng,
    Được vây quanh bởi các thân nhân :
    Đầu này xin cạo làm nô lệ,
    Nhưng hãy tha cho mạng chúng thần!

*

Nhưng dù họ van xin đến mức nào đi nữa, họ cũng không được vua thương xót. Các thị vệ của vua cuối cùng bắt đám quyến thuộc lui ra để kéo các phú thương đến cạnh các vương tử. Sau đó vua ra lệnh đem voi ngựa và trâu dê đến:

  1. Đem cả đàn vương tượng đến đây,
    Sức voi vô địch, quý cao thay,
    Ngựa, lừa chọn giống nòi ưu thắng,
    Tất cả cùng dâng tế lễ này.
  2. Hãy chọn ngưu vương loại đứng đầu,
    Chúng là tặng vật quý dường bao,
    Các thầy tế tự sắp hành lễ,
    Sẽ có vật dâng cúng tối cao.
  3. Hãy chuẩn bị cho tế lễ này,
    Sẵn sàng ngay trước lễ ngày mai;
    Bảo vương nhi đãi đằng như ý,
    Thọ hưởng cuộc đời buổi tối nay.

Lúc bấy giờ thái thượng hoàng và hoàng thái hậu vẫn còn sống, nên dân chúng kéo đến tâu cho hai vị biết việc tế lễ dự định của vua. Hai vị xiết bao kinh hoàng vội đến khóc lóc với vua:

– Vương nhi hỡi, có thật con định làm một cuộc tế lễ như vậy chăng?

*

Bậc Đạo Sư giải thích như sau:

  1. Mẫu hậu vội rời khỏi nội cung:
    Việc kỳ quái vậy nghĩa gì chăng?
    Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
    Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?

Vua đáp lại:.

  1. Khi mất Can-da, mất hết rồi,
    Nhưng con chịu mất chúng mà thôi,

    Vì nhờ tế lễ này cao trọng,
    Con sẽ được an trú cõi trời.

Mẫu hậu bảo:

  1. Đem cúng tế vương tử, hỡi con,
    Chẳng bao giờ hưởng lạc thiên đường,
    Đừng nghe lời dối dang như vậy,
    Đây chính đường vào địa ngục môn.
  2. Con nên chọn đúng đạo minh quân,
    Đem bố thí tất cả bạc vàng,
    Đừng giết chúng sinh trên hạ giới,
    Đây đường chắc chắn đến thiên đàng.

Vua đáp lại:

  1. Con phải vâng lời vị tế sư,
    Than ôi, đành phải giết con thơ,
    Chia lìa chúng thật đầy đau đớn,
    Song được cõi trời lợi lạc to!

Thế là hoàng thái hậu đành bỏ đi về, không thuyết phục được vua. Lúc ấy thái thượng hoàng hay tin vội đến phản đối vua.

*

Bậc Đạo Sư tả rõ mọi việc xảy ra như sau:

  1. Đến lượt Va-sa-va phụ vương:
    – Hung tin làm hoảng hốt tâm can!
    Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
    Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?

Cuộc đối thoại lại diễn ra như trên và cuối cùng vua cha già không lay chuyển nổi con, đành bỏ đi với lời từ biệt:

  1. Nên đem cho hết khả năng mình,
    Đừng cố ý tàn hại hữu tình,
    Để các vương tôn làm bảo vệ,
    Hộ phòng đất nước khỏi điêu linh.

*

Lúc ấy Candakumàra nghĩ thầm: “Thảm họa xảy đến cho nhiều người cũng chỉ vì ta, vậy ta hãy van xin phụ vương cho họ khỏi tội chết mới được”. Vì thế chàng tâu với vua cha:

  1. Xin làm nô lệ của Khan-da,
    Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
    Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,
    Mang xiềng làm việc, thỏa lòng sư.
  2. Xin làm nô lệ của Khan-da,
    Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
    Con sẽ quét sân, chuồng của lão,
    Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.
  3. Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,
    Chúng con tùy thánh ý an bài,
    Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,
    Cầu thực tha phương ở xứ người.

Vua nghe chàng than khóc lòng đau đớn vô cùng, nước mắt chứa chan, nên vua ra lệnh tha hết vợ con. Vua bảo:

– Không ai giết được các con ta, ta không cần thiên giới nữa.

  1. Những lời này tội nghiệp xin tha,
    Làm trái tim ta tan nát ra,
    Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Khi nghe vua nói vậy, đám thị vệ liền thả hết tội nhân ra, khởi đầu là các vương tử và sau cùng là bầy chim chóc. Lão Khandahàla đang bận rộn chuẩn bị việc đào huyệt tế lễ, có người đến mách lão:

– Này lão Khandàhàla hung dữ kia, đức vua đã thả hết tất cả các vương tử rồi, vậy lão hãy đi giết hết lũ con lão mà lấy máu đem ra tế thần.

– Sao nhà vua làm gì vậy kìa?

Lão kêu lên và vội chạy đến tâu vua:

  1. Ta đã bảo ngài tế lễ này,
    Thật là vất vả khó khăn thay,
    Sao ngài can thiệp đòi đình chỉ,
    Khi khởi đầu đang tốt đẹp vầy?
  2. Những kẻ nào dâng lễ sát sinh,
    Đi đường chắc chắn đến thiên đình,
    Hoặc người ủng hộ đầy nồng nhiệt,
    Khi thấy việc kia được thực hành.

Vua mù quáng, nghe lời của lão bà-la-môn đầy sân hận kia và tâm trí vua đã bị ám ảnh bởi vấn đề đạo giáo liền ra lệnh bắt vợ con lại. Lúc ấy Candakumàra đem hết lẽ phải trái tâu với vua cha:

  1. Sao lúc sinh ra lũ chúng con,
    Hão huyền chúc tụng Bà-la-môn,
    Khi phần con trẻ là đành chết,
    Vô tội nạn nhân của oán hờn?
  2. Sao cha tha mạng thuở thơ ngây,
    Nhỏ dại biết đâu bất hạnh này?
    Con trẻ hôm nay đành phải chết,
    Giờ đang vui hưởng tuổi xuân đầy?
  3. Nghĩ lúc chúng con mặc giáp bào,
    Trên voi ngựa, chiến trận xông vào,
    Nay làm lễ vật dâng đàn tế,
    Chẳng lẽ việc này hợp lý sao?
  4. Ở trong chiến địa hoặc rừng hoang,
    Chống lại loạn thần, lũ chúng con,
    Phục vụ thường xuyên, nay bảo giết,
    Mà không lý lẽ hoặc nguyên nhân.
  5. Nhìn chim xây tổ ấm trên cây,
    Ca hót líu lo suốt cả ngày,
    Yêu dấu chim non chăm sóc kỹ,
    Còn cha đem giết lũ con vầy?

33.Cha đừng tưởng lão Bà-la-môn,
Phản bạn tha cha lúc vắng con,
Đến lượt cha theo con kế tiếp,
Chúng con không chỉ chết cô đơn!

  1. Vua thường ban đạo sĩ thôn làng,
    Thành thị tối ưu chính đặc ân,
    Trên mọi gia đình đều hưởng lợi,
    Tạo nên tài sản thật cao sang.
  2. Chính bọn này đây, tâu phụ thân,
    Sẵn sàng phản bội các ân nhân,
    Bà-la-môn tộc, cha nên nhớ,
    Là giống bất trung, lũ bội ân.

Vua nghe lời con oán trách, liền kêu to:

  1. Những lời này tội nghiệp xin tha,
    Làm trái tim ta tan nát ra,
    Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Khandahàla liền vội chạy đến và cũng phản đối vua như trước, khiến vương tử lại phải lý luận với vua cha lần nữa:

  1. Nếu kẻ đem con trẻ tế đàn,
    Đến khi chết, thảy được vinh quang,
    Bà-la-môn hãy dâng con trước,
    Vua chúa noi gương kẻ dẫn đường.
  2. Nếu kẻ đem con trẻ tế thần,
    Thẳng lên thiên giới lúc lìa trần,
    Tế sư sao chẳng hy sinh trước,
    Và cả toàn gia tộc lão luôn?
  3. Đúng hơn, kẻ cúng tế như vầy,
    Sẽ thẳng đường vào địa ngục ngay,
    Những kẻ dám đồng tình ủng hộ,
    Hành vi ấy, cũng đọa sau này.

Vương tử nói xong, thấy rằng không thể thuyết phục nổi cha, liền quay qua đám dân chúng đang vây quanh vua và bảo họ:

  1. Làm sao các bậc mẹ cha này,
    Đứng lặng yên nhìn, chẳng có ai,
    Dù quý yêu con mình đến thế,
    Cả ngăn vua giết các con ngài.
  2. Ta ao ước vương phụ vạn an,
    Ta mong tâm các bạn hân hoan,
    Nhưng không tìm được người nào để
    Phản đối nên lời trước phụ vương?

Nhưng vẫn không ai thốt một lời nào. Vương tử liền bảo các vương phi đến van xin vua tỏ lòng thương xót con :

  1. Này các vương phi hãy nguyện cầu,
    Van xin Sư trưởng, phụ vương mau,
    Để tha vương tử này vô tội,
    Khéo trổ tài chinh chiến biết bao.
  2. Hãy xin sư trưởng với Minh quân,
    Tha mạng vương nhi chẳng lỗi lầm,
    Danh tánh đã vang lừng thế giới,
    Là niềm vinh dự của non sông.

Bọn họ liền đến van xin vua tỏ lòng thương xót con nhưng vua chẳng chút quan tâm, lúc ấy vương tử quá tuyệt vọng nên bắt đầu than khóc:

  1. Nếu không sinh trưởng chốn triều đường,
    Ở dưới mái tranh kẻ khốn cùng,
    Hoặc thợ giầy hay người quét rác,
    Thì ta sẽ sống thật an toàn,
    Đến tròn tuổi thọ, không vong mạng,
    Làm nạn nhân vua chúa bất thường!

Rồi chàng nói to:

  1. Đi mau tất cả các vương phi,
    Đến trước Khan-da, hãy lạy quỳ,
    Bảo các nàng không làm hại lão,
    Các nàng chẳng có tội tình gì!

*

Và đây là lời của bậc Đạo Sư:

  1. Se-la khóc, thấy các anh nàng,
    Bị kết tội oan bởi phụ vương:
    – Người bảo đây là đàn tế lễ,
    Vì cha ta muốn đến thiên đường.

Nhưng vua cũng không quan tâm đến nàng. Đến lượt Vàsula, con của vương tử, thấy cha quá sầu thảm liền nói :

– Con sẽ cầu xin thái thượng hoàng tha mạng cho cha.

Cậu bé quỳ xuống chân vua than khóc:

*

Bậc Đạo Sư tả sự việc như sau :

  1. Chập chững Va-su-la bước chân,
    Trên đường đi đến chiếc ngai vàng,
    Xin tha mạng của cha con trẻ,
    Đừng để chúng con mất phụ thân.

Vua nghe cậu bé than khóc, lòng đau như cắt, liền ôm cháu vào lòng, ràn rụa nước mắt và bảo:

– Vương tôn hãy an tâm, ta sẽ trả phụ thân lại cho cháu đó.

Rồi vua ra lệnh:

  1. Này cha con đó, Và-su-la,
    Lời của trẻ thơ cảm hóa ta,
    Tha các vương nhi, cho chúng thoát,
    Thôi đừng tế lễ nữa vì cha!

Một lần nữa lão Khandahàla vội đến phản đối vua và vị vua mù quáng lại nhượng bộ lão, ra lệnh bắt các vương tử như cũ.

Lúc ấy Khandahàla tự nhủ: “Nhà vua này lòng quá mềm yếu, khi thì đòi bắt các con, khi thì lại thả ra hết, bây giờ lại nghe theo lời con trẻ đòi thả chúng ra, thôi ta phải dẫn vua đến huyệt tế thần mới được”.

Lão liền ngâm kệ thúc giục vua:

  1. Đàn tế lễ nay đã sẵn sàng,
    Kho tàng lễ vật tuyệt cao sang,
    Đại vương, mau hãy đi dâng lễ,
    Rồi hưởng thiên cung cực lạc tràn.

Khi họ đem Bồ Tát đi đến huyệt tế thần, các cung phi theo sau thành một đoàn dài.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. Bảy trăm cung nữ của Can-da,
    Rực rỡ yêu kiều giữa tuổi hoa,
    Tóc xõa tơi bời, mắt đẫm lệ,
    Theo anh hùng tận số đi xa.
  2. Nhiều phu nhân nhập bọn tùy tùng
    Trông dáng như tiên nữ giáng trần,
    Với tóc tơi bời, mắt đẫm lệ,
    Đi theo nối gót vị anh hùng.

Thế rồi bọn họ đồng cất tiếng khóc than:

  1. Lô hội, hoa tai với giáng hương,
    Lụa Kà-si khoác tuyệt cao sang,
    Nhìn Can-da với S u-ri ấy,
    Làm nạn nhân đưa đến tế đàn.
  2. Lòng mẹ dường như bị cắt dao,
    Lòng dân tràn ngập nỗi u sầu,
    Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
    Làm nạn nhân đày đọa khổ đau.
  3. Được tẩm đầy huơng các loại hoa,
    Lụa Kà-si khoác trắng như ngà,
    Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
    Làm nạn nhân theo lệnh của cha.
  4. Xưa ngự trên mình các thớt voi,
    Oai phong lẫm liệt trước muôn người,
    Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
    Đang bước lê chân cõi chết rồi.
  5. Xưa ngự xe vua, cởi ngựa, la,
    Điểm trang vàng ngọc, với cài hoa,
    Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
    Lê chân chờ chết buổi chiều tà.

*

Trong lúc các vương phi đang khóc như vậy thì đám thị vệ đem Bồ-tát ra khỏi kinh thành. Dân chúng cả kinh thành đều đi theo ngài trong cảnh đại hỗn loạn. Nhưng vì đám người quá đông đảo, cổng thành không đủ rộng cho họ đi ra, nên lão Bà-la-môn sợ chuyện bất trắc có thể xảy ra, liền ra lệnh đóng cửa thành lại. Vì thế đám đông không thể đi ra được, nhưng có một khu vuờn hoa gần cổng phía nội thành, họ tụ tập tại đó lớn tiếng khóc than số phận thảm thương của vương tử, khiến một bầy chim nghe tiếng liền bay đến tụ tập trên trời rất đông. Dân chúng cùng cất tiếng kêu gào với đàn chim:

  1. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
    Hãy bay đi đến phía đông môn,
    Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
    Cả bốn vương nhi bởi hận sân.
  2. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
    Hãy bay đi đến phía đông môn,
    Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
    Cả bốn công nương bởi hận sân.

Cứ thế đám dân chúng than khóc mãi trong hoa viên. Rồi họ đi đến cung của Bồ-tát, vừa trang nghiêm đi diễu quanh nhiều vòng vừa cất tiếng khóc than trong khi họ ngắm các hậu cung của các vương phi, các đỉnh tháp và hoa viên, các khóm cây và hồ nước cùng chuồng coi ngựa:

  1. Làng xóm từ nay chẳng bóng người,
    Trở thành rừng vắng vẻ xa xôi,
    Kinh thành ta sẽ nằm hoang lạnh,
    Khi các vương nhi đổ máu rồi!

Vì không có cách nào ra khỏi thành được, họ đành lang thang quanh quẩn trong thành khóc lóc tỉ tê.

Trong lúc ấy Bồ-tát được đưa đến đàn tế. Mẹ ngài, hoàng hậu Gotami, quỳ dưới chân vua, khóc lóc van xin vua tha mạng cho con:

  1. Thiếp sẽ khổ đau hóa dại khờ,
    Đầy mình phủ bụi lấm bơ phờ,
    Nếu Can-da bị dâng thần chết,
    Thiếp thở nghẹn ngào khóc trẻ thơ.

Khi thấy vua không trả lời, bà ôm lấy bốn vương phi của vương tử và bảo họ:

– Vương nhi phải đau đớn chia lìa các nàng. Sao các nàng không năn nỉ vương nhi ở lại?

  1. Sao chẳng nói năng hỡi các nàng,
    Đứng đây, bày tỏ mến yêu chàng,
    Quanh chàng, ca múa đầy vui thú,
    Vừa nắm tay nhau vỗ nhịp nhàng.
  2. Cho đến khi chàng hết muộn phiền,
    An vui theo lệnh các nàng tiên,
    Vì ai có đủ tài ca múa,
    Như vậy dù tìm khắp mọi miền?

Rồi thấy rằng không làm gì hơn được nữa, bà ngừng than khóc với các vương phi và bắt đầu nguyền rủa lão Khandahàla:

  1. Ta mong mẹ ác tế sư này,
    Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
    Đang xé tim ta khi thấy cảnh,
    Can-da yêu quí chết hôm nay.
  2. Ta mong vợ ác tế sư này,
    Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
    Đang xé hồn ta khi thấy cảnh,
    Can-da yêu quý chết hôm nay.
  3. Ta mong nó thấy cả chồng con,
    Bị giết, vì nguơi, ác đạo nhân,
    Muốn giết người vô can dũng cảm,
    Là niềm vinh dự của phàm trần.

Sau đó Bồ tát van xin vua cha trong đàn tế:

  1. Một số nữ nhân vẫn ước mong,
    Cầu xin để có thật nhiều con,
    Họ thường phát nguyện và dâng lễ,
    Trời đất, mong con cháu nội đông,
    Nhưng không được một con nào cả,
    Để cả nhà vui sướng thỏa lòng.
  2. Đừng giết chúng con quá bạo tàn,
    Dầu con cầu tự được trời ban,
    Đừng đem bầy trẻ dâng đàn tế,
    Bất kể công lao của mẫu thân.

Khi chàng không thấy vua trả lời, chàng liền quỳ xuống than khóc dưới chân mẹ:

  1. Số phận mẹ nay quá hẩm hiu,
    Nuôi con, cho bú mớm nâng niu,
    Con quỳ xuống dưới chân thiêng mẹ,
    Mong ước cha ân phước thật nhiều.
  2. Cho con ôm mẹ để hôn chân,
    Lần nữa ôm con thật thiết thân,
    Trước lúc phân ly, giờ tử biệt,
    Mẹ đau thống thiết cả tâm hồn.

Rồi mẫu hậu ngâm kệ khóc than:

  1. Quý tử trên đầu hãy buộc lên,
    Vòng vương miện kết lá hoa sen,
    Và hoa cam-pak này tương xứng,
    Vẻ đẹp oai hùng tuổi tráng niên.
  2. Lần cuối cùng con hãy tẩm hương,
    Loại dầu thơm ngát thật cao sang,
    Ngày xưa những lúc chầu vương phụ,
    Yến tiệc cung đình con điểm trang.
  3. Lần cuồi cùng con khoác cẩm bào,
    Lụa Kà-si rực rỡ dường nào,
    Hãy mang vàng ngọc và trân bảo,
    Con vẫn mang ngày lễ hội sao.

Đến lượt chánh phi của chàng tên là Candà, quỳ xuống chân chàng than khóc thảm thiết:

  1. Đại vương, chúa tể của giang sơn,
    Ý của ngài ban khắp nước non,
    Ngài chẳng còn tình yêu phụ tử,
    Với người duy nhất kế ngai vàng.

Vua nghe vậy liền đáp:

  1. Ta thương mến tất cả ông hoàng,
    Ta cũng quý yêu chính bản thân,
    Vương hậu các nàng thân thiết cả,
    Ta đem con tế lễ đăng đàn,
    Bởi vì ta muốn lên thiên giới,
    Chẳng muốn đi vào địa ngục môn!

Nàng Candà kêu to:

  1. Chúa thượng giết con trước, đoái thương,
    Kẻo niềm thống khổ xé tâm can,
    Vương nhi được kết vòng hoa ấy,
    Mọi vẻ chàng nay thật vẹn toàn.
  2. Giết chúng con trong hố tế đàn,
    Nơi Can-da đến, thiếp theo chàng,
    Đại vương sẽ được công vô lượng,
    Hồn trẻ lên thiên giới trú an.

Vua đáp lời:

  1. Nàng chớ ước mong chết trước thời,
    Các vương đệ dũng cảm bao người,
    Sẽ an ủi đấy, hồng nhan hỡi,
    Khi mất chồng yêu quý ấy rồi!

Nàng nghe vậy đấm ngực than khóc, hăm dọa sẽ uống độc dược tự vẫn, và cuối cùng nàng lại kêu gào thảm thiết:

78-79. Cố vấn, thân bằng cạnh quốc vương,
Không ai dám nói để can ngăn,
Triều thần trung tín không ai cả,
Dám thuyết phục vua chớ giết con.

  1. Còn có các vương tử khác kia,
    Thảy đều đầy đủ mọi oai nghi,
    Hãy đem các vị lên đàn tế,
    Và để Can-da được thoát đi
  2. Hãy xẻ thịt con để cúng dâng,
    Nhưng tha thái tử, bậc anh hùng
    ,
    Người trên thế giới đồng cung kính,
    Chàng dũng sĩ giao chiến tuyệt luân.

Sau khi đã than khóc giải bày mọi nỗi niềm đoạn trường mà vẫn không có gì an ủi được nàng, nàng liền bước lên cạnh Bồ-tát, đứng khóc lóc mãi cho đến khi Bồ-tát bảo nàng:

– Này Candà, suốt đời ta đã biết bao lần tặng nàng ngọc ngà trân bảo trong các dịp yến tiệc hội hè, nay ta chỉ còn món báu vật cuối cùng trên mình ta để tặng nàng, xin nàng hãy nhận lấy. Nàng Candà lại bật khóc và ngâm các vần kệ sau:

  1. Ngày xưa vai ấy rực hoa tươi,
    Lủng lẳng treo như mũ miện cài,
    Thanh kiếm sắt nay tàn ác quá,
    Bao trùm bóng tối cả đôi vai.
  2. Phút chốc kiếm kia đến tận nơi,
    Cổ chàng vô tội lướt qua rồi,
    Ôi, đem dây sắt mau ràng buộc
    Kẻo trái tim ta sắp vỡ đôi!
  3. Lô hội điểm tô với giáng hương,
    Lụa là rực rỡ, lắm vòng vàng,
    Kìa Can-da, bước lên đàn tế,
    Lễ vật xứng danh với quốc vương.
  4. Lô hội điểm tô với giáng hương,
    Và nhiều áo lụa, ngọc cao sang,
    Kìa Can-da bước lên đàn tế,
    Lễ vật xứng danh của đại vương.
  5. Được tẩm hương dâng lễ tế thần,
    Đợi chờ thảm họa đến dần dần,
    Kìa Can-da bước lên đàn tế,
    Tràn ngập lòng dân nỗi khổ buồn.

Trong khi nàng than khóc như vậy, mọi người chuẩn bị nghi lễ đã xong xuôi trên huyệt tế thần. Họ đưa vương tử đến đặt vào một chỗ ngồi thích hợp với chiếc cổ vươn ra trước. Lão Khanda cầm chén vàng lại gần chàng, đưa kiếm lên, đứng thẳng người và nói:

– Ta sẽ cắt cổ nó.

Khi vương phi thấy vậy, nàng nghĩ thầm: “Ta không còn nơi nào để nương tựa, vậy ta sẽ cầu xin phước lành cho phu quân bằng sức mạnh của chân lý”. Rồi nàng chắp tay lên đi giữa đám người hành lễ, trang nghiêm thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Khi sửa soạn xong lễ tế đàn,
    Can-da ngồi đó đợi tai nàn,
    Pañca công chúa đi vào giữa,
    Quần chúng khắp nơi, phát nguyện vang:

88.- Quả nhiên đây vị Bà-la-môn,
Làm độc kế do tính dối dang,
Mong ước phu quân yêu dấu ấy,
Chẳng bao lâu nữa được an toàn
.

  1. Mong các thần, tiên, quỷ chốn đây,
    Hãy nghe lời nói của con vầy,
    Thực hành nhiệm vụ con giao phó,
    Tái hợp con cùng thái tử này.
  2. Tất cả thần tiên ở chốn này,
    Con xin quỳ xuống dưới chân ngài,
    Hộ phù con trẻ không người giúp,
    Thương xót nghe con cầu cứu đây.

Sakka Thiên chủ nghe lời cầu xin của nàng và xem thấy sự tình xảy ra như vậy, liền cầm một khối sắt sang lòa hăm dọa nhà vua và đuổi tan đám đông dự lễ ấy.

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:

  1. Thiên thần nghe tiếng nọ kêu than,
    Muốn giúp chánh nhân, vội giáng phàm,
    Vung khối sắt lên, lòe ánh sáng,
    Làm tâm bạo chúa phải kinh hoàng.
  2. – Bạo chúa biết ta, Thiên đế chăng?
    Hãy nhìn xem vũ khí ta mang,
    Đừng làm hại trưởng nam vô tội,
    Sư tử chúa trong bãi chiến trường.
  3. Tội ác này ai thấy chốn nào,
    Vợ con bị giết cả nhà sao,
    Cùng thần dân quý nhất thiên hạ,
    Xứng đáng lên thiên giới tối cao?
  4. Bạo chúa vội cùng vị tế sư,
    Thả người vô tội, nạn nhân ra,
    Đám đông lấy đá và cây gậy,
    Cuồng nhiệt say sưa, họ hét la,
    Đánh chết Khan-da ngay tại chỗ,
    Đền bù bao tội ác gian tà.

Khi họ đã giết lão quốc sư xong, họ tìm cách bắt vua phải chết, nhưng Thiên chủ Sakka ôm vua lại không cho đám dân chúng giết vua. Khi ấy đám đông mới tha mạng vua, nhưng họ nghĩ: “Ta không thể để vua này cai trị hay ở tại kinh thành nữa, ta phải bắt vua ra khỏi thành và ở một nơi do ta định đoạt”.

Thế là họ lột hết cẩm bào của vua, bắt vua mặc áo vàng, trùm khăn vàng lên đầu làm một kẻ khốn cùng và bắt vua phải ở khu vực dành cho hạng khốn cùng. Còn tất cả những kẻ nào nhúng tay vào việc tế lễ này hay đồng tình ủng hộ đều bị trừng trị đích đáng và khi chết phải đọa địa ngục đúng theo số phần của họ.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ sau:

  1. Ai đã tạo nên tội ác vầy,
    Thẳng đường vào địa ngục kia ngay,
    Không ai được tái sinh Thiên giới,
    Khi đã mang lầm lỗi thế này.

*

Sau khi đã trừ bỏ đươc hai quái vật độc ác ấy, dân chúng liền mang lễ vật đến làm lễ đăng quang rảy nước thánh lên đầu Thái tử Canda để chàng lên ngôi vua.

  1. Khi các tù nhân đã được tha,
    Đám đông quần chúng đổ xô ra,
    Cử hành đại lễ đầy vinh hiển,
    Quán đảnh Can-da kế vị vua.
  2. Đông đảo chư thần với thế nhân,
    Vẫy khăn, cờ xí, hát chào mừng,
    Khởi đầu triều mới đầy hoan lạc,
    Hạnh phúc, bình an với thịnh hưng.
  3. Thiên thần, phụ nữ cạnh nam nhi,
    Gia nhập cùng nhau mở hội hè,
    An lạc đầy nhà niềm hạnh phúc.
    Khi tù nhân thảy được tha về.

Bồ-tát ra lệnh cung cấp mọi nhu cầu cho cha được đầy đủ, nhưng phế vương không được phép vào kinh thành và khi nào tiền cấp dưỡng đã cạn, ông thường tìm gặp Bồ-tát vào những dịp ngài dự hội hè ở công viên hay những nơi công cộng khác. Vào những lúc ấy, phế vương không chắp tay kính chào con mình vì ông nghĩ: “Ta mới thật là Đại vương!” nên ông chào ngài:

– Vạn tuế chúa công!

Và khi Bồ-tát hỏi ông cần gì, ông nói rõ vật ấy, rồi Bồ-tát ra lệnh đem tiền bạc lại cho cha.

*

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) tìm cách giết hại nhiều người chỉ vì Ta, mà trước kia kẻ ấy đã làm như vậy.

– Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là Khanda, mẫu hậu Mahàmàỳa là hoàng hậu Gotamì, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là Candà, La-hầu-la là Vàsula, Uppalavannà (Liên sắc hoa ) là Selà, Ca-diếp (Kassapa) thuộc dòng họ Vàma là Surà, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Candasena, Sàriputta (Xà-lợi-phất) là vương tử Suriya và vua Canda chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ BHÙRIDATTA (Tiền thân Bhùridatta)

Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi Ngài trú tại thành Xá Vệ, về việc các cư sĩ hành trì trai giới.

Vào ngày trai giới, họ thức dậy thật sớm, phát nguyện hành trì giới luật, bố thí và sau khi thọ trai, hộ đem hương hoa đến tinh xá Kỳ-Viên, gặp thời thuyết Pháp họ đều ngồi xuống một bên nghe giảng.

Bậc Đạo Sư đến tại Chánh Pháp đường ngồi xuống sàng tọa được trang hoàng dành cho đức Phật xong, liền nhìn xuống hội chúng Tỷ-kheo.

Lúc bấy giờ đức Như Lai thường muốn đàm đạo với một vài vị này hay vị kia trong hội chúng, khi bài thuyết giảng có liên quan đến họ, vì thế vào dịp này, Ngài biết rằng bài Pháp thoại liên quan đến các bậc Đạo Sư ngày xưa sắp được thuyết giảng cho các cư sĩ, nên trong khi đàmđạo với họ, Ngài hỏi:

– Này các cư sĩ, các ông có hành trì trai giới chăng?

Khi các cư sĩ đồng thanh đáp có, Ngài bảo:

– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Này các cư sĩ, tuy nhiên ngày nay các ông có một vị Phật làm Đạo Sư như Ta và hành trì trai giới thì không phải là chuyện lạ gì, vì các bậc hiền trí ngày xưa, chưa có bậc Đạo Sư nào, cũng đã từ bỏ mọi vinh quang thế tục và giữ ngày trai giới.

Nói xong, theo lời thỉnh cầu của các cư sĩ, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

I .- THÁI TỬ BRAHMADATTA VÀ LONG NỮ

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, ngài phong cho con làm phó vương. Nhưng khi ngài thấy thái tử đạt vinh quang lừng lẫy, ngài lại đâm ra hoài nghi một ngày kia thái tử sẽ chiếm trọn giang sơn. Vì thế ngài bảo con:

– Vương nhi hãy ra đi tìm chỗ cư trú nào mà vương nhi thấy hợp ý trong lúc này, khi ta băng hà hãy về đây kế thừa vương nghiệp.

Thái tử vâng lệnh, giã từ vương phụ ra đi đến vùng núi Yamunà dựng một túp chòi lá nằm giữa dòng sông giáp bờ biển và sống bằng rau quả qua ngày.

Lúc bấy giờ có một long nữ dòng giống Nàga ở dưới biển, mới mất chồng, lòng khao khát dục tình khi nhìn thấy các long nữ khác an vui cảnh chồng con, nên bỏ nơi địa giới, đi lang thang trên bờ biển, chợt thấy dấu chân của thái tử liền theo lối mòn đi đến chòi lá. Lúc ấy thái tử đã đi ra ngoài kiếm trái cây. Long nữ bước vào chòi, thấy chiếc giường gỗ và đồ đạc trong chòi, nhủ thầm: “Đây là nơi cư trú của một ẩn sĩ, để ta thử xem vị này có thật là một vị chân tu không. Nếu vị đó là bậc chân tu, sống khắc kỷ, vị ấy sẽ không chịu nhận chiếc giường trang hoàng lộng lẫy của ta; còn nếu đó là người với tâm tư mê đắm dục lạc, không phải là bậc chân tu tịnh tín thì vị đó sẽ nằm trên chiếc giường của ta, rồi ta sẽ lấy vị đó làm chồng và ở lại đây”.

Vì thế long nữ vội trở về cõi mình góp nhặt hương hoa thần tiên trang hoàng một sàng tọa toàn bằng hoa và sau khi làm lễ cúng hương hoa, rắc phấn hương khắp chòi và trang hoàng cái chòi thật đẹp, nàng đi về cõi mình trú ngụ. Buổi chiều khi thái tử trở về, chàng vào chòi thấy mọi vật như thế liền nói:

– Ai đã sắm sửa tọa sàng này?

Khi chàng ăn đủ loại trái cây xong, chàng lại kêu lên:

– Ôi, hoa thơm ngạt ngào, toạ sang này êm ái quá!

Lòng chàng đầy hân hoan, vì thật tâm chàng không phải là bậc chân tu khổ hạnh, chàng liền nằm xuống giường hoa và ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau chàng thức dậy và cũng đi kiếm trái cây, chẳng nhớ quét dọn chòi lá. Vào lúc ấy long nữ Nàga xuất hiện thấy hoa héo úa cả liền hiểu ngay: “Kẻ này còn tham dục lạc, không phải là bậc chân tu, ta có thể bắt lấy được rồi”. Thế là nàng lượm hết hoa cũ, đem hoa khác đến trải lên tọa sàng thật đẹp, trang hoàng túp chòi lá, rải hương hoa như trước trên thềm nhà, rồi trở về cõi mình cư ngụ. Thái tử lại ngủ một đêm nữa trên giường hoa và sáng hôm sau chàng tự nghĩ: “Ai đã trang hoàng chiếc chòi này?”

Vì thế chàng không đi hái trái nữa, chàng đứng ẩn mình không xa túp liều. Long nữ Nàga thu lượm hoa xong đi đến lều của chàng. Vương tử chiêm ngưỡng dung nhan cực kỳ lộng lẫy của long nữ Nàga, liền say mê nàng ngay và chàng lẳng lặng đi vào chòi trong khi nàng đang trang hoàng tọa sàng và hỏi nàng là ai.

– Tâu đức ông, tiện thiếp là long nữ Nàga.

– Chẳng hay nàng đã có gia thất chưa?

– Tiện thiếp là sương phụ không có chồng, chẳng hay chàng ở đâu?

– Ta là thái tử Brahmadatta, con vua tại thành Ba-la-nại; nhưng còn nàng, tại sao lại đi phiêu bạt rời bỏ xứ sở của dòng giống Nàga?

– Tâu đức ông, chỉ vì tiện thiếp trông thấy hạnh phúc của các nàng Nàga yên bề gia thất nên lòng chưa thỏa mãn về đường tình duyên đứt gánh, phải lang bạt đó đây tìm bóng tùng quân để nương tựa tấm thân bồ liễu.

– Ta cũng không phải là vị chân tu, mà ta đến trú ngụ nơi đây chỉ vì cha ta đuổi ta đi; vậy nếu nàng không chê ta, ta xin nguyện cùng nàng làm đôi vợ chồng sống hòa hợp nơi đây.

Tức thì long nữ bằng lòng và từ đó họ chung sống rất hoà hợp trong rừng ấy. Nhờ thần lực của long nữ, nàng biến hóa ra một ngôi nhà sang trọng có sàng tọa quý giá trong khuê phòng lộng lẫy. Từ đó chàng không còn phải ăn hoa quả nữa, nhưng được hưởng toàn cao lương mỹ vị của thần tiên. Sau một thời gian nàng thụ thai và sinh được một con trai, họ đặt tên là Sàgara-Brahmadatta. Khi ấu nhi đã chập chững biết đi, nàng lại hạ sinh được một gái trên bờ biển nênđược đặt tên là Samuddajà.

Lúc bấy giờ một sơn nhân trú tại thành Ba-la-nại tình cờ đến nơi đây gặp vương tử, chào hỏi xong thì nhận ra chàng, nên sau khi ở lại đó vài ngày, gã nói:

– Tâu vương tử, tiểu thần xin về thông báo với vương tộc biết ngài đang cư trú nơi đây.

Thế rồi gã ra về kinh thành. Lúc ấy vua vừa băng hà, các đại thần làm lễ tang vua xong, liền hội họp nhau lại sau đó bảy ngày, rồi họ quyết định:

– Đất nước không thể một ngày không có vua, nay ta chẳng biết vương tử trú ngụ phương nào: còn sống hay chăng, để chúng ta bảo vương xa đến đón ngài về làm vua.

Vừa khi ấy gã sơn nhân về thành, hay tin đó vội đến tìm các đại thần báo cho họ biết: trước khi đến đây, gã đã ở gần vương tử mấy ngày. Các đại thần rất trọng đãi gã, rồi cùng đi theo lời gã chỉ dẫn đến gặp vương tử. Sau khi chào hỏi thân tình xong, họ báo cho vương tử biết vua vừa băng hà và mời chàng về kế vị, chàng nghĩ thầm: “Ta muốn biết long nữ Nàga tính sao đây?”.Chàng liền bảo vợ:

– Này hiền thê, vua cha ta vừa băng hà, các đại thần đã đến giương chiếc lộng hoàng gia lên cho ta, vậy đôi ta cùng đi về trị vì Ba-la-nại, rộng muời hai đặm, nàng sẽ thành chánh hậu trong đám mười sáu ngàn cung phi ấy.

– Phu quân ôi, thiếp không thể nào đi theo chàng được.

– Tại sao vậy? Dòng giống thiếp có thứ độc dược giết người và tánh khí lại dễ nóng giận vì chuyện không đâu, huống chi là việc hờn ghen trong cung cấm là chuyện hệ trọng, nếu thiếp gặp việc gì bất bình và chỉ cần đưa mắt giận dữ nhìn, tức thì tia mắt bắn ra như nắm trấu, vì thế thiếp không thể nào ra đi theo chàng được.

Ngày hôm sau vương tử lại bảo nàng cùng đi, nàng đáp:

– Thiếp không thể nào đi được, nhưng các con của thiếp lại không phải thuộc nòi giống rồng Nàga, chúng là con của chàng, thuộc giống người; nếu chàng còn thương thiếp xin hãy chăm sóc lấy chúng. Nhưng vì chúng quen thói ở nước, rất yếu đuối, chúng sẽ chết nếu đi đường chịu dãi dầu nắng gió, vì vậy thiếp xin làm một con thuyền đổ nước vào để chúng chơi đùa trong nước và khi đến kinh thành, xin chàng cho lệnh đào một hồ nước cạnh hoàng cung cho chúng, như thế chúng mới khỏi khổ được.

Nói xong, nàng cung kính chào giã từ vương tử, đi vòng quanh chàng một cách kính cẩn, ôm các con vào lòng hôn đầu chúng và giao con cho chàng, khóc lóc một hồi và biến đi về cảnh giới của rồng Nàga. Vương tử cũng nặng trĩu u sầu, ràn rụa nước mắt, liền đến gặp các đại thần. Tức thì họ rảy nước thánh lên đầu chàng làm lễ phong vương và thưa:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương trở về thành.

Chàng ra lệnh cho họ đóng thuyền xong đặt lên xe và đổ nước vào.

– Hãy rảy hương hoa đủ màu sắc trên mặt nước vì các con ta tính ưa nước, thích vui đùa trong nước.

Các đại thần tuân lệnh. Khi tân vương đến thành Ba-la-nại, ngài vào thấy thành trang hoàng rực rỡ, liền bước lên lầu an nghỉ, có mười sáu ngàn mỹ nữ ca múa vây quanh cùng các cận thần. Ngài cho mở đại yến trong bảy ngày xong, ra lệnh đào hồ nước cho các vương tử để các vương tử chơi đùa suốt ngày.

Nhưng một ngày kia, khi nước được dẫn vào hồ, một con rùa trôi vào theo, rồi không tìm thấy lối ra, nó lội trên mặt nước. Trong khi các vương tử nô đùa, rùa hiện ra, thò đầu nhìn đám trẻ rồi lại lặn xuống nước. Đám trẻ thấy rùa, sợ hãi chạy đi báo với vua cha:

– Phụ vương ôi, một con rùa trong hồ làm chúng con sợ quá.

Vua ra lệnh bắt con rùa và một người thả lưới xuống bắt được rùa đem lại trình vua. Khi các vương tử trông thấy rùa liền la to:

– Phụ vương ôi, nó là con quỷ.

Vì vua thương yêu con nên nổi giận với con rùa, ra lệnh cho quân hầu trừng trị nó. Một người bảo:

– Nó là quân thù của Đại vương, vậy phải bảo nó vào cối mà giã nát ra thành cám.

Kẻ khác nói:

– Đem nấu nhừ ra mà ăn.

Kẻ khác nữa lại bảo:

– Đem nó nướng than đi.

Hoặc:

– Bỏ nó vào nồi và đốt lò.

Nhưng có một đại thần rất sợ nước bảo:

– Ném nó xuống vực xoáy của sông Yamunà, nó sẽ bị tiêu hủy hoàn toàn, không còn hình phạt nào nặng hơn nữa.

Rùa nghe thế liền rụt cổ lại bảo:

– Này hiền hữu, ta đã phạm tội gì khiến ông nói đến một hình phạt nặng nề như vậy dành cho ta? Các hình phạt kia ta còn chịu được, chứ hình phạt này thật vô cùng tàn bạo, xin ông đừng nhắc đến nữa.

Khi vua nghe được, ngài bảo:

– Phải hành hình nó như thế.

Và ngài ra lệnh ném nó vào vực xoáy của sông Yamunà, nơi đây nó tìm ra dòng nước đưa nó đến động rồng Nàga. Lúc bấy giờ có vài tiểu long Nàga thuộc dòng vua rồng Dhatarattha đang nô đùa trên dòng nước, thấy rùa liền bảo nhau:

– Bắt lấy tên tiểu nô kia.

Rùa nghĩ thầm: “Ta vừa thoát khỏi tay vua Ba-la-nại, lại rơi vào tay bọn quỉ Nàga hung ác này, làm sao thoát được đây?” Nó liền nghĩ ra một kế, bịa ra một chuyện và bảo chúng:

– Tai sao các long tử thuộc dòng dõi triều đình vua Dhatarattha lại nói năng như vậy? Ta là linh quy tên Cittacùla, sứ giả của vua Ba-la-nại đến yết kiến vua Dhatarattha, đức vua của ta muốn gả công chúa của ngài cho long vương Dhatarattha, vậy hãy cho ta được bái yết ngài.

Chúng bằng lòng dẫn rùa đến, nhưng khi thấy rùa, vua không đẹp ý, bảo:

– Những kẻ có hình thù tồi tàn như vậy không thể nào làm sứ giả được.

Rùa nghe vậy liền đáp lại, nêu rõ các đức tính của nó cho vua hay:

– Tại sao Đại vương lại cần sứ giả cao như cây dừa làm gì? Hình dạng nhỏ bé hay cao lớn đâu có gì quan trọng? Điều tối quan trọng là tài đức để thi hành sứ mạng được giao phó. Tâu Đại vương,vua của chúng thần có rất nhiều sứ giả. Con người thì làm việc trên đất liền, chim chóc thì làm việc trên không, tiểu thần thì ở dưới nước, vì tiểu thần là kẻ được đức vua sủng ái tên gọi là Cittacùla, tiểu thần giữ một chức vụ đặc biệt, xin đừng nhạo báng tiểu thần.

Sau đó vua Dhatarattha hỏi rùa tại sao được vua bảo đến đây, nó liền đáp:

– Đức vua của tiểu thần muốn bày tỏ tình thân hữu với mọi đức vua trên cõi Diêm-phù-đề và nay ngài muốn gả công chúa Samuddajà để tỏ tình thân hữu với long vương Nàga, vậy xin Đại vương chớ chậm trễ, hãy lập tức gửi sứ giả đi cùng tiểu thần định ngày hôn lễ và đón công chúa về.

Vua rồng vô cùng đẹp ý, tán tụng rùa hết lời và ra lệnh cho bốn long tử Nagà cùng đi với rùa định ngày hôn lễ sau khi gặp vua kia rồi trở về xứ. Bốn chàng tiểu long cùng rùa từ giã động chúa rồng Nàga. Rùa trông thấy một hồ sen giữa sông Yamunà và kinh thành Ba-la-nại, muốn trốn đi, liền bày kế nói:

– Này các long tử, đức vua cùng vương hậu, vương tử của ta đã thấy ta xuất hiện trên mặt nước khi ta đến cung vua, nên các ngài bảo ta dâng lên vài hoa sen và củ sen, vậy ta phải đi hái đã, các long tử để ta đi một lát, hễ không thấy ta về thì cứ đi thẳng vào xin yết kiến đức vua, ta sẽ đến đó để gặp các chàng sau.

Họ tin lời để rùa ra đi, nó liền trốn biệt. Các chàng tiểu long không thấy rùa trở lại tưởng rằng nó đã đến chầu vua, liền đi đến hoàng cung giả dạng các thanh niên. Đức vua tiếp đãi ân cần và hỏi họ từ đâu đến. Họ bảo:

– Tâu chúa thượng, từ Dhatarattha.

– Các công tử có việc gì chăng?

– Tâu chúa thượng chúng thần là sứ giả của Long vương Dhatarattha, xin kính chúc chúa thượng ngọc thể an khang và đức vua của chúng thần xin kính tặng chúa thượng bất cứ bảo vật nào chúa thượng đẹp ý. Đức vua của chúng thần cũng cầu xin Chúa thượng gả công chúa Samuddajà để làm vương hậu của ngài.

Rồi họ ngâm vần kệ thứ nhất để giải thích việc này:

  1. Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân,
    Tích trữ trong cung điện chúng thần,
    Đều của Đại vương tùy thánh ý,
    Xin trao công chúa đến long quân.

Vua nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ hai:

  1. Từ trước chẳng hề có thế nhân,
    Kết duyên con gái với long quân,
    Sánh đôi vậy thật không tương xứng,
    Sao trẫm nghĩ ra chuyện lạ lùng?

Các chàng tiểu long bảo:

– Ví như việc thông gia với Đại vương không làm đẹp ý thánh thượng,vậy tại sao thánh thượng lại sai sứ thần linh qui Cittacùla đến yết kiến Đại vương của chúng thần và ngõ lời muốn gả công chúa Samuddajà? Sau khi đã gửi sứ giả đi như vậy, Thánh thượng lại tỏ ra khinh mạn Đại vương của chúng thần. Nay chúng thần sẽ biết cách đối phó xứng đáng với thái độ khinh mạn ấy.

Nói xong họ ngâm hai vần kệ để hăm dọa:

  1. Ngài sẽ bỏ thân, hỡi Đại vương,
    Ngài và đất nước nghĩa gì chăng?
    Trước cơn thịnh nộ từ long chúa,
    Vinh hiển thế nhân sẽ úa tàn.
  2. Ngài kẻ yếu hèn, một thế nhân,
    Phải suy tàn bởi tính kiêu căng,
    Dám khinh thái tử Ya-mu ấy,
    Con của Va-ru-na Đại vương.

Vua liền đáp hai vần kệ:

  1. Ta chẳng hề khinh bỉ Đại vương,
    Dha-ta-ra hiển hách danh lừng,
    Là vua bộ tộc Nà-ga ấy,
    Thừa hưởng vương quyền đúng lẽ chân.
  2. Song dù ngài vĩ đại cao sang,
    Sát- đế- ly dòng dõi xuất thân,
    Chính thống Vi-đề-ha quý tộc,
    Ngài đừng mơ tưởng đến công nương.

Mặc dầu các chàng tiểu long Nàga muốn giết vua ngay lập tức bằng một luồng khí độc, họ kịp suy nghĩ lại rằng họ được phái đi đến đây định ngày hôn lễ, cho nên giết vua rồi bỏ đi thì thật không phải lẽ, vì thế họ bảo:

– Chúng thần xin từ tạ để về tâu lại Đại vương của chúng thần rõ.

Rồi họ biến mất. Khi về, vua hỏi xem họ đã rước công chúa được chưa, họ giận dữ đáp:

– Tâu Đại vương, tại sao Đại vương lại phái chúng thần đến đó mà chẳng có duyên cớ gì cả.Ví dụ Đại vương muốn giết chúng thần, xin giết ngay tại đây cho thỏa dạ. Vua nước ấy mạ lỵ, phỉ bàng Đại vương, tôn con gái mình lên tột đỉnh và kiêu mạn về dòng dõi vương gia.

Cứ thế họ thêu dệt thêm câu chuyện khiến vua nổi giận, ban lệnh họp quần thần binh lính lại, bảo:

  1. Này As-sa với Kam-ba-la,
    Triệu tập mọi dân chúng mãng xà,
    Tiến đến Ba-la thành tụ họp,
    Song đừng làm hại trẻ hay già.

Các chúa Nàga hỏi:

– Nếu không cần phải hại ai cả thì chúng thần đến đó để làm gì?

Vua liền ngâm kệ bảo họ phải làm như sau:

  1. Ở trên hồ nước, các hoàng thành,
    Đường xá và trên các ngọn ngành,
    Trên các cung môn, cần kết dải,
    Đong đưa theo gió nhẹ, treo mình.
  2. Mào trắng và thân trắng mãng xà,
    Bao quanh thành thị của nhà vua,
    Vòng vây ta xiết dần dần chặt,
    Dân xứ Kà-si sẽ sợ ta.

Binh lính Nàga tuân lệnh.

*

Bậc Đạo Sư tả quang cảnh xảy ra:

  1. Nhìn đám mãng xà ở khắp nơi,
    Đàn bà run rẩy, đám đông người,
    Trong khi quái vật giương mào dậy,
    Dân chúng thảy la hét rụng rời.
  2. Dân xứ Ba-la-nại vội nằm,
    Trước đoàn dã thú đến xâm lăng,
    Giơ tay khẩn thiết đồng cầu nguyện:
    – Xin gả công nương với chúa rồng!

*

Trong lúc vua đang ngự trên long sàng, ngài nghe tiếng kêu khóc của các vương phi cùng nhiều thần dân khác và chính ngài cũng sợ chết vì những lời hăm dọa của bốn tiểu long kia, nên ngài kêu to ba lần:

– Ta sẽ gả công chúa Samuddajà cho vua Dhatarattha.

Khi các chúa rồng Nàga nghe được lời ấy liền rút quân lùi lại cách một dặm đường, và cắm trại tại đó, xây dựng lên một kinh thành giống cảnh của chư Thiên, rồi cho người mang lễ vật cầu hôn đến nhà vua:

– Xin hoàng thượng gả công chúa như đã hứa.

Vua nhận lễ vật xong, ra lệnh cho các người đem lễ vật ấy lui về và ngài bảo:

– Các ngươi hãy ra về, trẫm sẽ cho các đại thần đem công chúa đến.

Rồi ngài triệu công chúa lại, đem nàng lên thượng lầu,mở cửa sổ ra bảo nàng:

– Này công chúa, con hãy ngắm kinh thành tráng lệ kia, vua nọ cầu hôn con về làm chánh hậu tại đó; kinh thành đó ấy không xa mấy, bao giờ con thấy nhớ nhà cứ về thăm cha, nhưng bây giờ con phải vu qui.

Sau đó vua ra lệnh các cung nữ gội đầu, trang điểm cho công chúa đủ ngọc ngà trân bảo rồiđưa nàng lên loan xa che kín, có các đại thần hộ tống. Các vua chúa Nàga ngự ra đón nàng theo lễ nghi rất trọng thể. Các đại thần vào thành, tiễn biệt công chúa và ra về được tặng vô số ngọc vàng. Công chúa được đưa vào hoàng cung đặt nằm trên tọa sàng tráng lệ như cảnh tiên, và các thiếu nữ Nàga có lưng gù cùng những dị tật khác hầu hạ quanh nàng như thể thị nữ ở cõi nhân gian vậy. Khi công chúa vừa đặt lưng xuống tọa sàng thần tiên này, nàng cảm thấy êm dịu lạ lùng và ngủ thiếp đi. Vua Dhatarattha sau khi đã tiếp đón nàng xong, liền biến đi cùng với hội chúng của mình về cảnh giới của loài rồng Nàga.

Khi công chúa thức dậy và thấy tọa sàng thần tiên trong cung điện xây bằng ngọc vàng châu báu cùng các hoa viên và hồ nước trong cảnh giới Nàga chẳng khác nào kinh thành tráng lệ của thiên giới, nàng hỏi các thị nữ gù lưng quanh nàng:

– Kinh thành này thật tuyệt diệu, chẳng giống kinh thành của ta, vậy nó là của ai thế?

– Tâu lệnh bà, đó là kinh thành thuộc quyền Chúa thượng của lệnh bà, những kẻ thiếu đức không thể nào hưởng được cảnh vinh quang như thế này. Lệnh bà đã được vinh quang như vậy là nhờ công đức cao trọng của lệnh bà.

– Sau đó vua Dhatarattha ra lệnh đánh chiêng trống khắp hoàng thành rộng năm trăm dặm bố cáo với thần dân rằng kẻ nào để lộ tướng rồng tinh cho công chúa Samuddajà thấy sẽ bị trừng trị ngay; Vì thế không ai dám xuất hiện nguyên hình trước mặt nàng. Cho nên nàng hưởng cuộc sống rất êm ấm hòa hợp với nhà vua vì tưởng rằng đấy là cảnh giới nhân gian.

II.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA

Theo thời gian vương hậu Dhatarattha thụ thai và sinh hạ một vương tử có dung mạo khôi ngô nên được đặt tên là Sudassana, sau đó bà lại sinh hạ vương tử thứ hai đặt tên là Datta; đó chính là Bồ-tát. Rồi bà lại sinh vương tử thứ ba đặt tên là Subhaga và vương tử thứ tư tên Arittha. Dù đã sinh hạ bốn vương tử, bà vẫn chưa hề biết đây là cảnh giới của rồng Nàga. Nhưng một ngày kia, có người bảo Arittha:

– Vương hậu là giống người chứ không phải giống Nàga.

Arittha tự nhủ: “Để ta thử mẹ xem sao”. Một ngày kia trong lúc đang bú sữa mẹ, vương tử xuất lộ nguyên hình rắn rồng, lấy đuôi ve lưng bàn chân mẹ. Khi hoàng hậu thấy rồng, kinh hãi thét lên ném con xuống đất, lấy móng tay cào vào mắt con đến chảy máu ra. Vua nghe tiếng thét hỏi lý do và khi vua nghe chuyện Arittha làm ra, ngài bước đến hăm dọa:

– Đem tên tiểu nô này giết đi.

Công chúa biết bản tính nóng nảy của vua, liền lên tiếng bênh vực con:

– Tâu chúa thượng, thần thiếp đã đánh vào mắt vương nhi rồi, xin Chúa thượng tha tội cho nó.

Vua nghe vương hậu nói vậy liền tha:

– Thôi trẫm còn làm sao được nữa?

Rồi vua tha thứ cho con. Từ ngày đó hoàng hậu mới biết đây là xứ rồng Nàga và cũng từ đó Arittha được gọi là Độc nhãn Arittha (Kànàrittha) .

Bấy giờ các vương tử đã đến tuổi trưởng thành. Vua cha giao cho mỗi vị một vương quốc rộng chừng một trăm dặm vuông, vinh quang lừng lẫy và mỗi vị có mười sáu ngàn long nữ Nàga hầu hạ trong cung đình. Vương quốc của vua cha cũng chỉ một trăm dặm vuông. Các vương tử hằng tháng đều đến vấn an đức vua cùng hoàng hậu. Nhưng Bồ-tát cứ nửa tháng lại yết kiến cha mẹ một lần, ngài vẫn thường đưa ra một số vấn đề xảy ra cảnh giới Nàga và vẫn thường cùng vua cha đến yết kiến Đại Thiên vương Virùpakkha (Quảng Mục) đàm đạo các vấn đề ấy.

Một ngày kia, Đại vương Virùpakkha cùng với hội chúng Nàga lên cảnh giới chư Thiên để chầu Thiên chủ Sakka, một vấn đề được đưa ra đàm dạo nhưng không có ai trong chư Thiên giải đáp được trừ bậc Đại Sĩ lúc ấy đang ngồi trên bảo tọa. Thế rồi Thiên Đế tỏ lòng hâm mộ ngài, đem tặng hoa quả của cõi trời và bảo ngài:

– Này Hiền giả Datta, ngài có đại trí lớn như quả địa cầu, từ nay ta xin gọi ngài là Bhùridatta (bậc Đại trí Datta) .

Và Thiên chủ ban ngài danh hiệu ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ bái yết Thiên chủ Sakka để tỏ lòng sùng kính và khi ngài ngắm vẻ huy hoàng tột đỉnh của thiên triều cùng các tiên nữ, ngài mơ ước được lên thiên giới: “Ta còn làm gì được với tướng rồng rắn chuyên ăn ếch nhái này nữa? Thôi ta nguyện trở về thế giới rồng rắn hành trì trai giới, tu tập công hạnh để được sinh lên cõi chư Thiên”.

Suy nghĩ như vậy xong, ngài liền xin cha mẹ khi trở về xứ rồng Nàga:

– Tâu phụ vương cùng mẫu hậu, con nguyện hành trì trai giới.

– Này vương nhi, con cứ hành trì cho thỏa nguyện, nhưng trong lúc trì giới con chớ ra ngoài, chỉ ở nội trong cung điện trống vắng của loài Nàga vì người trần thế rất kinh sợ rồng Nàga.

Nói xong ngài cuộn mình trên tổ kiến và nói to:

– Kẻ nào muốn cứ đến lấy máu thịt xương da ta đi.

Rồi ngài trì giới gồm bốn phép, nằm đó với thân tướng chỉ gồm có đầu đuôi mà thôi. Đến rạng ngày hôm sau, các long nữ Nàga đến và làm theo lệnh ngài đã ban, đưa ngài về lại cảnh giới Nàga như cũ và cứ thế ngài trì giới trong suốt một thời gian dài.

III.- HAI CHA CON BÀ-LA-MÔN SĂN THÚ

Lúc bấy giờ có một người Bà-la-môn sống ở một làng gần cổng thành Ba-la-nại thường cùng con trai tên gọi Somadatta vào rừng đặt bẫy chông bắt thú rừng rồi gánh thịt đi bán để sinh nhai. Một ngày kia, gã chẳng bắt được con thú nào dù chỉ một tắc kè nhỏ, gã bảo con:

– Nếu ta về nhà tay không, mẹ con sẽ giận dữ, vậy ta cứ bắt lấy con gì cũng được.

Thế là gã đi về phía tổ kiến nơi Bồ-tát đang tĩnh tọa và quan sát dấu chân nai thường xuống dòng sông Yamunà để uống nước, gã bảo :

– Này con, đây là hang nai, con hãy về đợi trong lúc cha bắt nai đến uống nước.

Và gã giương cung đứng dưới gốc cây chờ nai đến. Vào buổi chiều, một con nai đến uống nước liền bị bắn trọng thương, tuy nhiên nó chưa ngã xuống ngay mà vì mũi tên làm tuôn máu xối xả, nó liền chạy trốn. Hai cha con đuổi theo tận nơi nó ngã xuống, bắt lấy rồi ra khỏi rừng đến gốc cây đa thì mặt trời vừa lặn.

– Lúc này đi xa thì bất tiện lắm, thôi ta ở lại đây.

Nói xong họ đặt con nai qua một bên rồi trèo lên cây nằm trên cành. Gã Bà-la-môn thức giấc lúc rạng đông, cố nghe ngóng tiếng động của nai, vừa lúc đó các thị nữ Nàga đến dâng tọa sáng hương hoa cho Bồ-tát. Ngài đã bỏ xác rồng và hiện hình Thiên thần mang đủ bảo vật trang nghiêm ngồi trên tọa sàng sực nức hương hoa trong dáng điệu uy nghi của một Thiên đế Sakka.

Các thị nữ Nàga thành kính cúng dường ngài vô số hương hoa rồi trỗi khúc nhạc thiên đường, đồng thanh ca múa. Khi gã Bà-la-môn nghe tiếng nhạc gã tự hỏi: “Ai đây, ta phải xem sao mới được”. Gã liền gọi con trai nhưng cậu bé vẫn cứ ngủ say. Gã tự nhủ: “Thôi để nó ngủ. Nó còn mệt thì ta đi một mình vậy”. Gã leo xuống đất tiến đến gần ngài . Các thị nữ Nàga thấy gã liền độn thổ ngay cùng các nhạc khí, trở về cảnh giới Nàga, chỉ còn Bồ-tát ngồi lại một mình. Gã Bà-la-môn đứng gần ngài ngâm hai vần kệ hỏi ngài:

  1. Hồng nhãn thiếu sinh được thấy đây,
    Là ai, tỏa rộng đôi bờ vai,
    Mười nàng xuân nữ vây quanh nọ,
    Đeo xuyến vàng, xiêm áo đẹp thay.
  2. Chàng là ai ở giữa rừng xanh,
    Như lửa thêm dầu mỡ mới tinh,
    Có phải Sak-ka, thần đại lực,
    Hay là rồng chúa đại oai danh?

Bậc Đại Sĩ nghe vậy thầm nghĩ: “Nếu ta bảo là một vị Sakka (Đế Thích), gã sẽ tin ngay vì gã là một Bà-la-môn, nhưng ta phải nói sự thật: Thế là ngài nói về nòi giống Nàga của ngài:

  1. Ta chúa Nàga, lực đại hùng,
    Với luồng khí độc mạnh vô song,
    Đất nước phồn vinh, dân lớn bé,
    Ta đây nổi giận giết tiêu vong.
  2. Mẫu thân ta chính Sa-mud-da,
    Chúa tể Dha-ta, thân phụ ta,
    Em của Su-das-san thái tử,
    Tên ta là Đại trí Dat-ta.

Nhưng khi bậc Đại Sĩ nói xong, ngài liền nghĩ: “Bà-la-môn này hung ác, gã có thể phản ta, và tiết lộ ta với người bắt rắn và thế là cản trở việc trì giới của ta.Vậy ta đưa gã về vương quốc Nàga, tiếp đãi gã trọng thể tại đó, như thế ta vẫn không gián đoạn việc hành trì giới luật”. Thế là ngài bảo gã:

– Này Hiền hữu Bà-la-môn, ta muốn tiếp đãi ông thật trọng thể, vậy hãy theo ta đến xứ sở Nàga đầy lạc thú bây giờ. Tâu chúa thượng, hạ thần còn một con trai, nếu hạ thần có đi, xin cho con trẻ đi cùng.

Bồ-tát đáp:

– Hiền hữu cứ đi tìm hiền điệt lại đây.

Rồi ngài tả nơi cư ngụ của ngài cho gã biết:

  1. Hồ kia u tối thật kinh hoàng,
    Sóng nước không ngừng bão tố dâng,
    Nhà của ta thần dân trú ngụ,
    Còn ai dám trái lệnh ta ban.
  2. Hãy lặng chìm trong làn sóng xanh,
    Đàn công, đàn hạc gọi đồng thanh:
    – Xuống đây tận hưởng niềm hoan lạc
    Dành sẵn cho ai giữ giới hành.

Gã Bà-la-môn đi tìm con kể chuyện cho con nghe rồi đem con trở lại và bậc Đại Sĩ liền đưa họ đến bên bờ sông Yamunà. Khi đứng đó, ngài bảo:

  1. Hiền hữu cùng con chớ ngại ngùng,
    Theo lời ta bảo, sống ung dung,
    Vinh quang hạnh phúc trong cung điện,
    Lạc thú ta ban đủ mọi phần.

Nói xong, bậc Đại Sĩ dùng thần lực đưa hai cha con đến cảnh giới Nàga, nơi đây họ hưởng cuộc sống thần tiên. Ngài ban cho họ phúc lạc của tiên giới, mỗi người có đến bốn trăm thiếu nữ Nàga hầu hạ, vinh hoa phú quý thật không sao kể xiết. Bồ-tát vẫn tinh tấn hành trì giới luật, cứ nửa tháng ngài đi bái yết phụ vương, mẫu hậu và thuyết Pháp; còn khi đến thăm gã Bà-la-môn, ngài thường vấn an gã và bảo:

– Hiền hữu cần gì cứ nói cho ta biết, xin cứ hưởng lạc thú, đừng để bất toại điều gì.

Rồi sau khi chào hỏi Somadatta ân cần, ngài trở về tu thất của ngài.

Gã Bà-la-môn, sau khi sống trong cảnh giới Nàga được một năm, do thiếu tu tập công đức trước đây, dần dần cảm thấy không toại ý, chỉ muốn trở về nhân gian. Cảnh giới Nàga đối với gã chẳng khác nào địa ngục. Cung điện được trang hoàng lộng lẫy chỉ giống như nhà tù, các cung nữ Nàga được điểm trang vàng ngọc cũng tựa bầy quỉ cái. Gã nghĩ thầm: “Ta chán lắm rồi, để ta hỏi thử xem Somadatta nghĩ sao?”.Gã tìm con trai và hỏi:

– Con có được toại nguyện chăng?

– Làm sao con lại bất mãn được? Cha con ta không nên nghĩ như vậy.Còn thân phụ không toại nguyện chăng?

– Đúng vậy.

– Tại sao thế?

– Vì ta không gặp được mẹ con cùng anh em con, thôi ta cùng đi về xứ.

Người con bảo không muốn đi về, nhưng vì bị cha nài mãi, nên cuối cùng cũng thuận. Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Con ta đã ưng thuận ra đi, nhưng nếu ta bảo với hoàng tử Bhùridatta rằng ta không toại nguyện, hoàng tử sẽ ban cho ta thật nhiều ân huệ khác nữa và thế là ta không thể đi về. Mục đích của ta chỉ đạt được bằng một cách này thôi: Ta sẽ tả cảnh huy hoàng của ngài rồi hỏi ngài: “Tại sao ngài rời bỏ mọi vinh quang để lên nhân thế hành trì trai giới?”. Khi ngài đáp: “Để được lên thiên giới”, ta sẽ bảo ngài: “Chúng thần lại càng phải nên tu tập như thế hơn nữa, vì chúng thần đã sống bằng nghề sát sinh hại mạng. Thần cũng muốn trở lại trần thế để thăm quyến thuộc xong rồi sẽ xuất gia sống đời khổ hạnh.Thế là ngài sẽ phải để ta đi”.

Sau khi quyết định xong, một ngày kia Bồ-tát đến hỏi thăm gã xem có gì chưa toại ý chăng, gã liền vội trấn an ngài rằng không có điều gì gã mơ ước mà ngài không ban cho gã, rồi không hề nói gì đến ý định ra đi, trước tiên gã chỉ ngâm kệ tả cảnh phồn vinh thịnh vượng của xứ ngài:

  1. Đất bằng trải rộng khắp nơi nơi,
    Hoa trắng Ta-ga nở rợp trời,
    Tổ bọ yên chi màu đỏ thắm,
    Rừng xanh rực rỡ phủ nền tươi.
  2. Đền đài linh hiển khắp trong rừng,
    Hồ lắm thiên nga đắm mắt trần,
    Tô điểm lá sen tàn rải rác,
    Khác nào các tấm thảm đang nằm.
  3. Cung đình ngàn cột trụ nguy nga,
    Tiên nữ bao nàng rộn múa ca,
    Cột trụ dát toàn châu ngọc quý,
    Tứ bề phản chiếu ánh trời xa.
  4. Ngài có cung đình thật hiển vinh,
    Chính nhờ công đức đã hoàn thành,
    Mọi niềm ước nguyện đều viên mãn,
    Ngay khi nguyện ước mới thành hình.
  5. Ngài chẳng ước mơ điện Ngọc hoàng,
    Thiên triều tráng lệ sánh sao ngang?
    Cung ngài vinh hiển còn hơn thế,
    Với cảnh huy hoàng chiếu ánh quang.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, đừng nói thế, cảnh vinh quang của ta so với Thiên chủ Sakka chỉ như hạt cải bên cạnh núi Tu-di (Meru). Chúng ta không bằng được quần thần của ngài nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ý dẫu tối cao chẳng dám mơ.
    Vinh quang ngôi vị của Sakka,
    Bốn Thiên vương ở trong triều đại,
    Mỗi vị một miền được định ra.

Khi ngài nghe gã lập lại: “Cung điện của ngài chẳng khác nào cung Sakka Thiên chủ, ngài đáp:

– Ta đã nghĩ đến chuyện này từ lâu, chính vì ta muốn lên điện Vejayanta (Tối thắng ở cõi thiên) mà ta thực hành sự tu tập trai giới.

Rồi ngài ngâm kệ tả rõ tâm nguyện mình:

  1. Ta mong tha thiết cảnh cao đường,
    Của các bậc tiên thánh vĩnh hằng,
    Vì thế ta ngồi trên tổ kiến,
    Hành trì giới hạnh mãi không ngừng.

Gã Bà-la-môn nghe vậy thầm nghĩ: “Nay ta đã có cơ hội rồi đây”, và với lòng hân hoan, gã ngâm kệ xin phép ngài ra đi:

  1. Thần đã cùng con trẻ bắt hươu,
    Ngày xưa bôn tẩu chốn rừng sâu,
    Bạn bè để lại nhà không biết,
    Sống chết thần nay hiện ở đâu.
  2. Đại-trí Dạt-ta, thần muốn đi,
    Hỡi ngài Minh chúa tộc Kà-si,
    Chúng thần cất bước thăm lần nữa,
    Quyến thuộc thân bằng ở chốn quê.

Bồ-tát đáp:

  1. Ta muốn các ngài ở chốn đây,
    Cùng ta hưởng hạnh phúc bao ngày,
    Nơi nào trên chốn nhân gian ấy,
    Ngài thấy bình an giống cảnh này?
  2. Nhưng nếu ngài mong ở chốn kia,
    Thì ngài hãy hưởng lạc tràn trề,
    Rồi sau sẽ giã từ đi nhé,
    Hạnh phúc ngài mong gặp bạn bè.

Rồi ngài suy nghĩ: “Nếu gã nhờ ta mà có được hạnh phúc chắc gã sẽ không tiếc lộ ta với aiđâu, ta sẽ cho gã viên ngọc như ý (ban mọi điều ước). Ngài liền tặng gã viên ngọc rồi bảo:

  1. Kẻ được mang viên bảo ngọc thần,
    Ngắm đàn con cháu với gia trang,
    La- môn, lấy ngọc và đi nhé,
    Chẳng có bao giờ gặp bất an.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Hạ thần hiểu rõ những lời ngài,
    Ngài thấy thần nay đã lão lai,
    Thần sẽ đi theo đời khổ hạnh,
    Nghĩa gì lạc thú ở trên đời?

Bồ-tát nói:

  1. Nếu ngài chẳng giữ trọn lời thề,
    Tìm thú thế nhân lần nữa kia,
    Thì hãy đến tìm ta lại nhé,
    Ta ban ngài lạc thú tràn trề.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Dat-ta Đại-trí, tạ muôn vàn,
    Ân huệ mà ngài đã phát ban,
    Ví thử thần tìm cơ hội tốt,
    Sẽ về mong được hưởng hồng ân.

Bậc Đại Sĩ thấy rằng gã không còn muốn ở lại đây nữa, nên ngài ra lệnh bốn đồng tử Nàga dẫn gã trở lại cõi trần.

*

Bậc Đạo Sư tả mọi việc như sau:

  1. Dat-ta Đại trí lệnh truyền ban,
    Bốn tiểu long thần: -Hãy bước chân,
    Đem vị La-môn ta uỷ thác,
    Dẫn người trở lại chốn người mong.
  2. Nghe lời xong, các vị long thần,
    Lập tức lệnh ngài được phục tuân,
    Họ dẫn Bà-la-môn đến chốn,
    Rồi đi để lại gã đơn thân.

Trên đường về lão Bà-la-môn bảo con:

– Này Soma, ta sẽ giết được con nai chỗ này và con lợn chỗ kia.

Rồi thấy một hồ nước, gã kêu lên:

– Này Soma, xuống tắm đi.

Thế là cả hai cha con cởi hết áo quần thần tiên ra cuộn thành một bó đặt trên bờ, xuống hồ tắm. Lập tức áo quần biến mất về cảnh giới Nàga chỉ còn bộ áo quần nghèo khổ màu vàng xưa kia của họ mang lên người cùng với cung tên giáo hiện ra như ngày xưa ấy.

– Cha ơi, cơ nghiệp tiêu tan hết rồi. Somadatta kêu gào lên thế.

Nhưng cha cậu vội an ủi:

– Đừng lo gì, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn có kế sinh nhai.

Mẹ Somadatta nghe họ về, vội chạy ra đón vào nhà, thiết đãi cơm rượu thỏa thuê. Khi gã Bà-la-môn đã ăn xong và đi ngủ, người mẹ hỏi con:

– Lâu nay hai cha con đi đâu thế?

– Thưa mẹ, cha con và con được vua Nàga là Bhuridatta mang đến xứ Nàga thần tiên, nhưng vẫn không toại nguyện nên nay lại trở về.

– Thế con có mang về được món châu báu nào không?

– Thưa mẹ không.

– Thế vị vua đó không cho con món châu báu nào sao?

– Thưa mẹ, vua Bhùridatta đã tặng cho cha con một viên ngọc ban mọi điều ước, nhưng cha con từ chối.

– Vì cớ sao?

– Cha con bảo là muốn làm ẩn sĩ tu hành.

– Sao lâu nay đã vứt lại cho ta cả một gánh nặng con cái và đi ở xứ Nàga, bây giờ lão đòi làm ẩn sĩ à?

Thế là bà nổi cơn thịnh nộ, đập vào lưng gã bằng chiếc thìa lâu nay vẫn dùng nó chiên cơm rồi mắng gã xối xả:

– Ông thật là thứ Bà-la-môn ác độc, tại sao ông bảo là sắp đi tu làm ẩn sĩ và từ chối báu vật? Rồi tại sao ông còn vát mặt về nhà mà không thực hiện nguyện ước tu hành? Hãy cút ra khỏi nhà ta ngay.

Nhưng gã bảo vợ:

– Này hiền thê, xin nàng chớ vội thịnh nộ, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn cấp dưỡng mẹ con nàng.

Thế là ngày hôm sau, gã cùng con trai vào rừng tiếp tục sinh nhai bằng nghề cũ.

IV.- VIÊN NGỌC THẦN VÀ GÃ BẮT RẮN

Lúc bấy giờ có một con chim Kim sí điểu (chim thần cánh vàng) Garula sống trong cây bông vải trong vùng núi Himavat (Tuyết Sơn) gần đại dương miền Nam, bay lượn trên mặt nước rồi sà xuống vùng núi Himavat chụp lấy đầu của một chúa rồng Nàga. Đây là thời kỳ chim Garula chưa biết cách bắt rồng Nàga (chúng đã biết cách bắt rồng này trong chuyện Tiền thân Pandara, số 518). Vì thế, dù đã chụp được đầu rồng mà không làm bắn nước tung tóe, nó lại mang rồng tòn teng đến đỉnh núi Himavat.

Một Bà-la-môn trước đây là dân xứ Kà-si, sống ẩn dật trên núi này trong một chòi lá, và cuối lối đi có mái che là một cây đa lớn nên ban ngày ông vẫn cư ngụ dưới gốc cây. Chim Garula mang rồng Nàga đến ngọn cây đa, và rồng Nàga cố thoát ra, nên cuộn đuôi quanh một cành.Chim Garula không biết việc này, lấy toàn lực bay vụt lên trời mang theo luôn cây đa bật khỏi gốc. Chim thần mang rồng Nàga đến cây bông vải, dùng mỏ phanh bụng rồng ra, ăn hết mỡ, rồi ném xác xuống biển.

Cây đa rớt xuống đánh ầm, chim thần không biết gì vì sao có tiếng động lớn như vậy, liền nhìn xuống, thấy cây đa, nó tự hỏi: “Cây này ta mang từ đâu lại?” Rồi nhận ra đó là cây đa ở cuối lối đi có mái che của ẩn sĩ kia, nó suy nghĩ: “Cây đa rất ích lợi cho vị ấy, không biết có tai họa giáng xuống cho ta chăng? Ta thử đi hỏi ông xem sao”.

Rồi nó giả dạng làm một tiểu sinh đến gặp ẩn sĩ trong lúc ông đang đập đất cho bằng phẳng lại. Thế là vương điểu đảnh lễ ẩn sĩ xong, ngồi qua một bên, hỏi thăm sự tình như thể nó không biết gì những việc đã xảy ra:

– Cây gì đã mọc chỗ ấy?

Vị ẩn sĩ đáp:

– Một con chim Garula mang một con rồng Nàga đi ăn thịt, con rồng quấn đuôi quanh một cành cây để cố trốn thoát, nhưng con chim mạnh quá bay vút lên không làm cây bật gốc theo và đây là nơi cây đã bật ra.

– Thế con chim mắc phải tội gì?

-`Nếu nó không biết việc nó làm, thì đó chỉ là vô ý thức, không phải tội lỗi.

– Thế còn trường hợp của rồng Nàga thì sao?

– Nó không cuộn vào cây với ý định làm hư hại cây, cho nên nó cũng không có tội.

Chim chúa Garula hài lòng với lời giải thích của ẩn sĩ liền nói:

– Này hiền hữu, ta chính là vương điểu Garula, ta rất hài lòng với lời giải thích vấn đề của ông. Nay ông sống trong rừng này và ta lại biết thần chú Àlambàyana quý vô giá. Ta sẽ tặng nó cho ông để đền đáp công ơn ông đã giải thích cho ta, mong ông nhận nó.

– Ta cũng đã biết nhiều thần chú lắm, hiền hữu cứ an tâm ra đi.

Nhưng chim chúa cứ nài ép mãi cuối cùng cũng năn nỉ được vị ẩn sĩ nhận lời, nên nó trao bùa và chỉ những dược thảo cần thiết rồi tạ từ.

Lúc bấy giờ ở Ba-la-nại có một Bà-la-môn nghèo khổ nợ nần tứ tung và bị các chủ nợ giày vò mãi, gã tự nhủ: “Sao ta lại cứ sống mãi như thế này? Ta thà vào rừng mà chết còn hơn”. Thế là gã bỏ nhà đi nhiều chuyến phiêu bạt vào rừng cho đến khi gã thấy lều ẩn sĩ. Gã vào xin ở lại vàđược ẩn sĩ vui lòng nhận vì gã siêng năng làm mọi phận sự. Vị ẩn sĩ tự nhủ: “Gã Bà-la-môn này giúp đỡ ta rất nhiều, vậy ta sẽ cho gã chú thiêng mà chim chúa đã cho ta”.

Vì thế ông bảo gã:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, ta biết thần chú Àlambàyana, ta sẽ cho ông, mong ông nhận lấy.

Gã đáp:

– Hiền hữu hãy an tâm, ta chẳng cần bùa chú gì cả.

Nhưng vị ẩn sĩ nài ép mãi, cuối cùng cũng thuyết phục gã kia lấy bùa, rồi chỉ bảo cho gã những loại cây thuốc cần thiết và mọi cách sử dụng bùa.

Gã Bà-la-môn tự nhủ: “Ta đã có kế sinh nhai rồi”. Thế là sau khi ở lại thêm vài ngày, gã lấy cớ bị chứng phong thấp và sau khi xin vị ẩn sĩ thứ lỗi, gã kính cẩn từ giã và đi khỏi khu rừng, qua nhiều chặn đường, gã đến bờ sông Yamunà, đi dọc theo đường cái, miệng lầm thầm câu thần chú.

Ngay lúc bấy giờ cả ngàn tiểu đồng Nàga, vốn là thị giả của Bhruridatta đang mang viên bảo châu như ý ấy. Họ đã ra khỏi cảnh giới Nàga, ngồi nghỉ chân và đặt bảo ngọc trên một đụn cát, rồi sau khi nô đùa suốt đêm dưới làn nước nhờ ánh sáng tỏa ra từ viên bảo châu ấy, họ mang hết mọi món trang sức lên mình lúc trời mới tảng sáng, thâu hào quang của bảo châu lại và ngồi canh chừng.

Gã Bà-la-môn đến đó ngay lúc gã đang lầm thầm câu thần chú, đám tiểu đồng nghe thần chú hoảng sợ vì tưởng đó là vương điểu Garula, liền độn thổ về cảnh giới Nàga mà quên lấy viên bảo ngọc. Gã Bà-la-môn thấy bảo ngọc liền kêu to:

– Thần chú của ta đã linh nghiệm tức thì.

Gã vui mừng lượm bảo ngọc ra đi. Ngay lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng đang cùng con săn nai, chợt thấy viên bảo ngọc trong tay gã kia, liền bảo con:

– Đó phải chăng chính là viên bảo ngọc mà Bhùridatta cho ta?

Người con đáp:

– Vâng, chính phải.

– Được thế thì ta sẽ nói cho gã kia biết những tính tai hại của viên ngọc rồi đánh lừa gã để dành viên ngọc cho ta.

– Thưa cha, trước kia cha đã không lấy viên bảo ngọc khi vua Bhùridatta tặng cha, nay vị Bà-la-môn này chắc chắn sẽ dối gạt được cha cho mà xem. Cha nên yên lặng thì hơn.

– Cứ thế, con sẽ thấy ai dối gạt được ai hay nhất, gã ấy hay cha.

Rồi gã tiến đến gần Àlambàyana và bảo gã kia:

  1. Từ đâu ông có bảo châu này,
    Mang hạnh phúc nhiều, đẹp mắt thay,
    Song có bức tường chi triệu đấy,
    Là điều ta đã nhận ra ngay.

Àlambàyana đáp vần kệ sau:

  1. Sáng nay ta rảo bước trên đưởng,
    Ta thấy ngọc ngay chỗ nó nằm,
    Vệ sĩ mắt hồng ngàn đứa chạy,
    Để cho ta được miếng mồi ngon.

Gã Bà-la-môn hạ đẳng muốn đánh lừa gã kia, liền nói thêm ba vần kệ kể những tai hại của viên bảo ngọc, vì muốn dành phần cho mình:

  1. Nếu được nâng niu, quý trọng nhiều,
    Để dành cẩn thận, hoặc thường đeo,
    Ngọc làm toại nguyện cho người chủ,
    Dù lớn bao nhiêu đủ mọi điều.
  2. Nhưng nếu tỏ bất kính ngọc thần,
    Người đeo hoặc giữ chẳng quan tâm,
    Thì người sẽ phải ăn năn mãi,
    Ngọc chỉ mang cho nỗi khốn cùng.
  3. Nay ông chẳng có việc cần dùng,
    Cũng chẳng có tài giữ bảo châu,
    Vậy hãy đưa ta và đổi lấy,
    Vàng ròng đây chẵn một trăm cân.

Àlambàyana liền đáp kệ:

  1. Ta sẽ không đem bán bảo châu,
    Dù bò hay ngọc quý ông trao,
    Các điềm của nó ta tường tận,
    Nó chẳng bao giờ bán được đâu.

Gã Bà-la-môn nói:

  1. Nếu ngọc hay bò chẳng thể mua,
    Ngọc kia ông có được bây giờ,
    Giá nào ông bán ra viên ngọc,
    Hãy nói ta nghe rõ thật thà.

Àlambàyana đáp:

  1. Ai bảo cho ta biết chốn nào,
    Tìm ra rồng chúa đại anh hào,
    Ta cho người ấy ngay viên ngọc,

    Tỏa sáng bốn bề rực rỡ sao!

Gã Bà-la-môn hỏi :

  1. Có lẽ nào đây chính Điểu vương,
    Hôm này giả dạng Bà-la-môn,
    Đi tìm dấu vết săn mồi thịt,
    Để bắt Long vương lấy món ngon?

Àlambàyana đáp:

  1. Ta quả thật không phải Điểu vương,
    Mắt ta chẳng thấy bóng chim thần,
    Danh y, Đạo Sĩ là ta đấy,
    Nọc rắn rồng là việc sở trường.

Gã Bà-la-môn nói:

  1. Phải chăng ông có lực thần nào,
    Hay đã học hành kỹ thuật cao,
    Việc ấy khiến ông không nhiễm độc,
    Khi cầm nọc rắn giết người sao?

Gã đáp, miêu tả năng lực của mình như sau:

  1. Ko-sy ẩn sĩ chốn rừng hoang,
    Khổ hạnh dài lâu giữ vững vàng,
    Chim chúa sau cùng đem tiết lộ,
    Cho ngài bùa chú bắt Long thần.
  2. Bậc Thánh tối cao sống ẩn thân,
    Trên sườn núi nọ thật cô đơn,
    Nhiệt tình hầu hạ ngài, ta đã,
    Phụng sự ngày đêm chẳng nhọc nhằn.
  3. Vì vậy, cuối cùng để thưởng công,
    Cho ta hầu hạ những năm ròng,
    Đạo Sư khả kính ta tôn quý,
    Tiết lộ cho ta mật chú thần.
  4. Tin vào chú thuật vạn quyền năng,
    Ta chẳng sợ rồng rắn cực hung,
    Những nọc giết người, ta giải hết,
    Ta là bậc trí giả À-lam.

Trong khi nghe gã này nói, gã Bà-la-môn hạ đẳng kia nghĩ thầm: “Gã Àlambàyana này sẵn sàng trao bảo ngọc cho kẻ nào chỉ chỗ chúa rồng Nàga, vậy ta chỉ chỗ của Long vương Bhùridatta cho gã rồi lấy bảo ngọc”. Thế là gã ngâm kệ hỏi ý kiến con trai:

  1. Con hỡi, ta tranh lấy bảo châu,
    So-ma, ta hãy vội đi mau,

    Đừng làm lỡ vận như người dại,
    Đập dĩa cơm bằng gậy bấy lâu.

Somadatta đáp:

  1. Mọi hiển vinh ngài đã phát ban,
    Khi cha đi đến ở tha phương,
    Nay cha trở mặt và ăn cướp,
    Như vậy là đền nghĩa đáp ân?
  2. Vì dù cha muốn được giàu sang,
    Đi tìm như trước ở Long vương,
    Xin ngài, ngài sẽ vui lòng tặng,
    Mọi thứ cha mong ước thỏa lòng.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Những thứ được do bởi vận may,
    Chén cơm nằm sẵn ở trong tay,
    Ăn ngay đừng hỏi gì thêm nữa,
    Con sẽ mất phần tặng thưởng này.

Somadatta nói:

  1. Đất này đang há miệng chờ trông,
    Lửa địa ngục nung nấu cực nồng,
    Chờ đợi sau cùng người phản bội,
    Hay cơn đói lã xé tan lòng,
    Sống tàn, chết dở, con người ấy,
    Kẻ dối lừa ngay bạn chí thân.
  2. Hãy cầu bậc Đại trí Dat-ta,
    Nếu muốn giàu sang, ngài sẽ cho,
    Điều nguyện ước hằng mong thỏa mãn,
    Song cha gây tội lỗi này ra,
    Con e tội ấy không lâu sẽ,
    Phát lộ cha ngay, thật đấy mà.

Gã Bà-la-môn đáp:

  1. Song nhờ tế lễ thật cao sang.
    Tội ác La-môn có thể mang,
    Tuy thế, về sau đều rửa sạch,
    Chúng ta dâng đại lễ đăng đàn,
    Như vầy sẽ được làm thanh tịnh,
    Giải thoát tội kia thật dễ dàng!

Somadatta nói:

  1. Cha hãy ngưng lời nói xấu xa,
    Con không ở lại nữa bây giờ,
    Lúc này chính lúc con từ biệt,
    Con chẳng cùng cha bước nữa mà,
    Vì sự đê hèn này cấu xé,
    Đang làm thối nát trái tim cha.

Nói xong chàng trai hiền đức kia bác bỏ lời cha dụ dỗ, thét vang lên bằng giọng sang sảng làm chấn động cả chư thần quanh vùng ấy:

– Ta không thể đồng hành với một kẻ tội lỗi như thế được.

Rồi chàng bỏ đi ngay trong khi người cha đứng lặng nhìn theo, sau đó chàng đi sâu vào rừng núi Himavat, trở thành một ẩn sĩ, tu tập rồi chứng đắc các Thắng trí cùng các Thiền chứng, sau được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Gã hạ đẳng Bà-la-môn nghĩ thầm: “Soma đi đâu nếu không phải là về nhà?”. Rồi khi thấy Àlambàyana hơi phật ý, gã vội bảo:

– Này Àlambàyana đừng ngại gì, ta sẽ đưa ông đến chỗ Bhùridatta Long vương.

Thế là gã đem Àlambàyana đến nơi chúa rồng đang trì giới và khi gã thấy ngài đang nằm cuộn tròn trên tổ kiến đầu thu lại, gã đứng tránh sang một bên, đưa tay chỉ ngài và đọc kệ sau:

  1. Bắt chúa rồng nơi chốn nó nằm,
    Chụp ngay viên ngọc quý muôn vàn,
    Hào quang đỏ rực màu tươi sáng,
    Như mão miệng trên chóp phượng hoàng.
  2. Hãy nhìn tổ kiến ở đằng xa,
    Rồng chúa nằm kia, trải rộng ra,
    Không có ý gì lo sợ cả,
    Giăng mình như một đống bông tơ;
    Nơi kia bắt lấy ngay rồng ấy,
    Trước lúc nó hay bạn đến mà.

Bậc Đại Sĩ mở mắt ra nhìn gã hạ đẳng kia, ngài suy nghĩ: “Ta đã đem gã ấy đến cung thất Nàga rồi cho gã hưởng vinh hoa tột bực, nhưng gã không nhận viên bảo ngọc ta ban cho, thế mà giờđây gã trở lại với người bắt rắn. Tuy nhiên nếu ta phẫn nộ gã vì việc làm phản trắc này thì côngđức của ta bị suy giảm. Giờ đây bổn phận tối cao của ta là giữ ngày trai giới đủ bốn phép, không được vi phạm cho nên ví dù gã Àlambàyana kia có phân thân ta ra từng mảnh hay đem ta nấu chín hoặc lấy xiêng đâm ta và nướng đi ta cũng không được căm hận gã về mọi việc ấy”.

Thế rồi ngài nhắm mắt lại, quyết giữ nhất tâm cao độ, ngài đặt đầu giữa đám mào rồi nằm hoàn toàn bất động.

V.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA BỊ BẮT

Lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng kia kêu lên:

– Này Àlambàyana, ông hãy bắt rồng Nàga này ngay rồi trao viên ngọc cho ta.

Gã Àlambàyana quá sung sướng khi nhìn thấy rồng chúa Nàga, nên không chút lưu tâm đến viên bảo ngọc nữa, gã ném ngọc vào tay gã kia bảo:

– Này hiền hữu Bà-la-môn, lấy ngọc đi.

Nhưng viên ngọc tuột ra khỏi tay gã và khi vừa rớt xuống đất liền biến mất vào cảnh giới Nàga. Gã Bà-la-môn thấy mình mất hết cả ba thứ: viên bảo châu, tình thân hữu của Bhùridatta và cả con trai nữa và gã vừa đi về nhà vừa lớn tiếng khóc than:

– Ta mất hết cả rồi, ta đã không nghe lời con ta.

Còn gã Àlambàyana trước hết bôi khắp thân mình gã các loại thuốc thần, ăn uống lấy sức rồi đọc thần chú và đến cạnh Bồ-tát, nắm lấy đuôi thật chặt, mở miệng ngài ra, phun vào một viên thuốc mà gã đã ngậm sẵn.

Rồng chúa Nàga bản tính thuần tịnh không để cho mình nổi sân hận vì sợ vi phạm giới luật công hạnh, nên mặc dù ngài mở mắt, ngài không giương to mắt ra.

Sau khi gã nhét đầy thuốc thần vào miệng chúa trồng, gã nắm đuôi rồng, đầu dốc ngược, lắt mạnh cho rồng phun những thức ăn đã nuốt vào, gã căng rồng nằm dài trên mặt đất, rồi lấy tay đè mạnh thân rồng như thể đè chiếc gối, gã chà sát cả bộ xương ngài, nắm đuôi, nện ngài như thể đập tấm vải. Bậc Đại Sĩ không phẫn nộ mặc dù ngài đang chịu đau đớn như vậy.

*

Bậc Đạo Sư tả việc này qua kệ sau:

  1. Nhờ các thuốc men đủ lực thần,
    Đọc thần chú có ác công năng,
    Gã cầm rồng chúa không kinh hãi,
    Và bắt buộc ngài phải phục tuân.

*

Sau khi làm bậc Đại Sĩ tơi tả như vậy, gã sửa soạn một cái giỏ đựng cây leo bỏ ngài vào, lúc đầu thân mình đồ sộ của ngài không vào lọt trong giỏ, nhưng sau khi đá vài cái, gã cố nhét ngài vào. Rồi đến một làng kia, gã đặt giỏ giữa làng rao to:

– Ai muốn xem rồng chúa thì ra mà xem.

Cả làng đổ xô ra vây quanh. Gã liền gọi chúa Nàga ra. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Tốt hơn hết là ta nên múa để làm hài lòng dân chúng hôm nay, có lẽ gã kiếm được nhiều tiền sẽ thả ta ra; thôi gã bảo ta làm gì ta cũng làm cả”. Thế là khi gã Àlambàyana đem ngài ra khỏi giỏ, bảo ngài phình ra, ngài liền phình lớn thân, khi gã bảo ngài thu nhỏ hay cuộn tròn thành một đống như mô đất, hoặc hiện ra một mào, hai mào, hay ba, bốn, năm, mười, hai mươi hoặc cả trăm mào, hoặc hiện mình cao thấp, hữu hình, vô hình, hoặc biến thành xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, hoặc phun nước hay phun khói cùng nước, ngài điều hiện đủ mọi hình dáng như gã ra lệnh và biểu diễnđủ tài nhảy múa.

Người đứng xem không ai cầm được nước mắt và dân chúng đem tiền, vàng bạc, áo quần, đồ trang sức đủ loại như thế, nên chỉ trong làng ấy gã đã kiếm được cả trăm ngàn đồng tiền.

Lúc bấy giờ, thoạt đầu mới bắt được bậc Đại Sĩ, gã có ý định thả ngài ra sau khi đã kiếm được một ngàn đồng tiền, nhưng khi đã kiếm được nhiều như thế, gã lại nói:

– Chỉ trong một ngôi làng nhỏ mà ta đã kiếm được chừng này huống hồ đến một kinh thành ta còn kiếm được bao nhiêu nữa.

Thế là sau khi để gia quyến ở lại đó, gã trang hoàng một cái giỏ bằng ngọc vàng thật đẹp, ném bậc Đại Sĩ vào trong, gã lên một chiếc xe ngựa sang trọng cùng một đoàn tuy tùng rầm rộ. Cứđến mỗi làng mạc, thị trấn, gã đều bắt ngài nhảy múa, sau cùng họ đến thành Ba-la-nại. Gã cho rồng chúa ăn mật và hạt ngũ cốc rang, lại giết ếch nhái cho ngài ăn, nhưng ngài không ăn, vì sợ gã không chịu thả ngài ra. Nhưng dù ngài không ăn gì, gã vẫn bắt ngài diễn trò, bắt đầu tại bốn làng gần cổng thành, họ ở lại cả tháng ròng.

Rồi vào ngày rằm trai giới, gã tâu trình vua rằng gã sẽ cho biểu diễn tài múa rồng hầu vua ngự lãm. Vì thế vua ban lệnh bằng một hồi trống cho dân chúng tụ tập lại đông đủ và những tầng ghế sân khấu được dựng lên trước sân chầu.

VI.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA ĐƯỢC GIẢI CỨU

Nhưng vào ngày Bồ-tát bị Àlambàyana bắt, mẹ của Bồ-tát nằm mơ thấy một người da đen mắt đỏ vung kiếm cắt tay bà mang đi, máu chảy ròng ròng. Bà kinh hoàng tỉnh giấc, sờ tay phải mới biết mình nằm mơ. Rồi bà suy nghĩ: “Ta đã thấy một giấc mơ hãi hùng, nó báo trước một tai họa nào đó sắp xảy ra hoặc cho bốn con ta, hoặc Đại vương Dhurì-datta, hoặc cho chính ta”.

Nhưng lập tức bà liên tưởng ngay đến Bồ-tát: “Hiện nay tất cả các con đều ở cảnh giới Nàga trừ Bhùridatta lên cõi nhân gian quyết tâm hành trì giới luật với lời nguyện giữ ngày trai giới, nên ta lo lắng không biết có kẻ bắt rắn hay chim Garula nào bắt con ta chăng”.

Bà cứ băn khoăn mãi về ngài như thế, cuối cùng sau nửa tháng bà hết sức u sầu, tự nhủ: “Con ta không thể nào sống xa ta trong nửa tháng được, chắc có tai nạn gì xảy ra cho con ta rồi”. Một tháng trôi qua không biết bao nhiêu lệ sầu đã tuôn ra từ mắt bà trong cơn đau buồn ấy, bà cứ ngồi nhìn con đường ngài thường trở về nhà, nói không ngớt:

– Chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà, chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà. Lúc ấy thái tử Sudassana cùng một đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến phụ vương và mẫu hậu sau một tháng xa cách. Sau khi để đám tùy tùng đứng ngoài điện, chàng bước lên nội cung đảnh lễ mẹ xong, đứng sang một bên nhưng vì đang lo buồn chuyện Bhùridatta, bà không nói với chàng một lời nào cả. Chàng nghĩ thầm: “Bất cứ khi nào ta về thăm mẹ trước kia, mẹ ta đều vui mừng tiếp đón ân cần niềm nở, thế sao hôm nay mẹ ta lại buồn thảm quá như vậy, vì cớ gì?”

Thế là chàng hỏi mẹ:

  1. Mẹ thấy con về, đủ chiến công,
    Mọi đều ước nguyện đã vuông tròn,
    Tuy nhiên chẳng tỏ bày vui vẻ,
    Khuôn mặt mẹ đầy vẻ tối sầm.
  2. Như hoa sen được hái thô sơ,
    Rũ xuống trong tay, chóng héo khô,
    Có phải đây là cách mẹ đón,
    Khi con trở lại tự phương xa?

Chàng ngâm kệ khác hỏi mẹ thêm:

  1. Có kẻ nào la mắng mẹ không,
    Hay là mẹ khổ não trong lòng,
    Khiến cho mẹ mặt mày u ám,
    Khi mẹ thấy con trở lại chăng?

Bà mẹ đáp như sau:

  1. Mẹ đã thấy cơn ác mộng vầy:
    Cách đây một tháng đúng hôm nay,
    Một người đến cắt lìa tay phải,
    Khi mẹ nằm sàng tọa ngủ say,
    Rồi nó kéo đi tay vấy máu,
    Lệ ta chẳng cản được người này.
  2. Tràn ngập lòng ta nỗi hãi hùng,
    Từ khi thấy cảnh tượng hung tàn,
    Đêm ngày ta chẳng hề hay biết,
    Một phút mừng vui hoặc lạc an.

Nói xong bà lớn tiếng khóc than:

– Ta không biết con yêu quý của ta giờ đây ở đâu, chắc lại có tai họa gì xảy ra cho em con rồi.

Và bà nói to lên:

  1. Vương nhi, bao mỹ nữ thanh xuân,
    Ngày trước thường kiêu hãnh kế gần,
    Trang điểm lưới vàng, tóc óng ả,
    Dat-ta con hỡi, vắng Long quân!
  2. Quanh chàng bao chiến sĩ oai hùng,
    Lẫm liệt tuốt gươm, đám hạ thần,
    Như khóm Ka-ni hoa chói sáng,
    Ôi! Ta tìm kiếm đã hoài công!
  3. Ta phải đi theo dấu vết chân,
    Tìm nơi chàng đã định nương thân,
    Hoàn thành nguyện ước đời tu sĩ,
    Và tự biết chàng có vạn an.

Nói xong bà cùng đám thị vệ của chàng và các cung nữ của bà đi ra ngoài.

Lúc bấy giờ các vương phi của Bồ-tát chưa biết lo âu khi họ không thấy ngài trên tổ kiến, vì họ bảo là ngài chắc chắn đã đi về cung thăm mẹ, nhưng khi được tin bà đang khóc lóc vì không thấy con đâu, họ đều chạy ra đón bà và quỳ xuống chân bà đồng lớn tiếng kêu than:

– Ôi mẫu hậu, cả tháng này chúng thần thiếp chưa gặp đức phu quân.

*

Bậc Đạo Sư tả lại cảnh ấy như sau:

  1. Các vương phi của vị Long vương,
    Nhìn mẫu hậu đang bước đến gần,
    Họ khóc than vô cùng thảm thiết,
    Và dang tay trước mặt bà hoàng:
  2. “Long quân, bậc Đại trí Dat-ta,
    Đi vắng nơi đâu một tháng qua,
    Sống thác, chúng thần không thể biết,
    Trong lòng tuyệt vọng, nói sao giờ?”

*

Mẫu hậu cùng các vương phi than khóc ở giữa đường, rồi cùng nhau bước vào cung; nỗi sầu khổ của bà tuôn ra không nguôi được khi bà nhìn thấy tọa sàng của con.

  1. Giống như chim mẹ quá đơn côi,
    Nhìn tổ vắng, con bị giết rồi,
    Cũng vậy, sầu dâng tràn dạ mẹ,
    Khi tìm con trẻ đã hoài hơi.
  2. Thẳm sâu trong dạ, nỗi sầu bi,
    Thiêu đốt bừng lên ngọn lửa kia,
    Như thể lò rèn mà chú thợ,
    Mang theo nơi gã được mời đi.

Trong lúc bà than khóc như vậy,cung thất của Bhùridatta như vang dội một âm hưởng dài lê thê khác nào tiếng sóng gầm vi vu của biển cả. Không một ai khỏi xúc động và cả cung thất như rừng cây Sàla bị rung chuyển trong cơn bão táp của ngày tận thế.

*

Bậc Đạo Sư tả quang cảnh như sau:

  1. Như Sà-la ngã dưới cơn dông,
    Cành lá gãy lìa, rễ bật tung,
    Cũng vậy, vợ con và mẹ nữa,
    Nằm trong nhà vắng vẻ tang hoang.

*

Các hoàng huynh Aritha và Subhaga đến yết kiến mẹ, nghe tiếng ồn ào vội chạy vào cung hết sức trấn an mẫu thân:

*

Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:

  1. A-rit-tha với Su-bha-ga,
    Nôn nóng đến an ủi mẹ già,
    Nghe tiếng khóc than rền thảm thiết,
    Trong nhà bậc Đại trí Dat-ta:
  2. – Xin mẹ an lòng, dứt khóc than,
    Đây là số phận của trần gian,
    Mọi loài đều phải qua sinh tử,
    Quy luật vô thường vạn vật mang.

Samuddajà, mẫu hậu đáp:

  1. Con ơi, mẹ biết luật rành rành,
    Đây số phận muôn loại chúng sinh,
    Nhưng mẹ mất con không hợp lý,
    Bơ vơ, mẹ chỉ biết buồn tênh.
  2. Quả thật, nếu không thấy được con,
    Bảo châu đem hỷ lạc tâm hồn,
    Dat-ta Đại trí, thì ta sẽ,
    Kết liễu đêm nay cuộc sống buồn!

Các vương tử vội bảo:

  1. Đừng quá sầu bi, hỡi mẹ hiền,
    Hãy làm dịu bớt nỗi u phiền,
    Chúng con sẽ đón về vương đệ;
    Xuyên suốt qua toàn cõi đất liền,
    Ở khắp mọi nơi và mọi hướng,
    Chúng con theo dõi vết chân em.
  2. Băng qua đồi núi hoặc đồng bằng,
    Thị trấn, và khắp các xóm làng,
    Cho đến khi tìm ra tiểu đệ,
    Chỉ trong độ khoảng mươi ngày đàng,
    Chúng con xin hứa cùng hiền mẫu,
    Đem tiểu đệ về được vạn an.

Lúc đó Sudassana suy nghĩ: “Nếu cả ba anh em ta cùng đi về một hướng e rằng chậm trễ mất, vậy chúng ta phải đi về ba xứ khác nhau: Một em lên cõi Thiên thần, một em đến núi Himavat, một em nữa lên cõi nhân gian, em ta sẽ đốt hết làng xóm, thị trấn nào mà em ta tìm ra được Bhùridatta vì em ta là bản tính độc ác, không nên để em ta lên đó”.

Thế là chàng bảo em:

– Vương đệ, hãy lên cõi Thiên thần, xem có phải chăng Thiên chủ triệu vương đệ Bhùridatta để thuyết Pháp cho các ngài, thì hãy đưa vương đệ trở về .

Chàng lại bảo Subhaga:

– Hãy lên núi Himavat tìm Bhùridatta trong cả năm con sông và đem về đây.

Còn chàng quyết định phần mình lên cõi nhân gian. Chàng suy nghĩ: “Nếu ta giả dạng kimđồng, dân chúng sẽ phỉ báng ta, thôi ta phải giả dạng một ẩn sĩ, vì các vị khổ hạnh thườngđược người đời quý trọng niềm nở chào đón”. Thế là chàng cải trang làm một vị ẩn sĩ khổ hạnh, từ giã mẹ ra đi.

Lúc bấy giờ Bồ-tát có một cô em gái khác mẹ, tên gọi Accimukhì, rất yêu thương Bồ-tát. Khi nàng thấy Sudassana ra đi, nàng bảo:

– Vương huynh ôi, em rất lo ngại, cho em đi với.

Chàng đáp:

– Hiền muội, hiền muội không thể đi với ta được vì ta đã cải trang làm ẩn sĩ rồi.

– Thế thì tiểu muội xin biến thành con ếch nhỏ đậu trên đám tóc bện lại của vương huynh.

Chàng ưng thuận, thế là nàng biến thành nhái con nằm trong đám tóc bện lại của chàng. Sudassana quyết đi tìm em ngay từ lúc bước khởi đầu, cho nên chàng hỏi vương phi xem vương đệ hành trì trai giới ở đâu để đi ngay đến đó. Khi chàng thấy vết máu ở nơi Bồ-tát bị Àlambàna bắt và nơi Àlambàna đã làm giỏ cây leo để đựng ngài, chàng chắc chắn rằng Bồ-tát đã bị người bắt rắn mang đi, nên lòng chàng nặng trĩu u sầu, mắt đẫm lệ đi theo dấu chân Àlambàna.

Khi chàng đến ngôi làng đầu tiên Bồ-tát biểu diễn tài múa, chàng hỏi dân chúng xem có phải một người bắt rắn đã diễn trò với một con rồng như vầy chăng.

– Đúng vậy, cách đây một tháng, Àlambàna đã diễn trò như vậy.

– Thế gã có kiếm được gì lợi chăng?

– Gã kiếm được một trăm ngàn đồng tiền chỉ nội nơi này.

– Thế bây giờ gã đi đâu?

– Gã đã đi đến làng nọ rồi.

Chàng lại ra đi, vừa đi vừa hỏi đường, cuối cùng chàng đến cung môn. Ngay lúc ấy Àlambàna đã đến nơi, tắm rửa, xức dầu thơm xong, mặc áo dài sang trọng, rồi bảo tên hầu mang giỏ đựng rồng được trang hoàng vàng ngọc ấy ra, dân chúng tụ tập rất đông, một chiếc cẩm đôn đặt sẵn dành cho vua và trong khi còn ở trong cung, vua đã truyền lệnh:

– Trẫm sắp ngự triều, hãy bảo Long vương diễn trò đi.

Lúc ấy gã Àlambàna đặt cái giỏ đính châu ngọc ấy trên một tấm thảm sặc sỡ đủ màu, ra dấu hiệu bảo:

– Rồng chúa, ra đây.

Sudassana đang đứng ở cạnh đám đông trong lúc bậc Đại Sĩ ngẩng đầu lên nhìn quanh dân chúng. Thời bấy giờ loài rồng Nàga nhìn đám người vây quanh vì hai lý do: Một là để xem có chim Garula nào, hay là có người diễn trò nào không. Nếu thấy chim Garula thì chúng sẽ không múa vì sợ hãi, còn nếu có người diễn trò nào thì chúng lại không múa vì hổ thẹn.

Trong lúc nhìn quanh như thế, bậc Đại Sĩ thấy anh mình trong đám đông, liền cố ngăn dòng lệ đang tràn ra mắt và bò ra khỏi giỏ, tiến đến anh mình. Đám đông thấy ngài đến gần, hoảng sợ bỏ chạy, chỉ còn lại một mình Sudassana, vì thế ngài đến gần anh, đặt đầu lên chân anh và khóc, Sudassana cũng khóc theo. Sau cùng bậc Đại Sĩ nín khóc và bò vào giỏ như cũ.

Àlambàna nhủ thầm: “Chắc rồng Nàga này đã cắn ẩn sĩ kia, vậy ta phải an ủi vị đó mới được”. Gã đến gần chàng và bảo:

  1. Rồng vừa tuột khỏi bàn tay,
    Chụp lấy chân ngài thật mạnh thay,
    Nó cắn ngài chưa?Xin chớ sợ,
    Không gì độc hại nọc rồng này.

Sudassana muốn nói chuyện với gã, vì vậy chàng đáp:

  1. Rồng của ngài không thể hại ta,
    Ta đây xứng hợp với rồng mà,
    Hãy tìm khắp chốn, ngài không thấy,
    Một kẻ nhử rồng rắn giống ta.

Àlambàna không biết chàng là ai, vì vậy gã nổi giận nói:

  1. Gã này giả dạng Bà-la-môn,
    Thử thách lão đòi chuyện thiệt hơn,
    Tất cả đám đông nghe lão nói,
    Xử cho hai phía thật công bằng.

Sudassana liền đáp kệ:

  1. Vô địch của ta chính nhái con,
    Rồng kia vô địch của tôn ông,
    Hãy đem đánh cuộc năm ngàn chẵn,
    Để bọn chúng ta trợ lực hùng.

Àlambàna bắt bẻ:

  1. Ta giàu phương tiện thật cao sang,
    Mạt vận ông quê kệch xó làng,
    Ai người làm chứng phe ông đó,
    Và số tiền đâu đặt xuống bàn?
  2. Có phần bảo đảm của ta đây,
    Tiền cuộc, nếu ta mất vận may,
    Năm ngàn đồng sẽ nêu uy lực,
    Việc thử thách kia, đáp ứng ngay.

Sudassana nghe vậy liền bảo:

– Nào ta thử trổ tài để được năm ngàn đồng tiền.

Và chàng không nao núng bước vào cung vua, yết kiến đức vua, tức là cửu phụ của chàng, và ngâm kệ:

  1. Muôn tâu chúa thương, nghe lời thần,
    Đừng bỏ dịp may, hưởng phước phần,
    Mong Chúa thượng vì thần bảo chứng,
    Đem ra đánh cuộc giá năm ngàn!

Vua nghĩ thầm: “Ẩn sĩ này đòi một số tiền quá lớn, thế là nghĩa gì?”.Vì thế ngài liền đáp:

  1. Thân phụ ngài trao lại nợ đời,
    Hay là món nợ của riêng ngài,
    Khiến ngài phải đến đây đòi trẫm,
    Một món nợ nghe thật lạ tai!

Sudassana ngâm hai vần kệ:

  1. À-lam muốn cuộc với Long vương,
    Đánh bại hạ thần lập chiến công,
    Thần chỉ có đây con nhái bén,
    Phá tan kiêu mạn Bà-la-môn.
  2. Chúa thượng, xin ngài hãy giáng lâm,
    Ngự du cùng với đám tùy tùng,
    Và nhìn chiến cuộc nơi này nhé,
    Đang đợi gã kia đấu với thần.

Vua ưng thuận ra đi cùng với ẩn sĩ. Khi Àlambàna thấy vua, gã liền nghĩ: “Ẩn sĩ này kéo được nhà vua vào phe mình, chắc phải là thân hữu của vương gia rồi”. Gã bỗng sinh ra sợ hãi, vội chạy theo chàng và nói:

  1. Ta chẳng muốn đâu hạ nhục ngài,
    Ta không một chút muốn khoe tài,
    Nhưng ngài khinh thị rồng này quá,
    Kiêu mạn sẽ làm thất bại thôi.

Sudassana đáp hai vần kệ:

  1. Ta chẳng cầu mong hạ nhục ngươi,
    Cũng không khinh kẻ muốn khoe tài,
    Nhưng sao ngươi phỉnh phờ dân chúng,
    Bằng loại rắn không giết hại ai?
  2. Ví thử người ta biết tướng chân,
    Như ta thấy nó rõ ràng ràng,
    Nói gì đến chuyện vàng hay bạc,
    Ngươi chỉ được ăn một bữa xoàng!

Àlambàna nổi giận đáp:

  1. Nhà ngươi khất thực khoác da lừa,
    Dơ bẩn và trông vẻ xác xơ,
    Ngươi dám khinh khi rồng của lão,
    Nói rồng không biết cắn bao giờ!
  2. Đến đây và thử việc rồng làm,
    Học hỏi bằng kinh nghiệm nếu cần,
    Ta bảo đảm dù không độc hại,
    Nọc rồng sẽ biến bạn thành than!

Sudassana liền ngâm kệ chế nhạo gã:

  1. Chuột hay rắn nước cắn người nào,
    Chọc giận nó phun nọc độc sao,
    Rồng đỏ đầu này không có hại,
    Nó không cắn, dẫu biết phun cao!

Àlambàna đáp hai vần kệ:

  1. Ta đã được bao vị Thánh nhân,
    Thực hành pháp khổ hạnh không ngừng,
    Bảo người bố thí trong đời sống,
    Sẽ đến cõi thiên lúc mạng chung.
  2. Ta khuyên ngươi bố thí ngay liền,
    Nếu thực ngươi còn chút của tiền,
    Rồng sẽ biến ngươi thành cát bụi,
    Ngươi không có thể sống lâu bền!

Sudassana lại nói:

  1. Ta cũng nghe từ các Thánh nhân,
    Người bố thí đến thiên cung,
    Vậy mau bố thí khi còn sống,
    Nếu có vật gì để phát phân.
  2. Nhái của ta không phải loại thường,
    Sẽ làm ngươi hạ giọng kiêu căng,
    Là công chúa của Long vương đó,
    Nàng ấy là bào muội chính tông,
    Mồm của Ac-ci phun ngọn lửa,
    Hơi nàng cực độc, tiếng vang lừng.

Rồi chàng đứng giữa đám đông gọi to:

– Này hiền muội Accimukhì, em hãy ra khỏi tóc ta và đứng trên tay ta.

Chàng đưa tay ra, và khi nàng nghe chàng bảo, liền thốt lên tiếng kêu ba lần như loài ếch nhái lúc còn nằm trên tóc chàng, rồi nàng nhảy ra vai chàng, phun ra ba giọt nọc độc trên lòng bàn tay chàng rồi trở lại mái tóc chàng như cũ. Sudassana đứng cầm nọc rắn ấy thốt lên ba lần:

– Xứ này sẽ bị thiêu rụi.

Âm vang rền khắp Ba-la-nại đến mười hai dặm đường. Vua hỏi vật gì có thể hủy được nọc này.

– Tâu Đại vương, thần chẳng thấy chỗ nào có thể thả nọc này xuống được.

– Đất này rộng lắm, cứ thả xuống đi.

– Không thể được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu thần thả nó xuống đồng bằng,
    Tâu Đại vương, nghe kỹ hạ thần,
    Đám cỏ, cây leo và dược thảo,
    Thảy đều tiêu diệt cháy khô cằn.

– Vậy thì hãy ném lên trời.

– Cũng không được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu hạ thần nghe lệnh Đại vương,
    Ném tung độc ấy giữa không gian,
    Sẽ không mưa, tuyết trời rơi xuống,
    Cho đến bảy năm phải lụi tàn.

– Vậy thì hãy ném xuống nước.

– Cũng không được.

Chàng đáp bằng vần kệ sau:

  1. Nếu vào trong nước, nọc này rơi,
    Tâu Đại vương, nghe kỹ mấy lời:
    Tất cả cá, rùa đều phải chết,
    Muôn loài thủy tộc sống ngoài khơi.

Vua kêu lên:

– Trẫm cũng chẳng biết làm sao nữa. Ngài hãy chỉ cho trẫm cách nào để đất nước khỏi bị tiêu diệt.

– Tâu Đại vương, xin cho đào ba hố liền nhau.

Vua ra lệnh làm ngay. Sudassana đổ đầy thuốc độc vào hố giữa, phân bò vào hố thứ hai, và thần dược vào hố thứ ba, rồi chàng thả nọc độc vào hố giữa, một ngọn lửa đầy khói bùng lên, lan qua hố phân bò, bùng lên lần nữa, rồi lan qua hố thuốc thần, thiêu rụi hết thuốc rồi mới tắt. Àlambàna đứng gần hố ấy, bị hơi nóng của nọc độc bắt phải, màu da liền biến dạng và gã thành tên hủi trắng.

Gã kinh hoàng la lên ba lần:

– Ta sẽ thả rồng chúa ra.

Nghe thế, Bồ-tát liền bước ra khỏi giỏ dát ngọc vàng ấy, hiện hình sáng lòa mang đầy châu ngọc, sừng sững uy nghi trong dáng điệu của Thiên chủ Indra (tức Sakka). Sudassana và Accmukhì đứng hai bên.

Lúc đó Sudassana hỏi vua:

– Đại vương có biết đây là dòng dõi nào chăng?

– Trẫm không được biết.

– Đại vương không biết chúng thần, nhưng Đại vương biết chuyện vua Kàsi gả công chúa Samuddàja cho rồng chúa Dhàtarattha chứ?

– Trẫm biết rõ lắm, đó là tiểu vương muội của trẫm.

– Chúng thần là con trai của công chúa ấy, Đại vương là cửu phụ (cậu) của chúng thần.

Thế rồi vua ôm lấy các cháu, hôn lên đầu và khóc, xong lại mang các cháu vào cung tiếp đãi rất trọng thể. Trong khi vua ân cần đón tiếp Bhùridatta, vua hỏi Bồ-tát bằng cách nào Àlambàna đã bắt ngài trong khi ngài có nọc thần vô địch như vậy. Sudassana liền kể hết đầu đuôi câu chuyện rồi bảo:

– Tâu Đại vương, một vị vua phải trị vì quốc độ như thế này.

Chàng liền thuyết Pháp cho vua, rồi chàng bảo:

– Tâu Cửu phụ, mẫu hậu đang héo mòn vì vắng bóng Bhùridatta, chúng tiểu điệt không dám ở lâu hơn nữa.

– Phải lắm, các hiền điệt cứ ra về, nhưng trẫm cũng muốn gặp vương muội, vậy làm cách nào?

– Tâu Cửu phụ, thế tổ phụ, Đại vương Kàsi, đâu rồi?

– Ngài không thể sống thiếu vương muội, nên ngài đã rời ngôi báu, đi làm ẩn sĩ, hiện đang sống trong rừng kia.

– Tâu cửu phụ, mẫu hậu cũng đang ao ước được gặp tổ phụ cùng cửu phụ, chúng tiểu điệt xin rước mẫu hậu đến lều ẩn sĩ của tổ phụ, lúc ấy cửu phụ sẽ gặp luôn mẫu hậu tại đó.

Thế là họ định ngày xong, và rời cung. Sau khi từ giã các cháu trai, vua khóc lóc trở vào; còn họ liền độn thổ ra đi về cảnh giới Nàga.

VII .- GÃ THỢ SĂN BỊ TRỪNG PHẠT

Khi bậc Đại Sĩ trở về với dân chúng như vậy, cả kinh thành đang rền vang những lời than khóc khắp nơi . Chính ngài cũng mệt mỏi vì cả tháng trời ở trong giỏ, nên đi nằm dưỡng bệnh, và thần dân Nàga tấp nập đến viếng thăm ngài đông vô số, khiến ngài lại mệt thêm vì phải chuyện trò cùng họ. Trong lúc ấy Kànàrittha lên thiên giới tìm không gặp bậc Đại Sĩ, là kẻ trở về đầu tiên, nên chàng được phân công làm thần canh cửa của bậc Đại Sĩ vì chàng được xem là kẻ tính tình nóng nảy có thể xua tan hết đám đông Nàga ấy.

Phần Subhàga, sau khi tìm khắp vùng núi Himavat (Tuyết Sơn), cả đại dương cùng các sông ngòi không gặp, liền phiêu bạt đến vùng sông Yamunà để tìm kiếm.

Lúc bấy giờ gã Bà-la-môn hạ đẳng thấy Àlambàna đã hóa thành người hủi, gã nghĩ thầm: “Gã ấy hóa hủi, chỉ vì quấy phá Bhùridatta; nay ta cũng vậy, chỉ vì ham ngọc báu mà phản bội ngài dù ngài là ân nhân của ta, tội này ta sẽ phải mang. Vậy trước khi họa đến, ta phải xuống dòng sông Yamunà rửa sạch tội trong chỗ tẩy uế linh thiêng này”.

Thế rồi gã xuống sông, tự cho là gã sẽ rửa sạch tội phản bội kia. Vừa lúc ấy Subhàga đến nơi, nghe gã nói, liền nghĩ thầm: “Gã khốn nạn tồi tệ này chỉ vì tham bảo ngọc mà phản bội anh ta, ngài đã ban cho gã mọi phú quý vinh hoa, ta không thể nào tha mạng gã được”. Vì vậy chàng cuộn đuôi quanh chân gã, kéo gã dìm xuống nước, đến khi gã ngạt thở, chàng để yên gã một lát; gã ngẩng đầu lên, chàng lại dìm xuống, nhiều lần như thế cho đến cuối cùng gã Bà-la-môn hạ đẳng kia ngẩng đầu lên bảo:

  1. Ta đang tắm ở chốn thiêng này,
    Dòng thánh Pa- yà linh hiển thay,
    Chân cẳng ta trên đầy nước thánh,
    Quỷ nào hút máu của ta đây?

Subhàga đáp lời gã qua vần kệ sau:

  1. Chuyện kể ngày xưa có vị thần,
    Đến Kà-si đất nước kiêu căng,
    Long vương thật hiển vinh danh vọng,
    Hùng dũng cuộn tròn khắp núi sông,
    Ta chính con ngài đang chụp lão,
    Tên Su-bha, hỡi Bà-la-môn.

Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Anh của rồng chúa Bhùridatta không muốn tha chết cho ta, nhưng ta thử làm động từ tâm của vị này bằng cách tán tụng phụ mẫu của họ, rồi xin tha mạng xem sao”. Thế là gã ngâm kệ sau:

  1. Kà-si vương tử thật oai linh,
    Mẫu hậu sinh dòng giống hiển linh,
    Ngài chớ để nô tài hạ đẳng,
    Chết chìm trong sóng nước vô tình.

Subhaga nghĩ thầm: “Gã Bà-la-môn độc ác này cố đánh lừa ta để ta xiêu lòng mà tha nó, nhưng ta chẳng tha nó đâu”. Thế là chàng đáp, nhắc lại các hành động của gã:

  1. Một nai khát nước đến dòng sông,
    Từ bụi cây, ngươi núp bắn cung,
    Kinh hãi, đau thương nai chạy trốn,
    Bỗng dưng tai họa giáng vào thân.
  2. Người thấy trong rừng nai ngã ra,
    Ngươi đem đòn gánh vác nai qua,
    Đến cây đa mọc đầy cành lá,
    Chằng chịt bao quanh gốc rễ cha.
  3. Sơn ca trỗi khúc nhạc du dương,
    Anh vũ trên cây nhảy rộn ràng,
    Đất trải cỏ xanh như thảm lót,
    Hoàng hôn mời nghỉ bước an nhàn.
  4. Mắt ngươi độc ác thấy anh ta,
    Đang ẩn mình trong đám lá đa,
    Mang sắc áo hè tươi rực rỡ,
    Vui đùa cùng với đám cung nga.
  5. Hoan hỷ, anh ta chẳng hại ai,
    Sao ngươi độc ác giết oan ngài,
    Nạn nhân vô tội, nhìn đây nhé!
    Tội ấy trên đầu ngươi tái lai.
    Ta chẳng tha ngươi dù phút chốc,
    Ngươi đành trả hận tối cao này.

Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Vị này quyết không tha mạng ta, song ta phải tìm mọi cách thoát đi mới được”. Rồi gã ngâm kệ sau:

  1. Học hành, cầu nguyện để cúng dâng,
    Làm tế lễ trong ngọn lửa thần,
    Ba việc khiến La-môn được sống,
    Không ai xúc phạm dẫu hờn căm.

Subhaga nghe gã nói đâm ra do dự, chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ mang nó về cảnh giới Nàga hỏi các vương huynh ra sao”. Và chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Dưới dòng sông thánh Ya-mu-nà,
    Trải tận chân đèo núi Tuyết xa,
    Thủ phủ Nà-ga chìm đáy nước,
    Là nơi ngự trị chúa Dha-ta.
  2. Cũng là cung thất các vương huynh,
    Ta sẽ đưa lời ngươi biện minh,
    Tùy các vương huynh quyền định đoạt,
    Xử ngươi tối hậu thật công bình.

Chàng liền lôi cổ gã đi xềnh xệch cùng lớn tiếng lăng mạ phỉ báng gã cho đến cung môn của bậc Đại Sĩ.

VIII.- BẬC ĐẠI TRÍ BÁC BỎ VỆ ĐÀ

Kànàrittha đã trở thành thần giữ cửa đang ngồi đó, thấy gã kia bị kéo lôi đi một cách thô bạo như thế, liền ra gặp họ và bảo:

– Này Subhàga, đừng làm gã bị thương, tất cả Bà-la-môn đều là con của đấng Đại Phạm thiên; nếu ngài biết ta đang làm con ngài bị thương, ngài sẽ nổi giận và tiêu diệt thế giới Nàga của ta. Trên thế gian này các Bà-la-môn có địa vị cao nhất và thụ hưởng đại vinh danh, vương huynh chưa biết uy danh của họ, nhưng tiểu đệ đã biết rõ lắm.

Vì chuyện kể rằng Kànàrittha trong tiền kiếp ngay trước đời này đã sinh ra làm một Bà-la-môn tế tự, cho nên chàng mới nói quả quyết như vậy. Hơn nữa, nhờ kinh nghiệm của đời trước, chàng rất thông thạo việc tế tự cho nên chàng bảo Subhaga cùng hội chúng Nàga:

– Đến đây ta sẽ tả cho các bạn biết đặc tính Bà-la-môn tế lễ ra sao.

Rồi chàng tiếp tục nói như sau:

  1. Vệ-đà và các lễ tế đàn,
    Những điều trọng vọng thật cao sang,
    Thuộc quyền các vị La-môn ấy,
    Cho dẫu họ hèn hạ tận cùng.
  2. Đặc quyền họ hưởng đại quang vinh,
    Nếu kẻ nào cười nhạo miệt khinh,
    Sẽ mất của tiền và phạm luật,
    Sống trong tội lỗi thật điêu linh.

Rồi Kànàrittha hỏi Subhaga có biết ai tạo ra thế giới này không, khi Subhaga bảo không biết, chàng liền ngâm kệ bảo rằng thế giới được tạo dựng bởi đấng Phạm thiên, là vị tổ của các Bà-la-môn:

  1. Ngài tạo La-môn để học hành,
    Tạo dòng Sát-đế-lị điều binh,
    Cày bừa, Vệ-xá, và ngài tạo,
    Nô lệ Thủ-đà phụng mệnh trên.
    Như vậy chúa trời ban thượng lệnh,
    Từ thời nguyên thủy đã hình thành.

Kế đó chàng bảo:

– Các Bà-la-môn này có rất nhiều uy lực, ai thân cận với họ và cúng dường họ nhiều lễ vật thì sẽ được ngài định số phận cho khỏi tái sinh mà được ngay thiên giới.

Rồi chàng đọc kệ sau:

  1. Ku-ve-ra, So-ma, các thần,
    Dhà-tà, Vi-dha, cùng trời, trăng,
    Bao phen đã cử hành đàn tế,
    Ban các La-môn mọi phước ân.
  2. Aj-jun vĩ đại giáng tai ương,
    Chi chít ngàn tay mọc khắp thân;
    Mỗi cặp tay cầm cung dọa nạt,
    Dâng thần lửa lễ vật đầy tràn !

Rồi chàng tiếp tục tả cảnh huy hoàng của các Bà-la-môn cùng các lễ vật tối cao sang phải được đem cúng dường cho họ như thế nào:

  1. Cổ tích kể vua nọ cúng dâng,
    Thật nhiều, sau hỏa một thiên thần;
    Vua Mu-ja mãi thờ thần lửa,
    Giải khát lửa bằng bơ tưới tràn,
    Thần lửa cuối cùng đem tưởng thưởng,
    Ngài tìm ra lối đến thiên cung.

Rồi chàng ngâm các vần kệ này để chứng minh bài thuyết giáo của chàng:

  1. Du-ji đã sống trọn ngàn năm,
    Xe ngựa, quân hầu, thảy phục tuân,
    Ngài chọn cuối cùng đời ẩn sĩ,
    Từ am tranh đã đến thiên cung.
  2. Sà-ga chiến thắng khắp trần gian,
    Dựng trụ vàng dâng lễ tế đàn,
    Không ai thờ lửa hơn ngài cả,
    Ngài cũng thăng thiên hóa vị thần.
  3. Sữa, lạc, An-ga chúa Kà-si,
    Cúng dâng liên tục tưới tràn trề,
    Làm ngập sông Hằng thành biển cả,
    Cuối cùng triều Đế-Thích ngài về.
  4. Đại Đế Sak-ka có tướng quân,
    Dâng So-ma tửu, được vinh thăng,
    Nay ngài nắm giữ bao thần lực,
    Từ số phận như mọi thế nhân.
  5. Phạm thiên, đại tạo hóa, thành hình,
    Ranh giới núi non tại tế đình,
    Tuân lệnh ngài, sông Hằng chảy xuống,
    Vinh quang ngài đạt bởi hy sinh.

Rồi chàng hỏi anh:

– Này vương huynh, anh có biết tại sao biển cả thành muối mặn không uống được chăng?

– Hiền đệ Arittha, ta không được biết.

– Vương huynh chỉ biết làm tổn hại các Bà-la-môn thôi, này hãy nghe đây.

Rồi chàng ngâm vần kệ:

  1. Một ẩn sĩ, thông kệ, chú thần,
    Đứng trên bờ biển, đệ nghe rằng:
    Chạm vào biển, nó liền ăn sống,
    Từ ấy, nước không uống được dần.

Tất cả các Bà-la-môn đều như thế đấy.

Rồi chàng đọc kệ khác:

  1. Đế Thích xưa thành đấng Ngọc hoàng,
    Đặc ân chiếu xuống Bà-la-môn,
    Đông, tây, nam, bắc, đồng dâng lễ,
    Nên đượcVệ-đà, họ hưởng phần.

Cứ thế Arittha miêu tả các Bà-la-môn cùng các tế lễ hy sinh và kinh Vệ-đà cho hội chúng Nàga. Nghe vậy nhiều rồng Nàga tìm đến thăm Bồ-tát bên giường bệnh, và bảo nhau:

– Vương tử đang kể chuyện cổ tích.

Rồi dường như có nguy cơ là họ chấp nhận tà thuyết ấy.

Lúc bấy giờ Bồ-tát đang nằm trên sàng tọa nghe hết câu chuyện xong, hội chúng Nàga lại kể cho ngài nghe, ngài suy nghĩ: “Arittha đang kể một chuyện cổ sai lạc, ta phải ngắt lời thuyết giảng của em ta và đem chánh kiến lại cho hội chúng này”. Rồi ngài trở dậy, tắm rửa, trang hoàng châu báu xong liền ngồi trên bảo tọa, tụ tập hội chúng Nàga lại. Ngài cho gọi Arittha đến bảo:

– Này Arittha, hiền đệ đã nói lời sai lầm khi diễn tả các Bà-la-môn và kinh Vệ-đà, vì các tế lễ hy sinh theo nghi thức của kinh Vệ-đà không phải là điều đáng mơ tưởng và nó không thể đưa lối đến thiên giới, hãy nhìn kỹ đây những gì hư vọng trong lời nói của hiền đệ.

Thế rồi ngài ngâm các vần kệ này miêu tả các loại tế lễ hy sinh khác nhau:

  1. Vệ-đà là bẫy kẻ khôn ngoan,
    Lôi cuốn làm hư hỏng nạn nhân,
    Ảo ảnh tạo mê lầm mắt tục,
    Song bao bậc trí vượt an toàn.
  2. Kinh Vệ-đà không bí lực thần,
    Cứu người hèn, phản bội, vô luân,
    Lửa kia dù thắp bao năm tháng,
    Vô vọng cuối cùng tên chủ nhân.
  3. Dù cây toàn cõi đất chồng cao,
    Để thỏa nguyện thần lửa khát khao,
    Nó vẫn thèm thuồng, khao khát mãi,
    Nà-ga mong đáp ứng làm sao?
  4. Sữa thường cứ thế biến dần lên,
    Bơ, sữa đông là chuyện tự nhiên;
    Khao khát đổi thay vầy ngọn lửa,
    Càng khơi động, nó mãi cao lên.
  5. Lửa không cháy tự gỗ tươi, khô,
    Lửa cần nhen nhúm mới bùng to,
    Gỗ tươi, khô nếu đều bừng cháy,
    Ắt hẳn rừng xanh hóa hỏa lò!
  6. Kẻ chất củi, rơm đốt lửa cao,
    Đạt nhiều công đức, khác đâu nào,
    Đầu bếp nhen lò, hay thợ nguội,
    Hoặc người thiêu xác chết kia sao?
  7. Chẳng ai cầu nguyện, dẫu thành tâm,
    Hoặc chất mồi lên đốt lửa hồng,
    Được phước đức gì nhờ tế lễ,
    Lửa cao ngất khói cũng tàn dần!
  8. Lửa mà bạn nghĩ đáng tôn vinh,
    Vậy phải ở cùng rác thối tanh,
    Ăn xác chết hân hoan độc ác,
    Mọi người kinh tởm vội quay nhanh.
  9. Có người tôn kính lửa như thần,
    Giống bọn man ri trọng nước sông,
    Bọn chúng lạc ra ngoài chánh đạo,
    Đều không xứng được gọi thần nhân.
  10. Thờ lửa, tôi đòi của thế nhân,
    Vô tình, mù điếc trước lời than,
    Sống đời ích kỷ đầy lầm lỗi,
    Mơ tưởng thiên đường có được chăng?
  11. Bà-la-môn ấy muốn làm ăn,
    Nên bảo Phạm thiên cúng lửa thần,
    Sao Tạo hóa làm ra vạn vật,
    Lại thờ tạo vật chính tay làm?
  12. Pháp luật hão huyền, phi lý sao,
    Tổ tiên ta tưởng đạt sang giàu:
    “Học hành ngài tạo La-môn ấy,
    Sát- ly cầm quyền lực quý cao.

141-142. – Vệ xá cày bừa mọi đất đai,
Thủ -đà phụng mệnh của bao người,
Từ thời nguyên thủy là như vậy,
Phát xuất tối cao lệnh của trời”.
Ta thấy lệnh này đều áp đặt,
Mắt ta trông đã hiển nhiên rồi.

  1. Chỉ các La-môn được tế thần,
    Không ai ngoài Sát-ly cầm quân,
    Cày bừa Vệ-xá và nô lệ,
    Các Thủ-đà kia phải phục tuân.
  2. Vọng ngữ tham lam thuyết đảo điên,
    Kẻ ngu tin tưởng chuyện hư huyền,
    Ai người có mắt nhìn toàn cảnh,
    Sao chẳng công bình, hỡi Phạm thiên?
  3. Nếu quyền vô hạn khắp nơi nơi,
    Sao chính tay ban phúc hiếm hoi,
    Sao vật ngài sinh đều chịu khổ,
    Sao không ban phúc đến muôn loài?
  4. Lừa dối ngu si ở khắp nơi,
    Tràn đầy hư vọng, chánh chân vơi,
    Phạm thiên là vị bất công quá,
    Đã tạo thế gian lắm trái sai.
  5. Những kẻ được xem là trắng trong,
    Tha hồ giết nhái, rắn, trùng, ong,
    Tục này man rợ, ta khinh ghét,
    Như thể Kam-bo, bộ lạc rừng.

148-149. Nếu kẻ giết kia được trắng trong,
Nạn nhân cũng được đến thiên đàng,
La-môn hãy giết La-môn sạch,
Như vậy bọn này được lạc an,
Và cả những ai nghe thật kỹ,
Những lời chúng nói thật tà gian.

  1. Chẳng thấy bò, dê muốn thiệt thân,
    Để mong có cuộc sống cao hơn,
    Chúng miễn cưỡng đi vào chỗ chết,
    Vẫy vùng tuyệt vọng trút hơi tàn.
  2. Bao phủ tế đàn, chuyện sát sinh,
    Tuôn lời bóng bẩy tuyệt tài tình:
    “Tế đàn như thể con bò mập,
    Bảo đảm bao tâm nguyện đạt thành”.

152-153. Nếu củi chất quanh vật tế thần,
Chứa đầy kho báu, họ ca vang,
Bạc, vàng, châu, ngọc cho ta hưởng,
Cùng lạc thiên cung sẽ ngập tràn,
Hẳn họ tế đàn riêng họ hưởng,
Giữ cho mình sản nghiệp giàu sang.

  1. Bọn dối lừa, ngu xuẩn, ác gian,
    Chuyện dài thêu dệt phỉnh ngu dân:
    “Dâng tiền, cắt móng và râu tóc,
    Người sẽ được như nguyện thỏa lòng”.

155-156. Thí chủ ngây ngô sẵn nhiệt tình,
Với hầu bao đến, chúng vây nhanh,
Như bầy quạ xúm quanh chim cú,
Tâm hướng về bao chuyện ác hành,
Khiến nạn nhân kia thành sạt nghiệp,
Cuối cùng bị lột sạch sành sanh,
Đồng tiền chắc chắn người kia có,
Đổi lấy hứa suông chẳng thực hành.

157-158. Như bọn lạ tham được lệnh vua,
Tịch thu tài sản đám nông gia,
Bọn này cướp chỗ nào rình rập,
Tìm của với con mắt ác tà;
Không luật lệ nào lên án chúng,
Tuy nhiên chúng phải chết là vừa!

159-160. Tế sư phải nắm nhánh Bu-ta,
Làm lễ tế đàn tự trước kia,
Nó được gọi thay Thiên chủ đấy;
Thế nhưng nếu thật vậy từ xưa,
Phải chăng Thiên chủ In-dra đã,
Chiến thắng được yêu quỷ địch thù?
Tay của trời cho ngài ích lợi,
Có đâu làm quỷ sợ vu vơ?

161-162. Mỗi rặng núi trong quốc độ kia,
Chính là lễ vật tự ngàn xưa,
Đặt lên đàn tế thành từng đống,
Tín chủ đưa tay nhẫn nại ra
Chất lễ vật lên cao tựa núi,
Tuân theo lệnh Đại Phạm thiên mà!

163-164. “Núi được chất cao với lễ dâng”,
Nói như vậy đó các La-môn,
Khoe khoang huyễn hoặc, ôi ô nhục!
Đống gạch kia dù kiếm hết lòng,
Cũng chẳng chứa đâu nguồn mạch sắt,
Để người thợ mỏ phải hoài công.

  1. Chuyện kể một hiền thánh thuở xưa,
    Đang khi cầu nguyện ở bên bờ,
    Bị chìm xuống biển, từ thời đó,
    Nước biển không sao uống đến giờ!

166-167. Sông đã nhận chìm các Thánh hiền,
Hằng trăm và nước vẫn bình yên,
Xuôi dòng chảy mãi không hề thối,
Sao chỉ biển xanh giữ hận hiềm?
Nước mặn tràn vào trên mặt đất,
Do người đào, chẳng bởi lời nguyền.

168-169. Trước tiên chẳng có nữ, nam nhân,
Trí óc làm nhân loại sáng dần,
Dòng giống ban đầu bình đẳng cả,
Nhưng vì thành bại đã bao lần,
Làm con người đổi thay ngôi thứ,
Chẳng phải vì xưa thiếu phước ân,
Những lỗi lầm ngày nay đã khiến,
Họ thành ưu thắng hoặc cùng bần.

  1. Kẻ hạ đẳng kia dùng trí khôn,
    Đọc kinh này, trí chẳng cao hơn,
    La-môn tạo Vệ-đà làm hại,
    Khi các tha nhân đạt trí thông.
  2. Như vẹt, câu ca được thuộc lòng,
    Khó quên vì nhịp điệu du dương,
    Tối tăm ý nghĩa làm mê mẩn,
    Ngu trí nuốt trôi thật bốc đồng.
  3. Bà-la-môn chẳng giống thú hoang,
    Sư tử, cọp beo của núi ngàn,
    Chúng với trâu bò đồng một loại,
    Khác ngoài nhưng trí vẫn ngu đần.
  4. Nếu vua thắng trận dứt đao binh,
    Và sống bình an với bạn mình,
    Chế ngự dục tham, theo chánh đạo,
    Muôn dân hạnh phúc sống phồn vinh.
  5. Vệ-đà, Sát-đế-ly cầm quyền,
    Độc đoán cả hai, lại hão huyền,
    Mù quáng chúng lần mò tiến bước,
    Trên đường hồng thủy ngập liên miên.
  6. Vệ-đà, Sát-ly nắm quyền năng,
    Thâm nghĩa, chúng ta thảy nhận chân:
    Rốt cuộc, nhục vinh hay được mất,
    Cùng chung số phận bốn giai tầng.
  7. Như các chủ nhà muốn kiếm ăn,
    Tính bao nghề tốt đẹp, an toàn,
    La-môn nay gặp ngày tàn mạt,
    Tìm kế sinh nhai đủ mọi đàng.
  8. Chủ nhà lầm lạc bởi tham vàng,
    Mù quáng đi theo dục dẫn đàng,
    Bày đủ mọi trò lừa đảo ấy,
    Kẻ ngu phải đọa! Thác người khôn.

Bậc Đại Sĩ, sau khi đánh tan mọi luận thuyết của họ như vậy, đã thành lập ra giáo phái của ngài và khi hội chúng Nàga nghe ngài thuyết giảng, tâm họ tràn đầy hoan hỷ. Bậc Đại Sĩ cho thả tên Bà-la-môn hạ đẳng kia ra khỏi cảnh giới Nàga mà không hề đá động gì đến gã, dù chỉ bằng một lời nói khinh miệt.

*

Vua Sàgara cũng không lỗi hẹn, vội ngự du cùng binh lính đến nơi trú ngụ của vua cha, sau khi đánh trống báo cho thần dân biết ngài sẽ đi thăm ngoại tổ phụ và quốc cửu, bậc Đại Sĩ du hành qua sông Yamunà, trước tiên ngài ngự đến am ẩn sĩ của tổ phụ với mọi vẻ long trọng huy hoàng, theo sau ngài có đầy đủ các vương tử cùng phụ vương, mẫu hậu ngài.

Lúc ấy vua Sàgara chưa nhận ra bậc Đại Sĩ khi ngài tiến đến cùng đám tùy tùng, liền hỏi vua cha:

  1. Chiêng trống nào đây, tiếng nói vang,
    Trầm hùng hòa điệu giữa không gian,
    Làm tâm Thánh thượng đầy hoan hỷ,
    Đàn sáo, tù và, tiếng trống con?
  2. Ai là nam tử bước hiên ngang,
    Nai nịt cung tên được điểm trang,
    Vương miện quanh đầu đang chiếu sáng,
    Khác nào ánh chớp tỏa hào quang?
  3. Ai đó uy nghi bước đến gần,
    Sáng ngời tướng mạo dáng thanh xuân,
    Như cành phượng vĩ đang hồng đỏ,
    Lò thợ rèn lia cháy sáng bừng?
  4. Chiếc lọng của ai sáng sắc vàng,
    Làm mờ ngọ nhật vẻ kiêu căng,
    Bên sườn khéo léo treo lơ lửng,
    Chiếc quạt đập ruồi đợi sẵn sàng?
  5. Gậy vàng vung vẫy các đuôi công,
    Hòa đủ màu bên cạnh mặt rồng,
    Rực rỡ vòng tai tô điểm tóc,
    Khác nào tia chớp lóe không trung?
  6. Hào kiệt nào đây mắt sáng trong,
    Mão long đội giữa đôi mày cong,
    Răng trắng như chồi hoa, vỏ ốc,
    Hoàn toàn đều đặn, thẳng ngay hàng.
  7. Bàn tay hồng đỏ tựa sơn son,
    Môi, đóa bim-ba thắm nở tròn,
    Chàng trẻ sáng ngời như mặt nhật,
    Như sà-la nở rộ đầu non,
    In-dra Thiên chủ mang bào giáp,
    Chiến thắng quỷ thù thảy dẹp tan.
  8. Ai vừa hiện trước nhãn quang ta,
    Mở ví bên sườn, tuốt kiếm ra,
    Chuôi nạm ngọc vàng đầy kỹ xảo,
    Huy hoàng chiếu sáng dưới tay ngà?
  9. Ai cởi hài vàng khỏi gót chân,
    Hài thêu dệt gấm thật cao sang,
    Cuối đầu trịnh trọng trang nghiêm lễ,
    Bày tỏ lòng tôn kính Trí nhân?

Khi nghe con của ngài là quốc vương Sàgara Brahmadatta hỏi như vậy, vị ẩn sĩ xuất gia đã chứng đắc thắng trí cùng các Thiên chứng, liền trả lời:

– Này vương nhi, đó là các vương tử của vua Dhatarattha, các Long vương Nàga của bào muội của con đó.

Rồi ngài ngâm kệ sau:

  1. Dha-ta vương tử các chàng đây,
    Uy lực, vinh quang vĩ đại thay,
    Tất cả đều tôn sùng chấp nhận,
    Sa-mud-da mẫu hậu chung này.

Trong lúc các vị đang đàm đạo, hội chúng Nàga đến nơi, đảnh lễ dưới chân vị ẩn sĩ, rồi ngồi xuống một bên. Công chúa Samuddajà cũng đảnh lễ cha xong, khóc lóc một hồi rồi từ tạ cùng hội chúng Nàga trở lại cảnh giới của mình. Quốc vương Sàgara ở lại đó vài hôm rồi trở về thành Ba-la-nại. Còn công chúa Samuddajà về sau qua đời tại cảnh giới Nàga.

Phần Bồ-tát vẫn giữ giới suốt đời Ngài và tu tập đủ mọi công hạnh trong ngày trai giới, nên khi mạng chung, ngài cùng với hội chúng Nàga đi lên thiên giới thật đông đảo.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Đạo Sư dạy:

Như vậy các vị Thánh đệ tử, các bậc hiền nhân ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã từ bỏ mọi vinh quang của quốc độ Nàga và trang nghiêm hành trì các công hạnh trong ngày trai giới.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

Vào thời ấy, gia tộc của Đại vương là cha mẹ Ta, Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là gã Bà-la-môn hạ đẳng, Ànanda (A-nan) là Somadatta, Uppalavannà (Liên hoa Sắc) là Accimukhì, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Sudassana, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Subhaga, Sunakkhatta là Kànàrittha và Ta chính là bậc Đại trí Bhùridatta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ MAHÀNÀRADA-KASSAPA (Tiền thân Mahanàrada-Kassapa)

Một vì vua xứ Vi-đề-ha… ,

Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể, khi Ngài trú ngụ tại Lạc Viên Latthivanna (Rừng Mía), về việc quy y của Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa-Ca-diếp (Uruvela-Kassapa).

Lúc bấy giờ uy danh của bậc Đạo Sư về việc hoằng dương Chánh pháp đã bắt đầu lừng lẫy. Sau khi Ngài giáo hóa các vị tu khổ hạnh khác cùng Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa, Ngài liền đi đến Lạc Viên Latthivana, với cả ngàn Tỷ kheo vây quanh, các vị này trước đây là những đạo sĩ khổ hạnh. Ngài muốn thuyết phục vua Magadha (Ma-kiệt-đà) giữ lời hứa cúng dường Tinh xá Veluvana (Trúc Lâm) và lúc ấy vua Ma-kiệt-đà cùng đến với đám triều thần đông cả mười hai vạn người.

Sau khi đảnh lễ đức Phật xong, vua ngồi xuống, rồi một vấn đề được đưa ra tranh luận giữa các Bà-la-môn và các gia chủ trong đám tùy tùng của vua: Phải chăng Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp phục tùng sự giáo hóa của bậc Đại Sa Môn, hay là bậc Đại Sa Môn phục tùng sự hướng đạo tu hành của Ưu-lâu-tần-loa Ca- diếp?

Lúc ấy đức Thế Tôn nghĩ thầm: “Ta sẽ cho hội chúng thấy rằng Ca-diếp đã phục tùng sự giáo hóa của Ta”.

Rồi Ngài ngâm kệ này:

Thấy gì Hiền giả Kas-sa-pa,
Người ở rừng U-ru-ve-la,
Lừng lẫy tiếng tăm về khổ hạnh,
Sao ông từ bỏ lửa thiêng xưa,
Này Ca-diếp hỡi, nghe ta hỏi:
Sao bỏ tế đàn với lửa kia?

Lúc ấy vị trưởng lão đã hiểu rõ ý nghĩa câu hỏi của đức Phật, liền đáp kệ này:

Tế lễ nói lên ngũ dục trần:
Sắc, thanh, hương, vị với giai nhân,
Và khi biết những điều như thế,
Chỉ thấy trong đời sống thế gian,
Đều bất tịnh, con không thích thú,
Tế đàn dâng lễ cúng Thiên thần.

Rồi để tỏ ra mình là đệ tử Phật, vị Tỷ-kheo này đặt đầu lên chân đức Phật và nói:

– Đức Thế Tôn là Đạo Sư của con, con là đệ tử của Ngài.

Nói xong ông bay lên không bảy lần đến ngọn một cây cọ dừa (tala), hai cây tala cho đến bảy cây tala, rồi trở xuống đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi qua một bên. Hội chúng trông thấy việc hy hữu như thế, liền tán thán uy danh củc bậc Đạo Sư, đồng nói to:

– Cao cả thay thần lực của đức Phật, nên mặc dù đã tin tưởng vững chắc vào uy lực mình, mặc dù tự cho mình là Thánh nhân, Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa cũng đã phá bỏ mọi vọng chấp sai lầm và xin quy y với đức Như Lai.

Bậc Đạo Sư đáp:

– Việc ấy cũng không kỳ diệu gì, khi ngày nay Ta đã đạt Thắng trí viên mãn và giáo hóa vị này; vì ngày xưa khi ta còn là một Bà-la-môn tên gọi Narada và còn tham đắm dục lạc, ta cũng phá tan mọi vọng chấp sai lạc của ông và khiến ông phải quy phục.

Rồi theo lời thỉnh cầu của thính chúng. Ngài kể câu chuyện sau đây:

*

Ngày xưa ở thành Mithilà trong quốc độ Videha có một vị minh quân trị vì rất đúng pháp, tên là Angàti. Lúc bấy giờ chánh hậu của ngài đang mang thai một công chúa xinh đẹp đầy ân phúc, tên gọi Rujà, có công hạnh rất lớn và là người đã phát đại nguyện suốt một trăm ngàn kiếp. Mười sáu ngàn phi tần kia của ngài đều không có con. Vì thế công chúa này rất được yêu quý nâng niu.

Hằng ngày ngài thường ra lệnh ban cho nàng hai mươi lăm giỏ hoa muôn màu và xiêm y lộng lẫy để nàng trang sức, lại ban cho nàng một ngàn đồng tiền để nàng bố thí các thức ăn uống tràn trề mỗi tháng hai lần.

Lúc bấy giờ ngài có ba vị cận thần tên gọi Vijaya, Sunàma và Alàta. Vào một ngày rằm tháng tư kia, cả kinh thành và cả cung điện được trang hoàng lộng lẫy như cảnh thiên giới, sau khi đức vua đã tắm gội, xức dầu thơm và trang sức đủ ngọc ngà trân bảo, ngài cùng các cận thần ngự lên thượng lầu mở cửa sổ nhìn mặt trăng tròn đang lên cao dần trên bầu trời quang đãng, ngài bảo các cận thần:

– Đêm trăng này thật thú vị quá, các khanh muốn cùng ta hưởng lạc thú gì chăng?

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Một vì vua xứ Vi-đề-ha,
    Tên gọi An-ga-ti, thuở xưa,
    Có lắm cỗ xe, tài sản quý,
    Binh hùng tướng mạnh kể sao vừa.
  2. Một đêm trăng sáng ngày mười lăm,
    Canh một sắp qua, ánh nguyệt rằm,
    Vào tháng tư mùa mưa mới đến,
    Vua liền tụ họp đám quần thần.
  3. Vi-ja-ya, Đại tướng A-là,
    Cùng với Đại thần Su-ma-na,
    Là các trí nhân, tươi nét mặt,
    Đông con kinh nghiệm đủ phò vua.
  4. Vua Vi-đề hỏi chúng triều đình:
    Hãy nói ý mình muốn, mỗi khanh,
    Nay đúng tháng tư, đêm mãn nguyệt,
    Mây mờ không phủ ánh trăng thanh,
    Đêm nay ta có gì vui thú,
    Tiêu khiển thời giờ ấy thật nhanh?

Cứ thế khi được vua hỏi đến, mỗi vị cận thần nói lên nguyện ước lòng của mình.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Lúc ấy Đại tướng Alàtaka tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ta hãy tập hợp binh hùng tướng mạnh lại, rồi đi chinh chiến cùng với muôn vạn dân chúng, cho phép chúng thần đem đặt dưới quyền Đại vương những vị vua trước đây đã tự trị, đó là thiển ý của thần, xin Đại vương cho phép chúng thần đi chinh phục những vùng đất chưa từng bị chinh phục.

Khi nghe lời của Alàta tâu, Sumàna liền nói:

– Tâu Đại vương, các quốc thù của ngài đều đã được tập hợp về đây, họ đã buông khí giới qua một bên và quy hàng Đại vương rồi. Hôm nay là ngày đại lễ hội, thần không thích việc chiến chinh, xin Đại vương ra lệnh mang rượu thịt cùng các loại sơn hào hải vị lên đây ta cùng vui hưởng đờn ca xướng hát.

Nghe lời Sunàma tâu như vậy, Vijaya liền nói:

– Tâu Đại vương, tất cả thú vui dục lạc lúc nào cũng sẵn sàng dâng lên Đại vương, không phải là khó kiếm để làm thỏa lòng Đại vương, nên dù có được những lạc thú ấy, thần cũng không tán đồng. Xin Đại vương ngự xa giá đến hầu thăm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn tinh thông Thánh điển am tường kinh nghĩa, có thể phá tan mọi hoài nghi của chúng thần hôm nay về tâm nguyện của chúng thần.

Khi nghe lời của Vijàya, vua Angati bảo:

– Lời tâu của Vijàya rất hợp ý trẫm, ta hãy cùng đi hầu thăm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tinh thông Thánh điển, am tường mọi kinh nghĩa để có thể phá tan mối hoài nghi của ta về tâm nguyện hôm nay. Các khanh hãy mau mau thi hành quyết định này, vậy ta hãy đi hầu thăm vị Sư trưởng nào đây?Hôm nay vị nào tinh thông kinh kệ cùng thâm nghĩa của Thánh điển có thể phá tan lưới nghi của ta về các điều tâm nguyện.

Khi nghe vua nói vậy, Alàta liền tâu:

– Có một vị khổ hạnh lõa thể trú trong vườn Lộc Uyển đằng kia, được mọi người tán thán là bậc hiền nhân, tên gọi Guna dòng Ca-diếp, một bậc thuyết giáo đã lừng danh, có rất đông đệ tử theo học. Vậy ta hãy đến hầu thăm ngài, ngài sẽ phá tan lưới nghi của ta.

Nghe lời tâu của Alàta, vua ra lệnh cho quan thủ xa:

– Trẫm muốn du hành đến vườn Lộc Uyển, hãy mang xa giá đầy đủ yên cương lại đây.

Khi xa giá đã được chuẩn bị yên cương, trang hoàng đầy đủ ngọc ngà, vàng bạc, cỗ xe vương mã sáng ngời màu bạch ngọc, vẻ tinh khiết như bầu trời đêm quang đãng. Bốn tuấn mã giống Sindh trắng như hoa súng đã chầu sẵn, có sức phi nhanh như gió, lại rất thuần thục, mang vòng vàng lục lạc cùng lộng trắng, xe trắng, ngựa trắng và quạt trắng. Đức vua khởi hành cùng đám cận thần, rực rỡ như mặt trăng bạc. Nhiều bậc trí giả và dũng sĩ nai nịt cung kiếm lên ngựa theo hầu đức vua anh hùng. Sau một đoạn đường dài, trong chốc lát, vua Videha cùng đám cận thần xuống xe, đi bộ đến gần chòi ẩn sĩ Guna; ngay lúc ấy các Bà-la-môn và các phú gia đã tề tựu đông đúc tại đó. Nhà vua cũng không ra lệnh bảo họ lui ra, mặc dù chẳng có chỗ nào dành cho ngài. Ngài ngồi qua một bên, được vây quanh bởi thính chúng gồm đủ hạng người như vậy, rồi ngài làm lễ yết kiến vị ẩn sĩ kia.

*

Bậc Đạo Sư giải thích vấn đề này như sau:

Lúc ấy vua ngồi qua một bên trên một tấm nệm êm ái, bọc bằng da lông sóc mượt mà đủ loại cùng với một chiếc gối dựa mềm mại đặt ngang. Khi vừa an tọa, vua chào hỏi vị ẩn sĩ bằng những lời tán thán đầy tình thân hữu và cung kính:

– Thưa Tôn giả, các nhu cầu về vật thực, y phục của ngài có được đầy đủ chăng? Sinh lực của ngài không bị tiêu hao nhiều chứ? Nếp sống của ngài có dễ chịu chăng? Ngài có được cúng dường đúng thời chăng? Việc đi lại của ngài có gì cản trở chăng? Nhãn quang của ngài vẫn được tinh tường chứ?

Ẩn sĩ Gunà từ tốn đáp lại vua Videha đang hết sức quan tâm đến phận sự của ngài:

– Tâu Đại vương, mọi nhu cầu vật dụng của bần đạo đều được đầy đủ, hai vấn đề ngài nêu sau cùng cũng được như ý. Còn phần Đại vương, các vị quốc vương lân cận không quá hùng mạnh đối với Đại vương chứ? Đại vương có được ngọc thể khang an chăng? Vương xa của Đại vương thượng lộ bình an chứ? Đại vương không bị bệnh tật gì não hại chứ?

Vua mong cầu pháp lành nên sau khi được vấn an xong, ngài liền hỏi vị ẩn sĩ ý nghĩa và giáo pháp cùng giới luật công hạnh:

– Thưa Tôn giả Ca-diếp, một thế nhân phải cư xử như thế nào gọi là đúng pháp đối với cha mẹ, đối với sư trưởng, đối với vợ con? Còn phải cư xử ra sao đối với các bậc trưởng lão, các Sa-môn, Bà-la-môn, với binh sĩ cùng dân chúng trong quốc độ mình? Làm thế nào để hành trìđúng pháp rồi chung cuộc được lên Thiên giới? Và một số thế nhân vì theo tà pháp đã đọa địa ngục như thế nào?

Vì lúc ấy không có một vị Phật Chánh đẳng Giác xuất hiện, cũng không có một vị Độc Giác Phật, một vị Thánh đệ tử của chư Phật hay một bậc trí nhân nào, nên vua hỏi liên tiếp các vấnđề đáng được nêu ra của một vị quốc vương cho một khất sĩ lõa thể không hiểu biết gì và lại mù quáng tựa trẻ thơ. Vừa khi được hỏi như vậy, ông đã không trả lời phù hợp câu hỏi, mà nhân cơ hội tâu ngay:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương nghe đây.

Rồi ông tuyên thuyết tà pháp của mình như kẻ đánh con bò trong khi nó đang đi hay làm rớt phân vào máng ăn của con bò khác.

*

Bậc Đạo Sư giải thích vấn đề như sau:

Khi nghe vua Videha hỏi, Kassapa trả lời:

– Tâu Đại vương, đây là chân lý không sai lạc: Không có quả báo thiện hay ác nào khi ta tuân giới luật, không có đời sau, tâu Đại vương còn ai trở lại đời này sau khi mạng chung nữa? Không có tổ tiên cha mẹ, làm sao có cha hay mẹ được? Không có sư trưởng, vì ai có khả năng giáo hóa những pháp không thể được giáo hóa? Mọi thế nhân đều bình đẳng và giống nhau, không có kẻ nào đáng được kính lễ cũng không có kẻ nào phải kính lễ người khác, không có các đức tính như dũng mãnh hoặc can trường vì ở đời làm sao có được tinh tấn lực hay tính anh hùng?

Số phận các thế nhân đã được tiền định, cũng như đuôi con tàu phải đi theo dấu con tàu vậy. Mỗi thế nhân được thọ hưởng phần mình phải thọ hưởng, thế thì bố thí để làm gì? Tâu Đại vương, việc bố thí không ích lợi gì cả. Người bố thí là kẻ yếu hèn, chẳng ai giúp đỡ, lễ vật bố thí được kẻ ngu ngốc đưa ra và được kẻ không nhận lấy. Những kẻ vô trí, yếu hèn lại tưởng mình khôn ngoan khi bố thí cho kẻ có trí.

Sau khi diễn giảng sự vô ích của bố thí, ông lại tiếp tục diễn tả tội chướng không có công năng tạo nghiệp quả đời sau:

– Có bảy uẩn không bị hủy diệt cũng không não hại, đó là hỏa, địa, thủy, không, lạc, khổ và tâm. Trong bảy uẩn này chẳng có uẩn nào đủ công năng tiêu hủy hay phân tán. Chúng cũng không hề bị phân hủy, gươm giáo đều vô hại đối với các uẩn này. Kẻ nào cắt đầu kẻ khác bằng thanh kiếm sắc bén cũng không thể phân tán các uẩn này, thế thì làm sao lại có thể hưởng được nghiệp quả vì làm ác nghiệp? Mọi chúng sanh đều được sạch tội lỗi khi đã sống qua tám mươi bốn đại kiếp, trước thời kỳ đó chẳng có một người Phạm hạnh nào được rửa sạch tội lỗi cả. Trước khi thời kỳ đó đến, dù họ thực hành giới hạnh bao nhiêu đi nữa, họ cũng không thể rửa sạch tội lỗi, và dù họ phạm bao nhiêu tội chướng đi nữa, họ cũng không thể vượt quá giới hạn đó. Lần lượt con người sẽ được rửa sạch tội qua tám mươi bốn kiếp; ta không thể vượt quá số phận ta, cũng như biển không thể vượt bờ.

– Cứ thế kẻ biện luận cho thuyết hư vô ấy đã củng cố lý lẽ mình bằng giọng hăng say không cần đến một thuyết nào trước đây cả.

Khi nghe Kassapa nói vậy, Alàta đáp lời:

– Những điều Tôn giả nói rất hợp ý ta, ta cũng nhớ lại đã trải qua một tiền kiếp: Ta là một thợ săn bò tên là Pingala ở một tỉnh thành kia. Ta đã phạm bao nhiêu tội lỗi ở thành Ba-la-nại giàu có ấy. Ta đã giết biết bao nhiêu sinh mạng bò, heo, trâu, dê. Hết kiếp đó, ta lại sinh vào gia đình phồn thịnh của một viên đại tướng; như thế không hề có quả ác vì hành nghiệp ác nên ta đã không đọa vào địa ngục.

Lúc ấy có một tên nô lệ ăn mặc rách rưới tên là Bìjaka đang hành trì trai giới cũng đến đây nghe Guna thuyết pháp. Khi nghe Kassapa và Alàta đối đáp như vậy, gã thở dài não nuột và bật khóc. Vua hỏi:

– Tại sao người khóc? Ngươi đã nghe thấy gì chăng? Tại sao ngươi lộ vẻ đau khổ với ta như vậy?

Bìjaka trả lời:

– Tâu Đại vương, tiểu nô chẳng có gì làm khổ đâu, xin Đại vương hãy nghe tiểu nô giải bày. Tiểu nô cũng nhớ lại tiền kiếp rất được sung sướng, tiểu nô là một Bhavasetthi (phú thương) trong thành Sàketa, chuyên trì công đức, giữ thân trong sạch hay bố thí, được các Bà-la-môn và các phú gia rất quý trọng. Tiểu nô nhớ lại mình chẳng hề phạm tội ác bao giờ. Nhưng khi hết kiếp ấy, tiểu nô lại đầu thai vào bụng một gái giang hồ nghèo khó và ra đời chịu rất nhiều cực khổ. Tuy nhiên dù khổ cực như hiện nay, tiểu nô vẫn giữ tâm trí thanh tịnh, tiểu nô nhường phân nửa thức ăn cho kẻ nào cần thực phẩm. Tiểu nô giữ trai giới các ngày mười bốn và rằm, chẳng hề sát sanh trộm cắp. Nhưng tất cả những điều lành đó không đem lại quả tốt nào như Alàta vừa nói, tiểu nô cho rằng công đức thật chẳng ích gì. Tiểu nô thua cuộc trong đời như kẻ chơi súc sắc bất tài, còn Alàta thắng cuộc như một kẻ đánh súc sắc khéo tay. Tiểu nô không có cách nào lên thiên giới cả, vì thế tiểu nô rơi lệ khi nghe ngài Ca-diếp nói pháp.

Sau khi nghe Bìjaka nói vậy, vua Angati đáp:

– Không có lối lên thiên đàng, chỉ đợi chờ số phận. Số người sướng hay khổ là do số phận định đoạt. Chung cuộc mọi chúng sinh sẽ được giải thoát khỏi luân hồi, vậy đừng nóng lòng vì tương lai. Trong các đời trước của ta, ta cũng đã được nhiều phước phần và chuyên tâm phụng sự các Bà-la-môn cùng các phú gia, nhưng lúc ta bận chấp chánh trị dân, ta lại không được hưởng lạc gì cả.

Nói xong, vua tạ từ ẩn sĩ:

– Thưa Tôn giả Kassapa, từ lâu nay trẫm thật là vô tâm xao lãng, nhưng cuối cùng bây giờ trẫm đã tìm ra được một vị sư trưởng, vậy từ nay trẫm sẽ tuân theo lời dạy của Tôn giả, trẫm sẽ an hưởng thú dục lạc mà thôi, dù có nghe thuyết giảng về công đức cũng không ngăn cản được trẫm đâu. Xin Tôn giả ở lại, trẫm xin từ tạ Tôn giả, ta sẽ còn dịp hội ngộ ngày sau.

Nói xong vua Videha trở về cung. Thoạt tiên khi vua đến viếng Guna, ngài chào vị này rất cung kính rồi nêu câu hỏi ra, nhưng khi ngài giả từ, ngài chẳng chào hỏi gì nữa. Vì Guna không đúng như danh truyền, vì bất xứng nên chẳng được đảnh lễ, vả lại càng ít được cúng dường. Qua đêm đó, rạng ngày hôm sau, vua triệu tập quần thần lại và bảo:

– Các khanh hãy chuẩn bị đủ mọi thứ dục lạc, từ nay trẫm sẽ chỉ theo đuổi dục lạc, các khanh đừng nói việc gì khác trước mặt trẫm, hãy để những vị này vị kia ra chấp chánh trị dân.

Và từ đó vua chìm đắm trong việc hưởng lạc.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Qua đêm đó, rạng ngày mai, vua Angàti triệu tập các vị đại thần lại và phán:

– Các khanh cho bày đủ mọi thứ dục lạc trong điện Candaka để trẫm an hưởng, không ai được dâng sớ về việc công tư gì nữa. Các khanhVijaya, Sunàma và đại tướng Alàtaka đều tinh thông luật pháp, hãy ngồi xét xử mọi vấn đề thay trẫm.

Vua nói thế xong, chẳng còn bận tâm điều gì nữa ngoài dục lạc và ngài cũng chẳng còn thân cận với các Bà-la-môn cùng các phú gia nữa.

Thế rồi vào đêm mười bốn, ái nữ của vua, công chúa Rujà, nói với bà nhũ mẫu:

– Xin nhũ mẫu trang sức ngọc vàng cho con thật nhanh, bảo các thị nữ đến hầu con ngày mai là ngày lễ rằm, con sẽ đi yết kiến phụ vương.

Họ liền đem cho nàng một tràng hoa cùng gỗ đàn hương, ngọc ngà châu báu đủ loại và xiêm y lộng lẫy muôn màu, nhiều thị nữ vây quanh nàng lúc nàng ngồi trên chiếc kim đôn, trang sức cho nàng cực kỳ rực rỡ tôn vẻ kiều diễm của nàng.

Sau đó được đoàn thị nữ tháp tùng chung quanh, sáng ngời trong các món trang sức trân bảo, công chúa Rujà bước vào cung Candaka như tia chớp lóe giữa vầng mây. Sau khi đến gần phụ vương đảnh lễ hết sức cung kính xong, nàng ngồi xuồng một bên trên chiếc bảo tọa chạm vàng.

Khi vua thấy nàng được đám cung nữ theo hầu như một bầy tiên nữ, liền phán bảo:

– Này công chúa, con có vui chơi thỏa thích trong hồ nước nội cung chăng? Chúng có thường dâng con đủ loại cao lương mỹ vị chăng? Con cùng các thị nữ có thường kết đủ loại tràng hoa và xây nhà mát để chúng con nghỉ ngơi, vui đùa giải trí chăng? Bảo chúng đem lại đây ngay, con hãy thỉnh cầu phụ vương mọi điều con ưa thích, những điều gay go nhất, dù có khó như tìm mặt trăng đi nữa.

Nghe vua cha nói như vậy, công chúa thưa:

– Tâu phụ vương, trước long nhan, mọi nguyện vọng của tiện nữ đều được thỏa mãn. Ngày mai là ngày lễ rằm, xin phụ vương ban cho con một ngàn đồng tiền để con bố thí cho các kẻ hành khất.

Nghe Rujà nói, vua liền đáp:

– Con đã phung phí nhiều của cải mà chẳng có kết quả gì, con giữ gìn trai giới, kiêng cử ăn uống, nhưng quan niệm về phận sự giữ gìn trai giới này đều do tiền định, cho nên con có giữ gìn trai giới cũng không đạt công hạnh gì. Trong lúc con còn sống đây với phụ vương, con đừng bố thí vật thực nữa, không hề có đời sau nào ngoài đời này nữa, tại sao con phải bận tâm vì việc không đâu?

Lúc ấy Rujà với nhan sắc cực kỳ lộng lẫy, nghe vua cha nói vậy liền đáp như sau, vì biết rằng nàng hiểu Pháp lành ở đời quá khứ cùng vị lai:

– Tâu phụ vương, tiện nữ đã được nghe trong thuở quá khứ cũng như chính mắt tiện nữ được thấy rằng kẻ nào bầu bạn với trẻ thơ rồi cũng trở thành trẻ thơ mà thôi. Kẻ ngu thân cận với kẻ ngu lại càng chìm đắm trong sự ngu muội. Alàtaka và Bìjaka bị lừa phỉnh là phải lắm, chứ còn phụ vương là một vị vua hiền trí, rất có tài trong việc trị dân; làm sao phụ vương lại rơi vào một lý thuyết thấp hèn như vậy, chỉ xứng hợp với trẻ thơ. Nếu con người được rửa sạch mọi tội chướng chỉ do dòng sinh tử thì việc tu khổ hạnh của Guna thật là hoài công, như con thiêu thân lao vào đèn sáng, kẻ ngu ngốc kia đã chịu đựng đời hành khất lõa thể. Sau khi đã chấp nhận lý thuyết cho rằng kết cuộc mọi chúng sinh sẽ được rửa sạch mọi tội lỗi qua luân hồi sinh tử, nhiều kẻ đã hành động sai lầm vì vô minh chồng chất, nên lại càng bị vây chặt hơn trong các nghiệp quả đời trước, khó thoát ra được, như con cá mắc lưỡi câu.

Tiện nữ xin kể hầu phụ vương một chuyện ngụ ngôn cho trường hợp này của phụ vương, vì bậc trí giả đôi khi tìm được chân lý qua câu chuyện ngụ ngôn. Như một con tàu của thương nhân, chở quá nhiều hành lý nặng nề, phải chìm trong biển cả, một con người chồng chất dần tội lỗi mãi cũng sẽ đọa vào địa ngục. Tâu phụ vương, hành lý hiện tại của Alàta không phải là những thứ lão ta đang hưởng đâu, chính vì những thứ lão ta đang mang đi chất lên tàu mà lão sẽ đọa vào địa ngục kiếp sau. Đời trước Alàtaka thành chánh nghiệp, nên kết quả là ngày nay lão ta hưởng thụ phú quý vinh hoa. Công đức ấy của lão đang bị tiêu tan vì lão chỉ chuyên tâm làm ác nghiệp, sau khi bỏ chánh đạo, lão ta lại đang theo đuổi tà đạo, như chiếc cân được treo đúng đắn trong kho hàng sẽ làm cán cân nhấc lên cao khi có trọng lượng của một vật đặt lên nó. Con người chung cuộc cũng làm cho số phận mình thăng hoa nếu biết tu tập công đức dần dần, như gã nô lệ Bìjaka kia đang chuyên tâm làm công hạnh và đang mơ tưởng thiết tha tới đến thiên giới. Nỗi khổ đau mà nô lệ Bìjaka phải chịu đựng là do nghiệp quả tội chướng gã đã phạm đời trước. Tội chướng ấy sẽ tiêu trừ vì hiện gã đang chuyên tâm làm công đức, tuy nhiênđừng để gã lọt vào tà đạo của lão Ca-diếp kia.

Rồi nàng lại tiếp tục phô bày tội chướng của việc gây ác nghiệp cùng thiện quả của việc thân cận bạn lành:

  1. Khi vua quý trọng một thân bằng,
    Dù đức hạnh hay kẻ ác gian,
    Chuyên tạo ác hành hay thiện nghiệp,
    Vua đều chịu ảnh hưởng quyền năng.

6-7. Bạn nào, vua muốn chọn cho mình,
Như bạn ấy, vua sẽ trở thành,
Uy lực này do tình mật thiết;
Kẻ luôn thân cận, bạn đồng hành,
Thường gây ảnh hưởng lên bằng hữu,
Như mũi tên đầu độc đáng kinh,
Làm bẩn vỏ bao trong sạch ấy,
Trí nhân, ác hữu chớ giao tình.

  1. Nếu người buộc xác cá hôi ươn,
    Với dãi Ku-sa, cỏ cát tường,
    Cỏ sẽ có mùi hôi thúi ấy,
    Cũng vậy, kết giao kẻ dại cuồng.
  2. Nhưng nếu người ta buộc cỏ hương,
    Vào trong một ngọn lá thông thường,
    Lá thơm mùi nhẹ nhàng êm dịu,
    Cũng vậy, kết giao bậc trí nhân.
  3. Do biết nghiệp ta sẽ thực thành,
    Như là giỏ trái chín muồi nhanh,
    Trí nhân chẳng bước theo người ác,
    Nhưng chỉ bước theo bậc thiện hành.
    Kẻ ác đưa ta vào địa ngục,
    Người hiền đem bạn đến thiên đình.

Sau khi thuyết pháp trong sáu bài kệ ấy xong, công chúa bày tỏ nỗi khổ đau mà nàng phải chịuđựng trong các tiền thân xa xưa:

– Tiện nữ cũng nhớ lại bảy đời trước mà tiện nữ đã trải qua và khi hết đời này tiện nữ lại sẽ trải qua bảy đời khác nữa. Trong đời thứ bảy, trước kia, tâu phụ vương, tiện nữ là con trai của một thợ rèn trong thành Ràjagaha (Vương Xá) ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà). Tiện nữ đã kết giao với bạn ác và đã gây nhiều ác nghiệp. Chúng con cứ mải mê rong chơi, lôi cuốn vợ người khác vào đường tội lỗi như thể chúng con được trường sanh bất tử vậy.

Những hành nghiệp ấy cứ âm ỉ như lửa được vùi tro. Nhờ những nghiệp quả tốt khác, con đầu thai vào xứ Vamsa trong gia đình một phú thương ở Kosambi, rất thế lực và giàu có, phát đạt: Con lại là con trai duy nhất của gia đình, được cưng chiều quý trọng vô cùng.

Lúc ấy con kết bạn với một người chuyên làm thiện pháp. Con hành trì trai giới suốt các ngày mười bốn và rằm và các hành nghiệp ấy được tồn trữ lại như một kho tàng dưới nước. Nhưng những nghiệp quả ác mà con đã tạo ở xứ Ma-kiệt-đà rốt cuộc lại đến với con như một thứ thuốc độc khốc liệt. Tâu phụ vương, từ đó con phải trải qua một thời gian dài ở địa ngục Roruva, con phải chịu đựng các nghiệp quả ác ấy, ngày nay nhớ lại con còn thấy thật đau khổ. Sau khi chịu khổ sở tại đó không biết bao nhiêu năm trường, con đã hóa sinh thành con dê bị thiến ở thành Bhennàkata. Con phải chuyên chở các thanh niên nhà giàu trên lưng hoặc kéo xe, đó là nghiệp quả của việc con đã quyến rủ vợ người.

Sau đó con đầu thai vào bụng một con khỉ rừng, ngày con sinh ra đời, họ đem con đến cho người chăn thú, người này bảo: Mang con trai ta đến đây. Rồi gã cắn mạnh hạ căn của con cho đứt lìa dù con kêu thét lên.

Nàng diễn tả sự việc này qua vần kệ sau:

  1. Khi hết đời kia con được sinh,
    Đầu thai làm khỉ chốn rừng xanh,
    Hạ căn đứt bởi người gian ác,
    Hậu quả do săn đuổi bạn tình.

Kế đó nàng thuật tiếp các tiền thân khác:

– Tâu phụ vương, sau đó con đã đầu thai làm con bò đực ở xứ dân Dasannas, lại bị hoạn nhưng cũng nhanh nhẹn và xinh đẹp, con kéo xe một thời gian thật lâu, đó là nghiệp quả của việc săn đuổi theo vợ người của con trước kia. Khi mạng chung, con đầu thai vào một gia đình xứ Vajji (Bạt-kỳ, ở phía bắc sông Hằng, đối diện xứ Ma-kiệt-đà), song con lại bán nam bán nữ vì thật khó đầu thai làm nam nhân, đó là nghiệp quả của việc con theo đuổi vợ người. Tâu phụ vương, sau đó con đã sinh vào rừng Nandana làm một tiên nữ rất xinh đẹp ở cõi Tam thập tam thiên (trời ba mươi ba) xiêm y rực rỡ muôn màu, mang nữ trang ngọc vàng, vòng hoa tay bằng châu báu đủ loại thiện xảo múa ca nên được làm thị nữ ở cung Đế-Thích. Khi con ở đó, con đã nhớ lại các đời trước và luôn cả bảy đời tương lai mà con sẽ trải qua, sau khi từ giã thiên giới.

Các thiện pháp mà con tạo được ở Kosambì đã đến hồi kết quả, nên khi con hết đời này con sẽ được sinh cùng với chư Thiên hoặc loài người. Tâu phụ vương, trong bảy đời liền, con sẽ được cung kính phụng thờ, nhưng con sẽ không được thoát thân nữ nhân cho đến hết đời thứ sáu. Tâu phụ vương, như vậy trong đời thứ bảy, con sẽ là một Đại nam tử của chư thiên, sau cùng con sẽ được sinh làm một thiên tử với thân tướng nam nhi. Hiện nay, chư Thiên đang kết tràng hoa hái từ cây hoa trời ở vườn Thiên lạc Nandana và có một vị Thiên tử tên gọi Java, hiện đang kết tràng hoa cho con. Mười sáu năm con sống ở đời thế gian này chỉ là một khoảnh khắc của thiên giới. Một trăm mùa thu ở hạ giới chỉ bằng một ngày một đêm ở trên trời. Như vậy các hành nghiệp của ta cứ theo ta hoài qua vô số đời sống và mang theo thiện quả hay ác quả, không sót một nghiệp nào.

Rồi kế đó nàng tuyên Pháp tối thượng:

– Kẻ nào muốn thăng hoa đời đời kiếp kiếp, xin hãy tránh xa vợ người như người có đôi bàn chân rửa sạch phải tránh xa vũng bùn. Kẻ nào muốn lên cõi trên đời đời kiếp kiếp, xin hãy tôn thờ đức Thế Tôn như chư Thiên phụng thờ Thiên chủ Indra. Kẻ nào muốn hưởng thiên lạc, hưởng cuộc sống nơi thiên giới với đầy đủ vinh quang hạnh phúc, xin hãy tránh xa tội ác và hành trì Tam Pháp:

– Phải hộ phòng và minh triết trong thân, khẩu, ý, tu tập thiện pháp tối cao, dù là nam nhân hay nữ nhân cũng vậy.

– Kẻ nào được vinh quang trong đời này và được hưởng đủ mọi dục lạc, chắc chắn kẻ ấy đã sống cuộc đời đạo hạnh ở kiếp trước; mọi chúng sanh đều phải đi theo nghiệp thiện ác của mình. Tâu phụ vương, phụ vương có bao giờ suy nghĩ hạnh nghiệp gì đã khiến phụ vương thọ hưởng đám cung phi đẹp như tiên trên trời lại trang sức xiêm y ngọc vàng rực rỡ thế kia chăng?

Nàng khuyên bảo vua cha như vậy.

*

Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau:

Công chúa Rujà đã làm đẹp lòng vua cha như thế, nàng tuyên thuyết chánh đạo cho kẻ mê mờ ấy và thành tâm giảng pháp lành cho vua cha.

Sau khi đã giảng Pháp cho vua cha nghe suốt đêm đến rạng ngày hôm sau, nàng bảo:

– Tâu phụ vương, xin đừng nghe lời kẻ tà thuyết lõa thể kia, mà hãy theo lời bạn lành như conđây đang tâu với phụ vương rằng có đời này và đời sau, có nghiệp quả thiện, ác. Xin phụ vương đừng lạc vào tà đạo.

Tuy nhiên nàng vẫn chưa đủ khả năng giải thoát vua cha khỏi tà thuyết của ngài: Ngài chỉ đẹp ý khi nghe những lời lẽ êm dịu của con, vì các bậc cha mẹ tự nhiên yêu thích lời lẽ con cái họ, nhưng họ lại không chịu từ bỏ những ý kiến riêng của mình.

Thế là trong kinh thành vang lên lời đồn đãi: Công chúa Rujà đang cố đánh tan các tà kiến bằng cách giảng Chánh pháp. Và dân chúng rất hoan hỷ: Công chúa hiền đức sẽ giải thoát vua cha khỏi tà thuyết và sẽ đem lại phồn vinh cho dân chúng.

Tuy nhiên dù công chúa chưa đủ khả năng làm vua cha tỉnh ngộ, nàng vẫn không ngã lòng thoái chí, mà nàng vẫn quyết tâm tìm phương tiện đem lại chân hạnh phúc cho vua cha. Nàng chắp tay lên đỉnh đầu lễ bái khắp mười phương, nàng nguyện cầu:

– Trong thế gian này có vị Sa-môn và Bà-la-môn chân chính phủ hộ người đời, có chư thiên ngự trị khắp nơi, lại có các vị Đại Phạm Thiên, kính xin các vị đến giúp cho vua cha của tiện nữ từ bỏ tà kiến hoặc nếu quý vị không có đủ tự lực, xin quý vị đến đây theo uy lực và công đức của tiện nữ để xua tan tà thuyết này và đem lại hạnh phúc cho toàn thể thế gian.

– Lúc bấy giờ vị Đại Phạm Thiên của thuở đó là Bồ-tát tên gọi Nàrada và các vị Bồ tát vì từ bi, lân mẫn và vì quyền uy tối thượng của các ngài, thỉnh thoảng vẫn phóng nhãn quang nhìn các kẻ thiện người ác trên thế gian. Ngày hôm ấy ngài nhìn xuống thế gian thấy công chúa đang cầu nguyện chư Thiên ngự trị khắp nơi đến giải thoát vua cha khỏi tà thuyết, ngài nghĩ thầm: “Trừ ta ra không ai có thể xua tan tà thuyết được, ta phải đến ngay hôm nay tỏ lòng từ ái với công chúa và mang lại hạnh phúc cho vua cha cùng dân chúng. Ta sẽ khoác bộ áo nào đây? Các ẩn sĩ tu hành thường được người đời yêu kính, lời lẽ của các vị ấy thường được xem làđáng tín thọ, vậy ta sẽ khoác áo ẩn sĩ”.

Thế là ngài hóa ra hình tướng thế nhân rất khả ái, với làn da như vàng ròng, mái tóc bện lại được ghim bằng cây kim vàng, sau khi mặc chiếc áo được kết bằng nhiều tấm, màu vỏ dà, từ bên ngoài vào trong, ngài lại khoác lên vai tấm da nai đen làm bằng bạc lấm tấm điểm sao vàng ánh, tay cầm bình bát khất thực bằng vàng đeo lủng lẳng bằng một chuỗi ngọc, trên vai ngài đặt chiếc đòn gánh bằng vàng có ba mấu, cầm bình nước bằng san hô buộc bằng chuỗi ngọc trai. Với bộ trang phục ấy, ngài liền phi thân qua bầu trời chẳng khác nào vầng trăng sáng rực giữa không gian, rồi bước vào thượng lầu của cung Canda, đứng sừng sững trước mặt vua.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

Lúc ấy Nàrada từ cõi Phạm thiên xuống hạ giới, khi quan sát cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề: Ấn Độ), ngài nhìn thấy vua Angati. Rồi ngài đến trước cung vua, nàng Rujà vừa trông thấy ngài, vội đảnh lễ bậc hiền trí từ thiên giới giáng trần.

Vua choáng váng trước vẻ huy hoàng của vị Phạm thiên, nên không thể ngồi yên trên ngai vàng mà vội bước xuống đất, hỏi lý do ngài giáng lâm cùng danh hiệu gia tộc của ngài.

*

Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau:

Lúc ấy vua hoang mang trong trí, vội bước xuống ngai vàng, nói với Tôn giả Narada những lời hỏi thăm:

  1. Ngài đến từ đâu, dáng thánh thần,
    Như vầng trăng chiếu sáng đêm trường,
    Nói cho ta biết tên, gia tộc,
    Người gọi là gì giữa thế nhân?

Nàrada nghĩ thầm: “Vị vua này không tin tưởng có đời sau, vậy ta phải nói cho vua biết về đời sau”.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Ta đến đây từ hội chúng Thiên,
    Như vầng trăng chiếu sáng đêm đen,
    Ta nêu danh tánh cùng gia tộc:
    Ca-diếp, Nà-ra-da, họ tên.

Vua nghĩ thầm: “Lát nữa ta sẽ hỏi ngài về đời sau, bây giờ ta hãy hỏi ngài về mục đích việc giáng trần vi diệu này”.

  1. Cách ngài đi đứng diệu kỳ thay,
    Ta hỏi ngài: Đâu ý nghĩa đây,
    Vì lý do gì ngài thị hiện,
    Nà-ra-da hỡi, thần thông này?

Bậc trí Nàrada đáp:

  1. Chân thật, công bằng, chế ngự mình,
    Rộng lòng bố thí đã lừng danh,
    Nhờ công đức thực hành tinh tấn,
    Như ý nguyện mình, ta lướt nhanh.

Ngay cả lúc ngài nói như vậy, vua cũng không thể tin vào đời sau bởi vì tà thuyết đã đâm sâu cội rễ vào trí ngài, ngài liền hỏi:

– Có phần thưởng nào dành cho các thiện pháp chăng?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ngài đã nói điều kỳ diệu thay,
    Khi nêu công lực thiện hành vầy;
    Nếu điều này đúng như ngài nói,
    Xin trả lời cho trẫm thẳng ngay.

Nàrada đáp:

  1. Đây việc của ngài, hỡi Đại vương,
    Hỏi ta điều cảm thấy nghi nan,
    Hiển nhiên ta đáp cho ngài rõ,
    Nhờ lý luận, bằng chứng rõ ràng.

Vua liền hỏi:

  1. Nà-ra-da, trẫm hỏi điều này,
    Đừng trả lời sai câu hỏi đây:
    Thật có chư Thiên hay tổ phụ,
    Đời sau như bọn chúng đồn vầy?

Nàrada đáp:

  1. Thật có Thiên thần với tổ tiên,
    Đời sau, như chúng vẫn nêu lên,
    Nhưng người tham dục và mê đắm,
    Không biết đời sau bởi đảo điên.

Khi nghe điều này, vua cười to và ngâm kệ:

  1. Nà-ra-da, nếu đã tin rằng:
    Có cõi cho người chết trú thân
    ,
    Đưa trẫm năm trăm đồng bạc gấp,
    Đời sau trẫm sẽ trả ngàn đồng !

Thế rồi bậc Đại Sĩ đáp lời, khiển trách vua ngay giữa hội chúng:

  1. Ta đưa ngài đủ số năm trăm,
    Nếu biết ngài hiền đức, rộng lòng,
    Nhưng nếu ngài là người độc ác,
    Đọa vào trong địa ngục đày thân,
    Còn ai đòi được ngài đem trả,
    Đời kế, ngàn đồng ấy được không?
  2. Khi một người thù ghét thiện lương,
    Chỉ yêu tội lỗi lại hung tàn,
    Trí nhân chẳng muốn cho vay mượn,
    Kẻ nợ ấy không thể đáo hoàn.
  3. Khi người ta biết kẻ tài năng,
    Đức hạnh, tinh chuyên, lại rộng lòng,
    Họ sẽ mời người kia mượn của,
    Bằng nhiều lợi lạc họ đem dâng;
    Khi người kia đã làm xong việc,
    Người sẽ bồi hoàn nợ đã mang.

Vua bị quở trách như vậy vẫn chưa chuẩn bị sẵn câu trả lời nào cả.

Hội chúng rất hoan hỷ reo to:

– Tâu công chúa, công chúa có thần lực vi diệu thay, công chúa sẽ giải thoát Đại vương khỏi tà thuyết ngay hôm nay.

Và cả kinh thành chấn động lên. Rồi nhờ thần lực của bậc Đại Sĩ, không một ai ở trong phạm vi bảy dặm đường quanh thành Mithilà không được nghe ngài thuyết Pháp. Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nhà vua đã quá chấp thủ tà thuyết, ta sẽ làm cho vua hiểu nỗi kinh hoàng của địa ngục mà bỏ tà thuyết đi, sau đó ta sẽ trấn an vua bằng cõi chư Thiên”. Rồi ngài bảo vua:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không bỏ tà thuyết ấy đi, Đại vương sẽ bị đọa vào địa ngục chịu thống khổ không ngừng.

Và ngài bắt đầu kể đến các loại địa ngục khác nhau:

  1. Đại vương, khi giã biệt đời này,
    Ngài sẽ thấy diều quạ cả bầy,
    Vồ xé xác ngài trong địa ngục,
    Và kên kên nữa máu me đầy,
    Còn ai bắt được ngài đời kế,
    Đem trả ngàn đồng ấy đã vay?

Sau khi tả địa ngục diều quạ xong, ngài nói tiếp:

Nếu Đại vương không đọa vào đó, Đại vương phải ở trong địa ngục nằm giữa ba cõi (Àvici: vô gián địa ngục).

Rồi ngài ngâm kệ miêu tả địa ngục ấy:

  1. Ở đó tối tăm thật mịt mùng,
    Và không vầng nhật hoặc vầng trăng,
    Ngục này hỗn độn và kinh khủng,
    Chẳng biết ngày đêm, chẳng tháng năm,
    Còn kẻ nào mong đòi món nợ,
    Ở nơi như vậy nữa hay chăng?

Sau khi tả địa ngục ở giữa ba cõi ấy thật đầy đủ chi tiết, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không chịu bỏ tà thuyết ấy, không những Đại ương chịu khổ hình này mà còn nhiều khổ hình khác nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Con chó Sa-ba dáng khổng lồ,
    Cùng Sà-ma lực lưỡng nhào vô,
    Dùng răng cắn xé người tan xác,
    Kẻ đọa từ đây đến ngục tù.

Các địa ngục kể tiếp cũng có cùng một quy luật như vậy; vì thế các địa ngục này và các cai ngục được ngài mô tả qua các bài kệ thật súc tích những ngôn từ tượng hình như trong cácđoạn trên:

  1. Vậy khi ở ngục bị tan thân,
    Vì thú dữ hành hạ bạo hung,
    Thân xác tả tơi, dòng máu chảy,
    Còn ai đòi trả nợ ngàn đồng?
  2. Với cung tên, nhọn hoắc giáo gươm,
    Quỷ sứ Kà-lù tựa địch nhân,
    Đâm chém trọng thương người phải đọa,
    Trước kia phạm tội ở nhân gian.
  3. Trong khi kẻ ấy chạy lang thang,
    Trong ngục, bị đâm ở bụng, sườn,
    Gan ruột nát tan dòng máu chảy,
    Ai mong đòi nó một ngàn đồng?
  4. Trời mưa xuống các loại tên, đao,
    Các khí cụ hành tội: cọc, lao,
    Đám lửa rơi như than cháy bỏng,
    Trời mưa đá tảng trút ào ào.
  5. Luồng gió nóng ran thật hãi hùng,
    Thổi vào trong ngục tối không cùng.
    Không vì vui thú dù giây lát,
    Nó chạy quanh, không chốn trú thân.
    Còn ai muốn bắt người kia trả,
    Đời kế ngàn đồng ấy được không?
  6. Bị buộc vào xe, vội chạy nhanh,
    Trên nền đất rực lửa hoành hành,
    Biết bao gậy ngắn, dài kiềm thúc,
    Ai muốn đòi ngàn bạc cho đành?
  7. Khi trèo leo lên ngọn núi kinh hoàng,
    Lởm chởm lưỡi dao, xé nát thân,
    Máu chảy đầm đìa, ai sẽ muốn,
    Đời sau đòi nó một ngàn chăng?
  8. Khi nó trèo lên một đống than,
    Đỏ hừng như núi lửa kinh hoàng,
    Toàn thân cháy, thét gào, đau khổ,
    Ai muốn đòi ngàn bạc ấy chăng?
  9. Lớp gai dày đặc tựa tầng mây,
    Có cọc nhọn đâm hút máu ngay,
    Những bọn đuổi săn vợ kẻ khác,
    Phải trèo lên đó, bị từng bầy,
    Quỷ Diêm- la chúa luôn xua đuổi
    Mang các giáo dài ở dưới tay.
  10. Khi nó trèo lên cây vải bông,
    Toàn thân đầy máu chảy ròng ròng,
    Tả tơi thống khổ luôn xâu xé,
    Hổn hển thở than thật nực nồng,
    Để đền tội ác xưa như vậy;
    Ai muốn đòi tiền nợ cũ không?
  11. Có những rừng cao tựa đám mây,
    Lá rừng là kiếm sắt tràn đầy,
    Thiết đao uống máu người đày đọa;
    Khi nó trèo lên đám lá cây,
    Thân nó bị cưa bằng kiếm sắt,
    Nát tan, máu chảy hãi hùng thay!
    Ai mong đòi nó trong đời kế,
    Trả nợ ngàn đồng nó đã vay?
  12. Khi nó thoát ra khỏi ngục này,
    Phủ đầy lá sắt giữa rừng cây,
    Liền rơi vào giữa dòng sông nọ,
    Ai muốn đòi tiền nợ cũ đây?
  13. Dòng sông chảy xiết Ve-ta-ran,
    Khốc liệt, nước sôi sục ngập tràn,
    Bao phủ lá, hoa sen bén nhọn,
    Trong khi nó bị đuổi trên sông,
    Máu me bao phủ, tay chân đứt,
    Dòng nước Ve-ta-ran hãi hùng,
    Chẳng có một nơi nào trú ẩn,
    Ai mong đòi nợ nó hay không?

Vua muốn tìm nơi an trú, liền nói với ngài:

– Thưa bậc Trí giả, trẫm run sợ như cây đang bị đốn ngã, tâm trí hoang mang bối rối, trẫm không biết hướng về đâu, trẫm đang bị dày vò khủng khiếp, nỗi kinh hoàng của trẫm thật gớm ghê khi trẫm nghe ngài ngâm các bài kệ trên đây. Như một vật đang cháy được ném vào nước, như một hòn đảo giữa đại dương đầy bão tố, như một ngọn đèn trong đêm tối, ngài chính là nơi an trú của trẫm vậy. Xin bậc trí giả hãy dạy cho trẫm thánh kinh, cùng thâm nghĩa của nó. Quá khứ của trẫm thật là đầy tội lỗi, xin bậc Đại Trí giả Nàrada chỉ dạy cho trẫm con đường rửa sạch tội lỗi để cho trẫm khỏi đọa vào địa ngục.

Sau đó bậc Đại Sĩ dạy vua con đường rửa sạch tội lỗi bằng cách nêu gương các bậc tiên vươngđã hành trì chánh đạo:

– Các vị vua Dhatarattha, Vessàmitta, Atthaka, Yàmataggi và Usinnara cùng vua Sivi và nhiều vị khác, nhờ chuyên tâm cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn nên đã được lên thiên giới của Sakka thiên chủ. Vậy Đại vương cũng phải tránh tà hạnh và theo chánh hạnh. Hãy cho người mang thực phẩm trên tay rao lên trong cung Đại vương: “Ai đang đói khát đây? Ai đang cần vòng hoa và dầu thơm? Kẻ nào lõa thể mong muốn mặc xiêm y trang hoàng đầy châu báu? Kẻ nào có muốn lọng che để đi đường và giầy thanh lịch êm chân? Đại vương hãy cho người rao như vậy khắp kinh thành từ sáng đến tối. Đừng bắt người già hay trâu già, ngựa già phải làm việc nặng nhọc. Đối với các hạng ấy, phải quý trọng đúng mức vì khi họ còn khỏe mạnh, họ đã hoàn thành sứ mạng được giao phó.

Như vậy bậc Đại Sĩ, sau khi thuyết giảng cho vua về bố thí rộng lượng và đức hạnh, thấy rằng vua sẽ hoan hỷ khi được ví với một cỗ xe, nên ngài tiếp tục thuyết Pháp cho vua qua hình ảnh một cỗ xe như ý (ban mọi điều ước):

– Thân của Đại vương được ví như một cỗ xe, đoạn trừ mọi ác tâm chính là trục xe, có lòng bố thí đại lượng là cái trần xe, bước đi thận trọng là sườn xe, hộ trì dục tâm là chính danh bánh xe, hộ trì khẩu căn chính là giữ cho bánh xe khỏi kêu cọc cạch.

Mọi bộ phận đều được giữ gìn hoàn hảo nhờ khẩu hành chân thật, gắn liền tốt đẹp với sự từ bỏ nói hai lưỡi, cái sườn xe êm ái với lời nói thân hữu kết hợp hài hòa với ngôn ngữ cân nhắc thật kỹ lưỡng; xây dựng vững chắc bằng lòng tịnh tín và đoạn trừ tâm tham, với lòng cung kính đảnh lễ đầy khiêm tốn chính là gọng xe, với càng xe nhẹ nhàng, nhu thuận, với dây cương tựđiều phục thân tâm theo Ngũ giới, cùng với chìa khóa đoạn trừ sân tâm, chiếc gọng xe trắng của lòng công chính, xe được lái đi nhờ sự thông suốt bốn mùa khác nhau, với ba chiếc gậy bảo vệ lòng tịnh tín bất động, lời nói khiêm tốn chính là chiếc roi da, đoạn trừ hư danh chính là sợi dây cương, với sự hỗ trợ của tâm niệm xả ly (không chấp thủ) đi theo chánh trí và giải thoát mọi trần cấu.

Hãy dùng trí giác làm động cơ thúc đẩy ngài, hành trì nhất tâm để chế ngự mọi luyến ái; tâm tư theo đúng đạo lộ tự điều phục cùng với mọi tuấn mã đã được huấn luyện thuần phục.Dục vọng và tham đắm đều là tà đạo, tự điều phục là chánh đạo. Khi con ngựa chạy theo sắc, thanh, hương, vị, thì trí tuệ phải dùng roi trừng phạt và tâm chính là người lái xe. Nếu ta đồng hành với cỗ xe, nếu trí thanh tịnh và nhất tâm bền vững mãi như thế, ta sẽ đạt mọi nguyện ước, tâu Đại vương, ta không thể nào đọa địa ngục.

Như vậy, tâu Đại vương, ta đã dùng nhiều cách trình bày cùng Đại vương nhiều đạo lộ đưa đến hạnh phúc, an lạc mà ngài đã yêu cầu Nàrada nói rõ để khỏi đọa địa ngục ở đời sau.

Sau khi thuyết giảng Chánh Pháp cho vua và phá tan mọi tà kiến cùng an trú vua vào giới hạnh, ngài lại khuyên vua từ nay xa lánh bạn ác, thân cận với bạn lành và cẩn trọng trong mọi bước tiến. Rồi ngài tán thán mọi đức hạnh của công chúa, nói lời khích lệ cả triều đình cùng các cung phi xong, ngài liền bay về Phạm Thiên giới với thần lực vĩ đại siêu phàm.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không những ngày nay, mà từ xưa, Ta đã giáo hóa Uruvela Kassapa và phá tan lưới tà kiến vây chặt vị ấy.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân qua các vần kệ cuối cùng:

  1. Đề-bà-đạt chính A-là-ta,
    Bhad-da-ji chính Su-na-ma,
    Vi-ja-ya là Xá-lợi-phất,
    Su-na-kha, ẩn sĩ Gu-na,
    Ru-jà giáo hóa quân vương ấy,
    Chính là thị giả A-nan-dà.
  2. Bì-ja-ka chính Mục-kiền-liên,
    Ca-diếp, vua theo thuyết hão huyền,
    Các ông hiểu Bổn sinh như vậy,
    Bồ-tát chính là Đại Phạm thiên.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ VÔ SONG (Tiền thân Vidhurapandita)

Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao…,

Bậc Đạo Sư kể câu chuyện này khi Ngài trú ở Kỳ Viên (Jetavana), liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ tối thắng.

Một ngày kia các Tỷ kheo đưa ra một vấn đề tranh luận tại Chánh pháp Đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, Bậc Đạo Sư đã đạt đại trí, quảng trí, Ngài thật tinh thông, ứng đối mau lẹ, nhạy bén, lý giải sắc xảo và có khả năng đánh đổ mọi biện luận của các đối thủ của Ngài, nhờ uy lực Thắng trí của Ngài, Ngài đã phá tan những vấn đề nan giải do các vị hiền trí Sát-đế-ly đưa ra và khiến họ phải yên lặng chấp nhận. Sau khi an trú họ vào Tam quy và Ngũ giới, Ngài dạy họ con đường đưa Niết-bàn bất tử.

Bậc Đạo Sư đi vào, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì và khi nghe vậy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, Như Lai sau khi đạt Trí tuệ Viên mãn, đã phá tan mọi lý luận của các đối thủ và giáo hóa các vị vua Sát- đế- ly cùng nhiều vị khác, việc chẳng phải kỳ diệu gì. Vì từ ngàn xưa khi Ta còn đang tầm cầu Trí tuệ Tối thượng, Ta đã đầy đủ trí tuệ để phá kiến các đối thủ. Hơn thế nữa, chính vào thời Vidhurakumàra, trên đỉnh Hắc Sơn, cao chừng sáu mươi dặm, nhờ uy lực Thắng trí của Ta, Ta đã hàng phục Đại tướng Dạ-xoa Punnaka, khiến y phải chịu im lặng và đem sinh mạng cúng dường.

Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

  1. Trai giới bốn pháp

Ngày xưa tại quốc độ Kuru (Câu-lâu) thành Indapatta có vi quốc vương cai trị với danh hiệu Dhanañjaya-Korabba. Ngài có vị Đại thần tên gọi Vidhurapandita (Trí giả Vô song) cố vấn cho Ngài trong các thế sự cũng như thánh sự. Nhờ lời lẽ êm ái và biện tài siêu việt lúc thuyết Pháp, ông lôi cuốn mọi quốc vương ở cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề: Ấn độ) bằng những Pháp thoại du dương như các con voi say mê đàn sáo êm dịu, ông cũng không để cho các quốc vương trở về nước mình mà ở lại trong kinh thành đại vinh quang ấy và thuyết Pháp cho dân chúng với thần lực của một vị Phật.

Lúc bấy giờ có bốn gia chủ Bà-la-môn giàu sang tại Ba-la-nại, vốn là thân hữu, đã thấy được cảnh khổ của mọi dục vọng, nên bỏ vào vùng Tuyết Sơn sống đời ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi đã đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, các vị ấy cũng vẫn tiếp tục tu hành tại đó, hằng ngày sống bằng các thứ củ, quả rừng. Hôm đó các vị ấy du hành để khất thực muối và các thứ gia vị, cũng đến thành Kàlacampa thuộc quốc độ Anga. Rồi bốn gia chủ vốn là thân hữu với nhau, rất hoan hỷ trước oai nghi của các vị này, họ cung kính đảnh lễ xong cầm lấy cái bình bát cúng dường các món ăn tuyệt hảo, mỗi gia chủ đều mời các vị về nhà mình, tự nguyện sắp đặt nơi an trú cho các vị trong hoa viên.

Thế là bốn vị ẩn sĩ, sau khi thọ thực trong nhà bốn vị gia chủ, liền du hành suốt ngày hôm ấy, một vị lên cõi trời Ba mươi ba, một vị khác lên cõi Long vương (Nàga), một vị khác lên cõi Kim sí điểu vương (Supanna)và vị thứ tư đến ngự viên Migàcira thuộc quyền của vua Koravya.

Lúc bấy giờ, vị được hưởng một ngày ở Thiên giới, sau khi chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng của Thiên chủ Đế-Thích (Sakka), miêu tả thật đầy đủ chi tiết cho thí chủ mình nghe. Vị lên cõi Long vương và Kim sí điểu vương Supanna cũng vậy, rồi vị đến ngự viên của vua Koravya Dhanañijaya cũng lần lượt miêu tả cảnh huy hoàng của mỗi cung vua đã chứng kiến. Vì vậy cả bốn thí chủ đều nguyện cầu được cộng trú với chư Thiên, nên sau khi thực hành bố thí cùng nhiều công đức khác, đến lúc mạng chung, một vị sinh làm Thiên chủ Đế Thích; một vị khác cùng với vợ con sinh vào cõi Long vương; một vị nữa sinh làm Kim sí điểu Supanna trong cung điện dưới hồ Simbali; còn vị thứ tư được nhập mẫu thai chánh hậu của vua Dhanañjaya, trong lúc ấy bốn vị ẩn sĩ được sinh lên Phạm Thiên giới.

Vương tử Koravya lớn khôn, đến khi vua cha từ trần, lên ngôi trị vì rất đúng pháp, nhưng ngài còn lừng danh vì tài nghệ đánh súc sắc. Ngài nghe lời khuyến giáo của Trí giả Vidhura chuyên tâm bố thí, giữ gìn giới hạnh và hành trì trai giới.

Một ngày kia, sau khi hành trì trai giới xong, ngài vào ngự viên, nhất tâm tu tập thiền định, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh, ngài thực hành giới hạnh của một vị xuất gia.

Đế Thích (Sakka) cũng vậy, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy thiên giới có nhiều trở ngại cho việc tu tập, liền đi xuống hoa viên ấy ở cõi nhân gian, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh và hành trì Sa-môn hạnh.

Long vương Varuna cũng thế, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy cõi Long vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập, nên cũng lại vào hoa viên ấy, ngồi tĩnh tọa ở một nơi an tịnh thực hành Sa-môn hạnh.

Điểu vương Supanna cũng vậy, sau khi hành trì trai giới, nhận thấy rằng cõi Điểu vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập, nên ngài đi vào ngự viên ấy, tĩnh tọa ở một nơi êm mát, thực hành Sa-môn hạnh.

Lúc bấy giờ, cả bốn vị ẩn sĩ vào buổi xế chiều, sau khi đứng dậy từ chỗ độc cư thiền định đến bên hồ nước của hoàng gia, nhìn nhau, tâm đầy tình cố tri thân ái, cùng ngồi xuống chào hỏi rất niềm nở.

Thiên chủ Sakka ngồi trên vương tọa, còn ba vị kia ngồi theo danh vị của mình. Lúc ấy Sakka Thiên chủ liền hỏi:

– Chúng ta đây đều là bốn vị đế vương, vậy công đức đặc biệt nhất của mỗi vị là gì?

Long vương Varulna đáp lời:

– Đức hạnh của Ta cao trọng hơn các Tôn giả.

Khi ba vị kia hỏi lý do, ngài đáp:

– Điểu vương Supanna này là cừu thù của ta, dù khi ta chưa ra đời hay ra đời rồi cũng vậy, thế mà khi nhìn thấy một kẻ cừu thù tiêu diệt nòi giống của ta như thế, ta không hề có chút sân hận, cho nên đức hạnh của ta là cao hơn cả.

Rồi ngài đọc vần kệ đầu tiên trong Tiền thân Catuposatha (Trai giới bốn phần số 441).

  1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
    Đối với một ai đáng hận sân,
    Không để nội tâm sân khởi dậy,
    Vị nào dù lúc giận trong lòng,
    Cũng không để lộ cho người thấy,
    Người gọi đó là thanh tịnh nhân.

Đặc tính của ta là như thế, cho nên đức hạnh của ta vượt trên các Tôn giả.

Điểu vương Supanna nghe vậy, liền đáp:

– Loài rồng Nàga là thức ăn chính của ta, nhưng nay dù thấy thức ăn kề tận miệng, ta cũng đành nhịn đói và quyết không làm ác vì miếng ăn, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Và ngài ngâm bài kệ:

  1. Người chịu đói, bụng đau rần,
    Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
    Không phạm ác hành vì thực phẩm,
    Vị này, người gọi bậc Sa-môn.

Đến lượt Thiên chủ Sakka nói:

– Ta để lại đằng sau mình mọi vinh quang ở thiên giới, mọi nguồn an lạc dâng tận tay, để xuống nhân gian thực hành công hạnh, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
    Không nói lời gian dối giữa đời,
    Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
    Như vầy người gọi Sa-môn rồi.

Thiên chủ Sakka tự trình bày công đức của mình như vậy. Rồi vua Dhanañjaya bảo:

– Nay ta đã rời triều đình cùng hậu cung với mười sáu ngàn phi tần có đủ tài ca múa, ta hành trì Sa-môn hạnh trong ngự viên này, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.

Rồi ngài ngâm kệ tiếp theo:

  1. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
    Mọi sở hữu và mọi dục tham,
    Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
    Vị này người gọi bậc Sa-môn.

Như vậy cả bốn vị đều tự cho đức hạnh của mình là cao quý hơn cả, rồi vua hỏi Dhanañjaya:

– Này Đại vương, có bậc hiền trí nào trong triều có thể giải mối nghi này chăng?

– Này các Đại vương, có chứ, trẫm có bậc Trí giả Vidhura đang giữ một chức vụ tối thượng trong triều, thường xuyên thuyết thế pháp cũng như thánh pháp cho trẫm, vị ấy có thể giải quyết mối nghi này, ta hãy cùng đi đến vị ấy.

Bốn vị vua tức thì đồng ý. Thế là bốn vị đều ra đi khỏi ngự viên, tiến về phía Thánh lễ đường, ban lệnh trang hoàng nơi ấy thật uy nghi, xong hội chúng kính mời Bồ-tát ngồi trên bảo tọa, chào ngài thật thân hữu rồi ngồi qua một bên và nói:

– Thưa bậc Trí giả, một mối nghi vừa khởi lên trong tâm chúng ta, xin ngài giải quyết cho:

  1. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
    Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
    Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
    Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!

Bậc Đại Sĩ nghe xong liền bảo:

– Tâu các Đại vương, làm sao tiểu thần biết các Đại vương nói đúng hay sai về đức hạnh của các Đại vương, trong khi các ngài ngâm lời kệ qua cuộc tranh luận này?

Rồi ngài ngâm kệ thêm:

  1. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
    Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
    Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
    Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?
    Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
    Long vương ấy nói thế nào rồi?
    Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
    Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!

Các vị vua liền ngâm kệ này với ngài:

  1. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
    Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
    Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
    Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
    Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
    Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.

Sau khi nghe xong, bậc Đại Sĩ đáp kệ này:

  1. Tất cả lời này chánh đáng thay,
    Không gì sai trái ở nơi này,
    Người nào thích hợp lời như thế,
    Giống các tăm xe ở trục quay,
    Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
    Đủ đầy các đức tính trên đây.

Như vậy bậc Đại Sĩ tuyên thuyết đức hạnh của các vị vương đều là một. Khi nghe xong, bốn vị vương đều rất hoan hỷ, liền ngâm kệ tán thán ngài:

  1. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
    Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
    Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
    Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
    Giống như người thợ ngà voi nọ,
    Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!

Thế là cả bốn vị vua đều rất đẹp ý với lời giải thích vấn đề của ngài. Thiên chủ Sakka thưởng ngài chiếc cẩm y bằng gấm thiên đình, Kim sí điểu vương tặng ngài tràng hoa bằng vàng, Long vương Varuna tặng ngài hạt minh châu và vua Dhanañjaya ban thưởng một ngàn con bò cái v.v..Rồi vua Dhanãnjaya lại ngâm kệ với ngài:

  1. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
    Một thớt voi, bò đực một chàng,
    Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
    Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
    Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
    Cách giải vấn đề của Trí nhân!

Sau đó Sakka Thiên chủ cùng các vị kia cung kính đảnh lễ bậc Đại Sĩ và từ giã ra về cảnh giới của mình. Đến đây kết thúc Phần Trai giới Bốn pháp.

*

  1. Ước vọng của chánh hậu Vimalà

Lúc bấy giờ chánh hậu của Long vương là bà Vimalà. Khi thấy ngài không đeo minh châu trên cổ, liền hỏi thăm hạt châu ở đâu. Ngài đáp:

– Trẫm rất hài lòng khi nghe bài thuyết Pháp của bậc Trí giả Vidhura, vị nam tử của Bà-la-môn Canda, nên đã tặng minh châu cho vị ấy, không những chỉ riêng trẫm, mà Thiên chủ Sakka cũng cũng cung kính tặng ngài chiếc thiên y bằng gấm trời, Điểu vương tặng tràng hoa bằng vàng, còn vua Dhanañjaya tặng một ngàn con bò cùng nhiều thứ khác nữa.

– Vậy thì thần thiếp đoán vị ấy là một bậc biện tài về Chánh pháp.

– Này ái hậu, ái hậu đang nói gì vậy? Vị này chẳng khác nào một vị Phật xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề. Hằng trăm vị vua ở khắp cõi Diêm-phù-đề say sưa những lời lẽ êm dịu của vị ấy, không còn muốn trở về triều nữa, chẳng khác nào bầy voi rừng mê mẩn vì tiếng đàn cầm mà chúng yêu thích vậy. Đó là đặc điểm của tài hùng biện của ngài.

Khi bà nghe nói đến kỳ tài của ngài như vậy, bà ước mong nghe ngài thuyết Pháp, bà nghĩ thầm: Nếu ta tâu với đức vua rằng ta muốn nghe vị ấy thuyết Pháp và xin đức vua triệu vị ấy về đây, chắc đức vua sẽ không thuận; chi bằng ta thử giả bệnh và than thở về nỗi ao ước của một nữ bệnh nhân”.

Bà liền ra hiệu cho thị nữ đem bà lên tọa sàng. Khi vua không thấy bà vào dịp ngài đến vấn an bà và hỏi các thị nữ bà ở đâu, chúng tâu rằng bà bị bệnh, ngài liền đến thăm, ngồi bên giường bà, xoa thân thể bà và ngâm kệ:

  1. Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao,
    Dung sắc chẳng như trước chút nào,
    Nào hỡi Vi-ma-là, hãy đáp:
    Nỗi đau này đến bởi vì sao?

Bà đáp ngài qua vần kệ sau:

  1. Có một bệnh riêng của nữ nhân,
    Gọi là ước vọng, tấu Long quân,
    Thiếp mong đem đến đây không dối,
    Tim của Vi-dhu-ra Trí nhân!

Long vương bảo bà:

  1. Ái hậu ước trời, trăng, gió mây,
    Gặp Hiền nhân ấy khó khăn thay!
    Nào ai có đủ tài năng để,
    Đem bậc hiền nhân ấy đến đây?

Khi bà nghe nói vậy, liền nói to:

– Nếu không được như ý thần thiếp sẽ chết mất.

Rồi bà quay mặt đi, nghiêng lưng bà ra ngoài, lấy chiếc áo quay mặt lại. Vua trở về tư thất ngồi trên tọa sàng suy nghĩ tìm hiểu vì sao hoàng hậu Vimalà lại muốn có trái tim của Vidhura: “Nàng sẽ chết nếu không ăn được tim vị ấy, vậy làm sao ta lấy được nó cho nàng?”.

Lúc bấy giờ công chúa Irandatì, một long nữ diễm kiều, trang sức đầy ngọc vàng trân bảo, bước vào cung kính đảnh lễ vua cha, rồi đứng qua một bên. Nàng trông thấy vua cha có vẻ lo âu, liền nói:

– Phụ vương có vẻ muộn phiền quá, vì duyên cớ gì?

  1. Thân phụ, sao cha dáng rối ren,
    Long nhan như một đóa hoa sen,
    Bị tay ngắt vụng, sao buồn khổ,
    Bậc chiến thắng, xin chớ muộn phiền!

Nghe lời con gái, Long vương đáp:

  1. I-ran-da hỡi, mẫu thân con,
    Ao ước trái tim bậc Trí nhân,
    Diện kiến Vi-dhu-ra thật khó,
    Triệu ngài, ai có đủ tài năng?

Rồi ngài lại bảo nàng:

  1. Này con, không có một triều thần,
    Ðủ sức triệu Vi-dhu Trí nhân,
    Con hãy hy sinh vì mẫu hậu,
    Ði tìm ra một vị phu quân!

Thế là vua ra lệnh cho nàng lui ra cùng với câu kệ, gợi nên những tư tưởng không phù hợp với một nàng công chúa:

  1. “Hãy tìm cho được một phu quân,
    Chàng sẽ triệu hồi bậc Trí nhân.”
    Công chúa đi ngay đêm tối ấy,
    Ðể cho dòng dục vọng tuôn tràn.

Nàng đi hái các hoa trên Tuyết Sơn đủ sắc, hương, vị. Sau khi trang hoàng toàn thể ngọn núi như một viên bảo ngọc, nàng trải tọa sàng bằng hoa trên núi, rồi nhảy múa tưng bừng, nàng trỗi giọng ca một điệu rất êm ái du dương:

  1. Càn-thát-bà hay đại lực thần,
    Long thần, quái vật hoặc tiên, nhân,
    Bậc hiền, tài đủ ban điều ước,
    Ai sẽ làm chồng tiện nữ chăng?

Lúc bấy giờ cháu của Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn), tên gọi Punnaka, là một đại tướng Yakkha (Dạ-xoa, thần Ðại lực) đang phi thần mã Sindh dài ba dặm, băng qua triền núi đỏ tía của ngọn Hắc Sơn, để đến nơi hội họp của các thần Dạ-xoa, chợt nghe lời ca của nàng, và lời ca của nữ nhân này chàng đã từng nghe trong đời vừa qua xoáy sâu tận thịt da cân não chàng, thấm vào tận xương tủy khiến chàng ngơ ngẩn say mê, liền quay ngựa lại, ngồi trên lưng thần mã, chàng vội an ủi nàng:

– Ôi nương tử, ta xin vì nàng đem trái tim của Vidhura đến đây bằng trí lực của ta, bằng thần lực cũng như bằng tính trầm tĩnh của ta, xin nàng chớ lo ngại việc đó nữa.

Rồi chàng ngâm thêm kệ này:

  1. Long nữ có đôi mắt diệu huyền,
    Hãy an tâm nhé, hỡi nàng tiên,
    Quả nhiên tài trí ta như vậy,
    Ta sẽ cùng nàng đẹp mối duyên.

Thế là Irandatì trả lời, nàng suy nghĩ theo kinh nghiệm xa xưa của một lần được cầu hôn trong đời trước của nàng:

– Xin chàng đến đây cùng với thiếp đi yết kiến phụ vương, ngài sẽ giải thích việc này cho chàng rõ.

Rồi điểm trang lộng lẫy với xiêm y rực rỡ, chói lòa, đeo tràng hoa, xức dầu đàn hương xong, nàng nắm tay thần Dạ-xoa đem đến yết kiến vua cha.

Và tướng Punnaka đỡ lấy lưng nàng, cùng đi yết kiến cha nàng là Long vương xin cầu hôn công chúa:

  1. Long vương, nghe lấy lời cầu hôn,
    Nhận sính lễ cân xứng quý nương,
    Thần hỏi I-ran-da ngọc nữ,
    Hãy ban công chúa thuộc về thần,
    Một trăm voi với trăm con ngựa,
    Trăm cỗ xe và la một trăm,
    Ngọc quý trăm kho, xin nhận hết,
    Ban thần công chúa, tấu Long quân!

Long vương liền phán bảo:

– Hãy đợi ta hỏi ý kiến vương tộc, thân bằng quyến thuộc; làm việc gì mà không hỏi ý kiến kẻ khác sẽ đem lại hối tiếc về sau.

Long vương vào cung, hỏi ý kiến Vương hậu:

– Thần Dạ-xoa Punnaka muốn cầu hôn công chúa Irandatì, vậy ta có nên gả con để đổi lấy vô số của cải ấy không?

Vương hậu Vimalà đáp:

– Không ai chinh phục được công chúa Irandatì bằng ngọc vàng châu báu cả, nếu vị ấy có đủ tài năng đem trái tim của Trí nhân Vidhura đến đây thì sẽ chinh phục được công chúa bằng bảo vật ấy, chứ chúng ta không đòi thêm của cải nào khác.

Thế là Long vương Varuna bước ra khỏi cung, hội ý với Punnaka, và bảo chàng:

– Công chúa Irandatì không thể được chinh phục bằng ngọc vàng châu báu, nếu chàng có đủ tài năng đem lại đây quả tim của Trí nhân Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa bằng bảo vật đó, chúng ta không đòi thêm của cải gì.

Punnaka đáp lời:

– Có người được kẻ này gọi là hiền nhân thì kẻ khác lại gọi là “ngốc tử”, vì nhân thế có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề như vậy. Vậy xin Ðại vương cho tiểu thần biết rõ ai là người được Ðại vương gọi là Trí nhân?

Long vương đáp:

– Nếu chàng có nghe danh tiếng Vidhura, đại thần của vua Dhanañjaya, thì hãy đem vị ấy về đây, công chúa Irandatì sẽ là chánh thê của chàng.

Khi nghe Long vương Varuna nói vậy, thần Dạ-xoa nhảy lên reo mừng, tức thì bảo quân hầu cận của chàng:

– Hãy đem tuấn mã đầy đủ yên cương lại đây cho ta. Tai ngựa đeo vàng, móng ngựa đeo ngọc, áo giáp bằng vàng.

Quân hầu vội đem tuấn mã Sindh trang sức đầy đủ như gã đã ra lệnh và Punnaka cưỡi tuấn mã phi nhanh qua bầu trời về đến cung vua Vessavana, kể lại cho ngài nghe chuyến phiêu lưu của chàng và do đó mô tả cảnh giới Long vương.

*

Việc này được diễn tả như sau:

Punnaka lên ngựa, một tuấn mã đủ năng lực mang các Thiên thần, chàng trang sức thật sang trọng, đầy ngọc ngà trân bảo, râu tóc tỉa thật gọn gàng, rồi phi nhanh qua bầu trời.

Lòng chàng đầy ước vọng đắm say, khao khát chiếm được Long nữ Irandatì, chàng tìm đến Ðại vương Vessavana Kuvera, tâu trình:

– Có cung thất Bhogavati được gọi là Kim Ðường, đó là kinh thành của Long vương được xây trong thành trì bằng vàng.

Các tháp canh có hình môi và cổ, với hồng ngọc và bảo châu màu lục nhãn, cung điện xây bằng cẩm thạch đầy đủ vàng ròng, bao phủ bằng ngọc chạm vàng.

Các cây xoài, tilaka, hồng đào, sattapanna, mucalinda, ketaka, piyaka, uddàlaka, saha và sinduvàrita với muôn hoa khoe sắc thắm trên bầu trời.

Các cây hoa champac, nàgamàlika, bhaginimàlà và táo nặng trĩu lá cành, mang lại vẻ diễm kiều cho cung điện Long vương.

Lại có một cây chà là khổng lồ bằng ngọc quý và hoa vàng không bao giờ tàn, đó là nơi ngự trị Long vương Varuna đầy đủ oai thần và được sinh từ Thiên giới.

Cũng là nơi ngự trị của hoàng hậu Vimalà với hình dáng mềm mại như cây leo bằng vàng, thanh thanh như cây kàlà mới mọc, yêu kiều với bộ ngực như đôi quả nimba.

Da mượt mà tô điểm bằng son tươi thắm tựa hồ cây Kanikàra nở hoa trong bóng mát, như một nữ thần trên thiên giới, như ánh chớp lóe sáng giữa vầng mây. Bà đang say sưa tràn trề niềm ước vọng lạ lùng, bà mong có được quả tim của Vidhura Hiền sĩ. Tiểu điệt xin đem nó lại cho các vị ấy, tâu Ðại vương, rồi họ sẽ gả công chúa Irandatì cho tiểu điệt.

Vì không dám ra đi nếu không được lệnh của Ðại vương Vessavana, nên chàng ngâm các bài kệ trên để đức vua nghe chàng vì ngài đang bận dàn xếp một cuộc tranh chấp về một cung điện giữa hai vị Thiên tử. Punnaka biết rằng lời chàng nói không được vua để ý đến nên chàng lại gần một trong hai vị đang tranh chấp nắm phần thắng lợi trong cuộc. Vua Vessavana sau khi đã quyết định xong, không để ý đến vị Thiên tử bại cuộc mà chỉ bảo vị kia:

– Chàng hãy đi về cung điện mà an trú.

Ngay khi ngài bảo:

– Chàng hãy đi.

Punnaka liền gọi vài vị Thiên tử làm chứng và bảo:

– Các vị xem thấy ta đã được Ðại vương phái đi rồi.

Lập tức chàng ra lệnh đem tuấn mã đến và leo lên yên ngựa khởi hành.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi Punnaka từ giã Vessavana Kuvera, Ðại đế vinh quang của mọi loài, liền ra lệnh cho cận thần:

– Mang thần mã lại đây đầy đủ yên cương, với tai đeo vòng, mông đeo ngọc, áo giáp bằng vàng dát sáng ngời.

Punnaka leo lên tuấn mã dành cho thiên thần, chàng trang điểm râu tóc thật oai vệ, rồi phi nhanh qua bầu trời.

Trong lúc vân du, chàng nghĩ: “Trí giả Vidhura có đám cận vệ rất đông, nên không dễ gì bắtđược ông. Tuy thế, vua Dhanañjaya lại nổi tiếng về tài đánh súc sắc. Ta sẽ đánh thắng vua này qua ván bài rồi bắt lấy Vidhura. Hiện nay có rất nhiều ngọc quý trong kho của ngài, chắc ngài không đánh cuộc bằng giải hèn mọn đâu. Ta sẽ phải đem viên ngọc vô giá, vì vua này không nhận viên ngọc tầm thường đâu. Hiện nay có viên bảo châu vô giá thuộc quyền vua Chuyển luân ở trong núi Vepulla gần thành Vương Xá; ta sẽ đến lấy bảo ngọc ấy và dụ vua chơi bài để thắng ngài”.

Rồi chàng thực hành ý định ngay.

*

Bậc Ðạo Sư kể toàn thể câu chuyện:

Chàng đến thành Vương Xá đầy lạc thú, kinh thành xa xôi của nước Anga, trù phú lương thực, tràn trề thức ăn uống. Chẳng khác gì Masakkaràsa, kinh thành của Thiên chủ Indra, dậy âm thanh của bầy công, hạc, với hoa viên tráng lệ bao quanh, muôn loài chim ca hót giống như Tuyết Sơn bao phủ đầy hoa. Thế là Punnaka trèo lên núi Vepulla với các đỉnh núi đá chồng chất, nơi các quỷ thần cư ngụ, chàng đi tìm bảo ngọc đầy hào quang, và cuối cùng chàng thấy nó nằm giữa lòng núi.

Khi chàng nhìn thấy viên bảo ngọc chiếu hào quang rực rỡ, diễm lệ muôn phần, chẳng khác nào tia chớp sáng lòa không gian, chàng vội vàng chụp lấy viên như ý bảo châu vô giá kia, leo lên thần mã vô song địch, và tướng mạo chàng thật tuấn tú cao sang, chàng phi nhanh qua bầu trời vô tận.

Chàng đến kinh thành Indàpatta, giáng lâm tại triều đình xứ Kuru (Câu-Lâu), dũng tướng Dạ-xoa liền triệu tập một trăm chiến sĩ tại đó:

  1. Ai muốn chiếm phần thưởng đế vương?
    Ai, ta sẽ thắng cuộc tranh hùng?
    Vô song bảo ngọc nào ta đoạt?
    Ai sẽ chiếm ưu hạng bảo trân?

Chàng nói lên bốn câu kệ tán thán Ðại vương Koravya như vậy. Vua nghĩ thầm: “Ta chưa từng nghe một vị anh hùng nào mở lời ca ngợi như thế này, vậy vị này là ai đây?” Và ngài liền hỏi chàng qua vần kệ này:

  1. Công tử sinh ra quốc độ nào,
    Lời này chẳng phải Ko-ra đâu,
    Chàng hơn tất cả về hình tướng,
    Cho biết quý danh, quyến thuộc mau.

Chàng suy nghĩ : Nhà vua hỏi danh tánh của ta, hiện nay chỉ là tùy tướng phục dịch Punnaka song nếu ta bảo ta là Punnaka, vua sẽ nói: gã kia chỉ là một tùy tướng, tại sao gã dám nói với ta quá bạo gan như vậy? Và vua sẽ khinh thị ta, thôi ta sẽ nói cho ngài nghe danh tánh của ta trong đời sống vừa rồi”. Thế là chàng ngâm kệ:

  1. Tiểu sinh tên gọi Kac-cà-na,
    Người chẳng gọi tên khác xấu xa,
    Thần đến đây tìm trò giải trí,
    Thân bằng, quyến thuộc ở An-ga.

Vua liền hỏi:

– Thế Công tử định trao ta vật gì nếu Công tử bại cuộc? Công tử đã có những gì nào?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Ngọc gì Công tử có trong tay,
    Mà kẻ thắng mong được có ngay?
    Một vị vua nhiều châu ngọc quý,
    Chàng nghèo sao dám thách như vầy?

Punnaka đáp:

  1. Ðây ngọc làm say đắm cõi lòng,
    Huy hoàng bảo ngọc tạo vinh quang;
    Người nào thắng chiếm vô song mã,
    Mọi địch thủ, thần mã phá tan.

Khi vua nghe chàng nói, liền đáp:

  1. Một viên ngọc ích lợi gì chăng?
    Một tuấn mã sao lập chiến công?
    Vua chúa có nhiều viên ngọc quý,
    Và nhiều tuấn mã tốc như phong!

*

III. ÐẶC TÍNH CỦA BẢO CHÂU NHƯ Ý

Khi nghe lời vua phán, chàng thưa trình:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương lại nói vậy? Chỉ có một thần mã và cũng có cả ngàn cả vạn tuấn mã khác; chỉ có một bảo châu và cũng có cả ngàn bảo châu khác; nhưng mọi tuấn mã hiệp lực lại cũng không sánh được với thần mã này, xin Ðại vương xem sức phi nhanh của nó đây.

Nói xong, chàng lên ngựa phi trên đỉnh trường thành và bức trường thành bảy dặm này tựa hồđược vây quanh bởi bầy ngựa kề cổ nhau trùng trùng điệp điệp, rồi chẳng bao lâu chẳng còn phân biệt được đâu là ngựa, đâu là thần Dạ-xoa nữa, mà chỉ còn thấy dải lụa hồng trên lưng chàng như thể phủ khắp trường thành.

Rồi chàng xuống ngựa, tâu vua rằng bây giờ vua đã chứng kiến sức phi nhanh của thần mã, chàng lại xin vua chứng kiến một chuyện kỳ lạ khác: chàng bảo thần mã phi nhanh trong hoa viên của kinh thành, trên mặt nước, ngựa phóng nhanh không ướt đến móng chân; rồi chàng lại bảo ngựa dạo bước trên đám lá sen và khi chàng vỗ tay, xòe bàn tay ra, ngựa liền đến đứng trên lòng bàn tay chàng. Sau đó chàng lại nói:

– Ðây chính là ngựa báu, tâu Ðại vương.

– Ðúng vậy, thưa Công tử.

– Giờ đây xin hãy để ngựa báu qua một bên trong chốc lát, xin Ðại vương hãy xem thần lực của bảo châu. Tâu Chúa thượng, xin ngài ngự lãm viên bảo châu vô song địch của tiểu sinh: Trong bảo châu này có đủ thân hình nam nhân cùng nữ nhân, thân hình của thú vật, cùng thân hình của chim muông, Long vương và Ðiểu vương, tất cả muôn loài đều hiện ra trong bảo châu này.

Cả một đàn voi, một đàn xe ngựa, quân sĩ, cờ xí, xin Chúa thượng ngự lãm cả đoàn kỵ mã, vệ sĩ của vua, chiến sĩ đang chiến đấu trên cỗ xe, chiến sĩ chiến đấu trên bộ, quân sĩ đang bày binh bố trận, xin Chúa thượng ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.`

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này một kinh thành đầy đủ dinh thự kiên cố lầu đài với nhiều cổng thành và trường thành, với nhiều tụ điểm đầy lạc thú – nơi bốn đại lộ giao nhau – Các đại trụ, hào lũy, chấn song, then cửa, tháp canh, cổng thành; xin ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.

Xin ngự lãm các đàn chim muông đủ loại, trên đường sá, dưới cổng thành: thiên nga, công, hạc, hồng nga, hải âu, sơn ca, cu cườm, jivajivaka, xin ngự lãm muôn loài chim đều tụ họp về đây và xuất hiện trong viên bảo châu này.

Xin ngự lãm một kinh thành diệu kỳ với trường thành cao cả, khiến ta phải dựng tóc gáy vì kinh ngạc, thật vui mắt vì cờ xí rợp trời, đất cát toàn vàng ròng, xin ngự lãm các lều ẩn sĩ được phân chia đều đặn thành từng khu vực, nhà cửa đủ loại, sân bãi, đường sá cùng các đường nhỏ chen kẽ.

Xin ngự lãm các trà đình tửu quán, các nhà tể sinh, cùng các tiệm thực phẩm cho các nội nhân, các gái giang hồ cùng các chàng phóng đãng, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này. Những người kết tràng hoa, thợ giặt, các chiêm tinh gia, những lái buôn y phục, thợ kim hoàn nữ trang, tất cả đều hiện ra trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các loại trống, lớn nhỏ, tù và, trống đồng, trống rung, đủ loại thanh la, đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các loại vĩ cầm, khiêu vũ, ca hát thật du dương, các loại nhạc cụ, tiếng gồng chiêng rung đều xuất hiện trong bảo châu này.

Các tay đô vật, nhảy cao cũng có mặt nơi đây, cảnh hề múa rối, các thi sĩ, thợ hớt tóc của vua chúa tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Dân chúng tụ tập nơi đây, xin ngự lãm các dãy ghế sân khấu hàng hàng lớp lớp xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm các tay đô vật đánh bằng hai cánh tay gập lại, xin ngự lãm kẻ đánh cùng người bị đánh vật đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm trên triền núi các đoàn hươu, nai, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói, hoẵng, tê giác (tây ngu), gayal, trâu bò, hồng lộc, ruru, linh dương, lợn rừng, nimka, lợn nhà, hươu sao kadali, mèo, thỏ, muôn loài súc sinh đều hiện ra trong bảo ngọc này.

Những dòng sông đào thật đẹp, đáy lót toàn kim sa, nước trong vắt chảy nhẹ nhàng với đủ loại cá, cá sấu, các loài thủy quái, rùa, trạnh, pàthìna, pàvusa, vàlaja và muñjarohita.

Xin ngự lãm trong viên bảo châu này đủ loại cây, đủ loài chim và một khu rừng có những cành cây làm bằng ngọc bích (lapi lazuli).

Xin Chúa thượng ngự lãm các hồ nước được xây thật đều đặn bốn góc thành với muôn loại chim cá rộn rã tung tăng. Xin ngự lãm quả đất được biển cả vây phủ, nước tràn khắp nơi, điểm tô đủ loại cây cỏ, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm xứ Videha phía trước, Goyàniya phía sau, Kuru (Câu-lâu) và Jambudìpa (Diêm-phù-đề), đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm mặt trời, mặt trăng, chiếu sáng bốn phương trong khi đi vòng quanh núi Sineru (Tu-di) cũng xuất hiện trong bảo ngọc này.

Xin ngự lãm núi Sineru và Tuyết Sơn cùng Thần Hải và Tứ Ðại Thiên vương bảo hộ thế giới, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Các hoa viên của Thiên chủ Indra như Phàrusaka, Cittalatà, Missaka, Nandana và cung Vejayanta, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc này.

Cung Sudhamma (Thiện pháp) của Thiên chủ Indra ở cõi trời Ba mươi ba, cây trời Pàricchatta (San hô) đang nở rộ hoa, thiên tượng Eràvana, đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các ngọc nữ của các vị trời đang hiện ra như tia chớp giữa không gian, nhởn nhơ trong ngự viên Nandana, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm các ngọc nữ cõi trời đang mê hoặc các tiên đồng, và các tiên đồng đang thơ thẩn dạo chơi, tất cả đều xuất hiện trong bảo châu này.

Xin ngự lãm hơn ngàn cung điện phủ đầy ngọc bích hiện ra sáng ngời trong viên bảo châu này. Thiên chúng ở các cõi trời Ba mươi ba, Dạ-ma, Ðâu-suất và Tha hóa tự tại thảy đều xuất hiện trong viên bảo châu này. Xin ngự lãm các hồ nước trong suốt đầy san hô và sen súng trên cõi trời.

Trong bảo ngọc này có mười đường vân trắng, mười đường vân xanh đậm thật tuyệt trần, hai mươi mốt đường vân nâu và mười bốn đường vân vàng nhạt, hai mươi đường vân vàng chói, hai mươi đường vân bạc, ba mươi đường vân đỏ. Mười sáu đường vân đen, hai mươi lăm đường vân màu thiên thảo đỏ sẫm chen lẫn với hoa bandhuka và tô điểm thêm những đóa sen xanh.

Tâu Chúa thượng, xin ngự lãm viên ngọc sáng rực như lửa này với vẻ đẹp toàn mỹ, đó sẽ là giải thưởng dành cho kẻ thắng cuộc.

*

  1. GIẢI THƯỞNG CỦA CUỘC CHƠI BÀI

Sau khi nói xong, Punnaka liền hỏi:

– Tâu Ðại vương, ví thử tiểu thần thua cuộc, tiểu thần xin dâng viên bảo ngọc này, song ví thử tiểu thần thắng cuộc, xin Chúa thượng ban vật gì cho tiểu thần?

– Ngoài thân ta cùng chiếc lọng trắng ra, tất cả giang sơn ta ngự trị đều đem ra treo giải được cả.

– Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng đừng chậm trễ nữa, vì tiểu thần từ phương xa lại đây, xin Chúa thượng ra lệnh chuẩn bị phòng đánh bài.

Thế là vua ra lệnh cho các đại thần chuẩn bị phòng đánh bài và trải tấm thảm dệt đẹp nhất cho vua ngự, cùng bảo tọa cho các vị quốc vương khác. Khi đã sắp đặt một chỗ thích hợp cho Punnaka, họ trình vua đã đến lúc chơi bài.

Punnaka liền tâu vua qua bài kệ sau:

  1. Ðại vương, hãy đến đích cầu mong,
    Ngài sẽ không giành được bảo trân,
    Ta hãy thắng không nhờ bạo lực,
    Và ta thắng bởi lẽ công bằng,
    Khi ngài thất bại, xin đem trả,
    Phần thưởng ngài ban tặng tiểu thần.

Vua liền đáp:

– Hỡi thiếu sinh, chàng đừng sợ ta là một vị đại vương, mọi cuộc thắng bại của ta đều theo lẽ công bình và không dùng bạo lực.

Thế rồi Punnaka ngâm kệ thỉnh cầu các vị vua kia chứng kiến cuộc thắng trận bằng lẽ công bình:

  1. Hỡi các Ðại vương Pañ-ca-la,
    Su-ra-se-na và Mac-cha,
    Mad-da cùng với Ke-ka-ka,
    Xin các Ðại vương ngắm cuộc cờ,
    Không có dối gian hay phỉnh gạt,
    Không ai can thiệp việc đôi ta.

Sau đó vua được cả trăm vị vua khác hộ tống cùng Punnaka vào phòng đánh bài, tất cả đều ngồi xuống các bảo tọa, đặt con súc sắc vàng lên tấm bảng bằng bạc. Punnaka vội tâu:

– Tâu Ðại vương, có hai mươi bốn lần ném súc sắc, gọi là màlika, sàvata, bahula, santi và bhadra v.v… xin Ðại vương chọn con bài nào vừa ý.

Vua ưng thuận, rồi chọn con bài bahula, Punnaka chọn con bài sàvata. Rồi vua bảo:

– Này thiếu sinh, chàng đánh bài trước đi.

– Tâu Ðại vương, lần ném đầu tiên không phải của tiểu thần, xin Ðại vương đi trước.

Vua chấp thuận. Lúc bấy giờ mẫu thân của vua trong đời sống ngay trước đời này là thần hộ vệ của ngài, nên nhờ thần lực của bà, ngài thắng cuộc. Bà đứng cạnh đó, vua vừa nhớ lại nữ thần vừa ca bài đánh súc sắc, rồi xoay con bài trong tay và ném lên không. Nhờ thần lực của Punnaka, các con bài rơi xuống đúng cho chàng thắng vua.

Phần vua với tài chơi súc sắc nhận ra rằng các con bài rơi xuống không hợp ý ngài, nên ngài chụp chúng lại, trộn đều chúng trên không rồi ném lên lần nữa, nhưng ngài vẫn thấy chúng rơi xuống không đúng ý ngài nên vội chụp chúng lại trong lúc đang rơi.

Lúc ấy Punnaka nghĩ thầm: “Vị vua này đang chơi bài với một thần Dạ-xoa như ta, vừa trộn bài khi chúng rơi xuống rồi lại chụp lấy chúng, tại sao như vậy chứ”? Khi biết có thần lực của nữ thần hộ vệ ngài, chàng giương to mắt như thể tức giận lắm và nhìn nữ thần khiến bà kinh hoàng chạy đi trốn trên đỉnh núi Cakkavàla mà vẫn còn run rẩy.

Khi ném bài đến lần thứ ba, mặc dù vua biết chúng rơi xuống không đúng ý, ngài cũng không thể đưa tay ra chụp lấy chúng vì thần lực của Punnaka, nên chúng rơi xuống thất lợi cho ngài. Rồi Punnaka ném các con bài rơi xuống thắng thế cho chàng. Khi biết rằng chàng đã thắng, chàng vỗ tay ầm ĩ và nói ba lần:

– Tiểu thần đã thắng!

Tiếng chàng vang dội rung động cả cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

*

Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:

– Vua Câu-lâu và thần Dạ-xoa Punnaka say sưa bước vào mê hồn trận; vua chơi bài thua cuộc và Punnaka thắng cuộc. Cả hai vị giao đấu trước sự chứng kiến của các vị vua và nhiều chứng nhân khác. Thần Dạ-xoa thắng vị vua tối cao của loài người và tiếng reo hò vang dội từ nơi ấy.

Vua không đẹp ý vì thua cuộc, và Punnaka vội ngâm kệ an ủi ngài:

  1. Thắng, bại thuộc về một phía thôi,
    Giữa hai phe chiến đấu tranh tài,
    Ðại vương đã mất phần ưu thắng,
    Chiến bại, xin trao giải thưởng tôi.

Sau đó vua bảo chàng nhận giải qua vần kệ:

  1. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
    Bất cứ gì ta có ở đời,
    Hãy lấy món nào cao quý nhất,
    Kac-cà-na, nhận rồi đi thôi.

Punnaka đáp:

  1. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
    Bất cứ gì ngài có ở đời,
    Vi-dhu-ra đại thần ưu thắng,
    Người đã được tôi chiếm đoạt rồi!

Vua phán bảo:

  1. Vị đại thần ta, chỗ trú an,
    Là người giúp đỡ, chốn nương thân,
    Chính là thành lũy, thần phù hộ,
    Vị đại thần không thể sánh bằng,
    Giá trị bạc vàng, tài sản quý,
    Người như sinh mạng của vương quân.

Punnaka đáp:

  1. Chúng ta tranh chấp sẽ dài dòng,
    Ta hãy đi tìm vị đại thần,
    Hỏi vị ấy điều gì ước muốn,
    Ðể người quyết định vấn đề chung,
    Những gì người định phần tiên quyết,
    Là bản án phân xử cuối cùng.

Vua phán:

  1. Công tử, chàng ăn nói chánh chân,
    Quả chàng chẳng nói thiếu công bằng,
    Chúng ta đi gặp người và hỏi,
    Theo cách này, ta sẽ đẹp lòng.

Nói xong vua đưa cả trăm vị vua kia cùng đi, Punnaka sung sướng vội vàng đến tòa án và bậc Trí nhân từ chỗ ngồi đứng dậy chào đón vua rồi ngồi xuống một bên.

Sau đó Punnaka nói với bậc Ðại Sĩ:

– Thưa bậc Trí giả, ngài thật chí công, ngài không hề nói lời hư vọng dù có đổi cả sinh mạng đi nữa, đó là danh tiếng ngài lẫy lừng khắp thế giới này. Hôm nay tiểu sinh sẽ biết được ngài có thật chí công như vậy chăng?

Rồi chàng ngâm kệ sau:

  1. Thật chư Thiên phái xuống phàm trần,
    Ðến xứ Câu-lâu làm đại thần,
    Cố vấn Vi-dhu-ra chánh trực,
    Ngài là quyến thuộc hoặc tùy tùng,
    Của vương gia đấy, xin ngài nói,
    Giá trị của ngài giữa thế nhân?

Bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: “Người này hỏi về ta, nhưng ta không thể cho người ấy biết được ta là quyến thuộc của vua hay là thượng nhân đối với vua, hay chẳng có giá trị gì đối với vua cả. Trên thế gian này không có gì bảo đảm cho ta bằng sự thật, ta phải nói lên sự thật”.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ chứng tỏ ngài không phải là quyến thuộc hay thượng nhân của vua, mà chỉ là một trong bốn loại tùy tùng của vua:

  1. Một số nô tài thuở mẹ sinh,
    Kẻ vì tiền phải bán thân mình,
    Nhiều người tự nguyện làm nô lệ,
    Kẻ khác nô tài bởi hãi kinh.
    Ðây bốn loại nô tài tất cả,
    Ở trên trần thế giữa nhân sinh.
  2. Ta chính nô tài tự mẹ cha,
    Khổ ưu phát xuất tự vương gia,
    Ta là nô lệ đức vua đó,
    Cho dẫu ta theo kẻ khác mà.
    Ngài có quyền đem ta tặng cậu,
    Hỡi chàng nam tử tự phương xa!

Punnaka nghe lời này vô cùng thích thú, vừa vỗ tay vừa nói:

  1. Hôm nay tôi chiến thắng lần hai,
    Ðược hỏi, đại thần đã đáp ngài,
    Thật vậy, Ðại vương không đúng lý,
    Việc này đã quyết định xong xuôi,
    Nhưng ngài không muốn đem trao trả,
    Phần thưởng ngài dành để tặng tôi!

Nghe vậy, vua liền nổi giận với bậc Ðại Sĩ và bảo:

– Ngươi chẳng hề quan tâm đến ta là người đã ban vinh quang cho ngươi, lại quan tâm đến chàng thiếu sinh này hợp nhãn ngươi mà thôi.

Rồi quay về phía Punnaka, vua nói:

– Nếu gã kia là một nô tài thì hãy đem gã và đi ngay.

Vua lại ngâm kệ sau:

  1. Nói gã trả lời câu hỏi ta:
    “Ta là nô lệ của vương gia,
    Chứ không quyến thuộc”, thì chàng nhận,
    Bảo vật tối ưu này của ta,
    Kac-cà-na, nhận ngay, chàng hỡi,
    Rồi hãy đi đâu hợp ý mà.

Nhưng khi nói vậy, ngài suy nghĩ: “Thiếu sinh này sẽ đem Ðại trí nhân đi đâu tùy ý, sau khi vị ấy đi rồi, ta tìm đâu ra được một buổi đàm đạo lý thú về các thánh sự, vậy sao ta lại không thử thỉnh cầu vị ấy lên bảo tọa ngồi rồi ta hỏi vài câu liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại gia”? Thế là vua bảo:

– Thưa bậc Trí giả, khi ngài đi rồi, trẫm sẽ khó tìm đâu ra được một buổi đàm đạo thú vị về các thánh sự. Vậy xin ngài ngồi xuống bảo tọa đã được trang hoàng uy nghi đúng theo cương vị của ngài và giải thích cho trẫm một vấn đề liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại gia có được chăng?

Bậc Ðại Sĩ liền ưng thuận, và sau khi ngồi xuống bảo tọa được trang hoàng uy nghi, ngài giải thích vấn đề vua hỏi, đó là vấn đề:

– Thưa bậc Trí giả Vidhura, làm thế nào có được cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia? Làm thế nào có được lòng ưu ái của đồng loại mình? Làm thế nào thoát được đau khổ? Và làm thế nào chàng niên thiếu nói điều chân thật thoát được mọi ưu não khi qua đến đời sau?

Lúc ấy Vidhura đầy đủ đại trí và minh sát, là bậc thấy mục đích chân lý và đang vững tâm tiến lên, bậc thông thạo mọi pháp lành liền nói những lời này:

– Ðừng chung chạ vợ người, đừng hưởng cao lương mỹ vị một mình, đừng nói chuyện phù phiếm, vì việc này không tăng trưởng trí tuệ. Phải đức độ, tận tụy với nhiệm vụ mình, không phóng dật, sáng suốt, khiêm tốn, không nhẫn tâm, đầy từ bi, thân ái, hòa nhã, khéo léo chinh phục bạn lành, sẵn sàng phân phát bố thí, thận trọng sắp xếp công việc tùy theo mùa, luôn luôn sẵn sàng cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ vật thực. Phải mong cầu công chính và làm cột trụ hộ trì Chánh pháp, sẵn sàng học hỏi và cung kính theo hầu các bậc đa văn đầy đức độ. Như vậy sẽ là cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia, như vậy là sẽ chiếm được lòng ưu ái của đồng loại mình, như vậy là sẽ thoát khổ; và như vậy là chàng trẻ tuổi nói điều chân thật sẽ thoát khỏi sầu bi khi sang đến đời sau.

Như vậy sau khi giải đáp câu hỏi liên quan cuộc sống cư sĩ, bậc Ðại Sĩ bước xuống từ bảo tọa và vái chào vua. Phần vua cũng đáp lễ ngài vô cùng cung kính, rồi đi cùng với cả trăm vị vua khác, đến viếng tư thất của ngài .

Khi bậc Ðại Sĩ trở lại, Punnaka nói:

– Xin ngài đến đây, ta cùng khởi hành, đức vua đã trao ngài cho tiểu sinh; vậy phải theo đúng nhiệm vụ đó. Ấy là qui luật từ ngàn đời.

Bậc Trí giả Vidhura đáp lại:

– Hỡi thiếu sinh, ta biết lắm, chàng đã chiếm được ta, đức vua đã giao ta cho chàng, ta xin mời chàng về nghỉ ngơi tại nhà ta ba ngày nữa để ta dặn dò các con ta.

Punnaka nghe vậy nghĩ thầm: “Bậc Trí giả này đã nói chân thật, đó là một đại phúc cho ta, ví thử ngài có mời ta ở lại bảy ngày hay nửa tháng, ta cũng nên nhận lời ngay lập tức.” Thế là chàng đáp:

– Chuyện này cũng thuận lợi cho tiểu sinh, vậy ta cùng ở lại đó ba ngày, thưa bậc Trí giả, nếu có việc gì cần giải quyết trong gia đình của bậc Trí giả, xin chỉ dạy cho quý phu nhân và các công tử, hầu mong các vị được hạnh phúc sau khi ngài đi rồi.

Nới xong Punnaka cùng bậc Ðại Sĩ đi về tư thất ngài.

*

Bậc Ðạo Sư tả sự việc ấy như sau:

Lòng đầy hoan hỷ và háo hức khát khao, chàng Dạ-xoa đi cùng bậc Trí giả Vidhura, vị đệ nhất hiền giả, đưa chàng vào nội thất với đoàn bảo tượng và tuấn mã theo hầu.

Lúc bấy giờ bậc Ðại Sĩ có ba cung thất dành cho ba mùa, cung đầu tiên là Koñca, cung thứ hai là Mayùra, cung thứ ba là Piyaketa. Bài kệ sau đây nói về ba cung ấy:

  1. Chàng đã đến nơi chốn đại gia:
    Koñca, Mayùra, Piyaketa,
    Mỗi nơi một cảnh đầy hoan lạc,
    Phong phú thức ăn uống cả nhà,
    Trông giống thiên cung trên thượng giới,
    Của Ind-ra, đại đế Sak-ka.

Sau khi ngài đến nơi, ngài ra lệnh dọn một phòng ngủ và một chiếc bệ cao trên tầng thứ bảy của cung thất trang hoàng tráng lệ, trải vương sàng và bày biện đủ cao lương mỹ vị xong, ngài chỉ cho chàng năm trăm mỹ nữ như tiên trên trời, và bảo:

– Ðây là những tỳ nữ của chàng, chàng cứ ở lại đây đừng lo ngại gì cả.

Rồi ngài trở về tư thất. Khi ngài đi rồi, các mỹ nữ đem nhạc khí đủ loại ra ca múa tưng bừng trong lúc hầu hạ chàng Punnaka.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Các mỹ nữ điểm trang diễm lệ như các Thiên thần, ca múa trò chuyện cùng chàng, mỗi nàng đều gắng sức đem hết mọi tài năng ra biểu diễn.

Bậc hộ trì Chánh pháp ấy, sau khi cho chàng hưởng cao lương mỹ vị cùng nữ sắc, liền nghĩ đến việc cao quý bậc nhất, là mang chàng vào giới thiệu cùng phu nhân.

Ngài bảo phu nhân đã được trang điểm bằng hương chiên-đàn cùng nhiều hương thơm khác đang đứng như một thanh bội hoàn bằng vàng ròng:

– Này phu nhân nghe đây, hãy gọi các nam tử đến ngay, hỡi phu nhân có đôi mắt đẹp màu hổ hoàng.

Anujjà nghe phu quân gọi liền bảo con dâu, một mỹ nhân có đôi mắt tuyệt trần, móng tay sáng rực như đồng:

– Này Cetà, nàng đeo vòng vàng lục lạc chẳng khác nào bào giáp, nàng là đóa súng xanh mơn mởn, hãy đi gọi các con ta lại đây.

Nàng ấy vâng dạ xong đi suốt cả cung thất, tập hợp các thân hữu cùng các công tử, công nương, lại bảo họ:

– Thân phụ quý vị muốn dặn dò quý vị đôi điều, đây là lần cuối cùng quý vị gặp được ngài đấy.

Công tử Dhammapàla-Kumàra nghe vậy liền khóc, vội đi đến gặp thân phụ cùng các công tử em chàng. Khi vị cha thấy các con đến, không thể nào giữ được vẻ bình thản, liền ôm các con mắt đầy lệ, hôn đầu các con và ghì lấy trưởng nam vào lòng một hồi lâu. Rồi ngài nhấc con lên, bước ra khỏi cung thất, ngồi xuống tọa sàng đặt trên chiếc bệ cao, ngài nhắn nhủ với cả ngàn công tử kia.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Bậc hộ trì Chánh pháp, lòng không chút sợ hãi, hôn trán các con khi họ đến gần ngài, và sau khi chào hỏi xong, ngài bảo họ:

– Ta được đức vua giao cho chàng thiếu sinh này. Ta thuộc quyền sở hữu của chàng rồi, nhưng hôm nay ta còn được tự do tìm thú vui riêng cho mình, rồi chàng sẽ đem ta đi đâu tùy ý, cho nên ta muốn nhắn nhủ các con đôi điều, vì làm sao ta ra đi mà không tìm cách cứu khổ các con được? Ví như Janasandha, vua xứ Câu Lâu, trịnh trọng hỏi các con: “Các khanh xem cái gì thật cổ kính ngay trong thời thượng cổ? Thân phụ các khanh dạy bảo điều gì tiên khởi và tối thượng”? Rồi ví như nhà vua bảo: “Các khanh đồng đẳng với ta, ai trong các khanh lại không hơn một vị vua đã chứ”?, các con sẽ kính cẩn đảnh lễ vua và tâu: “Xin Ðại vương đừng nói vậy, không có luật lệ nào như thế cả, làm sao một con chó rừng hèn mọn lại đồng đẳng với một vương hổ được”?

Sau khi nghe thuyết giáo xong, các vị công tử, công nương, thân bằng, quyến thuộc, gia nhân, dân chúng đều không giữ được lòng bình thản, đồng khóc lớn khiến bậc Ðại Sĩ lại phải an ủi họ thêm nữa.

*

  1. IDHURA KHUYẾN GIÁO THÂN NHÂN

Rồi sau khi đến với mọi người và thấy họ đã giữ yên lặng, ngài nói:

– Này các con, đừng buồn khổ làm gì, các sắc pháp đều vô thường, vinh quang cuối cùng lại gây tai họa; tuy vậy ta sẽ chỉ cho các con một cách đạt vinh quang, đó là chốn triều đình. Hãy chú ý lắng nghe cho kỹ.

Sau đó nhờ thần lực của một vị Phật, ngài đưa họ vào một cảnh triều đình.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Khi ấy Vidhura thuyết Pháp cho tất cả thân bằng lẫn cừu thù, quyến thuộc cùng thê tử, tâm trí ngài viễn ly mọi sắc pháp:

– Này các vị hãy đến đây nghe cho kỹ trong khi ta nói về chốn triều đình, làm thế nào một nam tử vào chốn triều đình có thể đạt vinh quang. Khi vào chốn triều đình còn là vô danh tiểu tốt, y không có thể có được vinh quang đâu, cũng không thể đạt vinh quang nếu y là một tên hèn nhát, ngu ngốc hoặc vô tâm. Khi nào vua nhận thấy đức độ của y, tài trí cũng như lòng thanh liêm của y, vua mới tin tưởng y và không giấu y những điều bí mật của ngài. Khi nào được lệnh thi hành một việc gì, y không được ngần ngại, như một chiếc cân thật chính xác, với cán cân thật ngang bằng và như chiếc cân kia, nếu y sẵn sàng đảm trách mọi gánh nặng, y mới có thể ở chốn triều đình.

Bất kỳ ngày đêm, một trí giả cũng không ngần ngại gì khi được giao quốc sự; một người như thế mới có thể ở chốn triều đình. Một bậc trí giả, khi được giao quốc sự, bất kỳ ngày đêm cũng phải đảm nhận mọi nhiệm vụ. Một người như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Người nào thấy được đạo lộ dành cho vua và thận trọng sắp xếp mọi việc thuận lợi cho ngài, mà chính mình không dám bước vào đó, dù được mời làm như vậy, kẻ ấy mới có thể ở chốn triều đình. Ðừng vì một duyên cớ gì vui hưởng các lạc thú như vua, mà phải theo sau hầu vua trong mọi việc, một kẻ như thế mới có thể ở trong chốn triều đình.

Ðừng mặc y phục như vua, cũng không mang tràng hoa, xức dầu thơm như vua dùng, cũng không đeo các đồ trang sức như vua hay nói giọng như vua được; bao giờ cũng phải tạo một dáng điệu khác, cách phục sức khác. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Nếu vua đang vui đùa cùng các cận thần hay đang được các cung nữ vây quanh ngài, thì vị cận thần không nên nói bóng gió với các cung phi ấy. Người nào không dương dương tự đắc cũng không nhẹ dạ chóng đổi thay, mà phải thận trọng, luôn luôn biết tự chủ, người nào đạt được minh trí và quyết tâm, người như vậy mới có thể ở chốn cung đình.

Ðừng đùa cợt với các cung phi, cũng không nói chuyện riêng với họ, đừng lấy của cải trong công khố. Người như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Ðừng nghĩ nhiều đến việc ngủ nghỉ, cũng không ham rượu nồng quá độ, không giết hươu nai trong vườn ngự uyển, một kẻ như vậy mới ở được chốn cung đình.

Ðừng ngồi trên vương tọa, long sàng, kim đôn, vương tượng hoặc vương xa, vì nghĩ mình là kẻ có đặc quyền, một người như vậy mới có thể ở được chốn cung đình.

Ðứng e dè giữ mình quá xa cách vua, nhưng cũng đừng quá gần gũi ngài, luôn luôn sẵn sàng túc trực bên ngài, tâu gửi đôi điều lên đấng chúa công. Ðừng xem vua như một kẻ thường dân, không nên so sánh vua với bất kỳ một ai khác. Vua chúa rất dễ nổi cơn thịnh nộ, như con mắt dễ bị đau nếu đụng nhằm râu hạt thóc vậy. Vị hiền trí không nên nghĩ rằng mình đang được ân sủng, lại cả gan nói năng thô lỗ với vua đa nghi. Nếu vị ấy gặp được vận may thì cứ chụp lấy, nhưng đừng tin tưởng vào vua chúa, phải luôn luôn biết phòng thân như đề phòng hỏa hoạn, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Nếu vua sủng ái con hay em của ngài rồi ban cho họ một vài thôn làng, thị thành hay vài triều thần làm tùy tùng của họ, thì kẻ đó phải biết yên lặng chờ đợi, đừng bảo là vua khôn khéo hay lỗi lầm gì.

Nếu vua tăng lương cho quan quản tượng hay vệ sĩ của ngài, hoặc pháo binh hay bộ binh của ngài vì nghe được các chiến công của họ, kẻ ấy đừng nên xen vào cản trở việc trên, một kẻ như vậy mới có thể ở được chốn triều đình.

Bậc trí giả phải biết giữ bụng bé như cây cung, nhưng lại biết uốn cong dễ dàng như cây tre; đừng làm phật ý vua, như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Phải biết giữ bụng bé như cây cung, mồm lặng thinh như loài cá, phải ăn uống chừng mực, can đảm và thận trọng. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Ðừng lui tới với nữ nhân quá nhiều, sợ rằng phải hao mòn sinh lực, kẻ ngu ngốc chính là nạn nhân của bệnh ho hen, đau nhức mình mẩy và tính trẻ con, đừng cười cợt thái quá, cũng đừng quá lặng lẽ, phải biết nói năng lúc thời cơ thuận tiện đến, lời nói phải khúc chiết, rõ ràng, được cân nhắc kỹ lưỡng. Ðừng buông mình theo cơn nóng giận, cũng đừng chực sẵn sàng gây hận, lời lẽ phải chân thật, dịu dàng, không vọng ngữ và đừng nói năng nhảm nhí. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết tự rèn luyện, học hỏi, tự chủ, có kinh nghiệm trong việc giao thương, ôn hòa, dịu dàng, thận trọng, liêm khiết, khéo léo. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Ðối xử khiêm tốn với người trên, sẵn sàng nghe lời kẻ khác, đầy lòng kính cẩn, từ ái, sống dễ chịu với người xung quanh. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết lánh xa sứ giả của ngoại bang sai đến thương thảo, chỉ lưu tâm đến vị chúa tể của mình, đừng biết đến vị vua nào khác.

Phải biết tôn trọng các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn, phải biết cung phụng các vị ấy, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đức độ và đa văn đầy đủ vật dụng ăn uống, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình. Phải biết đến gần và thành tâm phụng sự các Sa-môn và Bà-la-môn đức độ, đa văn, cầu mong đó là việc thiện chân chính của mình.

Ðừng tìm cách tước đoạt của các Sa-môn, Bà-la-môn những vật được cúng dường cho họ trước kia và đừng tìm cách ngăn cản các khất sĩ vào lúc chẩn tế. Một kẻ công chính, đầy đủ đại trí, khéo léo sắp xếp mọi công việc, thông thạo mọi thời cơ, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Một người đầy nghị lực lúc làm việc, thận trọng khéo léo, có khả năng tiến hành công việc đến thành quả mỹ mãn, người ấy mới có thể ở được chốn triều đình.

Phải thăm viếng thường xuyên các sân đập lúa, đàn trâu bò, gia súc, ruộng nương, phải cho cân thóc thật kỹ lưỡng và cất vào vựa, phải bảo đong lường kỹ mỗi khi nấu nướng trong nhà mình.

Ðừng sử dụng hay đề bạt con hay em trai thiếu đức độ vững vàng, những con em như vậy không phải là những phần tử chân chính của giống nòi mình, phải xem chúng như chết rồi. Phải đem y phục, vật thực cấp dưỡng cho chúng và bảo chúng ngồi im mà nhận lấy. Phải biết dùng ở cửa công những tùy tướng có đức độ vững vàng, khéo léo làm việc và biết đối phó lúc ngộ biến.

Một kẻ đức độ, vô tham, tận tụy với quân vương, luôn có mặt bên ngài và mưu cầu quyền lợi cho ngài một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết rõ ý vua, theo sát tâm tư ngài, đừng bao giờ hành động trái ý ngài, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn cung đình, phải xoa dầu thơm và tắm cho ngài, phải cúi đầu xuống khi rửa chân cho ngài; khi bị trừng phạt không hề tức giận, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.

Phải biết cúi đầu chào một chiếc bình đầy nước hay cung kính thi lễ một con quạ, hơn thế nữa, còn phải ban phát đầy đủ cho mọi kẻ cầu xin, lúc nào cũng phải tỏ ra khôn ngoan và lỗi lạc. Phải biết bố thí, tọa cụ, y phục, xe pháo, nhà cửa, tư dinh, phải tưới tràn đầy phúc lộc cho mọi người như một vầng mây lớn. Thưa quý vị, đó là cách để ở được chốn triều đình, đó là cách cư xử để được ân sủng của vua chúa, để được vinh quang do các ngài ban thưởng.

*

  1. CUỘC DU HÀNH CỦA VIDHURA VÀ PUNNAKA

Ba ngày trôi qua, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo cho đám vợ con, bạn hữu cùng nhiều người khác đã xong. Khi biết thời hạn đã mãn, từ tinh sương, sau bữa ăn đầy cao lương mỹ vị, ngài bảo:

– Ta sẽ tạ từ đức vua và ra đi cùng chàng thiếu niên này.

Rồi ngài đi đến cung vua, cùng với đám quyến thuộc vây quanh, đảnh lễ vua rồi đứng sang một bên, nhắn nhủ đôi lời khôn ngoan, thực tiễn.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi nhắn nhủ thân bằng quyến thuộc xong, bậc Ðại trí được đám thân hữu vây quanh, cùngđi đến cung vua. Ðảnh lễ dưới chân vua và chúc tụng vua rất kính cẩn xong, Vidhura chắp tay lại tâu:

– Thiếu sinh này muốn sử dụng thần theo ý chàng, nên sẽ đem thần đi xa. Thần xin bày tỏ đôi lời vì các thân bằng quyến thuộc còn ở lại, xin hãy nghe thần tâu, hỡi đấng Ðại vương đã chinh phục bao cừu thù. Xin Ðại vương chăm sóc đám thê tử và tài sản trong gia tộc tiểu thần, để khi thần đã đi rồi, thân quyến của thần cũng không bị tàn mạt. Vì khi quả đất rung chuyển, thì mọi vật trên đó đều rung chuyển theo và khi quả đất vững vàng, thì mọi vật mới vững vàng được. Vì thế thần thấy quyến thuộc của thần sẽ suy sụp theo sự suy sụp của thần; thần nhận đó là lỗi của thần vậy.

Vua nghe vậy, liền bảo:

– Này bậc Trí giả, trẫm không muốn khanh ra đi tý nào cả, vậy đừng đi nữa; trẫm sẽ triệu chàng thiếu sinh ấy đến rồi lấy cớ giết gã đi và giấu nhẹm câu chuyện.

Ngài phát họa chuyện này qua vần kệ:

  1. Này khanh, không thể bước đi ra,
    Ðây chính điều cương quyết của ta.
    Khi đã giết xong chàng trẻ ấy,
    Khanh cần ở lại chốn này mà.
    Ðây là thượng sách cho ta đó,
    Bậc Ðại trí, xin chớ bỏ ta!

Bậc Ðại Sĩ nghe vậy liền kêu to:

– Ý định như thế quả không xứng chút nào với Ðại vương.

Rồi ngài nói thêm:

  1. Ðừng để tâm vào việc bất công,
    Hãy tinh cần luyện tập thân tâm,
    Ðúng theo Thánh điển đầy thâm nghĩa;
    Ô nhục thay là việc ác gian,
    Khi đã làm xong điều tội lỗi,
    Con người đọa địa ngục sau cùng.
  2. Chuyện này không phải lẽ công bằng,
    Ðây chẳng phải là việc đáng làm,
    Tâu Chúa công, vua là tối thượng,
    Quyền uy với kẻ dưới tồi tàn,
    Muốn đem giết nó hay thiêu sống,
    Thần giã từ không dám hận sân.

Nói xong Ðại Sĩ kính cẩn vái chào vua rồi khích lệ các cung phi, quần thần đôi lời, xong bước ra khỏi cung điện, trong khi họ không còn giữ được lòng can đảm, chịu đựng được nữa, cùng bật tiếng khóc to và dân chúng trong kinh thành đồng kêu lên:

– Bậc Ðại trí đang ra đi cùng chàng tuổi trẻ, ta hãy mau mau ra tiễn ngài lên đường.

Họ nhìn theo ngài trong sân chầu, song họ bảo nhau:

– Ðừng sầu khổ nữa, vạn pháp đều vô thường, giả tạm, vậy hãy nhiệt tâm bố thí và làm các thiện pháp. Rồi họ trở lại, ai về nhà nấy.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi ôm hôn trưởng nam và đè nén nỗi đau đớn trong lòng, mắt đẫm lệ, bậc Ðại Sĩ bước vào cung thất. Lúc bấy giờ có cả ngàn công tử, cả ngàn công nương, cả ngàn phu nhân, bảy trăm cung nữ, cùng nhiều nô tỳ, cận vệ, thân bằng quyến thuộc quỳ xuống khắp nơi, cả cung điện chẳng khác nào vườn cây sà-la ngả nghiêng trong cơn cuồng phong bão táp báo hiệu giờ tận thế.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Gia quyến của Trí giả Vidhura nằm phủ phục khắp cung điện như vườn cây sàla ngã nghiêng tơi tả trong cơn bão táp.

Cả ngàn phu nhân, bảy trăm nữ tỳ dang tay ra than khóc trong cung của Vidhura. Các hậu phi, vương tử, các Vệ-xá, Bà-la-môn, đang dang tay ra than khóc trong cung Vidhura. Các quan quản tượng, vệ sĩ, quản xa, bộ binh, đều dang tay than khóc trong cung của Vidhura. Thần dân khắp chốn thành thị, thôn quê tụ tập lại đồng dang tay than khóc trong cung của Vidhura.

Sau khi an ủi quần chúng và hoàn tất mọi việc còn sót lại, bậc Ðại Sĩ khích lệ các hậu phi và chỉ bảo cho họ những gì cần chỉ bảo, ngài đến gặp Punnaka cho chàng hay rằng ngài đã làm xong mọi việc cần làm.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Sau khi hoàn tất mọi việc cần thiết trong cung thất và chỉ bảo thân bằng quyến thuộc thê nhi, quân sư xong, sau khi sắp đặt mọi công việc bên ngoài cần lưu tâm và thông báo mọi kho vựa trong nhà, kho gia bảo cùng nợ nần phải trả, ngài nói với Punnaka:

– Chàng đã ở lại trong cung ta ba ngày rồi, ta đã làm xong mọi việc cần thiết, chỉ dạy vợ con xong xuôi, giờ đây ta hãy làm theo ý chàng, hỡi chàng Ca-chiên-diên.

Punnaka đáp lại:

– Nếu ngài đã hành động theo ý ngài, đã chỉ bảo vợ con, tùy tướng xong rồi, thì than ôi, giờ đây ngài đứng đó như người sắp vượt biển, cả một cuộc hành trình dài trước mắt ngài. Vậy đừng sợ hãi gì, hãy nắm lấy đuôi tuấn mã cao sang của ta và đây là lần cuối ngài thấy cảnh nhân gian.

Bậc Ðại Sĩ liền đáp lại:

– Ta còn phải sợ ai chứ, khi ta không hề làm ác đối với ai từ thân, ngữ, ý, thì làm sao ta gặp tai họa được?

Thế là bậc Ðại Sĩ can đảm như con sư tử kiêu hùng, lớn tiếng bảo:

– Ðây là cẩm bào của ta, đừng cởi nó ra nếu ta không cho phép.

Rồi với quyết tâm cao độ, ngài thắt đai áo thật chặt, gỡ đuôi ngựa ra, hai tay nắm chặt lấy, thúc đôi chân vào hông ngựa và bảo chàng:

– Ta đã nắm đuôi ngựa rồi, này thiếu niên, thôi hãy đi đâu tùy ý chàng.

Lúc ấy Punnaka ra lệnh cho con ngựa có đủ trí khôn kia, nó liền nhảy vọt lên bầu trời mang theo bậc Trí giả.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Ngựa chúa mang Vidhura lên bầu trời, chẳng bao lâu đến ngọn Hắc Sơn mà chẳng đụng vào cây cối núi non chập chùng.

Trong khi Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đi như vậy, các con ngài cùng nhiều người đến chứng kiến đi vào cung thất của ngài. Khi họ không thấy bậc Ðại Sĩ đâu cả, họ liền khóc lóc thảm thiết và ngã sóng sượt như thể chân cẳng họ đã đứt lìa.

Rồi khi họ thấy và nghe bậc Ðại Sĩ đang lúc ngài bay lên trời mà chẳng rõ duyên cớ gì, họ lại than khóc đi thẳng vào hoàng môn, với đám dân chúng theo sau. Vua nghe tiếng than khóc rền rỉ liền mở cửa sổ ra hỏi tại sao họ than khóc như vậy. Họ trình:

– Tâu Ðại vương, đó chẳng phải là chàng Bà-la-môn nào cả, mà chính thần Dạ-xoa giả dạng Bà-la-môn mang bậc Trí giả đi mất rồi. Không có ngài, chúng thần không thiết sống nữa; nếu ngài không trở về trong vòng bảy ngày nữa, chúng thần sẽ chất gỗ hàng trăm hàng ngàn xe và tự thiêu cả cho rồi.

Vua nghe vậy liền đáp:

– Bậc Ðại trí giả có giọng nói êm dịu sẽ thuyết phục chàng trai kia bằng giáo pháp của ngài và sẽ khiến chàng quy phục dưới nhân ngài, chẳng mấy chốc ngài sẽ trở về mang lại nụ cười cho bộ mặt sầu thảm của các khanh. Thôi đừng buồn rầu nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Thật đại hiền là bậc Trí nhân,
    Uyên thâm và đủ mọi tài năng;
    Không lâu ngài tự tìm đường thoát,
    Ngài sẽ trở lui, chớ hãi hùng.

Trong khi đó Punnaka, sau khi đã đem bậc Ðại Sĩ lên đỉnh Hắc Sơn, liền nghĩ thầm: “Người này còn sống thì ta không vinh hiển được, vậy ta sẽ giết y lấy quả tim đem về xứ Long vương dâng cho vương hậu Vimalà và sau khi chiếm được công chúa Irandatì, ta sẽ lên Thiên giới “.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Khi đã đến nơi, chàng nghĩ thầm: “Loài có trí hiện hữu trong nhiều đẳng cấp. Người này sống, ta chẳng ích gì, vậy ta hãy giết y và lấy con tim”.

Rồi chàng lại nghĩ: “Nếu chẳng cần giết y bằng chính tay ta, sao ta lại chẳng làm y chết đi vì kinh sợ bằng cách hiện ra hình thù khủng khiếp”. Thế là sau khi hiện hình ác quỷ, chàng đến gần nắm ngài xuống đất, ngoạm ngài trong miệng như thể sắp nuốt sống ngài, nhưng bậc Ðại Sĩ chẳng hề dựng sợi tóc nào. Chàng lại hiện hình sư tử và voi hung, lấy răng và ngà dọa tấn công ngài. Khi ngài chẳng tỏ ra khiếp sợ, chàng liền hiện hình đại mãng xà, to như chiếc thuyền lớn, hình máng xối, đến gần ngài rít lên, cuộn thân quanh ngài, phủ đầu ngài bằng chiếc mào, ngài vẫn chẳng tỏ chút gì sợ hãi. Rồi chàng bảo:

– Nếu y đứng trên đỉnh núi và rơi xuống ta sẽ làm y tan vụn ra từng mảnh.

Thế là chàng nổi trận cuồng phong, nhưng nó cũng chẳng lay động được đầu sợi tóc nào của ngài cả. Rồi chàng để ngài trên đỉnh núi, hiện hình con voi làm rung chuyển ngọn núi ngả nghiêng như thể cây chà là rừng. Nhưng dù vậy, chàng cũng không thể làm lay động được đầu sợi tóc nào của ngài cả. Sau đó chàng bảo:

– Ta sẽ làm tim y vỡ ra vì khiếp đảm khi nghe một tiếng gầm kinh khủng.

Rồi chàng đi vào trong núi, rống lên một tiếng gầm khủng khiếp rền vang cả đất trời nhưng bậc Ðại Sĩ cũng chẳng tỏ ra khiếp sợ, vì ngài biết rằng dù chàng hiện hình Dạ-xoa, sư tử, voi hay Long vương, có làm mưa gió rung chuyển núi rừng hay vào trong núi gầm thét vang dội đi nữa, chàng cũng chỉ là một phàm phu, không là gì khác.

Chàng Dạ-xoa liền nghĩ thầm: “Ta không thể nào giết y bằng cách tấn công bên ngoài, vậy ta chỉ còn cách giết y bằng chính tay ta”. Thế là chàng đặt bậc Ðại Sĩ lên trên đỉnh núi, còn chính chàng xuống chân núi đi lên từ lòng núi, như thể chàng xuyên sợi chỉ trắng qua hạt ngọc có xoi lỗ, với tiếng gầm lớn, chàng thô bạo chụp bậc Ðại Sĩ tung lên xoay tít, dựng đầu ngài xuống phía dưới trong khoảng không chẳng có vật gì để ngài có thể nắm lấy được.

Cảnh ấy được miêu tả như sau:

Sau khi đến đó và vào trong núi, Kàtiyàna với tâm địa ác độc nắm lấy đầu dốc ngài ngược xuống khoảng không gian bao la. Trong khi ngài lơ lửng như ở trên bờ địa ngục, cảnh tượng thật kinh hoàng, vô cùng nguy hiểm, khó vượt qua, bậc Hiền trí đệ nhất của toàn dân Câu-lâu vẫn không nao núng bảo chàng:

– Bản chất ngươi thật hèn hạ, mặc dù có lúc ngươi đã mang một hình tướng thật cao sang; ngươi phóng dật tột cùng mặc dù mang hình hài một vị khổ hạnh tự chế, ngươi đang phạm một việc ác độc và kỳ quái, không có gì tốt đẹp trong bản chất của ngươi cả. Tại sao ngươi lại giết ta, khi ngươi muốn thấy ta rơi xuống vực thẳm này? Tướng mạo ngươi có vẻ siêu phàm, hãy cho ta biết ngươi là loại thiên thần gì?

Punnaka đáp lại:

– Có lẽ ngài đã nghe danh thần Dạ-xoa Punnaka, là đại thần của vua Kuvera. Có một Long vương cai trị địa giới tên gọi Varuna, thật oai hùng, liêm khiết, có đầy đủ phong thái tốt đẹp cùng dũng lực. Ta mơ ước công chúa, con của ngài, một Long nữ tên gọi Irandatì, vì yêu nương tử diễm kiều ấy nên ta đã quyết tâm sát hại ngài đấy, thưa bậc Trí giả.

Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Thế giới này sụp đổ chỉ vì một việc hiểu lầm, tại sao một kẻ si tình Long nữ lại muốn giết ta? Ta phải biết tất cả sự thật của câu chuyện này mới được”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Này chớ bị lừa, hỡi Dạ-xoa,
    Nhiều người bị hại bởi lầm to,
    Việc chàng yêu quý nàng Long nữ,
    Nào có liên quan việc giết ta?
    Này hãy mau lên, thần đại lực,
    Kể ta nghe mọi chuyện kia mà.

Punnaka liền đáp ngài:

  1. Vì yêu ái nữ đại Long vương,
    Ta hội ý thân tộc của nàng,
    Và lúc ta cầu hôn thiếu nữ,
    Nhạc gia đã nói với ta rằng
    Các ngài hiểu mối tình say đắm:
    “Ta sẽ ban chàng vị quý nương
    Hình dáng yêu kiều, mắt diễm lệ
    Nụ cười tươi đẹp ngát trầm hương .
  2. Nếu chàng đem sính lễ vương gia,
    Tim của Trí nhân Vi-dhu-ra,
    Chiếm được nhờ công bằng thắng trận,
    Công nương được gả giá này mà,
    Chúng ta không nhận quà gì khác”.
    Như vậy ta đâu bị đánh lừa?
    Hỡi bậc chánh chân nghe thật kỹ,
    Không gì lầm lẫn về phần ta.
  3. Long vương sẽ gả vị công nương,
    Ðổi trái tim nhờ thắng chánh chân,
    Chính bởi điều này ta đã quyết,
    Giết ngài theo cách chúng ta cần,
    Nếu ta ném xác ngài trong vực
    Ta sẽ giết ngài, lấy quả tâm!

Khi bậc Ðại Sĩ nghe vậy, ngài suy nghĩ:

“Vương hậu Vimàla không cần trái tim của ta đâu. Vua Varuna sau khi nghe Pháp thoại, đã tán thán ta và ban ta châu báu; có lẽ khi ngài về cung đã tả lại năng lực thuyết Pháp của ta nên Vimalà cũng mong muốn nghe ta thuyết giảng. Punnaka có lẽ đã nhận được lệnh của Varuna qua một sự hiểu lầm và chàng ta cũng chịu tác động của sự lầm tưởng riêng nên mới gây ra tai họa này. Vậy nay đặc tính của một bậc trí như ta là có khả năng đưa ra ánh sáng và khám phá mọi chân lý. Nếu Punnaka giết ta thì có ích gì? Nay ta sẽ bảo chàng: “Này thiếu sinh, ta biết Chánh pháp mà thiện nhân phải tuân theo, vậy trước khi ta chết, hãy đặt ta trên đỉnh núi và nghe ta nói Pháp lành của thiện nhân, sau đó chàng muốn làm gì tùy ý”, rồi sau khi thuyết Pháp thiện nhân cho chàng, ta hãy để chàng giết đi”.

Thế là ngài ngâm kệ trong khi lơ lửng giữa trời, đầu dốc ngược xuống dưới:

  1. Hãy đặt ta ngay thẳng tức thì,
    Nếu chàng cần có trái tim kia,
    Hôm nay ta thuyết cho chàng rõ
    Pháp của thiện nhân, hãy lắng nghe.

Punnaka suy nghĩ: “Pháp lành chưa hề được tuyên thuyết trước chư Thiên và loài người. Vậy ta phải lập tức đặt ngài đứng xuống và nghe Pháp thiện nhân mới được”. Thế là chàng nhấc bậc Ðại Sĩ lên và đặt ngài trên đỉnh núi.

*

Bậc Ðạo Sư miêu tả cảnh ấy như sau:

Punnaka, sau khi vội vàng đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu xuống đỉnh núi, liền hỏi bậc Ðạo Sư đại trí, trong khi ngài ngồi nhìn cây pipul (cây đa):

– Ta đã đưa ngài lên từ vực thẳm, ta cần quả tim ngài hôm nay, vậy hãy giảng cho ta nghe Pháp lành của thiện nhân.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Ta đã được chàng cứu khỏi vực thẳm, nếu chàng cần trái tim ta, ta nguyện thuyết Pháp lành của thiện nhân cho chàng nghe hôm nay.

Rồi bậc Ðại Sĩ bảo:

– Thân thể ta nhơ uế, cho ta tắm rửa ngay.

Thần Dạ-xoa ưng thuận, mang nước đến và khi ngài đang tắm rửa, chàng liền đem thiên y cùng dầu thơm cho ngài. Sau khi ngài đã mặc y phục, trang điểm xong, chàng lại đem vật thực trên thiên giới cho ngài. Sau bữa ăn, bậc Ðại Sĩ trang hoàng đỉnh Hắc Sơn thật tràn trề hoa lá, lại bài trí một sàng tọa lộng lẫy xong, ngài ngồi xuống ngâm vần kệ, trình bày phận sự của một thiện nhân với vẻ uy nghi tối thắng của một vị Phật:

  1. Chàng hãy theo đường đã vạch ra,
    Chùi cho thật sạch bàn tay dơ,
    Đừng bao giờ phản bội bằng hữu,
    Đừng rớt vào uy lực nữ ma.

Chàng Dạ-xoa không thể nào thấu triệt ý nghĩa của bốn qui luật được diễn tả quá ngắn gọn như vậy, liền hỏi thêm chi tiết:

– Thế nào đi theo con đường đã vạch sẵn? Thế nào là đốt đi bàn tay lấm dơ? Những ai là nữ nhân bất tịnh? Những ai phản bội thân bằng? Xin ngài nói rõ theo yêu cầu của ta.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Kẻ nào mời ta vào nghỉ ngơi khi ta là lữ khách chưa hề quen biết trước đây, ta hãy làm theo họ. Bậc Trí giả gọi đó là người đi theo con đường đã vạch sẵn. Ta trú chân trong bất kỳ nhà nào dù chỉ qua một đêm và được mời ăn uống, thì ta đừng có ý nghĩ xấu trong đầu về người đó, kẻ nào phản bội bạn hữu là đốt một bàn tay vô tội . Ðừng bẻ cành cây đã cho ta bóng mát khi nằm ngồi, kẻ phản bội bạn bè thật hèn hạ. Hãy trao tặng mọi thứ vàng bạc của cải ở đời cho nữ nhân mà ta đã lựa chọn, tuy thế nữ nhân sẽ khinh bỉ ta khi có dịp; vậy đừng rơi vào uy lực của các nữ nhân bất tịnh. Như thế là một người biết theo đạo lộ đã vạch sẵn; thế là người ấy đốt cháy bàn tay vấy bẩn; đây là nữ nhân bất tịnh; đây là kẻ phản bội bằng hữu; còn kia là chính nhân, vậy hãy từ bỏ mọi bất công sai trái.

Như vậy, bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp cho chàng Dạ-xoa với uy nghi cao cả của một vị Phật về bốn phận sự của thiện nhân. Punnaka nghe xong, liền suy nghĩ: “Trong bốn lời khuyên này, bậc hiền trí chỉ cầu mong sự sống cho ngài, vì ngài thật sự đã tiếp đãi ta nồng hậu, dù ta còn là kẻ xa lạ trước đây; ta ở lại trong nhà ngài ba hôm, được ngài quý trọng vô cùng. Thế mà ta đang làm hại ngài chỉ vì một nữ nhân; hơn thế nữa, ta đang phản bội thân bằng, nếu ta làm hại bậc Trí giả này tức là ta không theo thiện nhân pháp, vậy ta cần gì Long nữ Nàga đã chứ? Ta phải lập tức đem ngài trở lại Indapatta làm cho những khuôn mặt u sầu của dân chúng tại đó được tươi vui và ta sẽ đặt ngài ngồi trên bảo tọa trong thính đường”. Rồi chàng nói to:

– Ta đã ở lại ba ngày trong nhà ngài, ta đã được ngài cung phụng thức ăn thức uống, ngài là bằng hữu của ta, ta sẽ để ngài đi, hỡi bậc Trí giả tối thắng, ngài cứ trở về nhà ngài theo ý nguyện. Ngoài ra những việc liên quan đến dòng giống Long vương đều hủy bỏ, ta không cần gì Long nữ nữa nhờ những lời lẽ chính đáng của ngài, nên ngài được thoát khỏi tai họa do ta giáng xuống hôm nay.

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

– Này thiếu sinh, đừng đưa ta trở lại nhà mà cứ đem ta đến cung Long vương đi.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Chàng hãy đưa ta, hỡi Dạ-xoa,
    Ðến thăm nhạc phụ của chàng mà,
    Rồi ta sẽ chỉ cho rồng chúa,
    Cung điện Long vương thuở đã qua,
    Ngài chẳng bao giờ trông thấy được,
    Hãy làm việc tốt nhất cho ta.

Punnaka đáp:

  1. Bậc Trí không nên để mắt trông,
    Những gì không lợi lạc thường nhân,
    Tại sao bậc Trí vô song địch,
    Ước muốn ra đi giữa địch quân?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Quả thật ta đây biết rõ rành,
    Trí nhân chỉ để ý điều lành,
    Nhưng không phạm tội bao giờ cả,
    Sao tử thần ta phải hãi kinh?

– Hơn nữa – ngài tiếp – nhờ bài thuyết Pháp của ta, một kẻ độc ác như chàng đã được điều phục và hồi tâm, nay chàng lại nói: “Ta không cần Long nữ nữa, ngài cứ trở về”. Nên phận sự của ta là phải làm dịu lòng Long vương, cứ đem ta lại đó tức thì.

Nghe vậy, Punnaka ưng thuận đáp:

– Này bậc Trí giả, ngài sẽ cùng ta chiêm ngưỡng thế giới huy hoàng vô song, nơi Long vương ngự trị giữa tiếng đàn ca múa hát chẳng khác nào Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) ở ngự viên Nalinì vậy. Có biết bao đoàn Long nữ xinh tươi với bao trò giải trí suốt sáng thâu đêm, cùng với trăm hoa đua sắc, khiến cung điện sáng rực như ánh chớp giữa không gian. Ðầy đủ sơn hào hải vị, mỹ tửu, ca múa, đàn sáo, các Long nữ với trang phục diễm kiều, cung điện sáng ngời với xiêm y và trân bảo.

*

VII. VIDHURA VÀO LONG CUNG

Rồi Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu ngồi đằng sau chàng và mang bậc Hiền trí lỗi lạc ấy đến cung Long vương. Khi đến cung điện huy hoàng vô song ấy, bậc hiền trí đứng sau Punnaka và Long vương nhìn thấy sự hòa hợp giữa hai vị, liền nói với phò mã tương lai như ngài đã nói trước kia:

– Khanh đã lên cõi nhân gian, đi tìm quả tim của bậc Hiền trí. Nay phải chăng khanh đã chiến thắng trở về, mang theo bậc Ðại trí vô song kia?

Punnaka đáp:

– Người mà Ðại vương mong cầu đã đến, đó là bậc bảo hộ tiểu thần trong mọi việc, người mà thần đã chiếm được bằng phương tiện chính đáng. Ðại vương hãy xem ngài thuyết Pháp trước Ðại vương. Diện kiến với thiện nhân sẽ đem lại an lạc.

Long vương ngâm kệ khi thấy bậc Ðại Sĩ:

  1. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
    Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
    Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
    Giờ không thể nói được lời ra,
    Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
    Ðây chẳng phải người Ðại trí mà!

Trong lúc Long vương có ý nghĩ như vậy và mặc dù vua rồng không nói thẳng ra rằng vua không tôn trọng ngài, ngài vẫn biết, nhờ thượng trí, cách cư xử cao đẹp nhất đối với mọi chúng sinh, nên ngài nói với vua rồng:

  1. Thần không sợ, tấu Chúa rồng linh,
    Bởi cái chết, thần chẳng hãi kinh,
    Nhưng tội nhân không quyền được nói,
    Với đao phủ nọ sắp hành hình,
    Và ngài cũng chẳng nên đòi hỏi,
    Kẻ tội phạm kia đối đáp mình.

Long vương liền ngâm kệ tán thán bậc Ðại Sĩ:

  1. Ðúng như ngài nói, hỡi Hiền nhân,
    Ngài nói chánh chân: Một tội nhân,
    Không quyền nói với người hành quyết,
    Người ấy cũng không hỏi tội nhân!

Sau đó bậc Ðại Sĩ ân cần nói với Long vương:

– Cảnh vinh quang, huy hoàng, oai lực cùng dòng dõi Long vương của Đại vương đều phải chịu sinh diệt, chưa phải trường tồn bất biến, thần xin hỏi Ðại vương: Tâu Ðại vương, làm thế nào ngài hưởng được cung điện này? Có phải không do duyên cớ gì cả hoặc do một nhân duyên trước kia phát khởi ra chăng? Có phải do ngài tạo ra hay do chư Thiên ban xuống? Xin hãy giải thích cho thần rõ, tâu Long vương, làm thế nào Ðại vương hưởng được cung điện này?

Long vương đáp lời:

– Chẳng phải không có nguyên nhân gì mà ta hưởng được cảnh này, cũng không phải do một nhân duyên nào trước kia phát khởi ra, cũng không phải do ta tạo hay chư Thiên ban xuống, mà ta hưởng thụ cảnh này do công đức của ta đạt được.

Bậc Ðại Sĩ lại nói:

– Ðại vương phát nguyện ra sao? Và thực hành thánh hạnh như thế nào? Thiện nghiệp nào đãđưa lại phước quả này? Ðó là cảnh vinh quang, huy hoàng, uy lực và dòng dõi Long vương của ngài cùng cung điện này, tâu Long vương.

Long vương đáp lại:

– Ở cõi trần thế, trẫm cùng vương hậu đều rất tín thành và đầy lòng nhân từ: tư thất của trẫm biến thành khách đường. Các Sa-môn, Bà-la-môn được cung phụng ẩm thực linh đình tại đó. Vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, đèn đuốc, tọa sàng, tư phòng, y phục, lương thực trẫm đều chuyên tâm cúng dường quảng đại tại đó. Ấy là hạnh nguyện và cách hành trì công đức của trẫm; còn đây là phước quả của công đức ấy: Cảnh vinh quang, huy hoàng, dòng dõi Long vương cùng cung điện này, thưa bậc Trí giả.

Bậc Ðại Sĩ lại bảo:

– Nếu Ðại vương hưởng được cung điện này bằng cách ấy, Ðại vương đã thấu hiểu quả báo của thiện nghiệp và luân hồi sinh tử, vậy thì xin Ðại vương tinh tấn hành trì công đức để đời sau lại tái sinh vào chốn cung đình.

Long vương đáp:

– Không có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đến đây để trẫm cúng dường vật thực, vậy thưa Tôn giả, xin cho trẫm biết điều trẫm đang mong cầu, đó là làm cách nào để trẫm lại có thể tái sinh vào chốn cung đình?

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Có nhiều rồng rắn tái sinh trong chốn này, cùng với quyến thuộc, thê nhi, nô tỳ của chúng, vậy xin Ðại vương đừng sát hại chúng bất kỳ bằng lời nói hay hành động. Xin Ðại vương thực hành thiện pháp trong lời nói cũng như hành động. Thế là Ðại vương sẽ được sống trọn đời trong cung điện này và khi từ trần sẽ lên cõi chư Thiên.

Sau khi nghe Pháp thoại của bậc Ðại Sĩ, Long vương nghĩ thầm: “Bậc Hiền trí này không thể xa nhà quá lâu, vậy ta sẽ đưa ngài đến yết kiến Vimalà cho nàng nghe chân ngôn của ngài, để xoa dịu nỗi ước vọng khát khao của nàng bấy lâu, thế là ta sẽ làm đẹp lòng vua Dhanañjaya vàđưa bậc Hiền trí trở về là chuyện rất phải”. Thế rồi ngài nói:

– Vị đệ nhất minh quân quả thật đang ưu sầu vì vắng ngài, vì ngài là cận thần của Ðại vương ấy; một khi ngài đã trở về đó, dù nay đang gặp hoạn nạn, khổ đau, thì người như ngài cũng sẽ chóng tìm được an lạc.

Bậc Ðại Sĩ liền tán thán Long vương:

– Ðại vương thật đã phán lên những lời cao quý của thiện nhân, đó là Chánh pháp tối thượng, chính trong những cơn nguy biến của cuộc đời như thế này, mà đặc tính của những kẻ như tiểu thần mới được sáng tỏ.

Long vương càng thêm hoan hỷ liền ngâm kệ:

  1. Chàng chiếm ngài không trả giá sao?
    Chàng hơn ngài lúc trổ tài cao?
    Chàng tâu thắng cuộc công bình lắm,
    Ngài thuộc quyền chàng bởi cách nào?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Pun-na-ka thắng cuộc tranh tài,
    Với Chúa thượng tôi lúc đánh bài,
    Ngài đã tặng tôi vì chiến bại,
    Công bằng chàng thắng chẳng gì sai.

Long vương vô cùng hân hoan khi nghe những lời lẽ cao quý của bậc Hiền nhân, liền nắm tay bậc Ðại trí đệ nhất ấy đưa vào diện kiến vương hậu:

– Này Vimalà, vì vị này mà ái khanh đã xanh xao, hao mòn vóc ngọc bấy lâu, cao lương đã mất hương vị dưới mắt khanh, vì trái tim của vầng nhật này mà khanh đã chuốc lấy phiền não bấy lâu, nay hãy nghe lời ngài cho kỹ, khanh sẽ không còn dịp gặp lại ngài nữa đâu.

Khi Vimalà trông thấy bậc đệ nhất Hiền trí, liền chắp tay cung kính và thưa với bậc đệ nhất Hiền trí của xứ Câu-lâu với tất cả lòng hoan hỷ:

  1. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
    Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
    Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
    Giờ không thể nói được lời ra,
    Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
    Ðây chẳng phải người đại trí mà.
  2. Thần không sợ, tâu chúa rồng linh,
    Vì cái chết, thần chẳng hãi kinh,
    Nhưng tội nhân không quyền được nói,
    Với đao phủ nọ sắp hành hình,
    Vị này cũng chẳng nên đòi hỏi,
    Kẻ tội phạm kia đối đáp mình!

Rồi Long nữ cũng hỏi bậc Hiền trí như Long vương đã hỏi trước đây và câu trả lời của ngài đã làm nàng hoan hỷ như Long vương vậy.

Bậc Hiền trí thấy rằng Long vương cùng Long nữ đều đẹp ý với câu đối đáp của ngài, tâm trí càng kiên cường, chẳng chút sợ hãi liền nói với Long vương:

– Tâu Ðại vương đừng ngại gì, có tiểu thần đây, xin Ðại vương tùy ý sử dụng sinh mạng tiểu thần, thịt da, tim óc tiểu thần ích lợi được việc gì, tiểu thần xin tuân hành, Ðại vương mặc tình định đoạt.

Long vương đáp:

– Trái tim của các bậc Hiền nhân chính là đại trí, hôm nay vương tộc chúng ta được hoan hỷ chính nhờ đại trí của ngài. Vậy chàng thiếu niên có uy danh toàn hảo kia (tức Punnaka) hãy rước công chúa vu quy ngay hôm nay, cùng đưa ngài trở về xứ Câu-lâu.

Nói xong Long vương Varuna trao công chúa Irandatì cho Punnaka khiến chàng vô cùng hoan hỷ liền dốc hết tâm can với bậc Ðại Sĩ.

*

Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:

Punnaka vô cùng hoan hỷ vì đã chinh phục được Long nữ Irandali, tâm hồn chàng đầy hạnh phúc, chàng thưa với bậc đệ nhất thiện nhân xứ Câu-lâu:

  1. Ngài đã làm ta được vợ tiên,
    Ta mong đền đáp xứng người hiền,
    Ta trao ngài ngọc vô song địch,
    Và rước ngài về xứ sở liền.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ khác tán dương chàng :

  1. Mong tình đôi lứa chẳng phai tàn,
    Do chính lòng hoan hỷ ngập tràn,
    Chàng hãy tặng ta viên ngọc quý,
    Rồi mang ta trở lại quê hương.

Sau đó Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân xứ Câu-lâu vào chỗ ngồi trước chàng và đưa bậc Ðại trí tối thượng về thành Indapatta. Chàng phi nhanh còn hơn cả tâm tư con người có thể bay bổng; rồi Punnaka đem vị đệ nhất thiện nhân của dân tộc Câu-lâu về thành Indapatta.

Sau đó chàng nói với ngài:

  1. Hãy ngắm thành đô trước mắt ngài:
    Phố phường khả ái, các vườn xoài,
    Nay ta được vợ tiên như ý,
    Ngài trở về nhà thỏa nguyện thôi!

*

VIII. VIDHURA TRỞ VỀ NHÀ

Cùng ngày hôm ấy, đang lúc thủy triều dâng vào sáng sớm, vua nằm mộng thấy ngay tại cung môn có một cây đại thọ, thân cây là trí tuệ, cành lá là công đức và kết quả là năm sản phẩm cao quý của bò cái (sữa tươi, sữa đông, bơ tươi, bơ chín, bơ đặc), với đàn voi ngựa được trang hoàng rực rỡ vây quanh, cùng đám đông dân chúng chắp tay cung kính đảnh lễ cây đại thọ. Bỗng một hắc nhân mặc hồng bào, hoa tai đỏ, cầm khí giới trong tay đến chặt cây tận gốc , mặc cho dân chúng phản đối và y kéo cây đi mất dạng ; xong y lại trở lại trồng cây vào chỗ cũ rồi giã từ. Lúc ấy vua hiểu mộng liền nghĩ thầm: “Bậc Trí giả Vidhura chứ không ai khác chính là cây đại thọ, chàng thiếu niên đem bậc Trí giả đi mất chính là người chặt cây dù cho dân chúng phản đối, vậy chàng sẽ trở lại đặt ngài trước cửa Chánh pháp đường rồi ra đi. Hôm nay ta sẽ được chiêm ngưỡng bậc Trí giả ấy”.

Thế là ngài hoan hỷ ban lệnh cho cả kinh thành trang hoàng rực rỡ, chuẩn bị Chánh pháp đường sẵn sàng cùng bảo tọa trong mái đình dát đầy trân bảo, còn ngài có cả trăm vua vị khác vây quanh cùng đám cận thần, dân chúng từ thành thị đến thôn quê tụ tập lại đó ngài nói lời an ủi họ:

– Các khanh đừng lo gì, các khanh sẽ lại gặp bậc Hiền trí hôm nay.

Ngài cũng ngồi trong Chánh pháp đường, mong đợi bậc Hiền trí trở về. Lát sau Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đến đặt giữa đám đông ấy ngay cửa Chánh pháp đường rồi cùng Irandatì trở về thiên giới của chàng.

*

Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:

Chàng Punnaka dòng dõi cao sang, đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu giữa đám dân chúng tôn sùng ngài, rồi leo lên thần mã oai phong của chàng bay vút qua không gian. Vua vừa thấy ngài, lòng đầy hoan hỷ, vụt đứng dậy ôm lấy ngài trong tay và không chút ngần ngại đặt ngài lên ngai vàng trước mặt vua ở giữa hội chúng.

Sau khi chào hỏi thân hữu xong, vua đón tiếp ngài ân cần và ngâm kệ:

  1. Khanh dẫn chúng ta tựa cỗ xe,
    Dân Câu-lâu hỷ lạc tràn trề,
    Khi nhìn khanh, trả lời ta rõ,
    Sao chàng niên thiếu để khanh về?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

65 – 66. Chàng thiếu niên kia, tấu Ðại vương,
Chàng không phải một kẻ tầm thường,
Hỡi anh hùng, có từng nghe nói,
Ðại lực Pun-na-ka, đại thần,
Của Ðại vương Ða-văn thượng giới?
Có Long vương nọ đại hùng cường,
Va-ru-na ấy là danh tánh,
Ðầy đủ oai phong với lực thần.

67- 68. Pun-na-ka ái mộ công nương,
Long nữ I-ran-da nõn nường,
Chàng lập mưu cho thần phải chết,
Chỉ vì kiều nữ chàng yêu thương;
Nay chàng được vợ tiên như ý,
Thần được phép về đến cố hương,
Và bảo ngọc kia thần chiếm được,
Là trân châu xứng Chuyển luân vương.

– Long vương hài lòng lối thần giải đáp vấn đề liên quan đến bốn cứu cánh của con người, nên ban cho thần vinh dự nhận lãnh một viên bảo ngọc. Khi ngài trở về Long cung, vương hậu Vimalà hỏi ngài viên bảo ngọc của ngài để đâu rồi, ngài liền kể lại tài thuyết Pháp của tiểu thần, khiến vương hậu ước ao được nghe Pháp thoại ấy nên giả cách ước muốn trái tim tiểu thần. Long vương không hiểu rõ ước nguyện thật sự của bà, nên bảo Long nữ Irandatì: “Mẫu hậu của con đòi trái tim của Vidhura, vậy con hãy tìm cho được một hiệp sĩ có khả năng đem trái tim ấy về đây”. Trong khi công chúa đi tìm, nàng gặp thần Dạ-xoa Punnaka là cháu của Ðại vương Vessavana. Biết chàng ấy đang yêu nàng say đắm, nên đem chàng về trình phụ vương, ngài liền bảo chàng: “Nếu chàng đủ khả năng đem về cho trẫm trái tim của Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa”.

Thế rồi chàng Dạ-xoa ấy, sau khi tìm được trên núi Vepulla viên bảo châu của một vị Chuyển luân vương, liền đi đến đây chơi bài súc sắc và chiếm được thần nhờ thắng cuộc và chàng ở lại tư thất tiểu thần ba ngày. Rồi chàng bảo tiểu thần nắm lấy đuôi thần mã của chàng, ném tung tiểu thần lên không qua bao nhiêu cây cối, núi non ở vùng Tuyết Sơn, nhưng không giết được tiểu thần. Chàng liền nổi trận cuồng phong trong đệ thất cảnh giới đầy cuồng phong ấy và tung tiểu thần lên đỉnh Hắc Sơn cao sáu mươi dặm, nơi đây chàng hiện hình sư tử cùng nhiều hình quái vật khác tấn công tiểu thần, nhưng cũng không giết được tiểu thần.

Cuối cùng theo lời thỉnh cầu của chàng, tiểu thần bảo cho chàng biết cách giết được tiểu thần. Kế đó tiểu thần thuyết giáo chàng về thiện nhân pháp; khi nghe xong, chàng vô cùng hoan hỷ nên muốn đem tiểu thần trở về đây. Tiểu thần lại cùng chàng đi đến Long cung, thuyết Pháp cho Long vương cùng vương hậu nghe, cả triều đình Long vương đều thỏa dạ. Sau sáu ngày thần ở lại Long cung, Long vương liền gả công chúa Irandatì cho Punnaka. Chàng thỏa nguyện khi đã chinh phục được nàng nên ban tặng thần nhiều châu báu làm quà. Sau đó Long vương ra lệnh chàng đưa tiểu thần lên thần mã do ý chàng tạo ra, chàng ngồi giữa công chúa ngồi phía sau, chàng đem tiểu thần về đây đặt giữa sân chầu, rồi cùng Irandatì bay về kinh thành của chàng.

Tâu Ðại vương, như vậy là vì mỹ nữ chàng yêu, chàng đã dự định giết tiểu thần để cưới được nàng. Nhưng khi Long vương nghe tiểu thần thuyết Pháp xong, lại hoan hỷ cho phép thần ra về. Và Punnaka lại trao tặng tiểu thần viên bảo châu như ý xúng đáng với một vị Chuyển luân vương, vậy xin Ðại vương nhận lấy bảo châu này.

Nói xong ngài dâng bảo ngọc lên vua. Sáng hôm sau vua muốn thuật lại cho thần dân nghe về giấc mộng của mình, liền kể câu chuyện như sau:

Trước hoàng môn có một cây đại thọ, thân nó là trí tuệ, cành lá là công đức, cây trái phát triển chín muồi theo lẽ tự nhiên, trái của nó là năm sản phẩm của con bò cái, cây được voi ngựa bao phủ chung quanh. Nhưng trong lúc mọi người đang đàn ca múa hát, một người lạ mặt đến chặt cây tận gốc rồi mang đi, sau đó cây lại trở về cung điện này của ta, các ngươi hãy đến chiêm bái cây ấy.

Các ngươi hãy biểu lộ lòng hân hoan của các ngươi vì trẫm bằng hành động, vậy hãy đem thật nhiều tặng vật đến chiêm bái cây này.

Bất cứ tù nhân trong quốc độ của trẫm đều được thả ra hết, cũng như cây này được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, mọi người đều được trả tự do.

Dân chúng hãy vui chơi hội hè suốt tháng này, cất hết cày bừa đi, hãy cung phụng các Bà-la-môn đủ thịt và cơm gạo, hãy để các vị ấy uống rượu ở chỗ riêng cho thỏa thích, dù quí vị nào có kiêng rượu hẳn đi nữa cũng cứ rót thật tràn trề. Hãy mời luôn đám thảo khấu và canh phòng quốc độ thật cẩn mật để không ai làm hại láng giềng mình được. Hãy đến chiêm bái cây này.

Khi vua đã ra lệnh như vậy, các cung phi, vương tử, vệ xá, Bà-la-môn liền đem cho bậc Hiền trí thật nhiều thức ăn uống.

Các tượng sư, vệ sĩ, kỵ mã, bộ binh liền đem thức ăn uống cho ngài. Dân chúng khắp thành thị, thôn quê tụ tập lại thành từng đám đem tặng thật nhiều thức ăn uống. Ðám đông hoan hỷ, chiêm ngưỡng bậc Hiền trí sau khi ngài xuất hiện. Khi ngài mới đến, họ vẫy khăn tay và reo vang khúc khải hoàn.

Một tháng sau, hội hè kết thúc. Bậc Ðại Sĩ muốn hoàn thành thiện pháp của một vị Phật, liền thuyết giáo cho dân chúng, khuyên cáo vua và khi mạng chung, ngài được lên thiên giới. Tuân theo lời dạy của ngài cùng theo gương vua, dân chúng xứ Câu-lâu đã cúng dường và thực hành thiện pháp, nên khi mạng chung đều đi lên cộng trú với chư Thiên thật đông đảo.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nói:

– Không phải chỉ ngày nay mà ngay trước kia, đức Phật khi đã đạt tối thắng trí, liền chứng tỏ tài năng tùy nghi phương tiện với cứu cánh.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy phụ mẫu của bậc Hiền trí chính là vương tộc ngày nay, chánh phi là mẹ của Ràhula (La-hầu-la), vị trưởng tử là La-hầu-la, Long vương Varuna là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Kim Sí điểu vương là Moggallàna (Mục-kiền-liên),Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), vua Dhanañjaya là Ànanda và bậc Trí giả Vidhura chính là Ta.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI (Tiền thân Mahà-Ummagga)

Vua Brah-ma-dát xứ Pãn-ca. . . .,

Trong khi trú tại Kỳ-Viên, bậc Đạo Sư kể chuyện này liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Một ngày kia, các Tỷ kheo ngồi tại Chánh pháp đường, miêu tả Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

– Này các hiền giả, đức Phật Chánh Đẳng Giác có Thắng trí thật quảng bác, linh lợi, tinh anh, sắc sảo, đánh tan mọi tà thuyết, chính nhờ thần lực đại trí của Ngài, sau khi quy phục Bà-la-môn Kùtadanta và nhiều Bà-la-môn khác, các ẩn sĩ Sàbhiya và nhiều ẩn sĩ khác, cường đạo Angulimàla cùng nhiều cường đạo khác, thần Dạ-xoa Àlavaka cùng nhiều thần Dạ-xoa khác, Thiên chủ Sakka cùng nhiều Thiên chủ khác, Bà-la-môn Baka cùng nhiều Bà-la-môn khác, v.v…khiến bọn họ phải khiêm nhường bái phục, Ngài lại truyền Đại giới cho một số đông ẩn sĩ và an trú họ vào Thánh Đạo Quả.

Bậc Đạo Sư đi đến, hỏi các Tỷ-kheo đang bàn luận gì, khi các vị nói cho ngài biết, Ngài bảo :

– Không phải bây giờ đức Phật mới có trí tuệ viên mãn, mà ngày xưa, trước khi trí tuệ Ngài viên mãn, Ngài đã đủ đại trí vào thời kỳ Ngài còn đang đi tìm đạo Giác Ngộ.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có vị vua danh hiệu Vedeha trị vì ở Mithilà. Ngài được bốn vị hiền trí dạy ngài về giáo pháp, đó là Senaka, Pukkusa, Kàvinda và Devinda.

Lúc bấy giờ Bồ-tát còn ở trong mẫu thai, một buổi tảng sáng, vua chiêm bao thấy mộng như sau: bốn cột lửa bừng sáng ở bốn gốc hoàng cung, cao như bức trường thành, ở giữa nổi lên một tia lửa bằng con đom đóm, bỗng chốc nó vượt cao quá bốn ngọn kia và bùng lên đến tận Phạm thiên giới, soi sáng toàn cõi thế gian, ngay đến một hột cải cũng được thấy rõ. Nhân giới và Thiên giới liền đưa hương hoa ra cung kính cúng dường ngọn lửa ấy rồi một đám đông đi xuyên qua ngọn lửa nhưng chẳng hề bị cháy sợi tóc nào. Vua thấy cảnh tượng ấy giật mình kinh hãi ngồi dậy suy đoán những điềm sắp xảy ra và đợi trời sáng. Bốn vị hiền trí sáng hôm sau đến vấn an vua có được ngon giấc chăng. Ngài bảo:

– Làm sao trẫm an giấc được khi trẫm chiêm bao như vậy?

Hiền giả Senaka tâu:

– Xin Đại vương đừng ngại, đó là mộng lành, Đại vương sẽ được vinh quang.

Rồi khi được yêu cầu giải thích rõ, ông nói:

– Tâu Đại vương, một vị hiền trí thứ năm sắp ra đời sẽ vượt hẳn chúng thần, chúng thần nay như bốn cột lửa, nhưng ở giữa chúng thần sẽ phát ra cột lửa thứ năm, là bậc Vô thượng Sĩ chiếm vị trí tối cao trong cõi nhân thiên.

– Thế vị ấy bây giờ ở đâu?

– Tâu Đại vương, vị ấy hoặc sẽ xuất hiện hoặc sẽ sinh ra từ mẫu thai.

Nhờ tri kiến do thiên nhãn thông, vị này nói như vậy, nên từ đó vua nhớ kỹ những lời ấy. Lúc bấy giờ ở bốn cổng thành Mithilà có bốn thị trấn gọi là Đông trấn, Nam trấn, Tây trấn và Bắc trấn. Ở Đông trấn có một phú gia tên gọi Sirivaddhaka và bà vợ tên là Sumanàdevi. Vào ngày vua nằm mộng ấy, bậc Đại Sĩ từ cõi trời Ba mươi ba xuống nhập thai mẹ và một ngàn vị Thiên tử cũng từ Thiên giới xuống đầu thai vào gia đình các phú thương ở làng ấy.

Sau mười tháng bà Sumàna sinh một cháu trai có màu da như vàng ròng. Lúc ấy Sakka Thiên chủ phóng mắt nhìn xuống thế gian, thấy bậc Đại Sĩ ra đời, ngài nhủ thầm ngài phải thông báo khắp cõi nhân thiên rằng vị Phật tương lai đã ra đời, ngài liền xuất hiện khi hài nhi vừa sinh ra,đặt một nhánh cỏ thuốc vào tay hài nhi, rồi trở về Thiên giới. Bậc Đại Sĩ nắm chặt nhánh cỏ trong tay và khi ngài ra đời từ bụng mẹ, mẹ ngài không thấy đau đớn tí nào cả, mà ngài ra nhẹ nhàng như nước tuông ra từ bình thánh lễ. Khi mẹ ngài trông thấy nhánh cỏ thuốc trong tay ngài, bà liền nói:

– Này con, con cầm vật gì thế?

Ngài đáp:

– Thưa mẹ, đó là cỏ thuốc.

Ngài đặt nó vào tay mẹ và bảo bà cất lấy để cho bất cứ người nào bị bệnh dù bệnh gì cũng được. Lòng đầy hoan hỷ, bà mẹ liền nói chuyện này với phú gia Sirivadhaka, vốn đã bị bệnh nhức đầu trong bảy năm qua. Ông sung sướng tự nhủ : Hài nhi này sinh ra từ bụng mẹ đã cầm cây thuốc và vừa ra đời đã trò chuyện cùng mẹ, cây thuốc do một bậc tài trí siêu phàm như vậy trao cho chắc phải có đại công lực”.

Thế là ông chà cây thuốc vào hòn đá mài rồi thoa một ít vào trán, lập tức chứng nhức đầu đeo đẳng ông trong bảy năm qua liền tiêu tan như nước lăn khỏi lá sen.Vô cùng sung sướng, ông kêu to:

– Đây là thuốc thần.

Tin tức lan truyền khắp nơi rằng bậc Đại Sĩ ra đời với cây thuốc thần trong tay, khiến bệnh nhân kéo đến tấp nập tại nhà phú thương xin thuốc. Họ lấy một ít đem cho mọi bệnh nhân, chà lên đá mài, trộn với nước, hễ thân bệnh nhân nào đụng đến thuốc thần đều lành bệnh cả, nên các bệnh nhân hân hoan ra đi loan truyền tin về công lực kỳ diệu của thần dược trong nhà phú thương Sirivadhata.

Vào ngày đặt tên hài nhi, phú thương nghĩ thầm: “Con ta không cần phải được đặt tên theo dòng họ tổ tiên, mà phải để con ta mang tên cây thuốc thần mới được”, và ông liền đặt tên con là Osadha-Kumàra (Dược thảo Nam tử). Rồi ông lại nghĩ thầm: “Con ta có được đại công đức như thế, chắc chẳng ra đời một mình đâu, còn có nhiều hài nhi khác cũng ra đời một lượt”. Khi hỏi thăm, phú ông nghe được cả ngàn hài nhi khác cùng ra đời một lượt với con mình, ông liền gởi chúng cho nhũ mẫu cùng y phục và quyết định rằng những hài nhi kia sẽ là người hầu cận của con ông, ông cử hành một đại lễ dành cho bậc Đại Sĩ cùng các hài nhi kia, điểm trang cho chúng thật đẹp và ngày ngày đến chơi đùa với ngài. Bậc Đại Sĩ lớn lên cùng các trẻ kia vui chơi thỏa thích.

Khi được bảy tuổi, ngài xinh đẹp như một pho tượng bằng vàng. Những lúc ngài chơi đùa với các trẻ trong làng, các bầy voi ngựa đi ngang qua cản trở trò chơi, hoặc đôi khi đám trẻ bị mệt nhọc vì mưa nắng.

Một ngày kia khi họ đang vui chơi, thình lình một cơn bão rớt trái mùa chợt đến, bậc Đại Sĩ lúc ấy đã mạnh như voi, thấy vậy vội chạy vào nhà, đám trẻ kia chạy theo vào, té ngã lên nhau, sưng trầy chân cẳng. Ngài liền nghĩ thầm: “Ta phải xây một hí trường tại đây, ta không thể chơi kiểu này mãi được”. Ngài liền bảo các trẻ kia:

– Ta hãy xây một hí trường tại đây, để có thể vào đứng, nằm, ngồi những lúc mưa gió, oi nồng, vậy các bạn hãy đem mỗi người một số tiền lại đây.

Đám ngàn trẻ kia vâng lời và bậc Đại Sĩ mời một chú thợ mộc đến trao số tiền và nhờ ông ta xây một sảnh đường tại đó. Người chủ thợ mộc nhận lời, san bằng mặt đất, dựng cột và giăng dây đo đạc, nhưng ông ta chưa hiểu ý bậc Đại Sĩ, nên ngài phải dặn người chủ thợ ấy đo dây thế nào cho phù hợp ý ngài. Người ấy nói:

– Lão giăng dây ra theo kinh nghiệm hành nghề của lão thôi, chứ lão không biết làm cách khác.

– Nếu lão không biết chỉ một chuyện này thôi thì làm sao lão nhận tiền của ta mà xây nhà cho được? Vậy lão hãy cầm dây đi, ta sẽ đo và chỉ cho lão thấy.

Ngài bảo ông cầm dây rồi chính ngài đo lấy đồ án, như thể thần Vissakamma đã thực hiện trước đây vậy. Xong ngài hỏi người thợ mộc:

– Thế lão có biết vẽ đồ án cách này không?

– Thưa ngài, lão không biết.

– Thế lão có thể vẽ theo lời ta chỉ dẫn không?

– Thưa ngài, được.

Bậc Đại Sĩ liền sắp đặt sảnh đường có một phần là nơi cư trú cho lữ khách bình thường, một phần là nơi cư trú cho các phụ nữ nghèo khổ, một phần là nơi cư trú cho những người bần cùng, một phần là nơi cư trú của các Sa-môn, Bà-la-môn, một phần khác dành cho đủ loại nam nhân, một phần khác dành cho các khách thương lạ cất hàng hóa, mọi phòng đều có cửa lớn thông ra ngoài. Lại có một nơi công cộng dành cho các trò giải trí, một tòa án và một phòng lớn để làm thánh lễ.

Khi công việc đã hoàn tất, ngài triệu tập các họa sĩ lại và chính ngài xem họ họa hình thật đẹp để trang hoàng sảnh đường chẳng khác nào thiên cung Sudhamma của Sakka Thiên chủ. Ngài vẫn nghĩ rằng cung điện ấy chưa hoàn hảo: “Ta phải cho xây một hồ nước mới được”. Ngài liền ra lệnh đào đất và bàn luận việc này với một kiến trúc sư xong, ngài trao tiền bảo ông ta xây một hồ nước có một ngàn lối rẽ trên bờ và một trăm bến tắm.

Mặt nước thả năm loại hoa sen rực rỡ chẳng khác nào hồ trên hoa viên Nandana của thiên giới. Trên bờ ngài trồng nhiều loại cây và hoa viên chẳng khác nào vườn thiên lạc Nandana. Gần sảnh đường, ngài dựng lên một nơi cúng dường các bậc tu hành dù là Sa-môn hay Bà-la-môn, cùng các lữ khách hay dân chúng từ các làng lân cận.

Các hành động của ngài gây tiếng vang khắp nơi khiến các đám dân chúng tụ tập tại sảnh đường. Bậc Đại Sĩ thường ngồi đó bàn luận chánh tà trong các việc thiện ác của các đám người đến xin ở lại đây, ngài phán xét từng trường hợp và thời kỳ ấy thật an lạc chẳng khác nào thời một đức Phật xuất hiện tại thế.

Lúc bấy giờ, khi mãn hạn bảy năm, vua Vedeha nhớ lại bốn vị hiền trí đã bảo rằng một hiền trí thứ năm sẽ ra đời vượt lên hẳn bốn vị ấy về tài trí và tự nhủ: “Thế vị này hiện nay ở đâu?”. Vua liền phái bốn vị cận thần ra bốn hoàng môn, ban lệnh cho họ đi tìm vị hiền trí ấy. Khi họ ra ba hoàng môn kia, họ không tìm thấy dấu hiệu nào của bậc Đại Sĩ, nhưng khi họ ra phía Đông môn họ thấy sảnh đường ấy cùng nhiều lâu đài khác, họ tìm chắc rằng chỉ có bậc hiền trí mới xây dựng lâu đài này hoặc bảo dân chúng xây dựng lên như vậy. Họ liền hỏi công chúng:

– Vị kiến trúc sư nào đã xây lên sảnh đường này?

Dân chúng đáp:

– Lâu đài này không phải do một kiến trúc sư nào xây hoặc do quyền lực của vị ấy xây lên, mà là do sự hướng dẫn của bậc Trí giả Mahosadha (Đại thần dược ), con trai của phú thương Sirivaddha.

– Cậu ấy bao nhiêu tuổi?

– Cậu vừa tròn bảy tuổi.

Vị cận thần suy xét lại mọi biến cố xảy ra từ ngày vua chiêm bao đến nay và tự nhủ: “Chuyện này ứng với chiêm bao của vua rồi”, liền sai sứ giả dâng sớ trình vua:

– Mahosadha, con trai của phú thương Sirivaddha ở Đông môn thành, nay lên bảy tuổi, đã bảo xây một sảnh đường cùng hoa viên và hồ nước như vậy, xin cho tiểu thần đem cậu bé ấy đến yết kiến Đại vương được chăng?

Khi nghe vậy, vua vô cùng hoan hỷ, truyền mời Senaka đến. Sau khi kể lại sự việc, vua hỏi ông xem có nên triệu vị Trí giả ấy đến chăng. Nhưng ông ganh tỵ với chức Trí giả ấy, liền đáp:

– Tâu Đại vương, ta không nên gọi một người nào là hiền trí chỉ vì người ấy ra lệnh bảo xây những lâu đài như vậy cả, đó chỉ là việc nhỏ chẳng quan trọng gì.

Khi vua nghe vậy, nhủ thầm: “Chắc phải có lý do bí mật nào đây”, rồi ngài im lặng. Ngài cho sứ giả ra về, dặn viên đại thần phải ở lại nơi ấy một thời gian và quan sát vị Trí giả ấy thật kỹ lưỡng. Vị cận thần ở lại đó thăm dò mọi hành vi của vị Trí giả và sau đây là một loạt các cách thử tài hay cuộc thăm dò.

  1. MIẾNG THỊT.

Một ngày kia khi bậc Đại Sĩ đi đến giải trí trường, một con diều hâu tha đi một miếng thịt từ chiếc bàn đồ tể, bay vụt lên không, vài người thấy vậy, định bắt nó thả xuống nên đuổi theo nó. Diều hâu bay đủ hướng, khiến họ nhìn lên đuổi theo nó mệt nhoài, ném đá cùng nhiều khí giới khác, ngã nhào lên nhau. Bậc Đại Sĩ liền bảo họ:

– Ta sẽ làm cho nó thả thịt xuống.

Họ liền yêu cầu ngài làm ngay. Ngài bảo họ nhìn lên rồi chính ngài cũng nhìn lên và chạy nhanh như gió, dẫm lên bóng con diều hâu, vỗ tay thật lớn. Nhờ uy lực của ngài, tiếng thét ấy dường như xuyên thủng bụng diều hâu khiến nó kinh hoảng thả miếng thịt xuống. Bậc Đại Sĩ canh chừng theo cái bóng nó rớt xuống, chụp lấy thịt trên không trước khi nó chạm đất. Dân chúng thấy việc hy hữu như vậy, reo hò vỗ tay vang dội.

Vị cận thần nghe tin ấy, liền gởi sớ về dâng vua kể chuyện vị Trí giả dùng phương tiện bắt con diều hâu thả miếng thịt. Vua được tin, hỏi Senaka có nên triệu hồi Trí giả về triều không. Senaka suy nghĩ : “Nếu nó về đây ta sẽ mất hết vinh quang và đức vua sẽ quên ta mất. Thôi ta không thể để đức vua mang nó về đây được”.Thế là vì ganh tỵ, ông bảo:

– Không thể gọi là hiền trí chỉ vì một việc như vậy, đó chỉ là việc nhỏ.

Vua muốn thật chí công vô tư, liền ra lệnh nhắn vị cận thần phải thử thách ngài thêm nữa.

  1. ĐÀN BÒ.

Một người dân làng Yavamajjhaka mua một số trâu bò từ làng bên cạnh đem về nhà. Hôm sau gã đem bò ra đồng cho ăn cỏ rồi cỡi một con dạo chơi. Khi mệt mỏi gã ngồi xuống đất ngủ say, một tên trộm xuất hiện mang đàn bò đi mất. Khi gã thức dậy chẳng thấy đàn bò đâu, nhưng khi nhìn quanh gã thấy tên trộm đang chạy trốn. Gã nhảy tới kêu gào:

– Mi đem đàn bò ta đi đâu?

– Đây là đàn bò của ta, ta muốn đem đi đâu mặc ta.

Một đám người xúm lại nghe đấu khẩu. Khi bậc Hiền trí nghe tiếng ồn ào lúc bọn họ đi ngang qua cửa sảnh đường, ngài cho mời họ vào. Khi ngài thấy dáng điệu của họ, ngài biết ngay ai là tên trộm, còn ai là chủ nhân thật sự của đàn bò. Nhưng dù ngài biết chắc như vậy, ngài vẫn hỏi họ đang tranh cãi điều gì. chủ nhân đàn bò bảo:

– Tôi mua đàn bò của người kia ở một làng nọ, tôi đem chúng về nhà rồi cho ra đồng ăn cỏ. Tên trộm này thấy tôi không canh chừng kỹ liền đến dắt nó đi. Nhìn quanh tôi thấy gã, liền chạy theo bắt lấy gã. Dân làng kia biết tôi mua bò và mang về.

Tên trộm đáp:

– Kẻ này nói dối, đàn bò sinh ra trong nhà tôi.

Bậc Trí giả nói:

– Ta sẽ xử vụ này công bình, các anh có nghe ta xử chăng?

Họ đều hứa sẽ tuân theo. Thế là tự nhủ rằng ngài sẽ chiếm được lòng dân chúng, ngài hỏi tên trộm trước tiên:

– Anh cho đàn bò ăn thức gì?

– Chúng uống nước cháo cùng ăn bột mè và đậu.

Ngài lại hỏi chủ nhân thật sự, người này đáp :

– Thưa Tôn ông, nhà nghèo như kẻ hèn đây, làm gì có cháo cùng các thức kia, kẻ hèn chỉ cho bò ăn cỏ.

Bậc Hiền trí liền triệu tập một đám người lại, bảo họ đem hột tắc đến, nghiền nát trong cối, trộn với nước rồi cho bò ăn, chúng liền nôn ra toàn cỏ. Ngài chỉ cho đám đông thấy, rồi hỏi tên trộm :

– Anh có phải kẻ trộm hay không?

Gã liền thú nhận chính là tên trộm. Ngài bảo gã:

– Thôi từ nay đừng phạm tội như thế nữa.

Nhưng đám quân hầu của Bồ-tát mang gã ra ngoài và chặt tay chân gã khiến gã rất khốn đốn, ngài liền khuyên răn gã thêm:

– Nỗi khổ đau này đến với anh trong đời hiện tại, nhưng đời sau anh sẽ chịu cực hình ở nhiều địa ngục nữa, vậy từ nay anh phải từ bỏ ác hạnh như vậy đi.

Ngài dạy gã Ngũ giới.

Vị cận thần dâng sớ kể vệc này, vua lại hỏi ý Senaka, nhưng ông khuyên vua nên chờ đợi :

– Đây chỉ là việc nhỏ về việc đàn bò, ai cũng có thể xử được.

Vì muốn công bình vua ban lệnh như trước.(Các vụ xử sau đây cũng được hiểu như vậy, ta cứ theo thứ tự từng vụ một).

  1. XÂU CHUỔI BẰNG CHÌ.

Một người đàn bà nghèo buộc nhiều sợi chỉ màu lại làm thành sợi dây đeo cổ. Bà cởi nó ra để trên áo quần khi xuống tắm trong hồ mà bậc Trí giả đã cho đào. Một cô gái thấy vậy đem lòng thèm muốn, cầm sợi dây lên bảo:

– Mẹ ơi, dây đeo cổ này đẹp quá, giá bao nhiêu con muốn làm cho con một sợi. Mẹ cho con đeo thử để biết chắc cỡ nào hở mẹ?

Bà kia cho phép cô gái, cô liền đeo vào và chạy mất. Bà già vội nhảy ra khỏi nước, mặc áo quần đuổi theo cô gái, chụp lấy cô ta thét lên :

– Cô lấy sợi dây của ta làm mà chạy trốn.

Cô kia đáp:

– Tôi không lấy cái gì của bà cả, dây này tôi vẫn đeo trên cổ lâu nay.

Một đám đông tụ lại xem khi nghe chuyện cãi cọ. Bậc Hiền trí đang nô đùa cùng lũ trẻ, nghe họ cãi nhau khi đi ngang qua sảnh đường, liền hỏi chuyện gì gây ồn ào. Khi biết nguyên nhân vụ cãi cọ, ngài cho gọi cả hai vào, nhìn dáng điệu ngài biết ngay ai là kẻ cắp, ngài liền hỏi họ có chịu nghe theo ngài xét xử không. Cả hai đều bằng lòng. Ngài hỏi kẻ cắp :

– Cô dùng hương gì để tẩm vào sợi dây đeo cổ này?

Cô gái đáp:

– Tiện nữ luôn luôn dùng hương gồm nhiều thứ hương (Sabbasamhàraka) pha trộn để tẩm vào nó.

Rồi ngài lại hỏi bà kia, bà liền đáp:

– Một người nghèo như lão làm gì có hương Sabbasamhàraka? Lão chỉ tẩm nó với hương hoa Piyangu mà thôi.

Bậc Trí giả bảo đem đến một bình nước và thả dây vào trong, rồi ngài cho gọi một người bán nước hoa đến ngửi bình nước để nhận ra mùi gì, gã liền nhận ra ngay mùi hoa Piyangu và đọc bài kệ đã từng đưa ra trong Chương một: (số 110):

Chẳng có mùi hương của bá hoa,
Chỉ Kan-gu cứ thoảng bay ra,
Nữ nhân ác độc kia gian dối,
Bà lão nhà quê nói thật thà.

Bậc Đại Sĩ liền kể cho khách bàng quan nghe mọi sự việc, xong hỏi riêng hai người trong cuộc:

– Chị có phải kẻ cắp không? Bà không phải kẻ cắp chứ?

Rồi ngài bắt kẻ kia phải nhận tội. Từ đó ngài nổi tiếng khôn ngoan tài trí khắp vùng.

  1. SỢI CHỈ.

Một người đàn bà kia thường đứng canh ruộng bông vải. Một bửa nọ, chị lấy một ít sợi đẹp cuộn thành quả cầu dệt trên vạt áo. Lúc đi về nhà, chị ta nghĩ thầm: “Ta xuống tắm trong hồ của bậc Đại trí mới được”, rồi chị ta đặt quả cầu trên áo bước xuống hồ tắm. Một người đàn bà khác thấy vậy sinh lòng thèm muốn, bảo:

– Quả cầu chỉ này đẹp quá, chị cuộn lấy phải không?

Rồi chị ta bật nhẹ ngón tay, đặt quả cầu trên vạt áo như thể muốn xem thật kỹ, rồi bỏ đi mất. (Chuyện này cũng giống như các chuyện trước đây).

Bậc Trí giả hỏi kẻ cắp:

– Khi cuộn quả cầu này, chị bỏ gì vào trong đó?

Chị ta trả lời:

– Thưa ngài, một hột bông vải.

Rồi ngài hỏi người kia, chị ta đáp:

– Thưa ngài, một hột timbaru.

Khi đám đông đã nghe hai người nói xong, ngài tháo quả cầu lấy ra một hột timbaru bên trong khiến cho kẻ cắp phải thú nhận tội. Đám đông vui vẻ reo hò trước cảnh xử kiện của bậc Đại trí.

  1. ĐỨA CON TRAI.

Một người đàn bà kia đem con trai xuống hồ của bậc Đại Sĩ đi tắm rửa. Khi tắm con xong, chị đặt con nằm trên áo mình rồi đi tắm. Lúc ấy một nữ quỷ Dạ-xoa cái thấy đứa bé muốn ăn thịt, liền cầm nó lên và hỏi:

– Này chị bạn, cháu xinh quá, con chị đấy phải không?

Rồi nó hỏi xem nó có thể cho đứa bé bú không. Khi người mẹ bằng lòng, nó liền ẵm đứa bé lên chơi đùa một lát rồi chạy đi mất. Bà mẹ rượt theo chụp lấy nó la lên:

– Này chị mang con tôi đi đâu?

Con quỷ cái đáp:

– Sao chị dám đụng vào đứa bé này? Nó là con tôi mà.

Họ vừa cãi cọ vừa đi ngang cửa sảnh đường, bậc Đại trí nghe tiếng ồn ào cho gọi họ và hỏi chuyện. Nghe xong, mặc dù nhìn thấy đôi mắt đỏ không chớp của nữ yêu tinh, ngài biết ngay ai là con quỷ cái, ngài cũng hỏi họ có chịu nghe theo lời ngài xét xử chăng. Khi họ hứa nghe theo, ngài liền vẽ một đường thẳng, đặt đứa bé lên, bảo con quỷ nắm tay đứa bé và người mẹ nắm chân nó. Rồi ngài bảo:

– Nắm lấy nó mà lôi đi, kẻ nào lôi được nó về phía mình là con của mình.

Cả hai đều lôi kéo, đứa bé bị đau òa khóc to. Người mẹ đau lòng như cắt đành để đứa bé bị lôi đi và đứng khóc. Bậc Hiền trí hỏi đám đông:

– Có phải chính lòng mẹ mới thương yêu con mình hay lòng của kẻ không phải là mẹ?

Họ đáp:

– Chính lòng mẹ.

– Thế người nắm chặt đứa bé là mẹ nó hay người để cho nó bị lôi đi là mẹ nó?

Họ đáp :

– Người để cho nó bị lôi đi.

– Các ngươi có biết kẻ trộm đứa bé là ai chăng?

– Thưa bậc Hiền giả, chúng tôi không được biết.

– Nó là quỷ cái bắt trẻ con để ăn thịt.

Họ hỏi làm thế nào ngài biết được như vậy, ngài đáp:

– Ta nhìn thấy đôi mắt đỏ của nó, nó lại không đổ bóng xuống đường, tính tình táo tợn và tàn bạo nữa.

Rồi ngài hỏi nó là ai, nó thú nhận chính là quỷ cái.

– Tại sao ngươi bắt đứa bé?

– Thưa ngài, để ăn thịt.

– Ngươi thật ngu muội quá, đời trước ngươi đã phạm tội phải sinh làm yêu quỷ, nay lại vẫn tiếp tục gây tội, thật mê mờ quá.

Rồi ngài khích lệ nó, dạy nó Ngũ giới, xong thả cho nó đi; còn người mẹ chúc tụng ngài:

– Tiện tỳ xin cầu chúc Chúa công trường thọ.

Rồi chị ẵm con về.

  1. QUẢ CẦU ĐEN.

Có một gã đàn ông tên gọi Golakàla. Gã có tên “Gola” nghĩa là Quả cầu bởi vì thân hình lùn tịt và “kàla” vì màu da đen bóng. Gã làm việc trong nhà kia bảy năm liền, cưới được cô vợ tên là Dìghatàla (Cây dừa cao).

Một ngày kia gã bảo vợ:

– Này hiền thê, nàng hãy làm mứt bánh cùng thức ăn rồi ta về thăm cha mẹ nàng.

Lúc đầu người vợ phản đối dự định này, bảo chồng:

– Ta còn liên hệ gì đến cha mẹ nữa.

Nhưng sau khi gã chồng nài nỉ ba lần, gã cũng bảo được vợ nấu bánh kẹo, đem thêm một số thực phẩm và quà biếu. Gã cùng vợ lên đường. Trên đường đi, gã đến một dòng sông không sâu lắm, nhưng cả hai đều sợ nước, nên không dám lội qua, chỉ đứng trên bờ.

Bấy giờ có một gã nghèo khổ tên Dìghapitthi (Lưng dài) đi dọc bờ suối, đến nơi này, họ liền hỏi gã suối sâu hay cạn. Thấy họ sợ nước, gã bảo:

– Sâu lắm và đầy loài cá ăn thịt.

– Thế làm sao ông qua sông được?

– Ta đã đánh bạn với cá sấu và thủy quái ở đây nên chúng không hại ta.

– Vậy xin Tôn ông đem chúng tôi qua suối với. Họ bảo gã.

Khi gã bằng lòng, họ cho gã ăn uống rượu thịt; xong bữa, gã hỏi họ gã sẽ đem ai qua suối trước. Golakàla bảo:

– Xin đem tiểu muội qua trước rồi tiểu đệ sẽ qua sau.

Gã liền đặt nàng ngồi trên vai, cầm lấy thực phẩm, quà biếu và bước xuống dòng. Khi đã đi được một lát, gã cúi người xuống và đi với dáng cong cong. Golakàla đứng trên bờ thấy vậy, nghĩ thầm: “Dòng suối này chắc phải sâu lắm, một người như Dìghapitthi mà còn khó khăn vậy thay, huống gì ta chắc không thể nào qua được.” Khi gã kia đem người đàn bà ra đến giữa dòng, gã bảo nàng:

– Nương tử ơi, ta sẽ yêu quý nàng, nàng sẽ sống đời cao sang, mặc gấm vóc lụa là, đeo nữ trang ngọc vàng, có kẻ hầu người hạ, chứ gã gù kia làm gì cho nàng được? Xin nàng hãy nghe ta.

Nàng nghe gã nói êm tai nên không còn yêu chồng nữa mà mê mẩn ngay kẻ xa lạ này, nàng bằng lòng bảo gã:

– Nếu chàng không bỏ thiếp, thiếp xin vâng lời chàng.

Thế là khi họ sang bờ bên kia, họ vui thú cùng nhau, bỏ rơi gã Golakàla bên bờ cũ. Trong khi gã đứng trông chừng, thì họ ăn hết rượu thịt và ra đi. Gã thấy vậy liền la lên:

– Chúng đã đánh bạn với nhau và bỏ trốn, để ta lại đây!

Trong khi gã chạy lui chạy tới, gã mới bước xuống nước một khoảng liền thối lui vì sợ hãi, nhưng lòng căm giận cách ăn ở của bọn kia, gã tuyệt vọng nhảy ùm xuống nước và bảo:

– Thà một chết một sống!

Và khi xuống nước rồi gã mới biết nước cạn quá chừng. Thế là gã lội qua vừa đuổi theo chúng vừa la to:

– Tên trộm khốn nạn kia, mi đem vợ ta đi đâu?

Gã kia đáp:

– Sao lại vợ ngươi? Vợ ta chứ?

Rồi nắm cổ gã lùn, gã xoay y một vòng và ném y xuống đất. Gã lùn chụp tay Dìghatàla hét to:

– Ngừng lại, nàng đi đâu đấy! Nàng là vợ ta, ta cưới được nàng sau bảy năm làm lụng tại nhà kia mà.

Họ đang cãi cọ như vậy thì vừa đến sảnh đường. Một đám đông tụ lại xem. Bậc Đại Sĩ hỏi chuyện gì gây ồn ào, ngài hỏi họ có chịu nghe ngài xử kiện chăng. Khi họ đều bằng lòng, ngài gọi gã Dìghapitthi lại, hỏi tên gã, xong hỏi tên vợ gã nhưng gã không biết nên nói một tên khác. Rồi ngài hỏi tên cha mẹ gã, gã đáp được nhưng ngài hỏi tên cha mẹ vợ thì gã không biết, nên đã nói một tên khác.

Bậc Đại Sĩ sắp đặt câu chuyện của gã xong và cho gã lui ra. Rồi ngài cho gọi gã lùn vào và cũng hỏi tên họ như vậy. Gã này biết hết nên trả lời đúng cả. Ngài lại bảo gã lui ra, rồi cho gọi Dìghatàla vào, hỏi tên nàng, nàng đáp được, nhưng khi hỏi tên chồng, nàng không biết nên nói sai. Khi hỏi tên cha nàng, nàng đáp đúng, nhưng khi được hỏi tên cha mẹ chồng, nàng đáp bừa và nói sai. Sau đó bậc Trí giả cho gọi hai gã vào và hỏi đám đông:

– Câu chuyện của người đàn bà này hợp với Dìghapitthi hay Golakàla?

Họ đáp:

– Hợp với Golakàla.

Rồi ngài tuyên án:

– Người này là chồng chị ta, người kia là kẻ trộm.

Khi ngài hỏi lại gã, ngài buộc gã phải thú tội đã làm tên trộm vợ người.

  1. CỖ XE.

Một người đàn ông trên xe ngựa bước xuống đất để rửa mặt. Vừa lúc ấy Sakka Thiên chủ đang xem xét thế gian, khi ngài thấy bậc Trí giả liền quyết định làm cho thế nhân biết được uy lực và tài trí của Mahosadha, đức Phật trong thời vị lai. Vì thế, ngài giáng thế, giả dạng đàn ông theo sau chiếc xe, giữ tay lái đằng sau. Người chủ ngồi trong xe hỏi:

– Anh đến đây làm gì?

Ngài đáp:

– Thưa Tôn ông, để hầu hạ Tôn ông.

Người ấy bằng lòng ngay và xuống xe qua bên đường đi tiểu tiện. Lập tức Sakka Thiên chủ lên xe phóng đi mất. Người chủ xe xong việc trở lại, thấy Sakka Thiên chủ phóng xe chạy trốn, liền đuổi theo và la to:

– Ngừng lại, ngừng lại, anh đem xe ta đi dâu?

Thiên chủ đáp:

– Xe của ông là cái nào kia chứ, đây là xe ta mà!

Vừa cãi cọ họ vừa chạy ngang qua cửa sảnh đường. Bậc Trí giả hỏi:

– Chuyện gì thế?

Và ngài cho mời Thiên chủ vào. Khi Thiên chủ vào, nhìn dáng điệu oai vệ và đôi mắt không chớp của ngài, bậc Trí giả biết ngay là Sakka Thiên chủ và kẻ kia là chủ xe. Tuy thế ngài vẫn hỏi nguyên do cuộc cãi vã và bảo họ:

– Các vị có chịu nghe ta xét xử chăng?

Họ đồng đáp:

– Thưa vâng.

Ngài tiếp tục nói:

– Ta sẽ làm cho xe chạy, cả hai vị đều phải giữ tay lái đằng sau, người nào chủ chiếc xe sẽ không để xe chạy mất, còn người kia mới để nó chạy.

Xong ngài bảo một người lái xe, còn hai người kia giữ tay lái đằng sau. Chủ xe chạy được một quãng thì không thể nào chạy theo kịp, đành để nó đi mất, còn Sakka Thiên chủ vẫn tiếp tục chạy theo xe. Khi Bậc Trí giả gọi chiếc xe trở lại, ngài bảo với đám đông:

– Người này mới chạy một lát đã để nó đi mất, còn người kia chạy đến cùng với chiếc xe rồi còn chạy lui nữa, mà lại chẳng đổ một giọt mồ hôi nào trên thân. Không thở dốc, không sợ sệt gì cả, đôi mắt lại không chớp, đây chính là Sakka Thiên chủ, Đại đế của chư Thiên.

Rồi ngài hỏi:

– Thưa ngài, chính phải ngài là Thiên chủ chăng?

– Chính phải.

– Thế ngài đến đây làm gì?

– Để làm rạng danh tài trí của Hiền giả.

Ngài đáp:

– Vậy thì xin Thiên chủ chớ làm như vậy nữa.

Bấy giờ Sakka Thiên chủ xuất lộ oai thần bằng cách đứng lơ lửng trên không, tán thán bậc Hiền giả:

– Thật là một lối xét xử đầy tài trí.

Rồi ngài trở về thiên giới.

Lúc ấy vị cận thần không đợi lệnh vua triệu tập, vội trở về triều đình:

– Tâu Đại vương, việc cỗ xe ấy đã quyết định được rồi: Ngay đến Sakka Thiên chủ còn chịu khuất phục trước ngài nữa, cớ sao Đại vương không chịu thừa nhận tính siêu phàm ở thế nhân?

Nhà vua hỏi Senaka:

– Khanh nghĩ sao Senaka, ta có nên đem bậc Trí giả về triều chăng?

Senaka tâu:

– Việc đó cũng chưa hẳn quyết định một bậc Trí giả. Tâu Đại vương, cứ chờ đợi một lúc nữa: Thần sẽ xin đi thử tài vị này xem sao.

  1. KHÚC CÂY.

Thế rồi một ngày kia, với mục đích thử tài bậc Hiền trí, họ đi tìm một nhánh phượng, cắt một khúc độ một gang tay, cho thợ tiện đẻo thật láng rồi đưa ra sông thị trấn, với lời rao:

– Dân thị trấn này nổi danh tài trí, vậy hãy tìm cho ra phía nào là đầu ngọn, phía nào gốc của cành cây này. Nếu không đoán được sẽ bị phạt một nghìn đồng tiền.

Dân chúng tụ tập lại nhưng không ai tìm ra được, liền nói với chủ họ:

– Có lẽ bậc Trí giả Mahosadha biết đấy, ta thử mời ngài xem.

Người chủ cho mời bậc Trí giả đang chơi ngoài sân, kể chuyện họ không biết đầu đuôi cành cây ấy nhưng chắc ngài biết. Bậc Trí giả nghĩ thầm: “Đức vua chẳng lợi gì khi biết gốc ngọn cây ấy, chắc chắn ngài đưa nó đến đây thử tài ta”. Ngài bảo:

– Các hiền hữu hãy mang nó lại đây, ta sẽ tìm ra.

Khi cầm trong tay, ngài biết đâu là ngọn, đâu là gốc, tuy nhiên để làm vui lòng mọi người, ngài cho đem đến một chậu nước, buộc một sợi dây giữa khúc cây rồi cầm đầu dây thả vào mặt nước. Phía gốc nặng hơn nên chìm trước. Ngài hỏi dân chúng:

– Gốc cây nặng hơn hay ngọn cây nặng hơn?

– Thưa bậc Trí giả, gốc cây nặng hơn.

– Vậy hãy nhìn đây, phần này chìm trước, vậy là gốc.

Nhờ dấu hiệu này ngài đã phân biệt được gốc ngọn. Dân chúng trình khúc cây lên vua đã phân biệt phía nào gốc phía nào ngọn. Vua hoan hỷ hỏi:

– Ai đã tìm ra?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chính bậc Trí giả Mahosadha, con trai của chủ nhân ông Sirivaddhi.

– Này Senaka, thế ta triệu vị ấy về triều được chăng?

– Tâu Đại vương, xin cứ chờ đợi để chúng thần thử tài vị ấy cách khác nữa.

  1. CHIẾC ĐẦU NGƯỜI .

Một ngày kia, hai chiếc đầu được mang đến để phân biệt chiếc nào là đầu đàn bà, chiếc nào là đầu đàn ông. Nếu không tìm ra được, họ phải chịu phạt một ngàn đồng tiền. Dân chúng không quyết đoán được, liền mời bậc Đại Sĩ. Ngài nhận ra vì người ta thường nói đường khớp trênđầu đàn ông thì thẳng, còn đường khớp trên xương đầu đàn bà thì cong. Nhờ dấu hiệu này, ngài phân biệt được ngay và dân chúng trình lên vua. Phần cuối như các chuyện trên.

  1. CON RẮN.

Một ngày nọ, một rắn đực và một rắn cái được đưa đến cho dân làng đoán thử. Họ hỏi bậc Trí giả. Ngài biết ngay khi thấy rắn vì đuôi rắn đực thì dày, đuôi rắn cái thì mỏng; đầu rắn đực tròn, đầu rắn cái dài, mắt rắn đực lớn,mắt rắn cái nhỏ. Nhờ những dấu hiệu này ngài phân biệt con đực với con cái. Phần cuối như cũ.

  1. CON GÀ TRỐNG.

Ngày nọ vua ban lệnh xuống dân chúng ở Đông thị trấn thi hành:

– Hãy đưa về triều một bò đực trắng bạch, có sừng trên chân, cục bướu trên đầu, rống lên ba nhịp một ngày không sai chạy, nếu không, sẽ phải bị phạt một ngàn đồng tiền.

Dân chúng chẳng biết làm sao, liền hỏi bậc Hiền trí. Ngài đáp:

– Nhà vua đòi các ông gửi dâng ngài con gà trống đấy. Con gà trống có sừng trên chân đó là cái cựa, cục bướu trên đầu đó là mào và cất giọng gáy đúng ba nhịp (ngắn, vừa, dài). Thế thì hãy dâng vua con gà trống như ngài tả.

Họ liền gửi dâng vua ngay một con.

  1. VIÊN NGỌC.

Viên ngọc này do Sakka Thiên chủ tặng vua Kusa, có hình bát giác. Sợi dây đeo ngọc bị đứt nhưng không ai lấy được sợi dây cũ ra để xâu sợi mới vào.

Một ngày kia họ đem viên ngọc đến bảo dân làng lấy sợi dây cũ ra để xâu dây mới vào. Dân làng chẳng làm gì được đành đem chuyện khó khăn kể lại với bậc Trí giả. Ngài bảo họ đừng sợ gì cả, hãy đem đến một cục mật. Ngài xoa mật vào hai lỗ hạt ngọc, rồi se một sợi len, xoa mật vào một đầu dây, đẩy đầu dây vào một chút trong lỗ ngọc, xong đặt viên ngọc vào nơi kiến thường đi qua. Bầy kiến nghe mùi mật bò ra khỏi ổ, cắn hết sợi dây cũ rồi cắn sợi dây len kéo qua tận lỗ bên kia.

Khi ngài thấy lỗ đã thông, ngài bảo dân chúng trình lên vua khiến vua rất đẹp lòng khi nghe câu chuyện sợi dây được xâu như vậy.

  1. BÒ ĐỰC ĐẺ CON.

Con bò đực của nhà vua được cho ăn quá nhiều trong vòng mấy tháng nên bụng nó trương lên, sừng nó phờ phạc, nó phải được xoa dầu, rồi họ đem nó đến Đông thị trấn với lệnh vua ban:

– Nghe các khanh thật tài trí, vậy đây là con bò đực của đức vua đang có chửa, hãy giúp nó sinh con, rồi dẫn về triều, có đủ cả bò con. Nếu không sẽ chịu phạt vạ một ngàn đồng tiền.

Dân làng hoảng hốt chẳng biết làm sao liền vấn kế bậc Trí giả, ngài nghĩ nên đặt một câu hỏi trùng hợp với câu kia, và hỏi:

– Các ông có thể tìm ra một người bạo gan dám đối đáp với đức vua chăng?

Họ đáp chuyện ấy không khó gì. Rồi họ đem một người đến. Bậc Đại Sĩ bảo:

– Này anh bạn, anh hãy xõa tóc xuống vai đi đến hoàng môn khóc lóc kêu than thật thống thiết. Ai hỏi gì cũng không trả lời chỉ kêu khóc, trừ khi đức vua hỏi. Nếu đức vua bảo đem anh vào để hỏi tại sao than khóc, anh cứ tâu: “Bảy ngày nay con trai thần đang lâm bồn nhưng không thể nào sinh con được, xin cứu thần với. Xin nói cho thần biết làm cách nào giúp nó sinh con?”. Đức vua sẽ bảo: “Thật là điên khùng. Làm sao đàn ông có thể sinh con được?”. Lúc ấy anh sẽ đáp: “Nếu quả thật như thế thì làm sao dân Đông thị trấn có thể giúp bò đực của Đại vương sinh bò con được?”.

Người ấy được lệnh cứ thế mà thi hành. Vua hỏi ai nghĩ ra cách trả lời phản công lại như vậy và khi nghe nói chính bậc Trí giả Mahosadha, ngài rất đẹp lòng.

  1. NẤU CƠM.

Một ngày kia để thử tài bậc Trí giả, lệnh vua phán ra:

– Dân Đông thị trấn phải dâng về kinh một thứ cơm nấu theo tám điều kiện sau: không gạo, không nước, không nồi, không lò, không lửa, không củi, không do đàn ông hay đàn bà đem về kinh theo đường cái. Nếu không làm được phải chịu phạt một ngàn đồng tiền.

Dân làng bối rối vấn kế bậc Trí giả. Ngài bảo:

– Đừng lo gì, hãy đem một ít tấm lại đây, vì nó không phải gạo, đem tuyết vì nó không phải nước, đem đến một cái bát đất vì nó không phải nồi, chặt lấy vài tấm gỗ, đó không phải là cái lò, nhóm lửa bằng cách cọ xát chứ không dùng mồi lửa thật, đốt lá thay vì gỗ. Nấu cơm xongđể vào một chậu khác, ép xuống thật chặt, đặt trên đầu của một hoạn quan, người này phi nam phi nữ, bỏ đường cái mà đi theo đường mòn, đem lên dâng vua.

– Dân chúng làm như vậy và vua rất đẹp lòng khi nghe chuyện nhờ người nào mà vấn đề đãđược giải quyết.

  1. CÁT

Một ngày kia để thử tài bậc Trí giả, lệnh vua ban xuống cho dân làng này:

– Đức vua rất thích thú nằm võng, mà võng cũ đã đứt. Vậy các ngươi hãy làm một chiếc võng bằng cát. Nếu không, phải chịu phạt vạ một ngàn đồng tiền.

Dân làng chẳng biết làm sao lại phải cầu cứu bậc Trí giả. Ngài thấy đây cũng là chuyện đặt vấn đề phản công lại. Ngài trấn an dân chúng rồi đi tìm hai ba người đối đáp thật thông minh lanh lợi đến, và ngài bảo họ đến trình lên vua:

– Tâu Đại vương, dân làng chúng thần không biết chiếc võng cát phải dày hay mỏng, vậy xin cho chúng thần một mảnh chiếc võng cũ, dài độ một gang tay hay chừng bốn ngón tay, chúng thần sẽ theo đó mà bện dây thừng đúng cỡ đó. Nếu đức vua đáp: -“Trẫm chẳng hề có chiếc võng cát trong cung”, thì họ phải tâu ngay: -“Nếu Đại vương không thể làm võng bằng cát thì làm sao dân làng có thể làm được?”

Dân làng vâng theo lời nói như vậy và vua rất hài lòng khi nghe bậc Trí giả đã nghĩ ra cách đối đáp phản công lại như trên.

  1. HỒ NƯỚC.

Một ngày kia có lệnh vua ban:

– Đức vua muốn vui chơi dưới nước, các ngươi phải đem dâng ngài một hồ nước mới có đủ năm loại sen súng, nếu không phải chịu phạt một ngàn đồng tiền.

Dân làng kể chuyện với bậc Trí giả, ngài thấy đây cũng cần đối đáp phản công lại. Ngài cho gọi nhiều người đối đáp lanh lợi đến rồi bảo họ:

– Hãy lội xuống nước chơi đùa cho đỏ cả mắt, rồi đi đến hoàng môn tóc tai áo quần lấm bê bết, tay cầm dây thừng, gậy gộc, đất đá, nhờ tâu trình với đức vua rằng các ông đã đến chầu, và khi các ông được phép vào cung, hãy tâu với ngài: -“Tâu Đại vương, vì Đại vương ban lệnh cho dân Đông thị trấn dâng ngài một hồ nước, chúng thần đã mang đến đấy một hồ nước thật lớn để đẹp ý Đại vương nhưng hồ này quen sống ở rừng nên vừa thấy thị thành với hào lũy tháp canh thì nó sợ hãi bức tung dây thừng chạy trốn vào rừng, chúng thần đã ném đất đá vào nó, lấy gậy gộc đánh đập nó nhưng cũng không bắt nó trở lại được. Vậy xin cho chúng thần chiếc hồ cũ mà chúng thần nghe nói Đại vương đã mang từ rừng về, chúng thần sẽ buộc chúng chung với nhau để mang chiếc hồ kia trở lãi đây”. Đức vua sẽ bảo: “Trẫm chẳng hề bảo ai đem hồ từ rừng về đây cả và cũng không hề bảo buộc hồ lại rồi đem hồ kia về đây”. Khi ấy các ông sẽ phải tâu: “Nếu vậy thì làm sao dân làng chúng thần dâng Đại vương một hồ nước được?”.

Họ y theo vậy mà làm khiến đức vua rất đẹp lòng khi nghe nói bậc Trí giả đã nghĩ ra chuyện ấy.

  1. HOA VIÊN.

Lại một ngày kia, vua ban lệnh:

– Trẫm muốn giải trí trong hoa viên và hoa viên của trẫm đã xưa cũ quá rồi. Dân chúng Đông thị trấn phải dâng trẫm một hoa viên mới đầy đủ kỳ hoa dị thảo…

Bậc Trí giả lại trấn an dân chúng như trước kia, rồi cho người đi đối đáp với vua như trên.

  1. YẾT KIẾN VUA VỚI CON LỪA

Lúc ấy vua rất hoan hỷ bảo Senaka:

– Này khanh, trẫm có nên triệu bậc Trí giả ấy về triều chăng?

Nhưng ông ganh ghét vì thấy kẻ khác được vinh hiển, liền tâu:

– Như thế chẳng có gì phải gọi là bậc Trí giả cả, ta hãy chờ xem.

Nghe vậy vua nghĩ thầm: “Hiền giả Mahosadha thật là tài trí dù còn bé khiến ta rất ái mộ. Trong những cuộc thử thách đầy bí hiểm và những lần đối đáp phản công vừa qua, vị này đã ứng đối như một vị Phật. Tuy nhiên một người tài trí như vậy thì Senaka lại không muốn ta triệu hồi về triều cho ta. Vậy ta cần gì Senaka đã chứ? Ta cứ triệu vị ấy về đây”.

Thế là vua cùng với một đám đông tùy tùng khởi hành đến ngôi làng ấy và vua ngự trên vương mã. Nhưng vừa lên đường thì con ngựa sụp hố gãy chân, vua phải trở về cung. Senaka liền vào yết kiến vua và nói:

– Tâu Đại vương, phải chăng Đại vương đã đi về Đông thị trấn để đem bậc Trí giả vào triều?

– Chính phải, hiền khanh.

Senaka lại tâu:

– Đại vương xem tiểu thần chẳng vào đâu cả. Tiểu thần xin Đại vương chờ đợi một ít lâu, nhưng Đại vương cứ vội ra đi và vừa lên đường thì vương mã bò gãy chân.

Vua không nói gì với ông nữa. Một ngày kia, vua lại hỏi Senaka:

– Trẫm triệu hồi vị Hiền trí này về triều được chăng, hiền khanh Senaka?

– Tâu Đại vương, nếu vậy xin Đại vương đừng tự thân hành ngự đi, mà chỉ cần cho sứ giả đến bảo: “Này Hiền giả, trẫm đã thân hành đi triệu hồi ngài và con ngựa của trẫm bị gãy chân, vậy hãy tiến cung một con ngựa tốt hơn và một đại tuấn mã”. Nếu vị ấy chọn chuyện đầu tiên, vị ấy sẽ đích thân về triều, nếu chọn chuyện thứ hai, vị ấy sẽ nhờ thân phụ đi thế. Như vậy cũng là việc để thử thách vị ấy nữa.

Vua cho sứ giả đem lệnh ấy ra đi. Bậc Trí giả khi nghe vậy, hiểu ngay rằng vua mong muốn gặp Ngài và phụ thân ngài. Ngài liền đi tìm phụ thân và chào hỏi:

– Thưa phụ thân, đức vua muốn gặp cha con ta. Xin phụ thân lên đường trước cùng đoàn tùy tùng gồm cả ngàn thương nhân. Khi đi đường, phụ thân đừng đi hai tay không, mà đem theo một hộp bằng gỗ đàn hương đựng đầy bơ tươi. Đức vua sẽ ân cần chào hỏi thân phụ và mời thân phụ ngồi ghế gia chủ, xin thân phụ cứ ngồi xuống. Khi ấy, con sẽ đến, đức vua cũng lại ân cần chào đón con và mời con ngồi một ghế như vậy. Rồi con sẽ nhìn thân phụ; thân phụ đưa ám hiệu và đứng lên bảo: “Hiền giả Mahosadha nam tử, hãy ngồi xuống đi”. Vấn đề lúc ấy sẽ chín muồi để ta giải quyết.

Thân phụ ngài làm theo như vậy. Khi đến cung, ông xin trình vua họ đã đến, rồi được vua cho vào, ông đến tung hô chúc tụng vua xong và đứng sang một bên. Vua ân cần chào đón ông và hỏi thăm bậc Trí giả Mahosadha nam tử ở đâu.

– Tâu Đại vương, hiền nhi sẽ đến sau tiểu thần.

Vua hài lòng khi nghe bậc Trí giả sắp đến, liền mời thân phụ ngài ngồi xuống một nơi thích hợp. Ông ngồi xuống. Trong lúc ấy, bậc Đại Sĩ được trang sức xiêm y cực kỳ lộng lẫy, cùng với một ngàn nhi đồng theo hầu, ngồi trên chiếc xe thật sang trọng uy nghi. Khi đến kinh thành, ngài thấy một con lừa đứng cạnh một cái hố, liền bảo mấy người bạo dạn bịt miệng con lừa lại để cho nó khỏi kêu, xong bỏ nó vào bao vát lên vai. Họ làm như vậy, rồi Bồ-tát vào cung với đoàn tùy tùng đông đảo của ngài. Dân chúng không ngớt tán thán ngài. Họ la lên:

– Đây là bậc Trí giả Mahosadha, nam tử của phú ông Sirivaddhaka, người ta bảo ngài sinh ra có cây thuốc thần trong tay, chính ngài đã biết cách giải đáp mọi vấn đề được đặt ra để thử tài ngài.

Khi đến trước cung, ngài bảo trình vua ngài đã đến. Vua rất đẹp ý, liền bảo:

– Hãy mời Trí giả Mahosadha nam tử của trẫm mau vào chầu.

Vì thế ngài liền vào cung cùng đám tùy tùng. Tung hô vua xong, ngài đứng sang một bên. Vua rất hoan hỷ khi trông thấy ngài nên nói giọng rất ngọt ngào, ban lệnh cho ngài tìm một nơi thích hợp mà ngồi. Ngài liền nhìn cha, ông thấy ám hiệu liền đứng dậy mời con ngồi chỗ ấy, ngài liền ngồi ngay. Thế là các kẻ ngu si đằng kia như Senaka, Pukkusa, Kàvinda, Devinda cùng nhiều kẻ khác nữa, thấy ngài ngồi như vậy, liền vỗ tay cười rộ lên và bảo:

– Đây là thằng ngốc đui mù mà chúng bảo là bậc Trí giả. Nó bảo cha nó đứng dậy để nó ngồi vào chỗ ấy. Chắc chắn không thể gọi nó là bậc Trí giả được.

Vua cũng tiu nghỉu như mèo cụt tai. Bậc Trí giả liền hỏi:

– Tâu Đại vương, Đại vương không đẹp ý chăng?

– Đúng vậy, này Hiền giả, trẫm buồn lắm. Trước đây trẫm rất hoan hỷ khi nghe nói về Hiền giả, nhưng nay gặp Hiền giả trẫm lại không được vừa lòng.

– Tại sao như vậy?

– Chỉ vì khanh bảo thân phụ khanh đứng dậy để khanh ngồi vào chỗ ấy.

– Tâu Đại vương, ngài cho rằng lúc nào cha ông cũng hơn con cái cả hay sao?

– Đúng vậy, này Hiền giả.

– Thế Đại vương đã không ban lệnh cho tiểu thần tiến dâng một tuấn mã tốt hơn nữa hoặc mộtđại tuấn mã ưu tú nhất đó sao?

Nói xong, ngài đứng dậy nhìn các nhi đồng theo hầu ngài và bảo:

– Đem con lừa của các bạn vào đây.

Đặt con lừa trước mặt vua, ngài tiếp tục hỏi:

– Tâu Đại vương, con lừa này đáng giá bao nhiêu?

Vua đáp:

– Nếu dùng được thì nó đáng giá tám đồng tiền (ru-pi).

– Nhưng nếu nó tạo được một con la con với một ngựa cái thuần giống Sindh thì giá con la sẽ bao nhiêu?

– Thế thì nó vô giá.

– Tâu Đại vương, tại sao ngài lại nói vậy? Ngài chẳng vừa bảo là bất cứ lúc nào ông cha cũng hơn con cái cả hay sao? Theo như ngài nói thì con lừa phải đáng giá hơn con la chứ! Giờ đây các bậc Trí giả của ngài đã không vỗ tay chế nhạo tiểu thần chỉ vì họ không biết điều ấy đó sao? Vậy tài trí của các bậc Trí giả ấy ở đâu chứ? Đại vương đã tìm họ ở đâu ra vậy?

Rồi tỏ vẻ khinh thường cả bốn vị kia, ngài đọc bài kệ này trong Chương một (số 111) trình vua:

Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế thì lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!

Sau đó, ngài tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, nếu ông cha phải hơn con cái thì xin Đại vương hãy sử dụng thân phụ của tiểu thần; còn nếu con cái hơn ông cha thì xin sử dụng tiểu thần.

Vua rất đẹp ý và tất cả quần thần reo hò nhiệt liệt tán thán cả ngàn lần:

– Bậc Đại trí giải quyết vấn đề thật vi diệu thay !

Tiếng vỗ tay vang dậy và cả ngàn chiếc khăn quàng giơ lên vẫy tưng bừng khiến bốn vị kia tiu nghỉu.

Thời bấy giờ không ai hiểu rõ hơn Bồ-tát về giá trị của phụ mẫu mình. Nếu ai hỏi lúc ấy tại sao ngài lại làm như vậy, thì đó không phải là vì ngài xem thường thân phụ ngài, nhưng chỉ vì khi vua ban lệnh tiến dâng một tuấn mã tốt hơn hoặc một tuấn mã ưu tú đệ nhất, ngài phải làm như thế để giải quyết vấn đề vua đặt ra, để làm hiển lộ tài trí của ngài vượt hẳn bốn vị kia.

Vua rất hoan hỷ, cầm chiếc bình vàng đựng nước hương, rót nước lên bàn tay của vị phú thương kia và phán:

– Khanh hãy thọ hưởng Đông thị trấn là tặng vật trẫm ban thưởng cho khanh. Các phú thương trong vùng phải thần phục vị này.

Sau đó vua lại ban thưởng mẫu thân của Bồ-tát đầy đủ các loại nữ trang. Vì đẹp ý trước cách Bồ-tát giải quyết vấn đề con lừa, vua ước mong nhận Bồ-tát làm con mình, liền nói với người cha ngài:

– Này hiền khanh, hãy để bậc Đại trí làm con trẫm.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, nay con của Tiểu thần còn quá thơ dại, miệng còn hôi sữa; nhưng khi lớn khôn, tiểu nhi xin đến hầu hạ Đại vương.

Tuy thế, vua vẫn phán:

– Này hiền khanh, từ nay đừng lưu luyến cậu bé này nữa, từ hôm nay nó là con của trẫm. Trẫm có thể nuôi nấng con của trẫm, vậy khanh hãy đi về.

Rồi vua ban lệnh cho ông ra về. Ông tuân lệnh vua, ôm lấy con trong đôi vòng tay mình, hôn lên đầu và nhắn nhủ đôi điều. Cậu bé giã biệt phụ thân, khuyên cha chớ lo âu, rồi để cha ra đi.

Sau đó vua hỏi bậc Trí giả muốn dùng cơm bên trong cung hay ở ngoài. Ngài nghĩ rằng vớiđám tùy tùng đông đảo như vậy, tốt nhất nên ăn uống bên ngoài cung điện, nên tâu trình vua theo mục đích ấy. Vua liền ban cho ngài một ngôi nhà hợp ý, cung cấp vật dụng đầy đủ cho một ngàn nhi đồng ăn ở tại chỗ, từ đó bậc Trí giả phụng sự vua.

  1. VIÊN BẢO NGỌC.

Lúc bấy giờ vua lại muốn thử tài ngài. Thời đó có một viên bảo châu nằm trong tổ quạ trên cây cọ dừa (tàla) bên bờ hồ cạnh Nam môn và ảnh của viên bảo ngọc thường phản chiếu trên mặt hồ. Dân chúng trình vua rằng có viên bảo ngọc dưới hồ. Vua liền triệu Senaka đến bảo:

– Dân chúng bảo có viên bảo ngọc dưới hồ, làm thế nào để lấy lên được?

Senaka tâu:

– Cách tốt nhất là tát cạn nước.

– Vua bảo ông thi hành, ông liền tập họp một đám người tát nước và lấy bùn ra, rồi đào đất dưới đáy hồ, nhưng chẳng thấy ngọc đâu. Thế mà khi hồ đầy nước lại, ánh ngọc vẫn phản chiếu trên hồ như cũ. Senaka lại cho tát nước nữa và cũng không tìm thấy ngọc. Sau đó vua triệu bậc Trí giả và bảo:

– Dân chúng có thấy viên ngọc trong hồ, Senaka đã cho tát nước bùn ra và đào đất lên mà chẳng thấy ngọc đâu, nhưng vừa khi nước hồ đầy thì ngọc lại hiện lên, hiền nhi có thể lấy ngọc lên chăng?

– Tâu phụ vương, chuyện đó không khó gì, thần nhi xin đi lấy ngọc về dâng phụ vương.

Vua rất đẹp ý khi nghe ngài hứa, rồi cùng một đám đông cận thần theo hầu, vua ngự ra hồ, sẵn sàng chứng kiến oai lực đại trí của bậc Hiền giả. Bậc Đại Sĩ đứng trên hồ quan sát, ngài nhận xét rằng ngọc không ở trong hồ, mà phải ở trên cây, nên ngài nói to:

– Tâu phụ vương, ngọc không có trong hồ.

– Sao không thấy ngọc dưới nước chăng?

Thế là ngài bảo đem đến một thùng nước và nói:

– Tâu phụ vương, đây chẳng phải là ta thấy ngọc trong thùng nước và cả trong hồ sao?

– Thế thì ngọc ở đâu?

– Tâu phụ vương, đây chỉ là ánh ngọc phản chiếu trong hồ nước lẫn trong thùng, còn ngọc ở trong tổ quạ ở trên cây cọ dừa kia. Xin phụ vương cho người lên lấy ngọc và đem xuống đây.

Vua y lời, cho người đem ngọc xuống và bậc Hiền trí đặt viên ngọc vào tay vua. Mọi người tán dương bậc Trí giả và nhạo báng Senaka:

– Đây là viên bảo ngọc nằm trong tổ quạ trên cây, thế mà Senaka lại bảo đám người lực lưỡng đào hồ. Chắc chắn một bậc Trí giả phải như Mahosadha này.

Họ cứ ca ngợi bậc Đại Sĩ như vậy, còn vua rất đẹp ý, ban cho ngài xâu chuỗi ngọc mà vua đang đeo trên cổ và ban đủ chuỗi ngọc cho cả ngàn nhi đồng kia, xong lại cho phép từ nay ngài và đám tùy tùng của ngài vào chầu vua được miễn lễ.

  1. CON TẮC KÈ.

Một ngày kia, vua cùng bậc Trí giả bước vào ngự viên, thì một con tắc kè ở trên chiếc cổng vòng cung trông thấy vua, liền bò xuống, nằm sát đất. Vua thấy vậy, hỏi:

– Này bậc Trí giả, nó làm gì vậy?

– Tâu Đại vương, nó tỏ lòng cung kính đối với phụ vương.

– Nếu vậy ta chẳng nên bỏ qua việc nó cung kính mà không thưởng nó, hãy cho nó thật nhiều tặng vật.

– Tâu phụ vương, tặng vật chẳng ích lợi gì cho nó, cái nó cần là thức ăn.

– Vậy nó ăn gì?

– Tâu phụ vương, thịt.

– Nó cần ăn độ bao nhiêu?

– Chừng một xu, tâu phụ vương.

– Chỉ đáng một xu thì chẳng xứng quà thưởng của vua ban-Vua bảo.

Rồi ngài truyền cho một người đến, ban lệnh đem cho con tắc kè đều đều mỗi ngày năm xu thịt. Việc này được thi hành sau đó. Nhưng vào ngày trai giới, không có sát sinh, người đó không kiếm ra thịt, nên gã đục một lỗ qua đồng hào nửa, buộc một sợi dây vào cổ con tắc kè. Việc ấy làm con tắc kè sinh kiêu mạn.

Một ngày kia, vua lại vào ngự viên, nhưng con tắc kè thấy vua đến gần, mà nó đang kiêu mạn vì cho rằng nó cũng nhiều của cải như vua, nó nghĩ thầm: “Đại vương giàu có lắm, này Đại vương Videha, nhưng ta đây cũng vậy”. Thế là nó không bò xuống, mà cứ nằm yên trên cổng vòng cung gõ nhịp chiếc đầu. Vua thấy vậy liền hỏi:

– Này bậc Trí giả, hôm nay con vật kia không xuống đây như lệ thường, cớ sao vậy?

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Tắc kè thuở trước chẳng bò lên,
    Khung cửa vòng cung, bậc Trí hiền,
    Hãy giải thích ngay cho trẫm rõ,
    Tắc kè sao cứng cổ như trên?

Bậc Trí giả nhận thấy rằng có lẽ gã kia không kiếm đâu ra thịt vào ngày trai giới cấm sát sinh, nên con vật này ắt sinh lòng kiêu mạn vì đồng tiền buộc vào cổ nó; bởi thế ngài ngâm kệ này:

  1. Con tắc kè kia được thưởng cho,
    Món tiền nó chẳng có bao giờ,
    Nửa hào, nên nó không tôn trọng,
    Đại đế Vi-đề Mi-thi-la.

Vua truyền triệu gã kia đến hỏi chuyện và gã kể mọi sự đúng như vậy. Vua lại càng đẹp ý về bậc Trí giả hơn nữa vì hình như ngài biết được ý con tắc kè mà chẳng cần hỏi han gì cả, thật tài trí chẳng khác nào trí tuệ tối thượng của một vị Phật. Vì thế vua cho phép ngài thu lợi tức cả bốn cửa thành. Vua giận con tắc kè, muốn gián đoạn việc ban thưởng cho nó, nhưng bậc Trí giả bảo đó là việc không nên làm và khuyên can vua.

  1. ĐẠI PHƯỚC VÀ BẤT HẠNH

Thời bấy giờ một thiếu sinh tên gọi Pinguttara ở thành Mithilà đến Takkasilà học với một danh sư. Sau thời kỳ tinh cần học tập đã viên mãn, chàng tạ từ sư phụ ra về.

Nhưng trong gia tộc của danh sư này có tục lệ: nếu con gái đến tuổi lấy chồng, thì phải gả cho môn đồ lớn tuổi nhất. Vị danh sư này có cô con gái đẹp như tiên, do đó bảo môn đồ:

– Này đệ tử, ta sẽ gả con gái ta cho đệ tử, vậy con hãy đem con ta cùng đi về với con.

Lúc ấy cậu thiếu sinh thật là kẻ bất hạnh, thiếu may mắn, còn cô gái kia thật có phước lớn. Khi chàng ta thấy nàng, chàng chẳng hề quan tâm đến nàng, nhưng nghe thầy bảo vậy, chàng cũng đồng ý vì không muốn xem thường lời dạy của thầy, thế là vị Bà-la-môn này gả con gái cho chàng. Đêm động phòng hoa chúc, chàng lên giường nằm; nàng vừa mới leo lên giường thì chàng càu nhàu leo xuống đất, nàng cũng bước xuống nằm cạnh chàng, chàng liền đứng dậy leo lên giường lại, nàng cũng bước lên giường, chàng lại bước xuống, vì kẻ bất hạnh không đi đôi với người đại phước được. Thế là cô gái nằm trên giường, cậu trai nằm dưới đất. Cứ thế bảy ngày trôi qua.

Sau đó chàng trai tạ từ sư phụ và ra đi với vợ chàng. Trên đường đi chẳng có gì hơn ngoài vài câu chuyện trao đổi giữa hai vợ chồng. Cả hai đều buồn khổ đi đến thành Mithilà. Không xa thành mấy, Pinguttara thấy một cây sung đầy trái và đang lúc đói bụng, chàng trèo lên cây hái vài quả ăn. Cô gái cũng đói bụng đến gốc cây gọi lên:

– Xin chàng ném xuống cho thiếp vài quả.

– Ô hay, chàng bảo, nàng không có tay chân sao? Trèo lên mà tự hái lấy.

Nàng đành trèo lên hái sung ăn. Chàng vừa thấy nàng trèo lên, liền nhanh chân trèo xuống, chất gai góc quanh gốc cây và bỏ đi, tự nhủ thầm: “Nay ta đã thoát được người đàn bà tồi tệ này rồi”. Nàng không leo xuống được đành ngồi trên cây.

Lúc bấy giờ vua đang vui chơi trong rừng đến chiều, rồi ngự lên vương tượng trở về thành. Khi thấy nàng, vua đem lòng yêu ngay, vì thế vua cho người hỏi nàng có chồng chưa, nàng đáp:

– Tiện thiếp đã có chồng do gia đình gả cho, nhưng người ấy đã ra đi và bỏ tiện thiếp lại đây một mình.

Vị cận thần trình chuyện với vua, ngài bảo:

– Thật là bảo vật đưa về tay vua.

– Nàng liền được mang xuống, đặt lên voi chở về triều. Tại đây nàng được rảy nước phong chức hoàng hậu. Nàng được vua rất sủng ái và được mệnh danh là Udumbarà hay “Hoàng hậu cây Sung” vì vua thấy nàng trên cây sung lần đầu tiên.

Một ngày nọ, dân chúng ở cạnh cổng kinh thành phải dọn đường cho vua ngự du vào hoa viên và Pinguttara phải đi kiếm ăn nên cũng xắn áo quần lên và dùng cái cào dọn đường. Trước khi đường sá dọn dẹp xong, vua cùng hoàng hậu Udumbarà đã ngự đến trên vương xa, hoàng hậu trông thấy kẻ khốn khổ ấy đang dọn đường, không giữ được vẻ đắc thắng, nàng nhìn chàng ta mỉm cười. Vua nổi giận khi nàng mỉm cười, liền hỏi tại sao.

Nàng đáp:

– Tâu Đại vương, kẻ dọn đường kia là chồng cũ của thần thiếp, người đã bắt thần thiếp trèo lên cây sung rồi chất gai quanh gốc cây xong lại bỏ đi, bây giờ gặp lại gã, thần thiếp không sao khỏi thấy đắc thắng về số phận may mắn của thần thiếp và mỉm cười khi gặp gã đằng kia.

Vua bảo:

– Ngươi nói láo, ngươi cười với một kẻ khác, ta sẽ giết ngươi.

Và vua rút kiếm ra. Nàng hoảng hốt kêu lên:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương vấn ý các vị hiền thần của Đại vương.

Vua hỏi Senaka xem ông có tin lời nàng hay chăng.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, thần không tin được vì ai có thể bỏ một mỹ nhân đẹp thế kia khi đã chiếm được nàng?

Nàng nghe vậy càng run sợ hơn nữa. Nhưng vua nghĩ thầm: “Senaka làm sao biết được chuyện này, để ta hỏi bậc Hiền trí xem sao”, rồi vua ngâm kệ hỏi ngài:

  1. Một nữ nhi đức hạnh, diễm kiều,
    Nhưng nam nhân ấy chẳng thương yêu,
    Hiền khanh có thể tin không chứ?
    Trí giả Sa-dha hãy nói nào.

Bậc Trí giả đáp:

  1. Thần vẫn tin điều ấy, Đại vương,
    Kẻ kia thật bất hạnh bần cùng,
    Người nhiều ân phước và vô phước,
    Chẳng có bao giờ kết bạn chung.

Những lời này làm dịu cơn thịnh nộ của vua, lòng ngài bình tĩnh lại và rất hân hoan ngài bảo:

– Này bậc Trí giả, nếu khanh không ở đây, ắt hẳn trẫm đã nghe lời kẻ ngu si Senaka kia và mất nữ báu này, khanh đã cứu hoàng hậu cho trẫm.

Vua liền ban thưởng bậc Trí giả một ngàn đồng tiền. Rồi hoàng hậu kính cẩn tâu với vua:

– Tâu Đại vương, chính nhờ bậc Hiền trí này mà thần thiếp được cứu sống. Vậy xin Đại vương ban cho thần thiếp một điều ước: Đó là cho phép thần thiếp đối xử với bậc Trí giả như một tiểu đệ.

– Được, này ái khanh, trẫm chấp thuận ban điều ước ấy.

– Tâu Đại vương, nếu được như vậy, bắt đầu từ hôm nay thần thiếp không thể dùng cao lương mỹ vị mà không có tiểu đệ, từ nay đúng mùa hay trái mùa thiếp điều mở cửa cung đem bánh trái cho tiểu đệ, thần thiếp tha thiết ước ao như vậy.

– Ái khanh cũng được toại nguyện nữa-Vua bảo.

Đến đây chấm dứt chuyện Đại phước và Bất hạnh.

  1. CON DÊ VÀ CON CHÓ.

Một ngày kia, sau bữa điểm tâm, vua dạo chơi trên lối đi bộ chợt thấy qua bậc cửa một con dê và một con chó đang đánh bạn với nhau. Lúc bấy giờ con dê có thói quen ăn cỏ ném cho bầy voi cạnh chuồng voi trước khi voi ăn, cho nên những người quản tượng đánh đuổi con dê đi. Trong khi nó vừa chạy vừa kêu be be thì một người rượt theo lấy gậy đánh vào lưng nó. Con dê oằn lưng lại vì đau đớn, chạy đến nằm cạnh trường thành của hoàng cung, trên chiếc ghế dài.

Lúc bấy giờ có một con chó đã ăn hết xương, da và vật thừa trong nhà bếp của hoàng cung, cùng ngày hôm ấy, người đầu bếp đã nấu nướng thức ăn xong, để vào dĩa hẳn hoi. Trong khi gã đang lau mồ hôi trên mình thì con chó nghe mùi thơm của cá thịt, chịu không nổi, liền vào bếp giở nắp đậy ra và bắt đầu ăn thịt. Những người đầu bếp nghe tiếng bát đĩa rổn rảng liền chạy vào thấy chó đang ăn thịt, gã đóng cửa lại, lấy đá và gậy đánh nó. Con chó thả miếng thịt vừa chạy vừa la ẳng ẳng, người đầu bếp thấy nó chạy, còn rượt theo đánh một gậy đích đáng vào lưng. Con chó cong lưng lại co rút một chân lên, chạy đến nơi con dê đang nằm. Con dê hỏi:

– Này bạn, tại sao bạn cong lưng lại, bạn đau bụng chăng?

Con chó đáp:

– Bạn cũng đang cong lưng lại đấy chứ, bạn cũng đau bụng chăng?

Con chó liền kể chuyện của nó xong, con dê hỏi thêm:

– Thế bạn có vào nhà bếp được nữa không?

– Không, chuyện này cũng đáng đời ta lắm rồi, thế bạn có đến chuồng voi được nữa chăng?

– Cũng chẳng hơn gì bạn, chuyện đó cũng đáng đời ta lắm rồi.

– Thế rồi chúng bắt đầu băn khoăn không biết làm cách nào để sống đây. Dê nói:

– Hay là ta cùng chung sống được chăng? Tôi có ý kiến này.

– Xin cho ta biết ngay.

– Này bạn, bạn hãy đi đến chuồng voi, những người quản tượng sẽ không để ý đến bạn vì họ nghĩ rằng chó không ăn cỏ đâu, thế là bạn mang cỏ về cho tôi. Tôi sẽ đến nhà bếp và người đầu bếp sẽ không chú ý đến tôi vì nghĩ rằng tôi không ăn cá thịt được đâu. Thế là tôi sẽ đem thịt về cho bạn.

– Thật là diệu kế ! Con chó đáp.

Rồi chúng giao hẹn: Con chó đến chuồng voi tha về một nắm cỏ trong mồm và đặt cạnh trường thành và con dê vào nhà bếp mang ra một miếng thịt lớn đặt vào cùng chỗ ấy, con chóăn thịt và con dê ăn cỏ. Theo cách nầy chúng sống chung hòa hợp cạnh bức trường thành .

Khi vua thấy tình bằng hữu của chúng, ngài suy nghĩ: “Trước kia ta chưa từng thấy một việc kỳ lạ như thế: Hai kẻ thù truyền kiếp lại sống chung đầy thân tình với nhau. Ta sẽ đưa câu chuyện này thành một vấn đề bàn cãi cho các hiền thần của ta. Nếu họ không hiểu nổi, ta sẽ đuổi họ ra khỏi triều, còn nếu ai đoán được, ta sẽ tuyên dương là bậc Trí giả vô thượng và sẽ tỏ lòng tôn kính vị ấy. Hiện nay không có việc, nhưng ngày mai, khi họ đến chầu ta, ta sẽ đem vấn đề ra hỏi”.

Thế là hôm sau, khi các hiền thần vào chầu vua, ngài liền đặt vấn đề qua vần kệ:

  1. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
    Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
    Trở thành bạn thiết không rời nữa,
    Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!

Sau đó, vua ngâm thêm một vần kệ:

  1. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
    Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
    Trẫm không cần những người ngu nữa,
    Vậy hãy tìm lời giải đáp ngay.

Lúc bấy giờ Senaka ngồi trên chiếc cẩm đôn hàng đầu, bậc Trí giả ngồi cẩm đôn cuối cùng, ngài tự nhủ thầm: Đức vua chậm hiểu không tự nghĩ ra cách giải quyết vấn đề này, chắc ngài phải thấy một chuyện gì đấy. Nếu ta được gia hạn một ngày, ta sẽ giải quyết xong việc này. Senaka chắc chắn sẽ tìm kế hoãn lại một ngày. Còn bốn vị kia chẳng thấy việc gì cả, chẳng khác nào ở trong phòng tối, Senaka nhìn Bồ-tát xem ngài sẽ làm gì, Bồ-tát liền nhìn lại Senaka. Nhìn vẻ mặt bậc Trí giả Mahosadha, Senaka hiểu được tâm trạng ngài, ông thấy rằng ngay cả bậc Trí giả cũng không hiểu vấn đề, ngài chưa giải đáp được hôm nay mà cần gia hạn thêm một ngày nữa, ngài sẽ hoàn thành việc giao ước này. Thế là ông cười to để trấn an và nói:

– Tâu Đại vương, Đại vương sẽ đuổi chúng thần nếu chúng thần không giải đáp được vấn đề này chăng?

– Chính phải, hiền khanh.

– Đại vương biết đây là một vấn đề rắc rối, chúng thần không thể giải đáp nổi, vậy xin Đại vương đợi một thời gian. Một vấn đề rắc rối không thể giải quyết giữa đám đông. Xin cho chúng thần suy nghĩ thật kỹ rồi sẽ giải đáp sau. Xin hãy cho chúng thần một cơ hội.

Ông nói vậy vì tin tưởng bậc Đại Sĩ, rồi ngâm hai vần kệ:

  1. Giữa đám đông người tụ tập trung,
    Thật ồn ào quá, trí mông lung,
    Không sao tập hợp tư duy được,
    Để giải đáp ngay, tâu Đại vương.
  2. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
    Bình tâm tĩnh trí để suy tư,
    Vấn đề xem xét cho tường tận,
    Sẽ giải đáp ngay, hãy đợi chờ.

Mặc dù nổi giận khi nghe lời này, vua vẫn đáp lại giọng đe dọa:

– Được lắm, các khanh cứ suy nghĩ cho kỹ rồi trả lời trẫm, nếu không được, trẫm sẽ đuổi hết đi.

Bốn vị hiền thần rời triều ra về, Senaka bảo ba vị kia:

– Chư hiền, đức vua đặt một vấn đề gay go, nếu chúng ta không giải quyết nổi thì thật đại họa cho chúng ta. Vì vậy ta hãy ăn uống no say rồi suy nghĩ cho kỹ.

Sau đó mỗi vị về tư dinh, còn bậc Trí giả đi tìm hoàng hậu Udumbarà và thưa bà:

– Tâu hoàng hậu, hôm qua và hôm nay thánh thượng thường ở đâu?

– Này bậc Trí giả, ngài dạo chơi trên lối đi và nhìn ra cửa sổ.

Bồ-tát liền nghĩ: “Ồ, thế thì phải thấy chuyện gì đó”. Bồ-tát liền đến nơi ấy nhìn ra và thấy việc làm của con chó và con dê. “Vấn đề của đức vua đã được giải quyết rồi”, ngài kết luận và đi về nhà.

Ba vị hiền thần kia chẳng tìm thấy gì liền đi đến Senaka, ông hỏi: Các vị đã tìm ra vấn đề ấy chưa?

– Thưa ngài, chưa.

– Nếu vậy, đức vua sẽ đuổi các vị, tính sao đây?

– Còn ngài đã nghĩ ra chưa?

– Cũng chưa nghĩ ra.

– Ngài còn chưa tìm ra, huống hồ chúng tôi? Chúng ta đã rống lên như sư tử trước mặt đức vua là xin để chúng ta suy nghĩ rồi sẽ giải quyết; nay ta làm không được ắt vua sẽ tức giận.Vậy ta phải làm thế nào đây?

– Vấn đề này chúng ta giải quyết không được đâu. Chắc chắn bậc Trí giả đã giải quyết cả trăm cách rồi.

– Thế thì ta đi đến ngài xem sao.

Cả bốn vị kéo nhau đến trước cửa nhà Bồ-tát, nhờ thông báo việc họ đến gặp ngài, rồi bước vào kính cẩn chào ngài xong, họ đứng sang một bên hỏi bậc Đại Sĩ:

– Thưa ngài, ngài đã nhìn ra vấn đề ấy chưa?

– Nếu ta chưa nghĩ ra thì còn ai nghĩ ra đó chứ. Dĩ nhiên ta đã nghĩ ra rồi.

– Vậy xin ngài cho chúng tôi biết với.

Ngài nghĩ thầm: “Nếu ta không nói cho họ biết, đức vua sẽ đuổi họ và ban thưởng cho ta bảy báu vật nhưng thôi, chớ để những tên ngu si kia tàn đời, ta sẽ cho họ biết”. Rồi ngài bảo họ ngồi xuống ghế thấp, đưa tay lên chào ngài, sau đó, không nói thẳng cho họ biết những gì vua đã thấy tận mắt, ngài chỉ làm bốn vần kệ, dạy cho mỗi vị một vần bằng tiếng Pàli để đọc lên trình vua khi được hỏi đến, xong cho họ ra về.

Ngày hôm sau khi họ vào chầu vua, rồi ngồi xuống chỗ được vua cho phép, vua liền hỏi Senaka:

– Hiền khanh đã giải đáp vấn đề được chưa, Senaka?

– Tâu Đại vương, nếu thần không giải đáp được thì còn ai nữa chứ?

Vậy nói cho trẫm biết .

– Xin Đại vương nghe đây.

Rồi vị này đọc bài kệ đã học được:

  1. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
    Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
    Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
    Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

Mặc dù Senaka đọc kệ, ông vẫn chẳng hiểu ý nghĩ gì, còn phần vua lại hiểu, vì ngài đã chứng kiến sự việc ấy. Ngài nghĩ: “Senaka đã tìm ra rồi”. Ngài liền quay sang Pukkusa và hỏi ông ta:

– Tại sao thế tâu Đại vương, tiểu thần không phải là người có trí chăng?

Pukkusa hỏi vua, rồi đọc bài kệ đã học được:

  1. Họ lấy da dê phía núi rừng,
    Phủ che ngựa quý ở trên lưng,
    Còn da của chó không dùng được,
    Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.

Ông này cũng chẳng hiểu chuyện gì, nhưng vua tưởng ông hiểu vì chính ngài đã chứng kiến sự việc. Rồi ngài lại hỏi Kàvinda và ông cũng đọc vần kệ:

  1. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
    Nhưng chó lại không có cặp sừng,
    Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
    Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.

“Vị này cũng tìm ra rồi”. Vua nghĩ thầm, rồi hỏi đến Devinda, ông ta cũng như các vị kia, đọc lên bài kệ đã học được:

  1. Cừu dêăn cỏ, lá cây luôn,
    Cỏ, lá thì con chó chẳng ăn,
    Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
    Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

Kế đó vua hỏi bậc Trí giả.

– Này vương nhi, con có hiểu vấn đề này chăng?

– Tâu Đại vương, còn ai khác nữa hiểu được nó từ địa ngục Avìci (A-tỳ hay vô gián) đến từng trời Bhavagga (Hữu đảnh), từ địa ngục thấp nhất đến vùng trời cao nhất?

– Vậy thì hãy nói cho trẫm.

– Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài nói rõ sự hiểu biết vấn đề của ngài qua hai bài kệ này:

13-14. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng.
Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.

Vua không hiểu các vị kia đã biết câu chuyện nhờ Bồ-tát, nên rất hoan hỷ cho rằng cả năm vị đều tìm ra câu giải đáp vấn đề nhờ tài trí riêng của mình, và ngài cũng ngâm kệ:

  1. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
    Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
    Vấn đề tế nhị và uyên áo,
    Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.

Rồi ngài bảo họ kẻ có công sẽ được đền đáp xứng đáng. Và ngài ân thưởng qua câu kệ:

  1. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
    Một xe, la cái, một ngôi làng,
    Giàu sang thượng hạng cho người trí,
    Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !

Rồi ngài ban thưởng tất cả các thứ ấy.

Đến đây chấm dứt vấn đề con Dê trong Chương mười hai.

*

Nhưng hoàng hậu Cây Sung biết rõ các kẻ kia hiểu được vấn đề nhờ bậc Trí giả, bà nghĩ thầm: “Đức vua ban thưởng giống nhau cho cả năm vị, chẳng khác nào một kẻ không phân biệt được đậu nhỏ và đậu lớn, chắc chắn hiền đệ của ta phải được phần thưởng đặc biệt hơn”.

Rồi bà đến hỏi vua:

– Tâu Đại vương, ai đã giải đáp câu đố ấy cho Đại vương?

– Này ái khanh, cả năm hiền giả.

– Nhưng tâu Đại vương, nhờ ai mà bốn vị kia biết được?

– Ái khanh, trẫm không rõ.

– Tâu Đại vương, các vị kia biết gì? Chính bậc Trí giả muốn các vị ấy khỏi bị suy tàn vì ngài, nên cho họ biết vấn đề ấy. Thế mà Đại vương ban thưởng cho cả năm vị giống nhau. Như vậy không công bằng, Đại vương nên có phần thưởng đặc biệt cho bậc Trí giả.

Vua rất đẹp ý vì bậc Trí giả không tiết lộ chuyện các vị kia biết được nhờ ngài và muốn ân thưởng thật trọng hậu cho ngài, vua nghĩ: “Không hề gì. Ta sẽ hỏi con ta một vấn đề nữa, nếu con ta đáp trúng ta sẽ hậu thưởng”. Nghĩ vậy xong, vua đặt ra Vấn đề Giàu Nghèo.

  1. GIÀU VÀ NGHÈO.

Một ngày kia, khi năm bậc hiền thần vào chầu vua và khi họ đã an tọa, vua hỏi:

– Senaka, ta sẽ hỏi hiền khanh một chuyện.

– Tâu Đại vương, xin cứ hỏi.

Vua liền đọc vần kệ đầu trong Vấn đề Giàu-Nghèo:

  1. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
    Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
    Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
    Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?

Lúc bấy giờ vấn đề này được truyền lại từ đời này sang đời khác trong gia tộc Senaka, nên ôngđáp ngay:

  1. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
    Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
    Đều hầu hạ những người giàu có,
    Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
    Nhìn thấy điều này, thần mới nói:
    Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.

Vua nghe đáp xong không nói gì thêm ba vị kia mà nói với bậc Trí giả Mahosadha ngồi bên cạnh :

  1. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
    Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
    Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
    Bậc trí gọi ai tốt bội phần?

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Xin Đại vương nghe đây:

  1. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
    “Trên cõi đời, ta thắng thế hơn”,
    Họ thấy đời này, không cõi kế,
    Nên mang tai họa cả hai đường.
    Điều này con thấy, nên con nói:
    Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

Nghe nói vậy, vua nhìn Senaka và nói:

– Này hiền khanh, có thấy Mahosadha bảo bậc Trí nhân là cao hơn cả đấy chăng?

Senaka đáp:

– Tâu Đại vương, Mahosadha chỉ là một trẻ thơ, miệng còn hôi sữa, đã biết gì?

Và ông ngâm kệ:

  1. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
    Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
    Hãy nhìn ngốc tử Go-ri ấy,
    Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
    Vì Đại vận chìu người hạ tiện.
    Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
    Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
    Còn kẻ giàu tiền thắng thế hơn.

Nghe vậy, vua bảo:

– Này vương nhi Mahosadha, bây giờ con nghĩ sao?

Ngài đáp:

– Tâu phụ vương, Senaka có biết gì? Lão chỉ như con quạ thấy nơi nào có thóc vãi, hay như con chó cố liếm cho hết sữa, chỉ thấy mình mà không thấy chiếc gậy đang sẵn sàng giáng xuống đầu. Xin phụ vương hãy nghe đây:

  1. Một người tiểu trí hóa mê man.
    Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
    Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
    Rủi may số phận đến không lường,
    Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
    Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
    Người trí hơn xa người có của,
    Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.

– Này Đại Sư, thế thì sao?

Vua bảo khi nghe ngài nói vậy, Senaka liền đáp:

– Tâu Đại vương, cậu ấy nào biết gì? Chẳng nói gì đến người, mà ngay cả cây tốt tươi, đầy quả ngọt, chim chóc cũng bay đến đậu.

Rồi ông ngâm kệ:

  1. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
    Tụ tập trên cây có trái ngon,
    Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
    Đám đông hám lợi đến quây quần.
    Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
    Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.

– Này vương nhi, bây giờ con nghĩ sao? Vua hỏi.

Bậc Trí giả đáp:

– Lão bụng bự ấy nào có biết gì? Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
    Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
    Nó rống thật to tùy ý thích,
    Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
    Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
    Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

Vua lại bảo:

– Này Senaka?

Senaka liền đáp:

  1. Mọi dòng nước đổ xuống sông Hằng,
    Đều mất tánh danh với giống dòng,
    Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
    Không còn phân biệt được thành phần.
    Vậy đời phục vụ người giàu của;
    Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
    Người có trí chịu phần thấp kém,
    Còn người giàu của chiếm phần hơn.

Vua lại bảo:

– Này bậc Trí giả nghĩ sao?

Ngài liền đáp:

– Xin phụ vương nghe đây.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.
Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.

– Khanh nghĩ sao? Senaka? Vua hỏi.

– Xin Đại vương nghe đây.

Ông đáp và ngâm vần kệ:

  1. Người giàu ở địa vị cao sang,
    Có thể thiếu phòng hộ bản thân,
    Nhưng nếu nói gì cùng kẻ khác,
    Lời kia giá trị giữa nhân quần.
    Trí khôn không thể gây uy tín,
    Cho kẻ nào không có bạc vàng.
    Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
    Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

– Con nghĩ sao? Vua hỏi.

– Tâu Đại vương, xin nghe đây. Kẻ ngu si Senaka ấy nào có biết gì?

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Vì kẻ khác hay chính bản thân,
    Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
    Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
    Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
    Vì thấy điều này, con trẻ nói:
    Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.

Sau đó Senaka lại ngâm vần kệ:

  1. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
    Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
    Nếu có nói điều gì phải trái,
    Cũng không giá trị giữa thân nhân,
    Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
    Nhìn thấy điều trên, thần nói rằng:
    Người trí phải chịu phần thấp kém,
    Còn người giàu của thắng phần hơn.

Vua lại hỏi:

– Vương nhi nói sao về việc này?

Bậc trí đáp:

– Senaka nào có biết gì? Lão chỉ nhìn đời này, chứ không thấy đời sau.

Và ngài ngâm vần kệ:

  1. Chẳng vì mình, cũng chẳng vì người,
    Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
    Người được tôn sùng trong hội chúng,
    Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
    Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn người trọc phú thôi.

Sau đó Senaka lại ngâm vần kệ:

  1. Voi, ngựa, bò, vòng ngọc, nữ nhân,
    Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
    Để dành cho các người giàu hưởng,
    Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
    Nhìn thấy điều này, thần dám nói:
    Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.

Bậc trí giả đáp:

– Lão ấy nào có biết gì?

Rồi ngài ngâm kệ, tiếp tục giải thích vấn đề:

  1. Người ngu hành động thiếu suy tư,
    Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
    Vô trí bị quăng vì Đại vận,
    Như con rắn bỏ lớp da khô.
    Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.

– Khanh nghĩ sao? Vua hỏi.

Senaka liền đáp:

– Tâu Đại vương, trẻ thơ này nào biết gì, xin Đại vương nghe đây !

Rồi lão ngâm kệ, vì tưởng rằng sẽ làm cho bậc Trí giả không nói thêm gì được nữa:

  1. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
    Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
    Hết lòng kính trọng ngài là chúa,
    Là chủ nhân ông của thứ dân.
    Như Đế Thích là vua vạn vật,
    Chính là chúa tể của thiên nhân.
    Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
    Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

Khi vua nghe vậy, liền nghĩ thầm: “Điều ấy đã được Senaka nói thẳng ra, ta không biết con ta có bác bỏ được và nói gì thêm không đây” . Vì thế vua hỏi:

– Này, bậc Trí giả nghĩ sao đây?

Tuy nhiên lý luận này của Senaka không ai bác bỏ được, trừ Bồ-tát thế là bậc Đại Sĩ liền bác bỏ ngay, ngài đáp:

– Tâu phụ vương, kẻ ngu ngốc kia nào biết gì? Lão chỉ nhìn thấy mình mà không biết đến tính siêu việt của trí tuệ, xin Đại vương hãy nghe đây.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Người ngu nô lệ của người hiền,
    Khi vấn đề này phát khởi lên,
    Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
    Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
    Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
    Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.

Bậc Đại Sĩ đưa ra lý luận này biểu lộ đại trí của ngài, chẳng khác nào ngài đào được cát vàng dưới chân núi Tu-di hay đem vầng trăng tròn sáng tỏ lên bầu trời.

– Này Senaka, nếu được thì khanh cứ đối đáp lại đi.

Nhưng cũng như kẻ đã dùng hết thóc gạo trong kho, Senaka ngồi yên, rầu rĩ, lòng phiền muộn không nói năng gì được nữa. Nếu ông tìm ra được một lý luận khác, chắc cả ngàn câu kệ nữa cũng chưa hết chuyện Tiền thân này, nhưng khi ông ấy không trả lời được nữa, bậc Đại Sĩ lại tiếp tục ngâm kệ tán thán trí tuệ, chẳng khác nào ngài để dòng hồng thủy tuôn tràn:

  1. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
    Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
    Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
    Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
    Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
    Trí cao siêu việt, tấu vương quân.

Nghe xong vua rất hoan hỷ với cách giải đáp vấn đề của bậc Đại Sĩ, đến độ vua ban thưởng ngài vô số tài sản và ngâm kệ:

  1. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
    Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
    Ngàn bò cái, một voi, bò đực,
    Tuấn mã kéo mười cỗ đại xa,
    Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
    Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.

Đến đây chấm dứt Vấn đề “Giàu Nghèo” (Chương XX).

  1. CON ĐƯỜNG BÍ MẬT.

Từ ngày ấy, vinh quang của Bồ-tát thật lẫy lừng và hoàng hậu Udumbarà điều hành chu đáo mọi việc cho ngài.

Khi ngài được mười sáu tuổi, bà nghĩ thầm: “Tiểu đệ đã lớn, danh vọng thật lẫy lừng, vậy ta phải tìm nơi xe duyên cho tiểu đệ”. Bà liền tâu chuyện này với vua, và vua rất hài lòng:

– Tốt lắm, ái khanh, cứ nói chuyện cho vương nhi biết.

Bà nói với ngài chuyện ấy, ngài ưng thuận và bà nói:

– Vậy để ta tìm tân nương cho con.

Bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta sẽ chẳng bao giờ vừa ý cho ai chọn vợ cho ta, ta sẽ tự chọn lấy mà thôi”. Ngài liền đáp:

– Tâu hoàng hậu, khoan nói chuyện này với thánh thượng trong vài ngày nữa đã, xin để tiểu đệ tự đi tìm vợ cho hợp ý mình, rồi tiểu đệ sẽ tâu trình sau.

– Được rồi, em cứ làm như vậy.

Ngài từ giã hoàng hậu, đi về nhà thông báo cho các thân hữu. Rồi ngài tìm cách kiếm được bộ đồ nghèo của thợ may, một mình đi ra cửa Bắc, tiến vào Bắc thị trấn.

Lúc bấy giờ ở đó có một gia đình thương nhân cổ kính bị suy sụp, là gia đình của cô gái tên là Amarà (Bất tử) rất xinh đẹp, khôn ngoan, có đầy đủ mọi tướng tốt của phúc phận. Sáng sớm hôm ấy cô gái đi đến nơi cha nàng cày ruộng, để đem cháo nàng nấu cho cha, tình cờ nàng cũng đi trên con đường ấy. Khi bậc Đại Sĩ thấy nàng đi đến, ngài tự nhủ: “Một nữ nhân đủ mọi tướng tốt lành thay! Nếu nàng chưa có gia thất, nàng phải làm vợ ta”. Còn nàng khi vừa trông thấy ngài, cũng tự nhủ: “Nếu ta được chung sống với một nam nhân như vậy, ta có thể khôi phục cơ đồ sự nghiệp”.

Bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta không biết nàng có gia thất chưa, vậy ta sẽ hỏi nàng bằng cách ra dấu tay và nếu nàng thông minh, nàng sẽ hiểu”. Thế là đứng đằng xa, ngài nắm chặt tay lại. Nàng hiểu rằng ngài hỏi nàng có chồng chưa, liền xoe tay ra. Thế rồi ngài vội đi đến hỏi tên nàng. Nàng đáp:

– Tên thiếp là cái hiện nay không có, trước kia đã không có và sau này cũng sẽ không có được.

– Thưa nương tử, không có gì trên đời này bất tử cả, vậy chắc hẳn tên quý nương là Amarà, người Bất tử, phải chăng?

– Đúng vậy, thưa công tử.

– Nương tử đem cháo cho ai?

– Cho vị thần ngày xưa.

– Các thần ngày xưa là cha mẹ ta. Vậy chắc quý nương muốn nói đến quý phụ thân?

– Đúng vậy, thưa công tử.

– Quý thân phụ hiện đang làm gì?

– Người đang làm một thành hai.

Lúc bấy giờ làm một thành hai là cầy ruộng.

– Người đang cầy ruộng chăng, hỡi quý nương?

– Thưa công tử, phải.

– Thế ruộng người cày ở đâu?

– Ở nơi người ra đi nhưng không trở lại nữa.

– Nơi người ra đi không trở lại là nghĩa địa, vậy người đang cầy ruộng gần nghĩa địa?

– Đúng thế, thưa công tử.

– Quý nương có trở lại đây nữa chăng?

– Nếu nó đến thì thiếp không đến, còn nếu nó không đến thì thiếp sẽ đến, thưa công tử.

– Có lẽ quý thân phụ cày ruộng cạnh bờ sông, nên nếu nước dâng thì quý nương không trở lại được, còn nước không dâng thì quý nương sẽ trở lại, phải chăng?

Sau cuộc trò chuyện trao đổi này, nàng Amarà mời ngài uống nước cháo. Bậc Đại Sĩ nghĩ nếu từ chối thì khiếm nhã, nên ngài nhã nhặn xin nàng một ít. Khi nàng để bình nước cháo xuốngđất, ngài nghĩ thầm: “Nếu nàng mời ta mà không rửa cái hũ và cho ta nước rửa tay, ta sẽ từ giã nàng ra đi”.

Nhưng nàng lấy nước trong hũ đưa ngài rửa tay, rồi đặt chiếc hũ không xuống đất chứ không đưa ngài cầm, khuấy nước cháo trong bình xong, nàng đổ đầy vào hũ. Nhưng thấy rất ít gạo trong nước cháo, ngài bảo:

– Này quý nương, có ít gạo quá!

– Thưa công tử, trước đây chúng tôi không có nước.

– Quý nương muốn bảo là lúa đang mọc, quý nương không đưa nước vào đó chăng?

– Đúng vậy, thưa công tử.

Rồi nàng để lại một ít nước cháo cho cha, và mời Bồ-tát một ít. Ngài uống xong, súc miệng và hỏi:

– Thưa quý nương, ta muốn đến thăm nhà quý nương, xin quý nương làm ơn chỉ đường.

Nàng chỉ đường cho ngài bằng cách đọc bài kệ đã được đưa ra trong Chương Một:

  1. Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
    Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
    Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
    Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
    Đó chính là đường đi thị trấn,
    Con đường bí mật phải tìm ra.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Con đường Bí mật.

  1. BẬC TRÍ GIẢ ĐI CƯỚI VỢ.

Ngài đến nhà nàng theo cách đã chỉ dẫn, mẹ Amarà thấy ngài, liền mời ngài ngồi:

– Ta muốn mời công tử dùng cháo, được chăng?

– Xin cám ơn hiền mẫu, hiền muội Amarà đã cho tiểu sinh ăn cháo rồi.

Bà mẹ liền nhận ra ngay là chắc hẳn ngài đến đây vì ái nữ của bà. Bậc Đại Sĩ thấy cảnh nghèo túng của họ, lại nói:

– Thưa hiền mẫu, tiểu sinh làm nghề thợ may, hiền mẫu cần may vá gì không?

– Thưa công tử, có chứ, nhưng không có tiền để trả công.

– Thưa hiền mẫu, không cần phải trả công, hiền mẫu cứ đem các thứ ra đây cho tiểu sinh may vá.

Bà liền đem áo quần cũ ra, Bồ-tát vá từng thứ, công việc của người có trí bao giờ cũng trôi chảy và ngài lại bảo bà:

– Hiền mẫu đi báo cho dân chúng ngoài đường biết nhé.

Bà liền thông báo khắp làng, chỉ một ngày nhờ công việc may vá, bậc Đại Sĩ kiếm được một ngàn đồng tiền. Bà lão nấu cơm trưa cho ngài ăn và buổi chiều bà hỏi cần nấu bao nhiêu nữa.

– Thưa hiền mẫu, nấu đủ cho mọi người trong nhà thôi.

Bà liền đi nấu cơm với cà ri và thêm các thứ gia vị vào.

Buổi xế chiều, Amarà từ khu rừng trở về nhà, mang theo một bó củi trên đầu và bó lá quanh hông. Nàng vứt củi xuống ở cửa trước và đi vào cửa sau. Cha nàng cũng về sau đó. Bậc Đại Sĩ ăn một bữa cơm thật ngon miệng; cô gái hầu cơm cha mẹ trước khi ăn, rồi rửa chân cho chamẹ cùng Bồ-tát. Ngài ở đó vài ngày thăm dò nàng. Rồi một ngày kia, để thử nàng, ngài bảo:

– Ái nương Amarà ơi, đem nửa đấu thóc ra làm cho ta một cái bánh, một nồi cháo và một nồi cơm.

Nàng bằng lòng ngay, đi sàng gạo sạch trấu, lấy hột lớn nấu cháo, hột vừa nấu cơm, hột nhỏ làm bánh, thêm gia vị cho đầy đủ. Nàng đem nấu cháo đã nêm gia vị mời bậc Đại Sĩ.

Ngài vừa ăn một miếng đã cảm thấy mùi thơm đặc biệt thấm qua cổ họng, tuy nhiên để thử nàng, ngài bảo:

– Quý nương ơi, nếu nàng không biết nấu, sao nàng lại làm hỏng gạo cơm của ta?

Rồi ngài nhổ cháo xuống đất, nhưng nàng không hề giận, chỉ trao bánh cho ngài và bảo:

– Nếu cháo không ngon, thì xin ăn bánh.

Các bánh kia ngài cũng nói như thế và từ chối món cơm, ngài bảo :

– Nếu nàng không biết nấu nướng sao lại phí phạm của cải ta?

Rồi như thể giận dữ lắm, ngài trộn cả ba thứ với nhau bôi khắp người nàng từ đầu đến chân, bảo nàng ngồi xuống bậc cửa.

– Hay lắm, thưa công tử.

Nàng vâng lời ngồi xuống, không tỏ vẻ giận dữ gì. Thấy nàng không có vẻ cao ngạo, ngài bảo:

– Quý nương ơi, đến đây.

Vừa nghe ngài gọi tiếng đầu, nàng đã đến ngay.

Khi Đại Sĩ đến đây, ngài có đem theo một ngàn đồng tiền vàng và một chiếc áo trong giỏ cau trầu.

Bấy giờ ngài lấy nó ra, đưa cho nàng và bảo :

– Quý nương ơi, hãy cùng bạn hữu đi tắm và mặc áo này vào và đến đây với ta.

Nàng vâng lời. Bậc Trí giả trao cho cha mẹ nàng tất cả số tiền ngài đem theo và vừa kiếmđược, khuyên nhủ đôi lời, rồi đem nàng lên kinh thành.

Tại đây ngài muốn thử nàng, liền bảo nàng ngồi trong nhà người canh cổng, nói cho bà vợ người canh cổng biết mưu kế của ngài, rồi về nhà ngài. Tại đó ngài cho gọi các quân hầu của ngài đến và bảo:

– Ta có để lại một nữ nhân ở nhà kia, hãy đem một ngàn đồng tiền đến thử nàng xem.

Ngài đưa tiền và bảo họ đi. Họ làm theo lời ngài dặn. Nàng từ chối, bảo:

– Số tiền này không đáng giá bằng đám đất bụi bám trên chân công tử của ta.

Đám quân hầu trở về kể lại cho ngài nghe kết quả cuộc thử. Ngài lại bảo họ đi lần nữa, đến lần thứ ba, thứ tư, rồi bảo họ kéo nàng đi bằng vũ lực. Họ vâng theo và khi nàng nhìn thấy bậc Đại Sĩ uy nghi rực rỡ, nàng không nhận ra ngài, mà chỉ cười rồi khóc khi nhìn ngài. Thấy thế ngài hỏi cớ sao, nàng đáp:

– Thưa công tử, thiếp mỉm cười khi ngắm vẻ huy hoàng của công tử và nghĩ rằng công tử được hưởng cảnh huy hoàng này không phải là không có nhân duyên, mà là do thiện nghiệp của công tử đời trước: “Hãy xem quả phước báo”. Thiếp nghĩ vậy và mỉm cười. Nhưng rồi thiếp khóc khi nghĩ rằng công tử sẽ gây tội ác phá hại tài sản mà kẻ khác chăm sóc trông nom và sẽ xuống địa ngục, nên vì thương cảm, thiếp phải khóc.

Sau lần thử này, ngài biết nàng rất tiết hạnh, nên bảo họ đem nàng về chỗ cũ. Ngài giả dạng người thợ may, trở về với nàng và ở lại đêm đó.

Sáng hôm sau, ngài trở về cung, kể mọi chuyện với hoàng hậu Udumbarà. Bà báo cho vua biết xong, trang điểm cho Amarà đủ ngọc vàng trân bảo đặt nàng ngồi trên một cỗ xe sang trọng,đầy vẻ uy nghi, vinh hiển rước nàng về cung của bậc Đại Sĩ và mở ngày lễ hội vương hầu.

Vua ban thưởng Bồ-tát món quà đáng giá một ngàn đồng tiền, dân chúng trong thành đem quà đến dâng, từ người giữ cửa trở đi. Nàng Amarà chia quà vua ban làm hai phần, gửi lại một phần dâng lên vua; các quà dân chúng tặng, nàng cũng chia như vậy, trả về cho họ một nửa, vì thế rất được lòng dân. Từ ngày ấy, bậc Đại Sĩ cùng nàng sống rất hạnh phúc và chỉ bảo cho vua mọi thế sự cũng như thánh sự.

Một ngày kia Senaka bảo ba người kia nhân lúc họ đến thăm:

– Này các bạn, chúng ta chưa đấu trí nổi vôí Mahosadha con nhà dân giả này, nay nó tìm được vợ khôn lanh hơn cả nó nữa, làm sao chúng ta kiếm kế ly gián nó với đức vua đây?

– Thưa Tôn sư, làm sao chúng tiểu đệ biết được? Chuyện đó tùy ngài định đoạt.

– Được rồi đừng lo gì, ta đã có cách. Ta sẽ trộm hạt bảo châu trên vương miện, hiền hữu Pukkusa trộm chuỗi đeo cổ bằng vàng của đức vua, hiền hữu Kavinda trộm chiếc áo lông của ngài và hiền hữu Devinda lấy đôi hài bằng vàng của ngài.

Cả bốn người ấy tìm cách làm các việc này. Sau đó Senaka nói:

– Song ta phải bỏ vào nhà gã này mà không cho nó biết.

Thế là Senaka để hạt bảo châu vào bình hạt dẻ, bảo một tỳ nữ:

– Nếu ai mua bình hạt dẻ này, ngươi đều từ chối, chỉ bán cho người nhà Mahosadha mà thôi.

Người tỳ nữ đem lọ đến nhà bậc Trí giả đi lên đi xuống và rao:

– Ai muốn mua hạt dẻ?

Nhưng nàng Amarà đứng bên cửa nhìn thấy rõ, nàng nhận xét cô nữ tỳ nọ không đi nơi nào khác ngoài nhà nàng, chắc phải có điều gì bên trong chuyện này. Nàng liền ra dấu cho tỳ nữ của nàng lại gần, còn chính nàng kêu to gọi cô gái:

– Đến đây cô bé, ta muốn mua hạt dẻ.

Khi cô gái đến, bà chủ gọi các nữ tỳ ra, nhưng không có ai trả lời cả, nên phải nhờ cô gái đi kiếm hộ. Khi cô gái đi rồi, Amarà thọc tay vào bình tìm ra hạt bảo châu. Khi cô gái trở lại, Amarà liền hỏi:

– Cô là tỳ nữ nhà ai?

– Thưa phu nhân, nhà bậc Trí giả Senaka ạ.

Nàng liền hỏi tên họ tỳ nữ cùng tên mẹ cô gái rồi bảo:

– Nào cho ta ít hạt dẻ.

– Thưa hiền mẫu, nếu mẹ cần thì cứ lấy cả bình, con không lấy tiền đâu.

– Vậy thì cô về đi.

Amarà bảo người tỳ nữ ra rồi, nàng viết trên một ngọn lá: Vào ngày ấy tháng ấy, đại sư Senaka gửi đến một hạt bảo châu trên vương miện để làm quà tặng do một nữ tỳ tên họ ấy đem đến.

Pukkusa gửi đến chuỗi đeo cổ bằng vàng giấu trong giỏ hoa lài, Kàvinda gửi đến chiếc cẩm y giấu trong giỏ rau, Devinda gửi đến đôi hài bằng vàng để trong bó rơm. Nàng nhận tất cả và viết tên họ vào ngọn lá, cất đi rồi kể lại cho bậc Đại Sĩ nghe mọi chuyện. Khi năm vị hiền thần kia vào cung, liền hỏi vua:

– Tâu Đại vương, sao Đại vương không đội vương miện có bảo châu?

– Được đem nó ra đây cho trẫm mang vào. Vua bảo.

Nhưng họ không kiếm ra viên bảo châu và các thứ kia. Thế là cả bốn vị bảo:

– Tâu Đại vương, các vật trang sức của Đại vương đều nằm trong nhà Mahosadha, gã ấy đang dùng chúng đấy, gã con trai nhà dân giả ấy chính là kẻ thù của Đại vương đấy.

Họ vu cáo cho ngài như vậy. Sau đó những kẻ tốt bụng đi tìm Mahosadha kể chuyện cho ngài, ngài bảo:

– Để ta yết kiến đức vua và đi tìm.

Ngài đến chầu vua. Đang cơn thịnh nộ, vua phán:

– Trẫm chẳng nhìn nhận tiểu tử kia nữa, nó còn muốn gì ở đây?

Vua không cho phép ngài vào trần tình. Khi bậc Trí giả biết vua đang cơn thịnh nộ, ngài trở về nhà. Vua ban lệnh bắt ngài và ngài biết được nhờ những kẻ tốt bụng, nên bảo cho Amarà biết đã đến lúc ngài phải ra đi, rồi ngài trốn ra khỏi kinh thành, đến Nam thị trấn giả dạng làm nghề thợ đồ gốm ở trong một lò gốm. Cả kinh thành loan tin ngài bỏ trốn. Khi Senaka và ba vị kia hay tin ấy mỗi người liền gửi cho phu nhân Amarà một bức thư mà không cho ba vị biết, nhắn tin với nàng: Xin phu nhân đừng ngại gì, chúng ta không phải là những trí giả hay sao?

Nàng cất cả bốn bức thư rồi trả lời cho mỗi vị đến gặp nàng vào một ngày giờ nào đó. Khi họ đến, nàng cho người lấy dao cạo râu tóc họ sạch nhẵn, ném họ vào buồng tắm, hành hạ họ thật khổ sở, rồi lấy mền quấn họ lại và thông báo cùng vua biết. Nàng đem họ cùng bốn bảo vậtđến cung đình, tung hô vua xong, nàng nói:

– Tâu Đại vương, bậc Trí giả Mahosadha không phải là kẻ trộm, mà chính đây là các kẻ trộm: Senaka trộm bảo châu, Pukkusa trộm dây chuyền vàng, Devinda trộm đôi giày mạ bằng vàng vào ngày ấy tháng ấy, do tay của một nữ tỳ, các vật này được gửi đến làm quà tặng. Xin Đại vương nhìn ngọn lá này và nhận lại các bảo vật rồi thả các kẻ trộm ra.

Làm cho các vị kia chịu muôn phần sỉ nhục như thế xong, nàng liền ra về.

Tuy nhiên, vua lại bối rối trước chuyện này, vì từ khi Bồ-tát ra đi và không có bốn bậc hiền thần kia, ngài không nói gì nữa, chỉ bảo họ tắm rửa rồi ra về.

  1. VỊ NỮ THẦN VÀ CON ĐOM ĐÓM.

Lúc bấy giờ vị nữ thần ở trong chiếc lọng hoàng gia không được nghe giọng Bồ-tát thuyết pháp, không hiểu nguyên nhân gì và khi bà biết được, liền quyết định đem bậc Trí giả trở về.

Vì thế ban đêm, bà hiện ra từ một cái lỗ quanh lọng, hỏi vua bốn vấn đề được tìm thấy trong “Các vấn đề của Nữ thần” Chương IV, với các vần kệ bắt đầu: “Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay”. Vua không trả lời được, nhưng hứa sẽ hỏi các vị hiền thần và xin gia hạn một ngày.

Hôm sau, vua ban lệnh triệu hồi họ, nhưng họ đều đáp:

– Chúng thần hổ thẹn nếu xuất hiện trước công chúng. Vì chúng thần bị cạo râu tóc sạch nhẵn.

Thế là ngài gửi cho họ bốn chiếc mão đội đầu (dân chúng cho rằng đó là nguồn gốc các chiếc mão).

Khi họ đến, họ được mời ngồi xong, vua bảo:

– Này Senaka, đêm qua vị thần ở trong chiếc lọng của trẫm hỏi trẫm bốn vấn đề mà trẫm không giải đáp được, phải bảo là trẫm sẽ hỏi các hiền thần. Vậy các khanh hãy giải đáp cho trẫm.

Và ngài đọc bài kệ thứ nhất:

  1. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
    Đánh luôn cả mặt mũi tai mày,
    Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng;
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay !

Senaka lắp bắp các chữ đầu:

– Đánh làm sao, đánh ai đã chứ?

Rồi ông chẳng tìm ra đầu đuôi gì cả. Ba vị kia đều im lặng . Vua hết sức túng thế. Đêm đến nữ thần lại hỏi ngài đã giải đáp câu đố được chưa, ngài bảo:

– Trẫm đã hỏi bốn hiền thần mà không ai nói được cả.

Bà đáp:

– Họ có biết gì đã chứ, trừ bậc Trí giả Mahosadha, chẳng ai giải đáp được cả. Nếu Đại vương không triệu ngài về giải đáp các vấn đề này, ta sẽ chặt đầu Đại vương với lưỡi dao oan nghiệt này.

Sau khi dọa vua như vậy, bà nói tiếp:

– Tâu Đại vương, khi Đại vương cần lửa, đừng thổi con đom đóm, khi cần sữa đừng vắt cái sừng bò.

Rồi bà lập lại Vấn đề con Đom đóm trong Chương V:

– Khi lửa tắt, có ai đi tìm lửa từng nghĩ rằng con đom đóm có thể làm mồi lửa được chăng, nếu người ấy trông thấy đom đóm ban đêm? Nếu người ấy vò vụn phân bò và cỏ chất lên nó thì thật là điên rồ, vì không thể làm nó bắt lửa được.

Cũng vậy, một thú vật không ích lợi gì cho ta nếu ta dùng nó theo cách sai lạc, ví như vắt sữa sừng bò, thì chẳng bao giờ sữa chảy ra. Con người được lợi lạc nhờ nhiều phương tiện như là trừng phạt kẻ thù và tỏ tình thân ái với bằng hữu. Nhờ chinh phục các tướng lãnh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn.

Các vị vua ấy chẳng giống Đại vương đang thổi con đom đóm và tưởng đó là lửa. Đại vương giống như người thổi con đom đóm khi ngọn lửa đang sẵn sàng bên cạnh, như người ném cái cân xuống và đo lường bằng tay, như người cần sữa vắt sừng bò, khi ngài đem các vấn đề sâu xa như vậy mà hỏi Senaka và những kẻ tương tự lão ấy, chúng nó biết gì đâu chứ? Chúng chỉ là những con đom đóm, còn Mahosadha sáng ngời trí tuệ mới là ngọn lửa vĩ đại đang cháy bùng rực rỡ, nếu Đại vương không tìm ra lời giải đáp vấn đề này, Đại vương sẽ là cái xác không hồn.

Sau khi dọa cho vua khiếp sợ như thế, bà biến mất.

Đến đây chấm dứt Vấn đề con Đom đóm.

*

Từ đấy vua kinh hoàng vì sợ chết. Sáng hôm sau vua ra lệnh bốn cận thần lên bốn cỗ xe đi ra bốn hoàng môn và bất kỳ nơi nào họ tìm được vương tử, bậc Trí giả Mahosadha, đều phải đón chào ngài thật trọng thể rồi lập tức rước ngài về hoàng cung. Ba vị trong số này không tìm được bậc Trí giả ; nhưng vị thứ tư đi ra phía Nam môn tìm thấy bậc Đại Sĩ ở Nam thị trấn, lúc ấy đang ngồi trên bó rơm lấm lem bùn đất, ăn những vắt cơm chấm ít nước canh sau khi đã kiếm xong đất sét và quay bánh xe cho chủ lò gốm. Ngài đã làm như vậy là vì ngài nghĩ rằng vua có thể nghi ngờ ngài muốn lên cầm vương quyền, nhưng nếu vua hay tin ngài đang sống bằng nghề thợ gốm thì mối nghi kỵ sẽ tan ngay. Khi ngài trông thấy vị cận thần, ngài hiểu ông đi đến tìm ngài, ngài hiểu rằng vinh quang của ngài đã được phục hồi, ngài sẽ được thưởng thức mọi cao lương mỹ vị do phu nhân Amarà dọn ra thiết đãi, vì thế ngài thả vắt cơm đang cầm và đứng dậy súc miệng. Vừa lúc ấy vị cận thần đi đến, đây là một người trong vây cánh của Senaka nói với ngài một cách thô lỗ như sau:

– Thưa Tôn sư, những lời mà bậc hiền giả Senaka nói đều là những điều báo trước rất hữu ích cho ngài: vinh quang của ngài đã mất, tài trí của ngài chả ích lợi gì, bây giờ đây ngài ngồi trên đống rơm bê bết bùn lầy đất mà ăn cơm như vậy đó.

Rồi gã này đọc bài kệ trong chuyện Bhùri-pãnha hay Vấn đề Trí tuệ, Chương X:

  1. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
    Như người đồn có trí uyên thâm,
    Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
    Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
    Và đã trở thành không ý nghĩa,
    Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?

Bậc Đại Sĩ liền đáp lại:

– Tên ngu si mê muội kia, nhờ tài trí của ta, khi nào ta muốn phục hồi vinh quang đều được cả.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
    Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
    Để ẩn náu mình theo ý muốn,
    Mở toang các cửa lợi vô ngần,
    Cho nên ta biết điều tri túc,
    Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.
  2. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
    Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
    Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
    Can cường chẳng khác một thanh sư,
    Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
    Ông sẽ thấy ta trở lại mà.

Lúc ấy vị cận thần đáp:

– Thưa bậc Trí giả, vị thần ở trong chiếc lọng hoàng gia đặt một câu hỏi cho đức vua, ngài liền hỏi cả bốn vị hiền thần nhưng không ai giải đáp nổi, vì thế đức vua ra lệnh tiểu thần đi rước ngài về.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Trong trường hợp như thế mà ông chưa thấy được uy lực của trí tuệ hay sao? Những lúc như vậy của cải nào có ích gì, chỉ có trí là hữu ích.

Ngài tán thán trí tuệ như vậy. Sau đó vị cận thần trao cho bậc Đại Sĩ ngàn đồng tiền và bộ y phục vua ban, để ngài tắm rửa và thay quần áo ngay. Người chủ lò gốm kinh hãi vì đã lầm tưởng bậc Trí giả Mahosadha là thợ gốm của lão, tuy nhiên bậc Đại Sĩ liền trấn an lão:

– Tôn ông đừng sợ, ông đã cứu giúp ta thật quý giá vô cùng.

Rồi ngài tặng lão ngàn đồng tiền và với thân mình còn lấm lem bùn đất, ngài đã leo lên xe về kinh thành ngay. Viên cận thần báo tin cho vua biết ngài đã về.

– Này hiền khanh đã tìm ra bậc Trí giả, vương nhi ở đâu?

– Tâu Đại vương, vương tử đang sống bằng nghề làm đồ gốm ở Nam thị trấn, nhưng vừa được tin Đại vương triệu ngài về là ngài về ngay chẳng đợi tắm rửa gì, đất còn lấm lem cả người.

Vua nghĩ thầm: “Nếu nó là kẻ thù của ta thì nó đã trở về trong cảnh xa hoa long trọng có tùy tùng hầu hạ kia chứ, như vậy nó chẳng phải là đối thủ của ta rồi”.

Vua liền ban lệnh đưa ngài về tư thất tắm rửa, trang sức cho ngài rồi trở lại chầu vua với lễ nghi rực rỡ long trọng mà vua đã ban. Khi mọi việc xong xuôi, ngài trở vào triều, tung hô vua xong, liền đứng sang một bên. Vua nói năng ôn tồn với ngài, rồi muốn thử ngài, ông ngâm kệ này:

  1. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
    Bởi vì họ đã được giàu sang,
    Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
    Vì sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
    Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
    Sao con không hãm hại vương quân?

Bồ Tát đáp lại:

  1. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
    Chỉ vì lạc thú hưởng giàu sang,
    Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
    Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
    Chẳng vì thân hữu hay thù hận,
    Mà phải khước từ đạo chánh chân .

Vua lại đọc bài kệ này, là những lời huyền bí của một vị Sát-đế-lị (quý tộc):

  1. Người nào vì bất cứ nguyên nhân,
    Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
    Đưa chính mình lên từ chỗ thấp,
    Về sau tiến bước đạo Như chân.

Còn bậc Đại Sĩ đọc kệ này lấy ví dụ cái cây để minh họa:

  1. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
    Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân mình,
    Chặt cành lá ấy là làm phản,
    Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.

Rồi ngài tiếp tục:

– Tâu Đại vương, nếu chặt cành của một cây mà ta đã hưởng lợi lạc là chuyện phản bội, thì còn nói gì đến kẻ sát nhân? Đại vương đã ban cho phụ thân tiểu thần hưởng đại phú quý và sủng ái tiểu thần phúc lộc tràn trề, làm sao tiểu thần có thể phản trắc làm hại Đại vương được?

Sau khi bày tỏ lòng trung thành của mình, ngài lại khiển trách vua về lầm lỗi ấy:

  1. Nếu một người khai đạo chánh chân,
    Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
    Người này thành một nơi nương tựa,
    Và bảo hộ cho chính bản thân,
    Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
    Mối dây này kết hợp thân bằng.

Bấy giờ để khuyến giáo vua, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Ta ghét thế nhân đắm dục tình,
    Giả tu là dối gạt rành rành,
    Hôn quân xử án không nghe thấy,
    Sân hận người hiền chẳng biện minh.
  2. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
    Xử án đầy suy xét tận tình,
    Vua chúa suy tư phân xử đúng,
    Đời đời danh vọng mãi quang vinh.

Khi vua nghe xong liền mời bậc Đại Sĩ ngồi lên ngai vàng dưới chiếc lọng hoàng gia mở rộng, còn chính vua ngồi xuống một ghế thấp và nói:

– Thưa bậc Trí giả, vị thần ở trong chiếc lọng trắng này hỏi trẫm bốn câu. Trẫm đã vấn ý bốn hiền thần mà không ai tìm ra giải đáp. Vậy xin vương nhi giải đáp cho trẫm.

– Tâu Đại vương, dù là vị thần trong chiếc lọng, hay bốn Đại thiên vương, hoặc dù ai đi nữa, xin cứ hỏi, tiểu thần sẽ giải đáp.

Vua liền đưa câu hỏi nữ thần đã đọc ra và nói:

  1. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
    Đánh luôn cả mặt, mũi, tai, mày,
    Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng,
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay!

Khi bậc Đại Sĩ nghe câu hỏi xong, ngài thấy ý nghĩa lộ rõ ràng, chẳng khác nào vầng trăng hiện lên bầu trời:

– Xin Đại vương nghe đây, Ngài nói. Khi đứa bé ngồi trong lòng mẹ sung sướng chơi đùa lấy tay đánh mẹ nó, kéo tóc mẹ nó, nắm tay lại đấm mẹ nó, mẹ nó bảo: “Này ranh con, sao dám đánh mẹ?”. Rồi bà âu yếm ôm sát con vào ngực và không nén được lòng thương yêu con, bà mẹ hôn hít con, vào lúc đó đứa con còn thân thiết với bà còn hơn là cha nó nữa.

Ngài đã làm sáng tỏ vấn đề như thể đem vầng nhật lên bầu trời, nghe xong, nữ thần hiện nửa thân qua kẽ hở của chiếc lọng và nói bằng một giọng dịu dàng:

– Câu hỏi đã được giải đáp thỏa đáng.

Sau đó bà tặng bậc Đại Sĩ một giỏ đầy hoa tiên và hương thần, rồi biến mất.

Vua cũng ban thưởng ngài các loại hương hoa như vậy rồi đọc câu kệ thứ hai, hỏi vấn đề thứ hai:

  1. Bà mắng kẻ kia thật tệ tàn,
    Nhưng bà muốn nó ở kề gần,
    Kẻ kia, tuy vậy, tâu Hoàng thượng,
    Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

Bậc Đại sĩ:

– Tâu Đại vương, đứa bé lên bảy, có thể làm theo lời mẹ dặn. Khi bà bảo nó ra đồng hay đến tiệm tạp hóa, nó đáp: “Nếu mẹ cho con bánh kẹo con sẽ đi”; bà mẹ bảo: “Bánh kẹo đây con”, rồi đưa bánh kẹo cho nó. Nó ăn xong lại nói: “Này mẹ, mẹ ngồi trong nhà im mát mà con lại phải đi ra ngoài làm công việc cho mẹ”. Nó nhăn mặt, làm bộ điệu chế nhạo mẹ nó, rồi không chịu đi. Bà nổi giận chụp lấy chiếc gậy la lên: “Mày ăn các thứ ta cho mày rồi lại không chịu ra đồng làm việc cho ta”. Bà dọa nó, nó vụt chạy thật nhanh, bà theo không kịp bà liền la lên: “Đi đi cho kẻ trộm xé xác mày ra”. Thế là bà mắng nhiếc nó thật thậm tệ, nhưng dù miệng nói gì đi nữa, bà cũng không muốn thế tí nào, bà chỉ muốn nó ở gần bà. Nó đi chơi lang thang suốt ngày, đến tối không dám trở về nhà, nó đến nhà bà con. Bà mẹ trông ra đường chờ nó về mà không thấy, nghĩ rằng nó không dám về, lòng bà đau đớn, nước mắt ràn rụa, bà đi đến nhà các quyến thuộc tìm nó. Khi thấy con, bà ôm nó hôn hít kéo nó sát vào lòng và thấy thương yêu nó hơn bao giờ hết, bà kêu lên: “Con tưởng mẹ nói thật sao?”, thế là tâu Đại vương, lúc giận người mẹ lại thương con hơn trước nữa.

Ngài giải đáp vấn đề thứ hai như vậy. Nữ thần lại tặng thưởng ngài như lần trước và vua cũng thế. Sau đó vua hỏi ngài vấn đề thứ ba qua một vần kệ khác:

  1. Nàng mắng nhiếc chàng chẳng lý do,
    Và nàng trách móc thật vu vơ,
    Tuy nhiên, chàng ấy, tâu Hoàng thượng,
    Thân thiết hơn chồng nữa, lạ chưa?

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Đại vương, khi một đôi uyên ương lén lút hưởng lạc thú ái tình, người nọ bảo người kia: “Người chẳng hề để ý đến ta, ta biết tâm hồn người để tận đâu đâu”. Tất cả đều ngụy tạo và không có lý do gì cả, họ la mắng trách móc lẫn nhau, rồi họ càng thân thiết nhau hơn. Đó là ý nghĩa câu hỏi trên.

Nữ thần lại tặng quà cho ngài và vua cũng vậy. Sau đó vua lại hỏi câu nữa qua vần kệ thứ tư:

  1. Lấy thực phẩm, y phục, tọa sàng,
    Thiện nhân mang mọi vật lên đàng,
    Tuy nhiên, các vị, tâu Hoàng thượng,
    Còn thiết thân hơn chính cả chồng.

Ngài đáp:

– Tâu Đại vương, vấn đề này liên hệ đến các khất sĩ Bà-la-môn chân chính. Các gia đình sùngđạo tin tưởng vào đời này và đời sau, thường cúng dường các vị này và hoan hỷ lúc cúng dường. Khi họ thấy các Bà-la-môn nhận vật cúng dường và ăn uống liền nghĩ thầm “Chính các vị này đến nhà ta khất thực để thọ dụng”, họ càng tăng mối cảm tình đối với các vị này. Thật vậy, các vị này nhận phẩm vật, đặt lên vai mọi vật cúng dường và trở thành thân thiết với gia chủ.

Khi ngài giải đáp xong vấn đề này, nữ thần bày tỏ mối đồng tình bằng tặng vật như trước và đặt dưới chân bậc Đại Sĩ một giỏ quý đựng đầy bảy báu vật xin ngài nhận lấy. Vua cũng hoan hỷ phong ngài làm đại tướng.

Từ đó vinh quang của ngài càng chói lọi huy hoàng hơn nữa.

Đến đây chấm dứt Vấn đề của Nữ thần.

  1. NĂM VỊ HIỀN NHÂN.

Bốn vị hiền thần lại bảo nhau:

– Gã thường dân lại càng cao danh vọng hơn nữa, ta phải làm sao đây?

Senaka bảo họ:

– Được rồi, ta đã có kế, ta cứ đến gặp gã và hỏi: Ta nên nói chuyện bí mật với ai? Nếu gã bảo: Không nên nói với ai cả, ta sẽ nói xấu để hại gã với đức vua và bảo gã là tên phản bội.

Cả bốn vị liền kéo đến nhà bậc Trí giả và chào ngài xong, liền bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ta muốn hỏi bậc Trí giả một chuyện.

Ngài bảo:

– Xin cứ nói ngay.

Senaka nói:

– Thưa bậc Trí giả, con người phải an trú vững chắc ở đâu?

– Ở chân lý.

– Xong rồi, còn phải làm gì nữa?

– Phải tạo sự nghiệp.

– Rồi phải làm gì nữa?

– Phải học hỏi các lời khuyến thiện.

– Và sau đó nữa?

– Đừng nói với ai chuyện bí mật của mình.

– Xin đa tạ bậc Trí giả.

Họ nói xong sung sướng ra về và nghĩ: “Hôm nay ta sẽ tống cổ gã đi khuất mắt”. Rồi họ vào yết kiến vua và tâu:

– Tâu Đại vương, gã ấy là tên phản bội Đại vương.

Vua đáp:

– Trẫm không tin các khanh đâu, bậc Trí giả không bao giờ phản bội trẫm.

– Tâu Đại vương, xin hãy tin chúng thần vì đó là sự thật, nếu Đại vương không tin, xin cứ hỏi gã: “Ta nên nói điều bí mật với ai, nếu gã không phản bội, gã sẽ bảo nói với người này người nọ, còn nếu gã phản bội, gã sẽ bảo: “Không nên nói điều bí mật với ai cả. Khi nguyện ước đã thành tựu rồi mới nói được”. Xin Đại vương hãy tin chúng thần, đừng nghi ngờ gì nữa.

Thế là một ngày kia, khi cùng ngồi với các cận thần, vua đọc bài kệ đầu trong “Vấn đề của bậc Trí giả” Chương XX:

  1. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
    Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
    Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
    Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!

Senaka muốn kéo vua về phe mình, liền ngâm kệ:

  1. Xin Đại vương cho biết ý trời,
    Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
    Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
    Năm trí giả mong hiểu ý ngài,
    Cùng sở thích ngài, xin hãy nói,
    Muôn tâu chúa tể cõi trần ai!

Vua vốn bản chất yếu đuối, liền ngâm kệ:

  1. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
    Tuân theo ý nguyện của phu quân,
    Đầy tình thân ái thì nên nói,
    Điều bí mật, hay dở mặc lòng!

“Nhà vua theo phe ta rồi”. Senaka nghĩ thầm, sung sướng đọc câu kệ nói rõ lối xử thế của mình:

  1. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
    Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
    Thì nên bày tỏ cùng thân hữu.
    Điều bí mật, hay dở mặc lòng.

Rồi vua lại hỏi Pukkasa:

– Hiền khanh nghĩ sao, Pukkasa? Phải nói chuyện bí mật với ai?

Pukkasa liền ngâm kệ:

  1. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
    Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
    Với chú em này, điều bí mật,
    Dù là tốt xấu, hãy nêu lên.

Kế đó vua hỏi Kàvinda và ông ngâm kệ:

  1. Khi đứa con vâng phục ý cha,
    Con trai thành thật, trí cao xa,
    Với con như vậy, thì nên nói,
    Điều bí mật, dù tốt xấu mà.

Sau đó, vua hỏi Devinda và ông ngâm kệ:

  1. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
    Nếu mẹ yêu con thật tận tình,
    Đối với mẹ này, điều bí mật
    Dở hay, có thể nói cho rành.

Sau khi hỏi bọn họ xong, vua hỏi:

– Này bậc Trí giả, con nghĩ sao về việc này?

Và ngài ngâm kệ:

  1. Giữ gìn bí mật chính là hay,
    Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
    Người khôn phải giữ điều thầm kín,
    Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
    Sau lúc thực hành điều bí mật,
    Khi người muốn, có thể nêu ngay.

Khi bậc Trí giả nói xong, vua phật ý nên nhìn Senaka và Senaka cũng nhìn lại vua. Bồ-tát thấy ngay điều này và nhận rõ sự thật là trước kia bốn kẻ này đã vu cáo ngài với vua, còn vấn đề này ắt hẳn cũng được đặt ra để thử ngài.

Lúc bấy giờ trong lúc họ đang đàm luận thì mặt trời đã lặn, đèn đã được thắp sáng. Ngài nghĩ thầm: Cung cách vua chúa thật khó lắm thay, chẳng ai còn biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa, thôi ta phải lo nhanh chân tẩu thoát mới được”.

Thế là ngài liền đứng dậy, vái chào vua rồi ra về, và nghĩ thầm: “Trong bốn vị này, người thì bảo phải nói với bạn, người thì bảo nói với anh em, người thì bảo với con trai, người thì bảo nói với mẹ, chắc hẳn họ đã làm hay thấy cái gì rồi, hoặc ta chắc chắn rằng họ đã nghe các kẻ kia kể những điều trông thấy. Thôi được rồi, ta phải tìm ra nội hôm nay”.

Lúc bấy giờ vào các ngày khác, khi bốn vị này ra khỏi cung, thường ngồi trên ống dẫn nước ở cửa cung, bàn bạc mưu kế trước khi về nhà, vì thế bậc Trí giả nghĩ rằng ngài phải núp dưới ống dẫn nước đó mới có thể biết được những chuyện bí mật của họ. Do vậy, ngài giở ống nước lên, trải một tấm nệm phía dưới và bò vào, ra lệnh cho quân hầu của ngài tìm ngài khi bốn vị kia ra về sau cuộc bàn bạc.

Đám quân hầu tuân lệnh ra đi. Trong lúc ấy Senaka tâu với vua:

– Tâu Đại vương, ngài không tin chúng thần, bây giờ Đại vương tính sao?

Vua liền công nhận lời của các kẻ gây hận thù này mà không cần tìm hiểu điều tra gì cả, hốt hoảng hỏi:

– Hiền khanh Senaka, bây giờ phải làm sao đây?

– Tâu Đại vương, phải giết nó đi, không được trì hoãn, không được tiết lộ với ai.

– Này Senaka, không ai lưu tâm đến quyền lợi của trẫm ngoài ái khanh. Vậy hiền khanh hãyđem thân hữu đến đợi ở cửa, sáng mai gã đến chầu trẫm, hãy lấy kiếm chặt đầu gã đi.

Nói xong, vua trao cho họ thanh bảo kiếm của mình.

– Tâu Đại vương, tuyệt quá. Đại vương chớ sợ gì, chúng thần quyết giết nó cho được.

Họ đồng bước ra và nói:

– Chúng ta đã tống cổ được kẻ thù đi rồi.

Và họ ngồi trên ống xối. Rồi Senaka hỏi:

– Này các hiền hữu, ai sẽ hạ thủ thằng đó?

Các vị kia đáp:

– Thưa Đại sư, chính ngài.

Họ giao trách nhiệm cho lão.

Senaka lại hỏi:

– Này các hiền hữu, các vị đã nói rằng nên tiết lộ bí mật với người nọ người kia, vậy các vị đã làm hay nghe thấy chuyện đó chăng?

– Thưa Đại Sư, đừng ngại gì, khi ngài bảo nên tiết lộ bí mật với một thân hữu, vậy chính ngài đã làm điều đó chăng?

– Điều ấy có liên quan gì đến các vị đâu? Lão hỏi.

Họ đồng đáp:

– Xin Đại Sư cho chúng tiểu đệ biết với.

Lão đáp:

– Giá như đức vua biết chuyện này thì đời ta phải tiêu ma.

– Xin Đại Sư đừng sợ, không ai ở đây tiết lộ bí mật của ngài đâu, xin Đại sư cho chúng tiểu đệ biết với.

Senaka liền đập trên ống xối và bảo;

– Nếu thằng nhà quê ấy núp dưới này thì sao?

– Thưa Đại Sư, thằng nhãi ấy đang hưởng vinh hoa, đời nào lại bò xuống dưới chỗ này làm gì? Chắc nó đang mê mẩn trong cảnh phú quý rồi, xin Đại Sư nói đi.

Senaka liền kể bí mật của mình ra:

-Các vị có biết cô ả bán phấn nọ trong kinh thành này chăng?

– Thưa Đại Sư, chúng đệ có biết.

– Giờ đây có ai thấy ả chăng?

– Thưa Đại Sư, không.

– Trong khóm Sà-la kia, ta đã ân ái cùng ả, sau đó giết ả đi để lấy nữ trang, ta đã buộc thành một gói đem về nhà treo trên chiếc ngà voi để trong phòng kia của tầng lầu nọ, nhưng ta chưa dùng chúng được cho đến khi câu chuyện chìm đi, ta đã tiết lộ tội ác này với một người bạn. Người này không nói với ai nữa, nên ta mới bảo là có thể tiết lộ bí mật với bạn.

Bậc Trí giả nghe chuyện bí mật của Senaka liền ghi nhớ thật kỹ. Sau đó Pukkasa kể bí mật của lão:

– Trên đùi đệ có một vết hủi lở. Buổi sáng em trai của đệ rửa ráy nó xong, bôi thuốc rồi băng lại mà chẳng hề nói với ai. Những khi đức vua yếu lòng, ngài kêu lên: “Này Pukkasa đến đây”. Và ngài thường đặt đầu lên đùi của đệ, nhưng nếu ngài biết, chắc ngài giết đệ mất. Mà chẳng ai biết trừ em trai của đệ, vì thế đệ nói: “Có thể kể chuyện bí mật với anh em”.

Kàvinda lại kể chuyện bí mật của lão:

– Về phần đệ, trong nửa tháng tối trời vào ngày trai giới, một con yêu quỷ tên Naradeva cứ cắn lấy đệ và đệ sủa như chó dại. Đệ kể chuyện với con trai đệ, nên con trai đệ mỗi khi thấy đệ bị quỷ ám, liền trói đệ trong nhà, rồi đóng cửa lại, tổ chức đám hội đông đảo để che lấp tiếng sủa ồn ào của đệ. Vì thế đệ mới nói là có thể tiết lộ bí mật với con trai..

Sau đó cả ba vị hỏi Devinda và ông tiết lộ bí mật.

– Đệ là viên tuần tra các đồ trang sức của đức vua và đệ đã trộm một viên ngọc thần ban phúc lộc, đó là tặng vật của Sakka Thiên chủ ban vua Kusa và đệ đã đem về cho mẹ. Mỗi khi đệ vào cung, mẹ của đệ lại trao cho đệ mà không nói với ai. Nhờ có viên ngọc ấy đệ tràn đầy phúc phận mỗi khi vào cung, Đức vua ban phán với đệ trước các vị, cho đệ tiêu dùng tám đồng tiền hoặc mười sáu hoặc ba mươi hai, hoặc sáu mươi bốn. Nếu Đức vua biết đệ lấy viên ngọc ấy, chắc đệ phải chết mất! Vì lẽ đó đệ bảo chuyện bí mật có thể nói với mẹ.

Bậc Đại Sĩ ghi nhớ cẩn thận mọi chuyện bí mật của họ, còn bọn họ, sau khi tiết lộ bí mật như thể mổ bụng phơi bày gan ruột rồi, liền đứng dậy đi về bảo nhau:

– Chắc chắn ta phải đến sớm mà giết thằng khốn đó mới được!

Khi họ đi rồi, đám quân hầu của bậc Trí giả đến lật ống xối lên đưa bậc Đại Sĩ về nhà. Ngài tắm rửa, thay áo quần ăn uống xong xuôi và ngài biết rằng chị ngài, hoàng hậu Udumbarì ngày hôm ấy sẽ gửi cho ngài một thông điệp từ hoàng cung, nên ngài cử người thân tín ra canh chừng, bảo gã thấy ai từ hoàng cung đến phải đưa vào trong lập tức. Rồi ngài nằm ngủ trên giường.

Lúc ấy vua cũng nằm trên vương sàn nhớ lại công đức của bậc Trí giả: “Bậc Trí giả Mahosadha đã phụng sự ta từ khi mới bảy tuổi, chưa bao giờ làm gì sai trái cả. Khi nữ thần hỏi ta, giá như không có bậc Trí giả thì ta đã chết rồi, nay tin theo lời các kẻ báo thù, trao kiếm cho chúng rồi ra lệnh giết bậc Trí giả vô thượng, thật là chuyện ta chẳng nên làm, từ ngày mai ta chẳng còn thấy bậc Trí giả nữa”. Ngài buồn bã, mồ hôi đổ ra như tắm, lòng nặng trĩu ưu phiền, ngài thấy bất an. Hoàng hậu Udumbarì ở bên cạnh ngài trên long sàng, thấy tâm trạng ngài như vậy, liền hỏi:

– Tâu Đại vương, thần thiếp có làm gì xúc phạm đến Đại vương chăng? Chẳng hay việc gì khiến Đại vương sầu muộn?

Rồi bà ngâm kệ:

  1. Vì sao lo lắng, tâu Quân vương?
    Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
    Hoàng thượng nghĩ gì sinh khổ não,
    Có gì lầm lỗi, thiếp làm chăng?

Vua liền ngâm kệ:

  1. Chúng tâu: “Trí giả Đại Sa-dha
    Phải bị giết ngay vì đức vua”,
    Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
    Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
    Không gì lầm lỗi từ khanh cả,
    Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.

Nghĩ đến việc này, trẫm buồn phiền lắm, Ái khanh không có lỗi gì.

Nghe xong, nỗi sầu muộn âu lo vì bậc Đại Sĩ đè nặng bà như cả tảng đá, bà nghĩ thầm: “Ta biết kế an ủi đức vua rồi, khi ngài ngủ ta sẽ gửi thông điệp cho em ta”. Bà liền thưa:

– Tâu Đại vương, chính nhờ Đại vương trọng dụng mà gã thường dân ấy được lên đài vinh quang, Đại vương phong gã làm tổng tư lệnh. Bây giờ họ bảo gã đã trở thành kẻ thù của Đại vương. Không có kẻ thù nào không đáng kể đâu, phải giết gã đi, vậy xin Đại vương đừng ưu phiền.

Nàng cứ thế an ủi vua, khiến nỗi buồn của vua vơi dần và ngài ngủ thiếp đi, hoàng hậu Cây Sung liền trở dậy về phòng bà viết thư báo tin như sau: Mahosadha, bốn vị hiền thần đã vu cáo hiền đệ, khiến đức vua phẫn nộ, ngày mai ra lệnh giết hiền đệ tại cửa cung. Vậy đừng vào cung sáng mai, hoặc hiền đệ có đến, thì phải đặt toàn kinh thành dưới quyền điều khiển của hiền đệ.

Bà đặt thư trong gói kẹo, buộc dây, bỏ vào một cái bình mới, rảy nước hoa xong, dán kín lại, trao cho một nữ tỳ và dặn:

– Đem gói kẹo này cho em ta.

Nàng ấy tuân lệnh. Ta không lạ gì chuyện nàng ấy ra khỏi cung ban đêm, vì vua đã ban đặc ân này cho hoàng hậu, nên không ai cản trở nàng. Bồ-tát nhận được quà tặng ấy, rồi bảo tỳ nữ ra về. Nàng này về tường trình việc đã giao xong, lúc ấy hoàng hậu trở lại nằm cạnh vua. Bồ-tát mở gói kẹo, đọc thư xong hiểu rõ mọi chuyện, sau khi tính toán mọi việc phải làm rồi ngài đi nghỉ.

Sáng hôm sau, bốn vị hiền thần cầm kiếm đứng ở cung môn, nhưng không thấy bậc Trí giả, họ thất vọng buồn bã đi vào yết kiến vua.

Vua hỏi:

– Này, tên khốn kiếp ấy đã bị giết chưa?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chúng thần không thấy gã đâu cả.

Còn bậc Đại Sĩ, lúc tảng sáng, nắm toàn binh lực trong tay, cử quân thị vệ khắp nơi, rồi ngài lên xe cùng đoàn tùy tùng rầm rộ uy nghi tiến vào cung môn. Vua đứng nhìn ra từ cửa sổ. Khi ấy bậc Đại Sĩ xuống xe liền vái chào vua và vua nghĩ thầm: “Nếu gã là kẻ thù của ta, thì gã đã không vái chào ta”. Rồi vua cho mời ngài vào, xong ngồi trên ngai. Bậc Đại Sĩ bước vào, ngồi qua một bên, bốn vị hiền thần cùng ngồi xuống đó. Vua làm như thể không biết chuyện gì cả, ngài bảo:

– Này vương nhi, hôm qua vương nhi bỏ ra về, hôm nay lại đến đây, tại sao vương nhi thờ ơ đối với ta như vậy?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Chiều tối hôm qua, con đã đi,
    Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
    Điều gì lo sợ trong tâm trí,
    Hoặc giả con nghe nói những gì?
    Ai bảo con làm, này Trí giả,
    Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!

Bậc Đại Sĩ bảo:

-Tâu Đại vương, Đại vương đã nghe lời bốn hiền thần này, ra lệnh giết tiểu thần vì thế tiểu thần không đến.

Rồi ngài ngâm kệ trách vua:

  1. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
    Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
    Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
    Thì điều bí mật bị phơi ra!

Vua nghe vậy giận dữ nhìn hoàng hậu, cho rằng có lẽ bà đã nhắn tin này lập tức cho ngài. Thấy vậy bậc Đại Sĩ bảo:

– Tâu Đại vương, tại sao Đại vương nổi thịnh nộ với hoàng hậu? Tiểu thần biết việc quá khứ, hiện tại và vị lai mà. Giả sử hoàng hậu tiết lộ bí mật của Đại vương, thì ai tiết lộ bí mật của các vị Senaka, Pukkusa và đồng bọn? Nhưng tiểu thần biết hết cả.

Rồi ngài kể chuyện bí mật của Senaka qua câu kệ:

  1. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
    Đã làm trong bụi rậm Sà-la,
    Lão cho bạn biết nơi thầm kín,
    Thần đã nghe: cơ mật lộ ra!

Nhìn Senaka, vua hỏi:

– Có thật không?

– Tâu Đại vương, có thật.

Vua ra lệnh bắt giam lão lại. Rồi bậc Đại Sĩ kể chuyện bí mật của Pukkusa qua vần kệ:

  1. Trong người này, lão Pu-ku-sa,
    Có một bệnh không thích hợp cho,
    Một đấng quân vương nào đụng chạm,
    Lão đem bí mật nói riêng tư,
    Cho em mình biết, điều thầm kín,
    Thần đã nghe, được tiết lộ ra.

Vua nhìn lão và hỏi:

– Có đúng không?

– Tâu Đại vương, đúng.

Vua lại bắt giam lão. Rồi bậc Trí giả kể bí mật của Kàvinda qua vần kệ:

  1. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
    Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
    Lão nói cho con điều bí mật,
    Thần nghe bí mật bị phơi trần!

Vua hỏi:

– Có đúng không Kàvinda?

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, đúng.

Vua lại bắt giam lão. Bấy giờ bậc Trí giả nói chuyện bí mật của Devinda qua vần kệ:

  1. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
    Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
    De-vin-da giữ trong tay lão,
    Lão kể chuyện kia với mẹ già,
    Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
    Điều cơ mật ấy được phôi ra!

– Có đúng không Devinda? Vua hỏi.

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, đúng.

Thế là vua bắt giam lão. Như vậy, những kẻ âm mưu giết Bồ-tát đều bị giam cầm. Bồ-tát lại nói:

– Vì thế tiểu thần bảo là ta không nên tiết lộ bí mật với ai cả, kẻ nào bảo phải tiết lộ bí mật, kẻ đó sẽ bị suy tàn.

Rồi ngài ngâm các vần kệ tuyên thuyết đạo lý cao siêu hơn:

  1. Giữ điều bí mật mới là hay,
    Bí mật không nên được tỏ bày,
    Người trí phải duy trì bí mật,
    Khi người thành tựu mục tiêu này,
    Thì người hãy nói như mình muốn.
    Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
    Phải giữ nó như kho bảo vật,
    Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.
  2. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
    Một điều bí mật với đàn bà,
    Với cừu địch, người ham tư lợi,
    Hoặc bởi tình thân ái thiết tha.
    Người tiết lộ ra điều bí mật,
    Vì lo sợ bạn chẳng tin ta,
    Về sau phải chịu làm nô lệ,
    Cho chính kẻ kia thật dại khờ!
  3. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
    Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
    Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,
    Ban ngày hãy đến một nơi xa,
    Nói điều bí mật, còn đêm tối,
    Hãy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
    Vì lắm người nghe lời nói ấy,
    Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.

Khi vua nghe bậc Đại Sĩ nói xong, liền nổi trận lôi đình và nghĩ thầm: “Các tên kia phản bội quân vương mà lại bảo bậc Trí giả phản bội ta”. Vua liền bảo:

– Đem chúng ra khỏi thành đóng cọc qua thân chúng hay chặt đầu đi.

Bậc Trí giả thưa:

– Tâu Đại vương, họ là những cựu Đại thần của Đại vương, xin tha tội cho họ.

Vua chấp thuận, cho họ làm nô lệ, rồi phóng thích họ ra. Vua lại bảo:

– Thôi, chúng không được sống trong quốc độ ta nữa.

Rồi vua ban lệnh đuổi họ đi. Nhưng bậc Trí giả van xin vua tha tội lỗi mù quáng của họ, ngài xoa dịu vua và thuyết phục vua cho họ phục hồi chức vị cũ. Vua rất đẹp ý vì bậc Trí giả: đối với các kẻ thù ngài mà ngài từ bi như vậy, huống gì đối với các người khác. Từ đó, bốn vị hiền nhân như rắn mất răng, nọc độc đã hết, nên không còn nói gì được nữa, ta cũng biết vậy.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Năm vị Hiền nhân hay chuyện Đại vu cáo.

  1. CUỘC ĐẠI CHIẾN.

Sau thời kỳ này, ngài thường khuyến cáo vua về thế sự cũng như thánh sự, ngài nghĩ thầm: “Ta thật đúng là chiếc lọng trắng của đức vua, chính ta điều khiển việc nước. Vậy ta phải cảnh giác mới được”.

Ngài truyền xây thành lũy quanh kinh thành. Dọc theo trường thành là các tháp canh, tại cửa thành giữa các tháp canh, ngài cho đào ba hào, một hào nước, một hào đất sét và một hào khô.

Bên trong kinh thành ngài bảo trùng tu các nhà xưa cũ, đắp bờ đê thật lớn làm hồ chứa nước kho vựa chứa đầy thóc. Các bậc khổ hạnh thân tín phải đem đất sét và hột giống sen ăn được từ vùng Tuyết Sơn về. Các ống nước được chùi rửa sạch sẽ, nhà cửa cũ ở ngoài thành cũngđược trùng tu. Mọi việc đó được làm để phòng hiểm họa trong tương lai. Các thương nhân từ mọi nơi đến đây đều được hỏi họ từ đâu lại, khi họ nói xong, họ được hỏi vua của họ thích gì, họ lại được ân cần tiếp đãi trước khi ra đi.

Rồi ngài cho triệu một trăm lẻ một quân sĩ đến bảo họ:

– Hỡi các binh sĩ của ta, các bạn hãy đem các tặng vật này đến một trăm lẻ một kinh thành dâng lên các vị vua ở đó để làm đẹp lòng các ngài. Hãy ở lại đó hầu hạ các ngài, vâng theo công việc và kế hoạch của các ngài và nhắn tin về cho ta rõ. Ta sẽ chăm sóc vợ con các bạn.

Ngài trao cho người này các hoa tai, người nọ đôi hài bằng vàng, vòng đeo cổ bằng vàng có khắc chữ lên đó mà ngài định sẽ cho chúng lộ ra khi cần phù hợp với mục đích của ngài. Đám quân sĩ ra đi mọi nơi, đem tặng vật dâng các quốc vương, và tâu rằng họ đến để phụng sự các ngài. Khi được hỏi họ từ đâu đến, họ nói tên của các kinh thành khác với nơi họ đã thực sự rađi. Lễ vật được nhận xong xuôi, họ ở lại đó phục dịch và cố gây lòng tin cậy.

Lúc bấy giờ tại quốc độ Ekabala có vị vua danh hiệu Samkhapàla đang chiêu mộ binh khí và tập hợp binh chủng. Người đi sứ đến yết kiến vua này liền gửi điệp về cho bậc Trí giả, nói: Ở đây hiện có tin loan như vậy, nhưng vị vua này dự mưu gì thì tiểu thần chưa rõ, xin ngài phái người đến tìm hiểu sự thật của vấn đề này.

Bậc Đại Sĩ liền gọi một con két và bảo:

– Hiền hữu hãy đi tìm xem vua Samkhapàla đang làm gì ở Ekabala, rồi chu du qua khắp cõi Diêm phù-đề (Ấn độ) và đem tin về cho ta.

Ngài cho nó ăn mật ong và hạt đậu, uống nước ngọt, xoa dầu vào các khớp xương cánh bằng một loại dầu thơm đã lọc cả trăm ngàn lần, rồi ngài đứng bên cửa sổ hướng Đông thả nó đi. Con két đi đến người ấy và tìm ra sự thật. Khi nó bay về, nó ngang qua toàn cõi Diêm-phù-đề đến kinh thành Uttarapañcàla thuộc quốc độ Kampilla.

Vị vua cai trị xứ này danh hiệu là Cùlani-Brahamadatta, có một quân sư về thế sự và thánh sự là một Bà-la-môn tên Kaevatta, một bậc hiền trí thông thái. Vị Bà-la-môn ấy, một buổi sáng kia, thức dậy nhìn quanh tư thất tráng lệ của mình dưới ánh sáng ngọn hoa đăng và trong khi nhìn vẻ nguy nga của tư thất, ông nghĩ thầm: “Cảnh huy hoàng này thuộc quyền ai? Chẳng ai hết ngoại trừ vua Cùlani. Một vị vua ban cảnh huy hoàng như thế này phải làm đại hoàng đế toàn cõi Diêm-phù-đề và ta sẽ là đại sư trưởng của ngài”.

Thế là ông đi chầu vua thật sớm, sau khi vấn an vua có được ngon giấc chăng, ông thưa:

– Tâu Đại vương, tiểu thần có điều này xin tâu trình Đại vương.

– Đại sư cứ nói đi.

– Tâu Đại vương, chuyện bí mật không nên tiết lộ giữa kinh thành, xin hãy vào ngự viên .

– Được rồi, Đại sư.

Vua đi đến ngự viên cùng ông, để quân hầu ở ngoài, vào hoa viên xong, ngài ngồi xuống vương tọa. Con két trông thấy vậy, nghĩ chắc phải có điều gì dưới kia: “Hôm nay ta sẽ ngheđược câu chuyện, phải nhắn tin về bậc Trí giả, chủ nhân của ta”.

Thế là nó bay vào hoa viên, đậy giữa đám lá Sàla của hoàng cung. Vua vừa bảo:

– Nói đi, Đại sư.

Ông đáp:

– Tâu Đại vương, xin Đại vương cúi xuống đây, kế này chỉ vừa cho bốn tai nghe thôi. Nếu Đại vương chịu nghe lời tiểu thần khuyên nhủ, tiểu thần sẽ tôn Đại vương lên làm Đại hoàng đế toàn cõi Diêm-phù-đề.

Vua nôn nóng nghe nên hoan hỷ đáp:

– Đại sư nói đi, trẫm sẽ làm theo ngay.

– Tâu Đại vương, ta hãy khởi binh, trước tiên tấn công một kinh thành ấy bằng cửa hậu và bảo vua ở đó: “Tâu Đại vương, Đại vương có chiến đấu cũng chẳng ích gì, hãy về phe tiểu thần, quốc độ của Đại vương xin cứ giữ lấy, còn nếu Đại vương chống binh hùng tướng mạnh của tiểu thần thì Đại vương sẽ đại bại”. Nếu vị vua đó làm theo lời khuyên của tiểu thần, ta sẽ thâu nhận vị ấy, nếu không ta sẽ đánh và giết đi, rồi với hai đạo binh ta sẽ đi đánh chiếm một kinh thành khác, rồi một kinh thành khác nữa, cứ thế ta sẽ thâu nhập giang sơn toàn cõi Diêm-phù-đề và nâng chén rượu khải hoàn. Rồi ta sẽ đem cả trăm lẻ một vị vua về thành của ta, xây tửu điếm trong ngự viên, bắt các vua ấy vào đó uống độc dược, thế là giết toàn thể và quăng thây xuống sông Hằng. Ta nắm được cả trăm lẻ một kinh thành trong tay và Đại vương sẽ là chúa tể toàn cõi Diêm-phù-đề.

– Này Sư trưởng, thật là diệu kế, ta sẽ làm như vậy. Vua đáp.

– Tâu Đại vương, kế này chỉ cho bốn tai nghe mà thôi, không ai được biết đến. Không nên trì hoãn, mà phải tiến hành ngay lập tức.

Vua rất đẹp ý về lời khuyên này, nên quyết định là làm ngay. Nghe xong câu chuyện này, con két làm rớt cục phân trên đầu quân sư Kevatta như thể từ trên cành cây.

– Cái gì thế này?

Lão vừa kêu vừa nhìn lên, hoác há mồm, con két lại thả thêm một cục phân vào mồm lão vừa bay vụt đi vừa kêu:

– Két két, này Kevatta, ông tưởng kế của ông chỉ có bốn tai nghe thôi ư, nhưng bây giờ là sáu tai nghe rồi, dần dần sẽ đến tám tai và còn cả trăm tai nữa.

– Bắt lấy nó, bắt lấy nó!

Họ la lên, nhưng nhanh như gió, két đã bay về kinh thành Mithilà và vào cung thất của bậc Trí giả. Lúc bấy giờ két có thói quen như vầy: nếu là tin riêng từ bất cứ nơi nào chỉ dành cho bậc Trí giả mà thôi thì nó sẽ đậu trên vai ngài, nếu phu nhân Amarà cũng nghe được thì nó đậu trên lòng ngài, nếu cả hội chúng nghe được thì nó đậu dưới đất. Lần này nó đậu trên vai ngài, thấy dấu hiệu ấy, hội chúng của ngài đều rút lui, biết là chuyện bí mật.

Bậc Trí giả đem nó lên thượng lầu và hỏi:

– Này, két yêu quý, bạn đã nghe thấy gì?

Nó đáp:

– Thưa công công, tiểu thần không thấy hiểm họa từ vị vua nào trên toàn cõi Diêm-phù-đề, nhưng chỉ có Kevatta, sư trưởng của vua Cùlani tại kinh thành Uttarapañcàla, đem vua vào ngự viên bàn mưu tính kế riêng giữa hai người. Tiểu thần đậu trên cành cây thả cục phân vào mồm lão và bay về đây!

Rồi nó kể cho bậc Trí giả mọi điều nó đã nghe thấy. Ngài hỏi:

– Thế vua có chấp thuận chăng?

Con két đáp:

– Thưa có.

Sau đó bậc Trí giả chăm sóc con két thật chu đáo, đặt nó vào lồng vàng trải thảm thật êm. Ngài nghĩ thầm: “Chắc Kevatta không hề biết ta là Trí giả Mahosadha, ta không thể cho lão hoàn tất mưu kế được đâu”. Ngài liền di cư đám người nghèo khó ra khỏi kinh thành và đem về từ khắp nơi trong nước, từ thôn quê, ngoại thành đến kinh đô định cư cho những gia đình giàu có thế lực và thu góp thật nhiều thóc lúa.

Còn vua Cùlani làm theo mưu kế của Kevatta, đem binh đi tấn công một kinh thành. Như lãođã đưa ý kiến, lão vào thành giải thích sự việc cho vua tại đó và chinh phục vị vua ấy. Rồi nhập hai đạo binh lại, vua Cùlani theo lời quân sư Kevatta tiến vào một quốc độ khác, cho đến khi thâu trọn các vua chúa trên toàn cõi Diêm-phù đề dưới quyền mình trừ vua Vedeha. Quân hầu của Bồ-tát vẫn tiếp tục thông báo cho ngài rõ tin: “Vua Brahmadatta đã chiếm các kinh thành kia, xin Đại sư canh phòng nghiêm mật”. Ngài đáp lại: “Ta vẫn canh phòng ở đây, các người hãy cẩn thận, giữ mình đừng vô tâm xao lãng”. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày vua Brahmadatta xâm chiếm toàn cõi Diêm-phù-đề, trừ thành Vedeha. Lúc ấy vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, chúng ta hãy đánh chiếm vương quốc Vedeha ở Mithilà.

– Tâu Đại vương-lão đáp-chúng ta sẽ chẳng bao giờ chiếm được kinh thành bậc Trí giả Mahosadha đang ở, vị ấy đầy tài trí và rất mưu lược.

Rồi lão kể dông dài về tài đức của bậc Đại Sĩ như thể vẽ vòng trên mặt trăng. Lúc bấy giờ chính lão ta cũng đầy mưu trí, nên lão nói:

– Quốc độ Mithilà quá nhỏ bé, toàn cõi Diêm-phù-đề cũng đủ cho ta lắm rồi.

Lão an ủi như vậy. Nhưng các vương hầu kia bảo:

– Không, ta sẽ đánh chiếm quốc độ Mithilà rồi hãy nâng chén rượu khải hoàn.

Kevatta lại phải ngăn cản họ, lão bảo:

– Chiếm quốc độ Vedaha nào có ích gì? Vua đó là chư hầu của ta rồi, trở lui đi.

Lão khuyến cáo họ như vậy. Họ đành nghe theo và rút lui. Quân hầu của bậc Đại Sĩ báo cho ngài biết vua Brahmadatta cùng một trăm lẻ một vị vua khác đang tiến tới Mithilà đã rút lui về kinh thành của họ. Ngài trả lời, bảo họ phải quan sát kỹ những việc mà vua này làm.

Lúc bấy giờ vua Brahmadatta bàn tính với Kevatta những việc làm kế tiếp. Đầy hy vọng sẽ nâng chén rượu khải hoàn, họ trang hoàng ngự viên, cho thị vệ đem rượu cả ngàn bình, bày yến tiệc linh đình đầy sơn hào hải vị, quân của bậc Trí giả cũng báo tin này cho ngài biết mưu kế đầu độc các vua bại trận, nhưng bậc Đại Sĩ đã biết nhờ con két kể lại với ngài. Ngài liền gửi lệnh bảo họ phải báo cho ngài biết ngày tổ chức đại lễ. Họ tuân lệnh. Lúc ấy ngài nghĩ thầm: “Nhiều vị vua phải chết như vậy trong lúc một kẻ có trí như ta còn sống là điều không hợp lý. Ta phải cứu giúp họ mới được”. Ngài cho triệu mười ngàn binh sĩ cùng quê với ngài đến và bảo họ:

– Này các hiền hữu, có người cho ta biết vào ngày kia vua Cùlani muốn trang hoàng ngự viên để đối ẩm cùng một trăm lẻ một vì vua khác. Các hiền hữu hãy đến đó và trước khi có người nào ngồi xuống bảo tọa dành cho các vị vua, các bạn hãy chiếm lấy chỗ danh dự kế vua Cùlani, bảo: “Chỗ này dành cho Đại vương chúng thần.” Khi họ hỏi các bạn là người của ai, xin cứ bảo họ là người của vua Vedeha. Họ sẽ la lớn lên: “Sao, trong bảy năm bảy tháng bảy ngày chúng ta đã chinh phục mọi quốc độ, mà chưa lần nào chúng ta thấy Đại vương Vedeha của các người. Vị vua ấy ra sao? Hãy đi tìm chỗ vua ấy ở cuối bàn tiệc”. Các bạn phải la ầm ó lên và bảo: Trừ vua Brahmadatta ra, không vị vua nào cao hơn Đại vương của chúng ta cả. Nếu chúng ta không tìm được bảo tọa cho Đại vương của chúng ta thì chúng ta sẽ không để yên cho quý đại vương hưởng yến tiệc đâu”…Rồi cứ thế la hét nhảy nhót khắp nơi, lấy gậy lớn đập các bình rượu, làm vung vãi thức ăn ra để không thể nào ăn được nữa, cứ chạy vùn vụt quađám tiệc ấy gây náo loạn như thể các thần Asura (A-tu-la) đánh chiếm kinh thành của chư Thiên, và gọi to lên: Chúng ta là người của bậc Trí giả Mahosadha ở thành Mithilà, có giỏi thì cứ bắt chúng ta đi”…Như thế cho họ biết các hiền hữu đã đến đó, rồi trở về đây.

Họ tuân lệnh ra đi, đem đủ năm loại vũ khí và khởi hành. Họ vào ngự viên đã được trang hoàng chẳng khác nào vườn Nandana (Lạc Viên) trên thiên giới, ngắm mọi cảnh nguy nga lộng lẫy, các bảo tọa dành cho một trăm lẻ một vị vua, các lọng trắng được giương lên cùng nhiều bảo vật khác. Họ làm theo lời dặn của bậc Đại Sĩ, sau khi gây náo loạn giữa đám tiệc xong, họ trở về Mithilà.

Thị vệ của nhà vua tâu trình mọi sự việc xảy ra, vua Brahmadatta nổi trận lôi đình, vì mưu kếđầu độc các quốc vương kia đã hỏng, trong khi các quốc vương kia lại thịnh nộ vì mất uống chén rượu khải hoàn, quân sĩ cũng thịnh nộ vì lỡ dịp chè chén thỏa thích. Vì vậy Brahmadatta bảo các quốc vương kia:

– Này các hiền hữu, ta hãy cùng đến Mithilà chém đầu vua Vedeha, đạp chân lên đầu nó, rồi hãy trở về nâng chén khải hoàn, bảo ba quân sẵn sàng.

Rồi vị vua này đi nói riêng với Kevatta:

– Này, ta sẽ bắt lấy kẻ thù đã phá hoại diệu kế này với một trăm lẻ một quốc vương và mười tám đạo binh hùng hậu, ta sẽ đánh chiếm kinh thành đó. Mau lên Đại Sư.

Nhưng lão Bà-la-môn này đủ trí khôn để hiểu rằng họ sẽ không bao giờ bắt được bậc Trí giả Mahosadha, mà chỉ chuốc lấy nhục nhã thôi, phải can gián vua mới được. Vì thế lão nói:

– Tâu Đại vương, vua xứ Vedaha này không tài hùng trí dũng đâu, mọi việc trị dân đều ở trong tay bậc Trí giả Mahosadha, vị này rất thế lực. Thành Mithilà được vị này bảo vệ, chẳng khác nào con sư tử bảo vệ hang động của nó, không ai chiếm được đâu. Chúng ta sẽ chuốc lấy nhục nhã mà thôi. Đại vương đừng suy nghĩ đến việc đi đánh nữa.

Nhưng vua đang điên cuồng vì tính kiêu ngạo của chiến sĩ và say sưa đi chiếm nước chư hầu, liền kêu lên:

– Gã ấy làm gì được?

Rồi vua tiến lên, cùng với một trăm lẻ một vị quốc vương và mười tám đạo binh hùng hậu. Kevatta không thể nào thuyết phục vua nghe theo mình và cho rằng cản trở vua cũng hoài công, nên đành đi theo.

Nhưng một đêm kia các chiến sĩ về đến Mithilà tường trình với bậc Trí giả mọi việc đã xảy ra. Và các quân hầu mà ngài đã gửi đi phục dịch trước kia cũng nhắn tin rằng vua Cùlani đang cùng một trăm lẻ một quốc vương tiến lên đánh bắt vua Vedeha, vậy ngài phải đề phòng cẩn mật.

Các thông điệp gửi về tới tấp: “Hôm nay vua đang ở chốn này, hôm nay họ đã đến chỗ kia, hôm nay họ sẽ đến kinh thành”. Nghe vậy bậc Đại Sĩ tăng cường phòng vệ gấp đôi. Vua Vedeha nghe tin đồn đãi khắp nơi rằng vua Brahmadatta đang tiến quân đến chiếm kinh thành.

Bấy giờ trời mới sẩm tối, vua Brahmadatta bao vây kinh thành bằng ánh sáng cả trăm ngàn ngọn đuốc. Vua này lại xiết chặt vòng vây bằng những hàng rào voi ngựa, chiến xa và sắp đặt từng đám quân sĩ vào những khoảng cách đều nhau, họ đứng đó la hét, búng tay, reo hò, nhảy múa, kêu gào dưới ánh sáng của ngọn đuốc và ánh phản chiếu của vũ khí, toàn kinh thành Mithilà như một đám lửa bừng sáng suốt bảy dặm, tiếng voi ngựa, xe pháo và người ta ầm ỉ làm mặt đất cũng muốn nứt ra. Bốn vị hiền thần nghe những làn âm thanh vang dội như thế, không biết phải xử trí ra sao, liền yết kiến vua:

– Tâu Đại vương, có cảnh tượng đại náo loạn mà chúng thần không biết chuyện gì, xin Đại vương hỏi xem sao?

Nghe vậy, vua nghĩ: “Chắc chắn Brahmadatta đã đến”.

Ngài mở cửa sổ nhìn ra, khi ngài thấy vị vua kia đã đến thật, thì hốt hoảng bảo họ:

– Chúng ta sắp chết rồi, ngày mai chắc chắn chúng sẽ giết sạch chúng ta.

Vua quan cứ ngồi bàn bạc như vậy. Còn bậc Đại Sĩ khi thấy vua kia đã đến, ngài oai dũng như con sư tử, sắp đặt quân phòng vệ khắp kinh thành rồi đi lên cung điện trấn an vua. Vái chào vua xong, ngài đứng sang một bên. Vua phấn khởi khi thấy ngài, nghĩ thầm: Không ai có thể cứu ta được trừ bậc Trí giả Mahosadha”.

Rồi vua nói với ngài như sau:

– Brahmadatta đã đến cùng với đám chư hầu, đạo binh Pañcàla này thật vô địch. Này Mahosadha, quân hầu đầu đội vai mang, bộ binh bao kẻ thiện chiến, sẵn sàng đi tàn sát, một cảnh đại náo loạn, tiếng trống chiêng vang dậy ngập trời, đây là nơi trổ tài sử dụng binh khí, nào cờ xí, kỵ binh mặc áo giáp, chiến sĩ anh hùng thắng trận vẻ vang. Cả mười bậc Trí giả lại đây, uyên thâm trí tuệ, mưu lược thần kỳ và vị thứ mười một chính là thái hậu đang cổ võ đạo binh Pañcàla. Đây là cả một trăm lẻ một vị vương hầu thiện chiến làm tùy tướng, quốc độ của họ đã bị chiếm đóng, họ đang kinh hoàng và chịu thần phục trước đạo binh của Pañcàla. Họ thề nguyện phụng sự vò vua này, dù muốn dù không, họ cũng nói thẳng họ phải làm như vậy, nay họ bắt buộc phải theo phe vua Pañcàla, vì họ ở dưới quyền vua này. Kinh thành Mithilà đang bị bao vây bởi đạo binh dàn trận ở ba chặng đường, tấn công vào đủ mọi mặt, thành bị bao vây mọi phía như thể muôn sao trên trời. Này Mahosadha, làm cách nào giải vây được chăng?

Khi bậc Đại Sĩ nghe vậy, ngài nghĩ thầm: “Vua này quá lo sợ cho mạng sống của mình. Lương y là nơi an trú của bệnh nhân, thức ăn là nơi an trú của người đói, thức uống là nơi an trú của người khát, nhưng chỉ mình ta là nơi an trú của vua này, ta phải trấn an ngài mới được”. Rồi chẳng khác nào con sư tử gầm thét trên cao nguyên Hồng thổ ở Tuyết Sơn, ngài la to:

– Xin Đại vương chớ sợ, xin cứ an hưởng cảnh cung đình. Như tiểu thần thường ném hòn đất dọa con quạ, lấy cung dọa con khỉ, thần sẽ giải tán đạo quân ấy, cho chúng không còn một manh giáp nữa.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Đại vương hãy duỗi thẳng đôi chân,
    Mở hội vui chơi, tiệc uống ăn,
    Chốc lát Brah-ma, vua địch ấy,
    Sẽ đào tẩu, bỏ mặc binh hùng.

Sau khi trấn an vua, bậc Trí giả ra ngoài ban lệnh đánh trống hội khắp kinh thành cùng với lời huấn dụ:

– Nghe đây, toàn dân chớ kinh sợ. Hãy sắm sửa tràng hoa, hương trầm, nước hoa, thức ăn uống mở hội trong bảy ngày. Dân chúng muốn ở đâu tùy ý, uống rượu thật say sưa, ca múa vui chơi, gào thét, nô đùa, búng tay tùy thích, mọi phí tổn ta sẽ chịu hết. Ta là bậc Trí giả Mahosadha, hãy xem oai lực của ta đây.

Cứ thế ngài khích lệ toàn dân. Họ vâng lệnh ngài, người bên ngoài nghe tiếng ca nhạc tưng bừng, người ta ra vào bằng cửa hậu. Lúc bấy giờ họ không có tục lệ bắt kẻ lạ mặt trừ ra kẻ thù địch, cho nên lối ra vào mở ngỏ. Do đó, những kẻ này thấy dân chúng đang mải mê vui đùa ca hát, còn vua Cùlani nghe tiếng ồn ào trong kinh thành liền bảo các quần thần:

– Này các khanh, xem đây quân ta bao vây kinh thành này với mười tám đạo binh hùng hậu, thế mà dân chúng không tỏ vẻ lo âu sợ hãi, lại còn vui chơi thỏa thích, ca hát, búng tay, nhảy nhót tưng bừng, thế là nghĩa lý gì?

Lúc ấy các quân hầu được ngài gửi đi phục dịch ở nước ngoài trước đây liền nói dối như sau:

– Tâu Đại vương,chúng thần có việc vào thành bằng cửa hậu, thấy dân chúng đang mải mê vui chơi đã hỏi: “Tại sao các người quá vô tâm chểnh mảng trong khi mọi quân vương toàn cõi Diêm-phù-đề đang bao vây kinh thành của các ngươi?” Họ liền đáp: “Khi quốc vương của chúng ta còn bé, ngài có ước nguyện tổ chức hội hè bao giờ tất cả quốc vương toàn cõi Diêm-phù-đề đến bao vây kinh thành. Bây giờ ước nguyện đã thành nên ngài liền ban lệnh khắp nơi và chính ngài cũng tổ chức hội hè trong cung”.

Nghe vậy vị vua này nổi trận lôi đình, gọi một đoàn quân ra ban lệnh:

– Hãy phân tán ra khắp kinh thành, lấp hào phá thành, san bằng tháp canh, vào thành, chặt đầu vua Vedeha đem đến đây cho ta.

Thế là các chiến sĩ dũng cảm trang bị đủ loại vũ khí, rầm rộ tiến vào cổng thành, lại được quân của bậc Trí giả hỗ trợ với vũ khí nóng đỏ rực, nhưng rồi họ bị ném bùn, đá như mưa rào. Khi họ đứng dưới hào phá tường, quân lính trên tháp canh chống trả bằng cung tên, lao, giáo bắn xuống, quân của bậc Trí giả vừa chế nhạo quân của vua Brahmadatta bằng bộ điệu tay chân, vừa la lớn:

– Nếu các ngươi không bắt được ta, thì hãy ăn uống một tí nào.

Họ giơ ra những chén rượu nồng và xiên cá thịt mà họ đang ăn uống dạo chơi quanh tường. Quân địch không làm gì được, đành trở về trình với vua Cùlani:

– Tâu Đại vương, chẳng ai vào thành được trừ khi kẻ có thần thông.

Vua kia đợi bốn năm ngày không tìm được kế gì chiếm thành như ý muốn, lại hỏi Kevatta:

– Này Đại Sư, ta không thể chiếm thành này, không ai có thể đến gần thành được cả, làm sao bây giờ?

– Tâu Chúa thượng, đừng ngại gì, kinh thành này lấy nước từ bên ngoài, ta sẽ cắt nguồn nước và chiếm được thành. Chúng sẽ kiệt quệ vì thiếu nước và sẽ mở cửa thành.

Vua đáp:

– Thật là diệu kế.

Sau đó họ cản trở dân chúng đến gần nguồn nước. Quân do thám của bậc Trí giả viết tin trên một ngọn lá buộc vào mũi tên bắn đi nhắn cùng ngài rõ. Lúc bấy giờ ngài đã ra lệnh hễ ai thấy ngọn lá buộc vào mũi tên phải đem dâng ngài. Một người thấy vật này liền đem trình bậc Trí giả. Ngài đọc tin xong, nghĩ thầm: “Vua ấy không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha”. Ngài cho lấy những thanh tre dài chừng sáu mươi cubit (gần ba mươi mét) chẻ đôi ra, bỏ hết các mắt, rồi cột lại, bọc da bên ngoài và trét bùn lên.

Ngài lại cho lấy đất và hột sen do các ẩn sĩ đem về từ Tuyết Sơn, trồng hột sen trong bùn bên cạnh hồ nước, đặt tre lên và đổ đầy nước vào. Qua một đêm sen mọc và trổ hoa, cao hơn đọt tre chừng hai thước. Ngài nhổ lên đưa cho quân hầu mang đến dâng vua Brahmadatta. Họ cuộn tròn cọng sen lại, ném qua thành, kêu to:

– Này quân hầu của vua Brahmadatta, đừng để chết đói vì thiếu lương thực, đây ta cho các ngươi mang hoa lên và ăn ngó sen vào cho đầy bụng.

Một người trong đám quân do thám của bậc Trí giả lượm cọng sen mang vào dâng vua:

– Tâu Đại vương, đây là cọng sen, chưa bao giờ có cọng sen dài như thế này cả.

Vua bảo:

– Đo thử xem.

Họ đo và thấy chúng dài cả gần bốn mươi mét chứ không phải ba mươi. Vua hỏi:

– Sen này mọc ở đâu?

Họ bịa chuyện đáp:

– Tâu Đại vương, một ngày nọ, vì thèm rượu, tiểu thần vào thành bằng cửa hậu và thấy các hồ nước lớn được đào cho dân chúng vui chơi. Có một đám người trên thuyền đang hái sen. Cây sen này mọc cạnh bờ hồ, chứ còn những cây mọc dưới nước sâu chắc phải cao cả trăm cubit.

Nghe vậy, vua bảo Kevatta:

– Này Đại Sư, ta không thể chiếm thành bằng cách cắt nguồn nước đâu, thôi đừng cố đánh chiếm thành này nữa.

Lão đáp:

– Thôi được, ta sẽ chiếm thành bằng cách cắt nguồn lương thực vì kinh thành này lấy lương thực từ ngoài vào.

– Này Đại sư, thật là diệu kế.

Bậc Trí giả đã biết trước việc này nên nghĩ thầm: “Vua ấy không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha”.

Dọc theo trường thành ngài đổ đất bùn và trồng lúa. Lúc bấy giờ ước nguyện của Bồ-tát bao giờ cũng đạt thành, nên qua một đêm lúa mọc vượt lên cả ngọn thành. Vua Brahmadatta thấy vậy liền hỏi:

– Này hiền hữu, cây gì mọc xanh um trên ngọn thành vậy?

Quân do thám của bậc Trí giả đáp lại ngay như thể chụp lấy lời nói của vị vua này:

– Tâu Đại vương, bậc Trí giả Mahosadha là con nhà nông, đã thấy trước tai hoạ sắp đến nên đã thu góp thóc khắp nơi về chứa đầy kho vựa, ném đồ dư thừa trên trường thành, chắc chắn lúa này gặp đủ nắng mưa sẽ mọc cây rất nhanh. Một bữa nọ, chính tiểu thần có việc vào thành bằng cửa hậu, lượm một nắm thóc trong đống thóc trên thành vãi ra đường, liền bị dân chúng chế nhạo, la lên: -“Chắc anh đói lắm, vậy hãy lấy một ít thóc buộc vào chéo vạt áo, mà đem về nhà nấu ăn”.

Nghe vậy vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, cắt nguồn lương thực ta cũng không chiếm được thành này đâu, việc đó không đúng cách.

– Tâu Đại vương, thế thì ta sẽ chiếm thành bằng cách cắt nguồn cung ấp than củi từ bên ngoài.

– Được rồi, Đại sư.

Bồ-tát cũng đã biết trước chuyện này nên ngài cho chặt củi thành đống, cao hơn cả lúa nữa. Dân chúng lại chế nhạo quân lính của vua Brahmadatta, bảo:

– Nếu các anh đói thì lấy củi này mà nấu nướng thức ăn.

Vừa nói họ vừa ném những thanh củi lớn xuống.

Vua hỏi:

– Củi nào chất cao hơn cả trường thành vậy?

Các thám tử đáp:

– Vị này con nhà nông thấy được hiểm họa sắp đến, nên thu góp than củi chất đống trước mọi nhà còn thừa ngài chất bên lề thành đó.

Vua bảo Kevatta:

– Này Đại sư, ta cũng không thể chiếm thành bằng cắt nguồn than củi đâu, kế này chẳng cần thiết nữa.

– Tâu Đại vương chớ ngại, tiểu thần đã có cách khác.

– Kế gì vậy Đại sư? Trẫm thấy các mưu kế của khanh đều không có kết quả gì, ta không thể chiếm được Vedeha đâu. Thôi ta hãy rút quân về.

– Tâu Đại vương, nếu có ai bảo vua Cùlani cùng một trăm lẻ một quốc vương không chiếm nổi thành Vedeha thì chúng ta sẽ mang nhục mà thôi. Mahosadha không phải là một bậc Trí giả duy nhất trên đời, vì tiểu thần cũng là bậc Trí giả, tiểu thần sẽ dùng mưu lược.

– Mưu gì vậy, Đại sư?

– Chúng ta sẽ bày trận Pháp chiến.

– Thế nghĩa là gì?

– Tâu Đại vương, là không cần đánh trận nào cả, chỉ có hai bậc Trí giả của hai vị vua đến một nơi nào đó và kẻ nào cúi chào người kia, sẽ bại trận.

Mahosadha không biết ý định này, tiểu thần già hơn, gã ấy trẻ tuổi hơn, nên khi gã thấy tiểu thần, gã sẽ chào trước. Thế là ta sẽ chiếm lấy Vedeha, xong việc này ta sẽ hồi hương và như vậy ta mới khỏi bị nhục. Đó là trận Pháp chiến mà tiểu thần muốn tâu trình.

Nhưng Bồ-tát đã biết trước chuyện bí mật này rồi: “Nếu ta để cho Kevatta thắng ta như vậy thì ta đâu phải là người có trí”. Còn vua Brahmadatta bảo:

– Thật là đại diệu kế.

Rồi vua viết điệp gửi cho vua Vedeha bằng cửa hậu, báo tin: “Ngày mai sẽ có trận Pháp chiến giữa hai vị trí giả, vị nào không chịu tham chiến được xem như bại trận”.

Nhận được điệp này, vua Vedeha cho triệu bậc Trí giả đến kể chuyện, ngài đáp:

– Hay lắm, tâu Đại vương, xin Đại vương truyền sứ giả đưa tin chuẩn bị nơi chốn dành cho trận Pháp chiến; bên cổng Tây, sẽ dàn binh ở đó.

Rồi ngài trao bức điệp cho sứ giả, và hôm sau chuẩn bị nơi dành cho trận Pháp chiến để chứng kiến cảnh thảm bại của Kevatta. Nhưng cả trăm lẻ một vị quốc vương không biết chuyện sẽ xảy ra, nên vây quanh Kevatta để bảo vệ lão. Các vị vua này đến nơi chiến địa, đứng nhìn về phía đông, nơi bậc trí giả Kevatta đã đến. Tuy nhiên, sáng hôm đó, Bồ-tát đã tắm rửa nước thơm, mặc cẩm bào Kàsi trị giá cả trăm ngàn đồng tiền, trang sức lộng lẫy và sau một bữa điểm tâm thịnh soạn, ngài cùng đám tùy tùng đông đảo đi đến cửa cung. Khi được triệu vào, ngài vái chào vua xong, ngồi sang một bên.

– Sao đó, Trí giả Mahosadha? Vua hỏi.

Ngài đáp:

– Tâu Đại vương, tiểu thần sắp ra chỗ lâm chiến.

– Thế còn trẫm phải làm gì đây?

– Tâu Đại vương, tiểu thần muốn thắng Kevatta bằng viên bảo ngọc, vậy tiểu thần cần có viên bảo ngọc bát giác ấy.

– Vương nhi cứ lấy đi.

Ngài nhận lấy bảo ngọc, tạ từ vua ra đi, có cả ngàn chiến sĩ vây quanh, đó là các thân hữu từ thuở bé của ngài, ngài ngồi vào chiếc bảo xa do đoàn bạch mã thuần giống kéo, đáng giá cả chín mươi ngàn đồng tiền . Vào giờ ngọ ngài đến cổng thành.

Kevatta đứng chờ ngài đến, vừa bảo:

– Kìa gã đến, kìa gã đến!

– Lão vừa nghểnh cổ dài ra, ướt mồ hôi dưới ánh nắng gay gắt. Bậc Đại sĩ cùng đoàn tùy tùng như biển dậy sóng, như sư tử vươn mình, oai nghi trầm tĩnh ban lệnh mở cửa thành, ra khỏi kinh thành xong, ngài xuống xe như con sư tử vùng dậy, rảo bước. Cả trăm lẻ một vị quốc vương chiêm ngưỡng vẻ uy nghi cao cả của ngài, liền reo hò tung hô ngài vang dậy:

– Đây bậc Trí giả Mahosadha, nam tử của Sirivaddha, người có trí tuệ tối thượng trong toàn cõi Diêm-phù-đề.

Chẳng khác nào Thiên chủ Sakka được chư thiên vây quanh, trong vẽ huy hoàng cao cả vô thượng, ngài cầm viên bảo ngọc trong tay, đứng trước Kevatta. Còn Kevatta vừa trông thấy ngài đã không thể nào đứng yên được mà tiến lên đón ngài bảo:

– Này bậc Trí giả Mahosadha, hai ta đều là bậc trí giả và dù xưa nay ta ở gần ngài, ngài chưa hề gửi tặng ta vật nào cả, vì cớ gì vậy?

Bậc Đại Sĩ bảo:

– Thưa bậc Trí giả, tiểu đệ đã cố công kiếm một tặng vật thật xứng đáng với ngài và hôm nay tiểu đệ tìm ra viên ngọc bảo châu này, xin bậc Trí giả nhận lấy, vì không có viên ngọc thứ hai như vậy trên đời.

Vị kia thấy viên bảo ngọc sáng ngời trong tay ngài tưởng rằng ngài muốn đưa ra tặng, liền bảo:

– Vậy thì xin trao ngọc cho ta.

Rồi lão đưa tay ra, xin nhận lấy. Bậc Đại Sĩ vừa nói, vừa dang tay ném viên ngọc trên đầu ngón tay của bàn tay lão dang ra. Nhưng lão Bà-la-môn không đỡ được viên ngọc trong các ngón tay nên nó tuột xuống và lăn tới chân Bồ-tát. Lão lại quá thèm viên ngọc nên cúi xuống chân ngài. Lúc ấy bậc Đại sĩ không để cho lão ngẩng lên, lấy một tay ấn vai lão xuống và tay kia chộp bụng lão, kêu to:

– Này Đại sư, ngẩng lên chứ, ngẩng lên chứ, ta trẻ hơn ngài nhiều, chỉ đáng cháu chắt ngài, đừng cúi chào ta chứ!

Ngài vừa nói vậy mãi, vừa chà mặt mũi lão xuống đất đến chảy máu, rồi lại bảo:

– Này tên ngu si mê muội kia, ngươi cứ tưởng sẽ được ta cúi đầu chào ngươi hay sao?

Ngài chụp lấy cổ áo lão ném thật xa. Lão văng đi xa cả bốn mươi thước mới bò dậy chạy trốn mất. Lúc ấy quân hầu của bậc Đại Sĩ lượm viên bảo ngọc lên, nhưng âm thanh của lời Bồ-tát: “Ngẩng lên đi, đừng cúi đầu chào ta như vậy!” vang dội át cả tiếng reo hò của đám đông. Dân chúng reo hò nhất loạt:

– Bà-la-môn Kevatta cúi chào chân bậc Trí giả!

Tất cả các vua, từ Brahmadatta đến các vị vua kia, đều thấy Kevatta cúi đầu xuống chân bậc Đại sĩ. Họ đều nghĩ thầm: “Bậc Trí giả của ta đã cúi đầu chào bậc Đại Sĩ, chúng ta thua trận rồi. Ngài sẽ giết hết bọn ta bây giờ”, ai nấy đều lên ngựa chạy trốn đến thành Uttarapañcàla . Quân của Bồ-tát thấy họ chạy trốn, lại la hét vang trời:

– Vua Cùlani đang tẩu thoát cùng một trăm lẻ một vị vương hầu.

Nghe vậy, các vương hầu càng hoảng hốt, chạy dài, tan rã cả đại đạo binh trong khi quân của Bồ tát reo hò mỗi lúc càng vang dậy hơn. Bậc Đại Sĩ cùng đám tùy tùng trở về kinh thành trong khi đạo binh của vua Brahmadatta tháo chạy tán loạn suốt ba dặm đường. Kevata lên ngựa gặp đạo binh, liền chùi vết máu trên trán, la lên:

– Này đừng chạy, ta có cúi đầu chào thằng khốn kiếp đó đâu. Dừng lại, dừng lại!

Nhưng đạo binh không nghe, còn chế nhạo, phỉ báng lão:

– Này lão Bà-la-môn khốn nạn kia, lão là kẻ có tội, lão bày ra trận Pháp chiến rồi lại cúi đầu chào thằng trẻ ranh chỉ đáng cháu chắt lão, chuyện ấy chẳng đáng đời lão hay sao?

Họ không còn nghe lão nữa và cứ tiếp tục đi về. Lão chạy vụt vào đám quân kêu lên:

– Này các người phải nghe ta, ta có cúi chào nó đâu, nó lấy viên ngọc lừa ta mà.

Rồi lão dùng đủ mọi cách thuyết phục các vị vương hầu tin lời lão và thu nhập đám tàn quân.

Lúc bấy giờ đám quân này quá đông đảo, ví thử mỗi người trong đó lượm được một hòn đá hay nắm đất ném vào hào cũng đủ lấp đầy hào và còn chất đống cao lên bằng trường thành; nhưng ta biết rằng ý nguyện của Bồ-tát đã đạt thành, nên không có ai ném đất đó vào kinh đô cả. Họ rút lui về vị trí cũ, rồi vua hỏi Kevatta:

– Này Đại sư, ta phải làm gì bây giờ?

– Tâu Đại vương, ta đừng cho ai ra cửa hậu nữa và cắt mọi mối giao thông. Dân chúng không ra vào được sẽ sinh chán nản và mở cửa thành. Lúc ấy ta sẽ bắt được quân thù.

Bậc Trí giả cũng được báo tin về vấn đề này như trước, nên ngài nghĩ thầm: “Nếu họ đóng quân ở đây lâu, thì chúng ta không sống yên ổn được, vậy ta hãy tìm cách tống họ đi, ta sẽ đặt chiến lược đuổi họ về”.

Thế là ngài đi tìm một người thông thạo các việc này và kiếm ra được một kẻ tên Anukevatta. Ngài bảo ông này:

– Này Đại sư, ta có một việc muốn nhờ ông thi hành.

– Thưa bậc Trí giả, tiểu thần phải làm gì? Xin cho biết.

– Ông hãy đứng trên trường thành, thừa lúc quân ta vô ý, hãy lập tức ném kẹo bánh, cá thịt và các thức ăn khác xuống cho quân của Brahmadatta, rồi bảo: “Này ăn đi đừng ngã lòng, gắng ở đây thêm ít hôm nữa, chẳng mấy chốc dân chúng như gà mái trong rọ sẽ tự mở cổng thành rồi các người vào mà bắt lấy vua Vedeha và gã con trai nông dân khốn kiếp kia”. Quân ta nghe vậy sẽ mắng nhiếc ông tàn tệ rồi trói tay chân ông lại trước quân của Brahmadatta và giả bộ lấy gậy tre đập ông, kéo ông xuống, buộc tóc ông thành năm chòm, phết đất bùn lên người ông, đeo chùm hoa Kanavera dành cho tử tội vào cổ ông, quất ông vun vút cho đến khi nổi lằn roi trên lưng ông, rồi lại đem ông lên trường thành trói ông lại, thòng dây thừng thả ông xuống chỗ đóng quân của Brahmadatta thét to: “Cút đi, quân phản bội”.

Lúc ấy ông sẽ được dẫn đến trước vua vua Brahmadatta, vua này sẽ hỏi ông về việc sỉ nhục kia, ông phải trình bày với vua ấy: “Tâu Đại vương, ngày xưa tiểu thần đã được nhiều vinh hiển nhưng gã con trai nhà nông ấy đã vu cáo tiểu thần phản bội đức vua, nên tiểu thần bị tướcđoạt tất cả giàu sang danh vọng. Tiểu thần muốn lấy đầu kẻ đã phá hại mình và vì thương tưởng quân của Đại vương đang thối chí nản lòng, nên đem cho họ thức ăn uống. Do vậy nhớ đến mối thù cũ trong lòng, gã lại làm tiểu thần thân tàn ma dại như thế này. Tâu Đại vương, quân của Đại vương đều biết rõ chuyện này”.Như vậy bằng mọi cách ông phải chiếm được lòng tin của vua rồi tâu với vua ấy: “Tâu Đại vương, bây giờ đã có tiểu thần, xin Đại vương chớ lo âu nữa. Vua Vedeha và gã con trai nông dân kia phải chết thôi! Thần biết rõ mọi yếu điểm cùng nhược điểm của bức trường thành này. Tiểu thần biết nơi nào dưới hào có cá sấu, nơi nào không. Chẳng mấy chốc tiểu thần xin dâng trọn kinh thành này vào tay Đại vương”.

Vua ấy sẽ tín dụng ông và quý trọng ông, giao cho ông thống lãnh đạo binh. Sau đó ông phải đưa đạo binh xuống nơi đầy đặc rắn rít, cá sấu, chúng sợ hãi sẽ không chịu xuống. Lúc ấy ông phải trình vua: “Tâu Đại vương, quân sĩ của Đại vương đã bị gã con trai nhà nông ấy làm tan rã mất rồi, không còn người nào, thậm chí cả Đại sư Kevatta và các vương hầu đều bị mua chuộc . Họ chỉ rảo quanh quẩn rình rập Đại vương thôi, chứ họ thành người tay chân của gã nông dân ấy cả rồi, chỉ còn một mình tiểu thần là tôi trung của Đại vương, nếu Đại vương không tin tiểu thần, xin Đại vương ban lệnh cho các vương hầu mặc triều phục đến chầu Đại vương. Sau đó, Đại vương quan sát y phục của họ, đồ trang sức, cung kiếm của họ xem, thảy đều do gã con trai nhà nông dân ấy tặng và khắc tên gã vào, rồi ngài biết chắc mọi việc”.

Vua ấy sẽ y lời và tin chắc như vậy, nên lo sợ phải đuổi các vương hầu về xứ. Rồi vua ấy sẽ hỏi: “Kế đó phải làm gì”. Ông phải đáp: “Tâu Đại vương, gã nông dân ấy đầy mưu lược tài trí, nếu Đại vương còn ở đây vài ngày nữa, gã sẽ chiếm cả đạo quân và bắt lấy Đại vương. Vậy xin Đại vương chớ chậm trễ ngay đêm nay vào canh giữa ta hãy lấy ngựa lên đường đừng để phải chết trong tay kẻ thù”. Vua ấy sẽ nghe theo lời khuyên của ông và trong khi vua ấy đào tẩu, ông hãy trở lui báo cho dân chúng ta rõ.

Nghe vậy Anukevatta đáp:

– Thưa bậc Trí giả, được lắm, tiểu thần xin nghe theo lời của ngài.

– Vậy thì xin ông ráng chịu vài cái đấm đá.

– Thưa bậc Trí giả, ngài muốn làm gì tấm thân hèn này cũng được, chỉ xin tha mạng và toàn gia được an lành.

Thế là sau khi tỏ lòng ân cần quý trọng gia quyến Anukevatta, ngài ban lệnh đem ông ấy ra hành hạ tàn tệ như trên rồi mang giao cho quân của vua Brahmadatta. Vua này thử lòng ông xong lại tin dùng, quý trọng và giao cho ông việc điều khiển đạo binh. Ông liền mang quân sĩ đến những nơi đầy rắn rít, cá sấu, khiến họ kinh hoảng, rồi lại bị tên giáo, lao trên pháo đài bắn xuống bị thương nên sau đó không còn ai dám cả gan đến gần nữa.

Lúc ấy, Anukevatta yết kiến vua và nói:

– Tâu Đại vương, không còn ai chiến đấu cho Đại vương nữa rồi, tất cả đều bị mua chuộc. Nếu Đại vương không tin tiểu thần, xin Đại vương triệu các vương hầu đến chầu rồi xem chữ khắc trên y phục và quân trang của họ.

Vua y lời và khi thấy những chữ khắc trên quân trang quân phục của họ, ông tin chắc họ đều bị mua chuộc cả, nên ông hỏi:

– Đại sư, vậy phải làm gì bây giờ?

– Tâu Đại vương, không còn làm gì được nữa cả.

Nếu Đại vương chậm trễ, gã nông dân ấy sẽ bắt lấy Đại vương mất thôi. Tâu Đại vương, nếu Đại sư Kevatta phải ra đường với vết thương trên trán, Đại sư cũng đã lấy của đút lót, Đại sư đã nhận viên bảo ngọc ấy, khiến Đại vương phải tìm đường tẩu thoát suốt cả ba dặm đường rồi lại được Đại vương tin cậy và rước Đại vương trở về. Đó là một phản thần! Tiểu thần không thể tuân lệnh lão ấy dù chỉ một đêm, vậy ngay đêm nay vào canh giữa Đại vương phải tẩu thoát. Đại vương không còn ai là thân hữu trừ tiểu thần cả.

– Này Đại sư, vậy thì khanh phải đem ngựa và xe của trẫm đến đây sẵn sàng.

Thấy vua đã quyết tâm đào tẩu, ông liền trấn an vua bảo đừng lo sợ gì, rồi đi tìm các thám tử bảo rằng vua sẽ đào tẩu đêm nay, họ đừng tính chuyện ngủ nghỉ nữa. Kế đó ông lại chuẩn bị vương mã, sắp đặt đây cương sẵn sàng để cho vua càng kéo dây thì ngựa càng chạy nhanh hơn. Vào nửa đêm, ông tâu:

– Tâu Đại vương, vương mã đã sẵn sàng, đến giờ khởi hành rồi.

Vua liền lên ngựa tẩu thoát, Anukevatta cũng lên ngựa như thể tháp tùng vua, nhưng chỉ được một khoảng, ông trở lui và vương mã theo sự sắp xếp dây cương sẵn sàng, đã phi thật nhanh khi vua kéo dây thúc ngựa. Sau đó Anukevatta đến giữa ba quân thét vang:

– Vua Cùlani Brahmadatta đã tẩu thoát!

Các thám tử và tùy tùng đều thét lên như vậy.Các vương hầu kia, nghe tiếng ồn ào, hoảng hốt nghĩ thầm: “Bậc Trí giả Mahosadha ắt hẳn đã mở cổng thành, ta sẽ chết mất thôi”.

Họ chỉ còn nhìn thoáng các vật dụng cùng các món giải trí, rồi chạy trốn. Đám người kia lại la to hơn:

– Các vương hầu đã tẩu thoát!

Nghe tiếng ồn ào các quân sĩ đang ở cổng thành và các tháp canh la hét vỗ tay ầm ĩ.

Rồi toàn thể nội thành cũng như ngoại thành đều ra hô vang dậy như thể quả đất nứt nẻ ra hay đại dương tan tành, trong khi vô số quân sĩ trong đạo binh hùng mạnh kia kinh hoảng vì sợ chết, lại không nơi nương tựa hay ẩn náu, liền thét vang:

– Vua Brahmadatta đã bị bậc Trí giả Mahosadha bắt đi cùng với một trăm lẻ một vương hầu rồi!

Họ liền tháo chạy tán loạn, ném bỏ cả tấm khố quanh lưng. Chiến trường bị bỏ hoang, vua Cùlani về kinh thành của mình cùng với một trăm lẻ một tướng lãnh vương hầu kia.

Sáng hôm sau, quân sĩ mở cửa thành đi vào thấy đủ các chiến lợi phẩm, liền trình với bậc Đại Sĩ và hỏi ý những việc phải làm. Ngài bảo:

– Các vật dụng họ để lại đều là của ta. Các ngươi hãy dâng đức vua những vật dụng của các vương hầu, đem cho ta những vật dụng của Kevatta và của những tướng lãnh khác, còn lại bao nhiêu để cho dân chúng lấy đi.

Cả nửa tháng ròng mới lấy hết các châu báu và vật dụng quý giá, bốn tháng sau mới thu dọn hết mọi đồ vật khác. Bậc Đại Sĩ ban tặng đại vinh hiển cho Anukevatta. Từ đó dân chúng Mithilà có vô số vàng ngọc.

  1. ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI.

Lúc bấy giờ vua Brahmadatta cùng các vương hầu ấy đã sống một năm ở kinh thành Uttarapãncàla.

Một ngày kia, Kevatta nhìn bóng mình trong gương, thấy vết sẹo trên trán, nghĩ thầm: “Cái này là do gã nông dân ấy gây ra, gã biến ta thành trò cười trước các vương hầu ấy”. Lão thấy uất hận tràn ngập trong lòng, lão nghĩ thầm: “Làm sao trừ khử nó? Ồ mưu kế này đây. Công chúa của ta là Pãncàlacandì, có nhan sắc tuyệt thế, chẳng khác nào tiên nữ trên trời. Ta sẽ cho vua Vedeha thấy nàng. Vua ấy sẽ say mê nàng như thể cá mắc câu. Ta sẽ bắt lấy vua cùng gã Mahosadha và giết trọn cả hai rồi nâng chén rượu mừng chiến thắng”. Quyết định như thế xong, lão đến chầu vua:

– Tâu Đại vương, thần xin dâng ý kiến này.

– Này Đại sư, ý kiến của khanh đã làm trẫm không còn mảnh vải che thân nữa. Bây giờ khanh còn muốn gì nữa đây? Hãy bình tâm lại.

– Tâu Đại vương, chưa bao giờ có mưu kế nào sánh với kế này được.

– Vậy khanh hãy nói đi.

– Tâu Đại vương, xin chỉ nói riêng giữa Đại vương và tiểu thần.

– Thì hẳn là vậy.

Lão Bà-la-môn liền đưa vua lên thượng lầu và nói:

– Tâu Đại vương, thần sẽ lôi cuốn vua Vedeha bằng tham dục để đem cho được vua ấy về đây và giết đi.

– Này Đại sư, thật là diệu kế, nhưng phải làm sao để gợi tham dục của vua ấy được?

– Tâu Đại vương, công chúa Pãncàlacandì có sắc đẹp vô song, ta sẽ bảo các thi sĩ ca tụng nhan sắc và đức hạnh của nàng bằng thi ca rồi phổ biến các bài ca đó tại thành Mithilà. Khi nào ta thấy vua ấy tự nhủ thầm: “Nếu vị anh quân Vedeha không chiếm được nữ báu này, thi ngai vàng cùng quốc độ này còn nghĩa lý gì nữa đối với ta!”. Khi vua ấy đã bị lôi cuốn vào tư tưởng kia, thần sẽ đi định ngày sính lễ, vào ngày đã định, vua ấy sẽ đến. Như cá nuốt câu, gã nông dân kia cũng đến với vua, thế là ta sẽ nuốt trọn.

Vua nghe vậy đẹp ý và chấp nhận ngay.

– Này Đại sư, thật là diệu kế, ta sẽ làm như vậy.

– Nhưng có một con chim mayneh đứng bên cạnh vương sàng, đã ghi nhận sự việc trên.

Sau đó vua cho gọi các thi sĩ tài hoa, ban tiền bạc rất hậu hỷ, cho họ được chiêm ngưỡng công chúa rồi bảo họ làm thơ ca tụng nhan sắc nàng, nên họ làm những bài ca vô cùng du dương rồi ngâm thơ cho vua nghe. Vua lại ban thưởng họ rất trọng hậu. Các nhạc sĩ học các bài ca này từ các thi sĩ kia, đem ra hát giữa dân chúng, nhờ vậy chúng được truyền bá rất nhanh ra ngoại thành. Khi chúng đã lan rộng khắp nơi, vua cho triệu các ca sĩ vào và phán:

– Này các con, ban đêm hãy trèo lên cây cùng với chim chóc và ca hát, rồi sáng mai, buộc chuông lục lạc vào cổ chúng, thả chúng bay đi xong, trèo xuống.

Vua cho thi hành việc này để thế nhân có thể bảo chính chư Thiên ca tụng sắc đẹp của công chúa Pãncàla. Vua lại triệu các thi sĩ kia vào và phán:

– Này các con hãy làm thơ đưa tin này: Công chúa diễm lệ kia không dành cho vua nào ở cõi Diêm-phù-đề trừ vua Vedeha ở thành Mithilà. Các con hãy ca tụng oai danh của vua ấy cùng nhan sắc của công chúa.

Họ vâng theo, rồi tường trình công việc ấy, vua ban thưởng họ rất hậu, rồi bảo họ đi Mithilà, ca hát trên đường và tán tụng như trên. Họ liền đến Mithilà. Dân chúng tụ tập lại nghe hát rất đông và hoan hô nhiệt liệt. Ban đêm họ trèo lên cây ca hát, buổi sáng họ lại buộc chuông lục lạc vào cổ chim rồi mới trèo xuống.

Dân chúng nghe tiếng lục lạc trên không, rồi khắp kinh thành vang dậy tin đồn rằng chính các Thiên thần đang tán tụng nhan sắc diễm kiều của công chúa. Vua hay tin cho triệu các thi sĩ vào và mở hội ngay trong cung điện. Vua tưởng rằng họ muốn dâng công chúa diễm lệ vô song của vua Cùlani cho ngài, nên ngài ban thưởng họ rất hậu. Sau đó, về nước, họ trình vua Brahmadatta, Kevatta liền thưa:

– Tâu Đại vương, đã đến lúc thần đi định ngày sính lễ.

– Này Đại sư, thật là tuyệt diệu, khanh muốn đem theo vật gì?

– Xin cho thần một tặng vật nhỏ.

Vua liền ban nó ngay. Lão đem quà đi, cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo hộ tống đến kinh đô Vedeha. Khi lão cho báo tin lão đã đến, cả thành chấn động lên:

– Hai vua Cùlani và Vedeha sẽ kết tình thân hữu – họ bảo nhau như vậy – vua Cùlani sẽ gả công chúa cho Đại vương của ta và Kevatta đến đấy định ngày sính lễ.

Vua Vedeha nghe tin này và bậc Đại Sĩ cũng nghe tin, liền nghĩ thầm: “Ta không thích lão ấyđến đây, ta phải tìm hiểu xem sao cho đúng”. Thế là ngài thông tin với các thám tử đang ở tại nước vua Cùlani. Họ trả lời:

– Chúng thần không hiểu rõ việc này. Vua cùng Kevatta ngồi đàm đạo riêng trong vương thất, nhưng có con chim Maynah đứng cạnh bên vương sàng hiểu rõ việc này.

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Muốn cho kẻ thù ta không đắc thắng lợi, ta phải ngăn chia kinh thành từng phần và trang hoàng cho đẹp, mà đừng cho Kevatta thấy được

Thế là từ cổng thành đến cung điện và từ cung điện đến tư dinh ngài, hai bên đường ngài cho dựng hàng rào lưới, phủ thảm lên trên, treo đầy tranh ảnh, rải hoa khắp mặt đường, đặt bình nước khắp nơi, cờ xí rợp trời. Khi Kevatta vào thành, lão không thể thấy mọi việc sắp đặt như trên, lão tưởng vua trang hoàng kinh thành để đón lão, chứ không hiểu người ta làm vậy để che mắt lão. Khi lão yết kiến vua, lão dâng tặng vật, cung kính chúc tụng rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi được đón tiếp trọng thể, lão đọc hai vần kệ tuyên bố lý do lão xin yết kiến:

  1. Một vì vua muốn kết thân bằng,
    Tặng bảo vật này đến Đại vương,
    Mong các sứ thần lời êm dịu,
    Từ nơi chốn nọ chóng lên đường.
  2. Ước mong lời lẽ họ ôn hòa,
    Đem lại hân hoan cho chúng ta,
    Mong ước thần dân Vi-đề quốc,
    Hòa đồng với tộc Pañ-cà-la.

Lão lại tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, đáng lẽ quốc vương của thần sai kẻ khác đi thay thần nhưng ngài đã phái thần đi, vì tin chắc rằng không ai nói chuyện này dễ nghe cho bằng thần. Ngài bảo: “Này Đại sư, Đại sư hãy đi thuyết phục đức vua ấy xem xét chuyện này thật thuận lợi và rước đức vua ấy về đây”. Vậy tâu Đại vương, xin Đại vương ngự lên xe giá, Đại vương sẽ đón về một công chúa tuyệt trần diễm lệ và tình thân hữu sẽ được tạo lập giữa Đại vương và quốc vương của thần.

Vua rất đẹp ý khi nghe lời tâu trình này, ông say sưa vì ý tưởng sắp đón về một công chúa diễm lệ vô song, liền phán:

– Này Đại sư, trước kia có mối bất hòa giữa Đại sư và bậc Trí giả Mahosadha tại trận Pháp chiến. Nay Đại sư hãy đi gặp vương tử của trẫm, hai bậc Trí giả hãy hòa giải và sau khi đàmđạo cùng nhau, xin trở lại đây.

Lão Kevatta hứa đi hội kiến bậc Trí giả, rồi lui ra.

Ngày ấy, bậc Đại Sĩ quyết định tránh mọi việc đàm luận với con người độc ác kia, nên buổi sáng ngài uống một chút bơ tươi rồi bảo quân hầu bôi phân bò ướt trên sàn nhà, bôi dầu vào cột nhà, dẹp hết mọi ghế ngồi, sàng tọa trừ một sàng tọa nhỏ hẹp vừa cho ngài nằm. Ngài ra lệnh cho quân hầu:

– Khi lão Bà-la-môn ấy bắt đầu nói, các ngươi hãy bảo: “Thưa Tôn sư Bà-la-môn, xin ngàiđừng trò chuyện với bậc Trí giả, hôm nay bậc Trí giả đã dùng một liều bơ tươi”. Và khi ta làm như thể muốn trò chuyện với lão thì phải ngăn lại và bảo: “Tâu Chúa công, ngài đã dùng một liều bơ tươi, xin đừng nói chuyện nữa”.

Sau khi căn dặn họ, bậc Đại Sĩ khoác hồng y nằm trên sàng tọa, cùng sắp đặt quân hầu ở bảy tháp canh xong xuôi. Khi Kevatta đến cổng thành thứ nhất, liền hỏi bậc Đại Sĩ ở đâu, các quân hầu trả lời:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, xin đừng gây tiếng ồn ào, nếu ngài muốn vào thành, xin giữ yên lặng. Hôm nay bậc Trí giả dùng bơ tươi, nên cử tiếng ồn.

Khi đến các cổng thành kia, họ cũng bảo như vậy. Đến cổng thứ bảy, lão hội kiến bậc Đại Sĩ và bậc Đại Sĩ ra vẻ muốn nói chuyện, quân hầu liền thưa:

– Thưa Chúa công, ngài vừa uống một liều bơ tươi thật mạnh, cớ sao ngài lại trò chuyện với lão Bà-la-môn khốn nạn này?

Thế là họ ngăn ngài lại. Khi lão kia bước vào, lão không tìm được chỗ ngồi cũng không có chỗ nào đứng bên tọa sàng của ngài được, lão liền bước qua lớp phân bò ẩm ướt rồi đứng lại. Lúc ấy một kẻ nhìn thấy lão, liền dụi mắt, một kẻ nhướng mày và một kẻ gãi cùi chỏ. Lão thấy vậy, bực mình bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ta đi đây.

Một kẻ khác đáp:

– Ô hay, tên Bà-la-môn khốn nạn kia, đừng làm ồn ào, nều không ta sẽ bẻ gãy xương ngươi ra.

Lão hoảng hốt nhìn lui, thì một kẻ lấy gậy đánh lưng lão, kẻ khác nắm cổ lão đẩy ra, kẻ khác đấm vào lưng lão cho đến lúc lão kinh hoàng bỏ chạy như con hươu trong miệng hổ báo và trở về cung.

Lúc bấy giờ vua nghĩ thầm: “Hôm nay vương nhi sẽ hài lòng khi được tin này. Hai bậc Trí giả sẽ đàm đạo tương đắc biết bao về đạo pháp. Hôm nay họ sẽ giải hòa và ta sẽ là người thắng cuộc”, vì thế khi vua thấy Kevatta, ông liền ngâm kệ hỏi về cuộc đàm đạo ấy:

  1. Việc ngài hội kiến Ma-sa-dha,
    Diễn tiến ra sao, Ke-vat-ta,
    Xin hãy nói ngay cho trẫm biết,
    Ma-sa-dha có muốn cầu hòa?

Kevatta đáp lại:

– Tâu Đại vương, Đại vương nghĩ đó là bậc Trí giả, nhưng thật chẳng có kẻ nào tồi tệ hơn nữa.

Và lão ngâm kệ:

  1. Kẻ kia bản chất thật gian tà,
    Tâu Đại vương, ngoan cố, xấu xa,
    Khó chịu, tính tình đầy độc ác,
    Như người câm điếc, chẳng lời ra.

Lời này không làm vừa lòng vua, nhưng vua cũng không bắt bẻ gì được. Vua liền ban cho Kevatta và đám hầu cận mọi thứ cần dùng và một ngôi nhà để ở, rồi bảo lão lui về an nghỉ. Sau khi lão đi rồi, vua nghĩ thầm: “Vương nhi là bậc Trí, biết rõ cách cư xử nhã nhặn, tuy thế vương nhi lại không muốn nói chuyện lịch sự với lão này, cũng không muốn thấy lão, chắc hẳn vương nhi đã thấy nguyên cớ bất an sau này rồi”. Và ông ngâm kệ:

  1. Quyết định này sao khó hiểu vầy,
    Một nguyên nhân thật rõ ràng thay,
    Được người dũng cảm này tiên đoán,
    Vì vậy thân ta rung động đây,
    Ai sẽ là người mất tính mạng,
    Và rơi vào địch thủ cao tay?

Chắc chắn vương nhi đã thấy mối nguy hại nào đó trong cuộc viếng thăm cũa lão Bà-la-môn này. Lão chẳng đến đây vì mục đích thân hữu đâu. Ắt hẳn lão muốn lôi kéo ta bằng sắc dục, khiến ta phải đến kinh thành của lão rồi bắt lấy ta. Bậc Trí giả chắc thấy trước nguy cơ nào đó sắp xảy ra?”. Trong lúc vua đang quay cuồng lo lắng với những ý nghĩ trong đầu, thì bốn hiền thần bước vào. Ông bảo Senaka:

– Này Senaka, khanh nghĩ trẫm có nên đến thành Uttarapãncàla và cầu hôn công chúa Cùlani chăng?

Lão đáp:

– Tâu Đại vương, sao Đại vương lại nói vậy? Khi duyên lành đến Đại vương, ai dám xua đuổi nó được? Nếu Đại vương đến đó và cầu hôn công chúa, thì chẳng có vị vua nào sánh bằng Đại vương trong toàn cõi Diêm-phù đề trừ vua Cùlani Brahmadatta, vì Đại vương đã kết duyên được với công chúa của vị Đại đế đệ nhất. Đại đế kia biết các vương tử khác đều chỉ là chư hầu của ngài, còn vua Vedeha duy nhất có thể sánh bằng ngài thôi, nên mới mong gả công chúa diễm lệ vô song ấy. Xin Đại vương cứ làm theo lời ngài và chúng thần cũng sẽ được ban tặng y phục cùng vật trang hoàng.

Khi vua hỏi các vị kia, họ cũng đều trả lời như vậy. Trong lúc họ đang đàm đạo thì lão Bà-la-môn Kevatta từ tư dinh đến tạ từ vua để ra về, lão nói:

– Tâu Đại vương, thần không thể ở lại đây được nữa, xin cho phép thần ra về, tâu Chúa thượng.

Vua trọng đãi lão rồi cho lão ra về.

Khi bậc Đại Sĩ hay tin lão đi rồi, ngài tắm rửa, thay quần áo và vào chầu vua, cung kính bái vua rồi ngồi qua một bên. Vua nghĩ thầm: “Vương nhi Mahosadha là bậc Trí giả vĩ đại, đầy tài ứng biến, thông hiểu quá khứ hiện tại và vị lai, vậy sẽ biết được ta nên đi hay không”. Tuy thế, bị mê mờ vì tham dục, vua không giữ được quyết định đầu tiên, và ngâm kệ hỏi:

  1. Sáu người một ý thật hòa đồng
    Là các bậc hiền trí thượng nhân,
    Đi, hoặc không đi và ở lại,
    Ma-ho-sad hãy nói ta cùng.

Lúc ấy bậc Trí giả nghĩ thầm: “Vua này ham đắm sắc dục quá độ, nên mù quáng điên rồ nghe theo lời bốn lão kia. Ta sẽ bảo cho vua biết việc ra đi tai hại dường nào và can gián ngài”. Thế là ngài ngâm bốn vần kệ sau:

  1. Ngài có biết chăng, tâu Đại vương,
    Cù-la-ni thế lực hùng cường,
    Vua kia muốn giết ngài như thể,
    Lập hố bắt nai với lúa hương!
  2. Như cá tham ăn, không nhận thấy,
    Lưỡi câu giấu kín dưới mồi ngon,
    Một người đời chẳng hề trông thấy,
    Bóng dáng đâu đây của tử thần.
  3. Cũng vậy, đầy tham dục, Đại vương,
    Không sao nhận thấy vị công nương,
    Con Cù-la đế là thần chết,
    Vì chính ngài là một thế nhân.
  4. Đại vương cứ đến Pãn-cà-la,
    Và tự diệt vong chốc lát mà,
    Như chú nai kia lâm đại nạn,
    Trên con đường nọ bị sa cơ.

Nghe lời quở trách nặng nề như thế, vua nổi cơn thịnh nộ: “Gã này tưởng ta là nô lệ của gã”.Ông nghĩ thầm: “Gã quên rằng ta là vị chúa tể, gã biết rằng vị Đại đế kia nhắn gả công chúa cho ta mà không nói ra được một lời chúc tụng tốt lành nào, lại dám tiên đoán ta sẽ bị bắt, rồi bị giết như con nai ngu xuẩn hay con cá mắc câu hoặc con hươu bị bắt trên đường”. Lập tức vua ngâm kệ:

  1. Trẫm thật điếc ngấm câm, ngu dại thay,
    Hỏi ngươi những việc tối cao vầy!
    Làm sao ngươi hiểu như người khác
    Khi đã lớn lên bám lưỡi cày?

Cùng với những lời thóa mạ này, vua phán:

– Gã nông dân này đang cản trở duyên may của trẫm, hãy cút đi!

Rồi ông ngâm kệ, để tống ngài ra:

  1. Bắt lấy gã này, tóm cổ mau,
    Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
    Con người dám nói hòng ngăn cản,
    Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!

Nhưng ngài thấy vua thịnh nộ, liền nghĩ thầm: “Nếu có kẻ nào tuân lệnh vua lôi cổ, nắm tay ta hay đụng vào thân ta, ta sẽ bị ô nhục đến ngày tàn, vậy ta muốn tự mình ra đi mà thôi”. Thế là ngài từ tạ vua về tư dinh.

Lúc bấy giờ vua chỉ nói thế trong cơn thịnh nộ, nhưng vì kính nể bậc Đại Sĩ nên ông không ra lệnh cho ai thi hành điều ấy cả. Bậc Đại Sĩ lại nghĩ thầm: “Vua này thật ngu muội, không biết chuyện lợi hại cho mình. Vua lại đang si tình, nên định đi đón công chúa về, mà không thấy hiểm họa đang kề gần, sẽ đi đến chỗ diệt vong. Ta không nên bận tâm đến lời lẽ của vua. Đó là Đại ân nhân của ta, đã hậu đãi ta lâu nay. Ta phải tỏ lòng trung thành với vua, nhưng trước hết ta phải cho gọi chim két vào và tìm hiểu sự thật, rồi ta sẽ đích thân đi việc này”. Thế là ngài cho gọi chim két.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Sau đó ngài đi khuất mắt vua,
    Nói cùng chim két Mà-tha-ra:
    “Đến đây, anh vũ màu xanh lục,
    Bạn hãy làm công việc giúp ta.
  2. Pãn-cà Đại đế có May-nah,
    Canh giữ vương sàng của đức vua,
    Hỏi nó ngọn nguồn, vì nó biết,
    Điều cơ mật của Ko-si-ya”.
  3. Mà-tha-ra, trí điểu nghe rồi,
    Két lục bay đi đến tận nơi,
    Trú ngụ chim May-nah quý tộc,
    Ma-tha-ra trí điểu trao lời,
    Với May-nah giọng du dương ấy,
    Trong chiếc lồng son đẹp tuyệt vời:

89.- Bạn ơi, bạn có được khang an,
Trong chiếc lồng vàng của bạn chăng,
Hạnh phúc có tràn đầy, Vệ-xá,
Họ cho bạn đủ mật, ngô rang?

  1. Em đầy an lạc, hỡi Tôn ông,
    Quả thật nơi đây hạnh phúc tròn,
    Họ tặng em ngô rang, mật ngọt;
    Hỡi Anh vũ có trí tinh thông,
    Sao ngài đến, vậy ai sai đến,
    Em chẳng hề nghe thấy quý ông?

Khi nghe vậy, két nghĩ thầm: “Nếu ta bảo ta từ Mithilà đến, chắc nó chẳng bao giờ tin cậy ta, vì lo bảo vệ sinh mạng mình. Trên đường đi ta có thấy kinh thành Aritthapura, trong quốc độ Sivi, vậy ta sẽ bịa chuyện nói là vua Sivi phái ta đến đây”. Két bảo:

  1. Ta là thị giả Chúa Si-vi,
    Ở chính trong cung điện xứ kia,
    Từ đó vị minh quân giải thoát,
    Các tù nhân được tự do đi.

Chim Maynah liền cho két bắp rang tẩm mật cùng nước mật để sẵn cho nó trên dĩa vàng, rồi bảo:

-Thưa Tôn ông, ngài từ phương xa đến, ngài mang theo những vật gì?

Két bịa chuyện, vì muốn biết điều bí mật và đáp:

  1. Ta có vợ hiền một thuở xưa,
    Du dương tiếng hót, một May-nah,
    Rồi chim ưng nọ vồ nàng chết,
    Mang xác nàng đi trước mắt ta.

Chim Maynah hỏi:

– Làm thế nào diều hâu giết hại hiền tỷ được?

Két liền kể câu chuyện này:

– Cô nương hãy nghe đây. Một ngày nọ vua ta cho phép ta dự tiệc nước của ngài. Ta và hiền thê cùng đến nô đùa. Buổi chiều tối chúng ta cùng vua trở về cung, muốn cho lông khô ráo, ta cùng hiền thê bay ra đậu trên nóc cung điện. Lúc ấy một con diều hâu sà xuống chụp lấy chúng ta khi chúng ta vừa rời nóc cung, ta kinh hoảng bay nhanh để bảo vệ tính mạng, còn hiền thê tađang thai nghén nên không bay nhanh được, thế là nó giết hại nàng ngay trước mắt ta và tha đi. Đức vua thấy ta thương khóc vì mất nàng nên hỏi nguyên do. Khi nghe sự việc xảy ra, ngài phán: “Thôi hiền hữu, thế là đủ rồi, đừng khóc nữa, hiền hữu hãy đi tìm vợ khác”.Ta đáp: “Tâu Chúa công, tiểu thần đâu cần cưới một vợ khác độc ác xấu xa? Tiểu thần sống một mình tốt hơn”. Ngài bảo: -“Này hiền hữu, trẫm biết một con chim đức hạnh như vợ bạn, cận thần của vua Cùlani cũng là một chim Maynah như vợ bạn vậy. Hãy đi cầu hôn nàng. Xin nàng đáp lại. Nếu nàng ưng thuận, hãy đến nói cho trẫm rõ, trẫm hoặc hoàng hậu sẽ đi cưới nàng về thật trọng thể”. Nói xong, ngài phái ta đi, vì thế ta đến đây.

Két lại nói:

  1. Yêu quý vợ hiền, ta đến đây,
    Nếu nàng cho phép, tự hôm nay,
    Chúng ta có thể cùng nhau hưởng,
    Cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thay.

Lời này khiến Maynah vô cùng đẹp ý nhưng không muốn lộ ý ra, nàng đáp như thể không ưng thuận:

  1. Anh vũ phải yêu Anh vũ thôi,
    May-nah kết hợp May-nah hoài,
    Làm sao có thể đem hòa hợp,
    Anh vũ, May-nah thật đẹp đôi?

Két nghe vậy nghĩ thầm: “Nàng đâu khước từ ta, nàng chỉ làm ra vẻ quan trọng thế thôi, chắc chắn nàng yêu ta thật tình rồi. Ta sẽ tìm lời ví von cho nàng tin tưởng ta”. Vì thế két bảo:

  1. Khi kẻ si tình yêu quý ai,
    Dù Chiên-đà hạ liệt mà thôi,
    Họ đều đồng đẳng bên nhau cả,
    Trong ái tình không có khác sai.

Nói xong, két lại tiếp tục hỏi về mức độ khác nhau trong dòng giống loài người:

  1. Mẫu thân của Chúa thượng Si-vi,
    Tên gọi là Jam-bà-va-tì,
    Bà đã được lên ngôi chánh hậu,
    Và Su Hắc đế vẫn yêu vì.

Lúc bấy giờ mẫu hậu của vua Sivi, bà Jambàvatì, thuộc dòng Chiên-đà-la, là ái hậu của vua Vàsudeva, một vị vua trong bộ tộc Kanhàgana, vị thái tử trong số mười hoàng tử. Chuyện kể rằng, một ngày nọ ngài từ cung Dvàravatì vào ngự viên, trên đường ngài gặp một kiều nữ đứng bên vệ đường, trong lúc nàng đi làm công chuyện từ làng Chiên-đà-la của nàng đến thị trấn, vua yêu nàng ngay rồi hỏi gốc gác nàng, khi nghe là một kẻ Chiên-đà-la, vua rất buồn phiền, song khi biết nàng chưa chồng, ngài trở về cung ngay, mang theo nàng về cung và trang điểm nàng với đủ loại trân bảo rồi phong nàng làm chánh hậu. Nàng sinh hạ được một hoàng nam Sivi sau đó cai trị thần dân Dvàravatì khi vua cha mất.

Sau khi nêu gương ấy xong, két lại tiếp tục:

– Như vậy, ngay một vương tử như vua kia còn sánh duyên với một thiếu nữ Chiên-đà-la, huống hồ chúng ta chỉ ở thế giới loài vật? Nếu ta muốn sánh duyên với nhau thì chẳng có gì phải nói thêm nữa.

Và két đưa ra một gương khác như sau:

  1. Ra-tha-va nọ, một tiên nga,
    Cũng đã từng yêu quý Vac-cha,
    Người ấy đã yêu loài thú vật,
    Trong tình yêu chẳng khác nhau mà.

Vaccha là một ẩn sĩ và cách chàng yêu nàng như sau: Ngày xưa, một Bà-la-môn thấy rõ những tội lỗi của tham dục, nên từ bỏ cảnh phú quý xuất gia tu hành, sống trong vùng Tuyết Sơn dưới túp lều lá tự xây. Không xa lều này có một bầy tiên (nửa người nửa thú) sống trong hang đá, cùng nơi ấy lại có một con nhện. Con nhện này thường giăng tơ đâm thủng đầu các tiên nữ này để hút máu. Lúc bấy giờ các tiên cô yếu đuối và nhút nhát, con nhện thì hung bạo độc ác, nên họ không làm gì chống lại nó được, liền đến gặp ẩn sĩ. Đảnh lễ xong. họ kể cho ông nghe câu chuyện con nhện đang tàn phá họ như thế nào và họ bơ vơ không ai giúp đỡ, nên họ xin ông giết con nhện để cứu họ. Nhưng vị ẩn sĩ đuổi họ ra và la lên:

– Người như ta không sát sinh.

Một tiên nữ trong đám này tên là Rahavati chưa chồng và họ trang điểm cho nàng thật diễm lệ rồi đem đến ẩn sĩ bảo:

– Xin cho nàng này làm thị nữ của ngài và xin ngài giết kẻ thù của chúng tiện nữ.

Khi ẩn sĩ thấy nàng đem lòng yêu ngay và giữ nàng lại với mình, rồi nằm đợi con nhện ở miệng hang, khi nó bò ra kiếm mồi, liền lấy gậy giết nó, sau đó vị này sống với cô tiên, sinh con đẻ cái với nàng rồi qua đời, như vậy tiên nữ đã yêu vị này.

Con két kể gương này xong, liền bảo:

– Ẩn sĩ Vaccha, dù là người, vẫn sống với một tiên nữ thuộc nòi giống vật. Thế thì sao ta lại không làm như vậy, khi ta đều là loài chim?

Nghe xong, nàng đáp lại:

– Thưa tôn ông, con tim không phải lúc nào cũng chung thủy, em rất sợ cảnh chia ly với bạn tình.

Nhưng két ta là con vật khôn ngoan hiểu rõ mọi trò quyến rủ của nữ giới, nên ngâm kệ này thử nàng thêm nữa:

  1. Quả thật ta gần cất cánh xa,
    Hỡi nàng thánh thót giọng May-nah,
    Đây là lời chối từ ta đấy,
    Chắc chắn nàng đang khinh bỉ ta.

Nghe vậy nàng thấy tim dường như muốn vỡ ra, nhưng trước mắt chàng, nàng làm như thể đang bừng cháy lên một tình yêu mới mẻ đối với chàng, liền ngâm một vần kệ rưỡi như sau:

99-100. Không phước lành cho kẻ vội vàng
Mà-tha-ra, két lục khôn ngoan,
Ở đây cho đến khi triều kiến,
Chúa thượng và nghe tiếng dậy vang,
Của các trống chiêng khua đủ loại,
Và nhìn Đại đế đẹp huy hoàng.

Thế rồi lúc hoàng hôn xuống, chúng vui chơi cùng nhau, hưởng trọn tình bằng hữu hân hoan thích thú. Lúc ấy, két nghĩ thầm: “Nay nàng không giấu bí mật với ta nữa, ta phải hỏi nàng rồi ra đi”.

– Này nàng Maynah hỡi-Chàng bảo.

– Thưa chàng, có việc gì?

– Ta muốn hỏi nàng một vài chuyện. Có nên nói chăng?

– Xin chàng cứ nói.

– Thôi được, không hề gì, hôm nay là ngày hội, để ngày kia sẽ xem lại sao.

– Nếu thuận tiện trong ngày hội xin chàng cứ nói, còn nếu không thì thôi đừng nói nữa, thưa chàng.

– Đúng ra chuyện này thuận tiện trong ngày hội.

– Vậy xin chàng nói đi.

– Nếu nàng muốn nghe, ta mới nói.

Rồi két hỏi chuyện bí mật trong một vần kệ rưỡi như sau:

100-101. Tiếng đồn này thật lớn truyền ra,
Khắp cả miền đất nước của ta:
Công chúa Pãn-cà-la Đại đế,
Như sao rực sáng, được vua cha,
Đem gả Vi-đề-ha quý tộc,
Lễ thành hôn sắp đến đây mà!

Nghe vậy, nàng bảo:

– Này chàng ơi, trong ngày hội này mà chàng nói chuyện xui xẻo quá!

– Ta cho đó là chuyện may mắn, sao nàng lại bảo xui xẻo, thế là nghĩa gì?

– Thưa chàng em không nói được đâu.

– Cô nương ơi, từ giờ phút nàng từ chối cho ta rõ bí mật mà nàng biết, thì mối lương duyên của đôi ta chắc phải đứt đoạn.

Nghe chàng nài nỉ, nàng liền đáp:

– Vậy thì chàng hãy nghe đây:

  1. Đừng để cho ai, dẫu kẻ thù,
    Tác thành hôn lễ, Ma-tha-ra,

    Giống như cách của hai vua ấy,
    Pãn-cà-la và Vi-đế-ha.

Két hỏi:

– Cô nương ôi, tại sao nàng bảo như vậy?

Nàng đáp:

– Xin hãy nghe đây, em sẽ nói mọi tai hại của việc này.

Rồi nàng ngâm kệ:

  1. Vua hùng của xứ Pañ-cà-la,
    Sẽ quyến rủ vua Vi-đế-ha,
    Và sẽ giết vua kia lập tức,
    Nàng đây chẳng phải bạn đâu mà.

Nàng kể mọi chuyện bí mật cho két khôn ngoan và con két khôn ngoan nghe vậy cứ khen ngợi Kevatta hết lời:

– Vị Đại sư thật là đa mưu túc kế, giết vua kia như vậy thật là diệu kế. Nhưng việc rủi ro nào sẽ xảy ra cho ta đây?

– Vậy giữ yên lặng là thượng sách.

– Thế là cuộc hành trình của két đã đạt kết quả. Sau khi ở lại đó một đêm với nàng, két bảo:

– Cô nương ơi, ta phải về xứ vua Sivi và tâu trình vua là ta đã tìm được một ái thê.

– Rồi két từ giã nàng qua câu kệ:

  1. Nay xin từ giã bảy đêm trường,
    Ta sẽ tâu trình với Đại vương,
    Của xứ Sivi, ta đã gặp,
    May-nah và lập tổ uyên ương.

Lúc bấy giờ chim Maynah, dù không muốn xa két cũng không thể nào từ chối được, liền ngâm kệ sau:

  1. Em để chàng đi trong bảy đêm,
    Sau nếu chàng không trở lại em,
    Em sẽ tự mình tìm nắm mộ,
    Chàng về em cũng sẽ quy tiên!

Két đáp lại:

– Cô nương ơi, sao nàng lại nói thế, nếu sau bảy ngày ta không gặp nàng, làm sao ta sống được?

Miệng nói thế, nhưng trong lòng két nghĩ thầm: “Nàng sống hay chết, ta đâu có quan tâm đến làm gì?”. Két vươn cao đôi cánh, sau khi bay một khoảng ngắn về phía xứ Sivi, nó quay lại về hướng thành Mithilà. Rồi đứng trên vai bậc Trí giả, khi bậc Đại Sĩ đem nó lên thượng lầu và hỏi tin tức, nó kể với ngài tất cả. Ngài ban thưởng nó trọng thể như trước kia.

*

Bậc Đạo Sư giải thích chuyện này như sau:

  1. Rồi Mà-tha, két khôn ngoan,
    Trình Ma-ho-sad Trí nhân sự tình.

*

Nghe xong bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Nhà vua sẽ đi, dù ta muốn hay không cũng vậy và nếu ngài đi, ngài sẽ bị tiêu diệt ngay. Còn nếu ta cứ oán hận một vị vua đã ban cho ta nhiều phú quý vinh hoa như vậy mà không giúp ích ngài, thì thật đáng hổ thẹn. Khi tìm được một người tài trí như ta, làm sao người bị tàn hại được? Ta sẽ khởi hành trước vua và sẽ gặp vua Cùlani, ta sẽ sắp đặt mọi việc chu đáo. Ta sẽ xây một kinh thành cho vua Vedeha ngự với một lối đi nhỏ hơn dài một dặm và một đường hầm lớn dài nửa dặm. Ta sẽ làm lễ thụ phong công chúa của vua Cùlani làm vương hậu của vua ta, rồi ngay khi kinh thành bị một trăm lẻ một vương hầu cùngđạo binh mười tám vạn quân sĩ bao vây, ta sẽ cứu chúa như thể mặt trăng được cứu khỏi móng vuốt của thần Ràhu (La-hầu) rồi đưa ngài về nước. Việc ngài hồi cung chỉ ở trong tay ta”.

Khi ngài nghĩ như vậy, nỗi hân hoan tràn ngập khắp châu thân, rồi do niềm hân hoan thúc đẩy, ngài thốt lên ước nguyện này:

  1. Con người luôn phải thực hành,
    Vì quyền lợi của người mình thọ ân.

Sau đó ngài tắm rửa xoa dầu thơm xong, phục sức cực kỳ sang trọng đi vào cung, kính lễ vua, rồi liền đứng sang một bên.

– Tâu chúa thượng-ngài tâu-Chúa thượng sắp ngự xa giá đến kinh thành Uttarapãncàla chăng?

– Phải đấy vương nhi, nếu trẫm không chiếm được công chúa Pañcàlacandì, thì vương quốc này có nghĩa gì đối với trẫm? Vương nhi đừng rời trẫm nữa, hãy cùng đi với trẫm. Đến đó, trẫm sẽ được hai mối lợi lớn: “Trẫm sẽ được đệ nhất nữ báu và kết thân với vị vua kia “.

Bậc Đại Trí liền đáp:

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần sẽ đi trước, xây cung điện cho Chúa thượng ngự, Chúa thượng sẽ đến khi tiểu thần tâu trình về.

Nói xong ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Thần sẽ ra đi trước Đại vương,
    Đến kinh thành tráng lệ huy hoàng,
    Pãn-cà-la để xây cung điện,
    Dâng chúa Vi-đề- ha vẻ vang.
  2. Khi nào thần đã dựng xây xong
    Dâng chúa Vi-đề mỹ lệ cung,
    Thần sẽ tâu trình ngài đến ngự,
    Hỡi vị chúa tể đại anh hùng!

Vua nghe vậy rất đẹp lòng, vì thấy ngài không bỏ mặc ông, nên bảo:

– Này vương nhi, nếu con đi trước, con có cần gì chăng?

– Tâu Đại vương, tiểu thần cần một đạo binh.

– Vương nhi muốn cứ đem bao nhiêu tùy ý.

Bậc Trí giả nói tiếp:

– Tâu Chúa thượng, xin cho mở bốn ngục thất, phá xiềng xích các kẻ cướp bóc và cho họ cùng đi với tiểu thần.

– Vương nhi cứ làm như ý muốn- Vua bảo.

Bậc Đại Sĩ cho mở các cửa ngục, đem ra những kẻ anh hùng, dũng mãnh, có thể làm phận sự khi được giao và bảo họ phụng sự ngài. Ngài trọng đãi các kẻ này và đem theo ngài mười támđoàn thợ hồ, thợ rèn, thợ mộc, thợ sơn, những người có tài thủ xảo, mỹ thuật trang bị đầy đủ lưỡi dao, xẻng cuốc và nhiều dụng cụ khác. Với đoàn tùy tùng rầm rộ như vậy, ngài từ giã kinh thành.

*

Bậc Đạo Sư diễn tả việc này qua vần kệ sau:

  1. Bậc Đại trí liền cất buớc ra,
    Đến thành hoa lệ Pañ-cà-la,
    Để xây dựng thật nhiều cung điện,
    Dâng chúa vinh quang Vi-đế-ha.

*

Trên đường đi, bậc Đại Sĩ xây làng ở mỗi dặm đường, giao cho một viên quan ở lại đảm trách mỗi ngôi làng, với lời căn dặn:

– Để dự phòng việc vua hồi cung cùng công chúa Pañcàlacandì, các ông phải chuẩn bị voi ngựa, chiến xa để đánh đuổi quân thù, rồi tức tốc đưa đức vua về thành Mithilà.

Khi đến bờ sông Hằng, ngài gọi Ànandakumara đến và bảo:

– Này Ànanda, hãy đem ba trăm thợ mộc đến thương lưu sông Hằng, tìm loại gỗ thật tốt, đóng ba trăm chiếc thuyền, bảo họ chặt thật nhiều gỗ tích trữ cho kinh thành, chở gỗ nhẹ cho đầy thuyền và mang về đây.

Ngài cũng đích thân đi thuyền vượt qua sông Hằng và từ chỗ ngài cập bến, ngài tính khoảng cách và nghĩ thầm: “Khoảng cách này chừng nửa dặm, phải có một đường hầm lớn, chỗ này phải xây thành cho vua ngự, từ chỗ này về cung, xa chừng một dặm phải có lối đi nhỏ”. Ngàiđánh dấu chỗ đó xong rồi vào thành.

Khi vua Cùlani nghe tin Bồ-tát đến, ông rất hài lòng, vì ông nghĩ: “Bây giờ tâm nguyện của tađã thỏa mãn, gã ấy đã đến, chẳng bao lâu vua Vedeha cũng đến, thế là ta giết trọn cả hai và biến toàn cõi Diêm-phù-đề thành một quốc độ”.

Cả kinh thành sôi động lên. Họ đồn đại:

– Đấy là bậc Trí giả Mahosadha, người đã đánh đuổi một trăm lẻ một vương tử như thể con quạ bị ném hòn đá cho hoảng sợ.

Bậc Đại Sĩ tiến vào cổng thành trong lúc dân chúng chiêm ngưỡng dung mạo tuyệt đẹp của ngài, rồi ngài xuống xe, nhờ người trình vua. Vua bảo:

– Đưa vị ấy vào.

Và ngài vào cung, triều bái vua rồi ngài ngồi xuống một bên. Vua nhã nhặn nói chuyện với ngài, rồi hỏi :

– Này vương tử, khi nào đại vương đến?

– Tâu Chúa thượng, khi nào tiểu thần thỉnh cầu ngài.

– Nhưng cớ sao vương tử đến đây?

– Thần đến để xây cung điện cho Đại vương của thần ngự, tâu Chúa thượng.

– Này vương tử, thế thì tốt lắm.

Vua liền cho phép ngài được một đám cận vệ theo hầu, trọng đãi ngài rất hậu hỷ, ban cho ngài một tư thất rồi phán:

– Này vương tử, cứ ở đây cho đến khi Đại vương ngự đến, nhưng đừng ăn không ngồi rồi, mà phải làm những việc đáng làm.

Ngay khi ngài vào cung, đứng ở bậc thang gác, ngài nghĩ thầm: “Ở đây phải làm cửa hầm nhỏ ấy”, ngài lại nghĩ đến điều này: “Nhà vua này bảo ta phải làm những việc cần làm, vậy ta phải cẩn thận để thang gác này khỏi sập trong khi ta đang đào hầm”. Rồi ngài tâu vua:

– Tâu Chúa thượng, khi tiểu thần bước vào đứng bên chân cầu thang, nhìn vào công trình mới xây này, tiểu thần thấy một khuyết điểm trong cầu thang lớn này. Nếu Chúa thượng ưng thuận, xin phán bảo cho phép tiểu thần sửa sang lại.

– Này vương tử, tốt lắm, cứ làm đi.

Ngài quan sát chỗ ấy cẩn thận, định nơi làm lối ra của đường hầm rồi ngài dời cầu thang đi nơi khác và để cho đất chỗ ấy khỏi sụp, ngài đặt một sàn gỗ giữ cầu thang thật chắc chắn cho nó khỏi sụp. Nhà vua vô tình tưởng ngài làm việc này vì thiện ý cho mình. Bậc Đại Sĩ ở đó một ngày xem xét việc sửa chữa, rồi hôm sau trình vua:

-Tâu Chúa thượng, nếu tiểu thần được biết Đại vương của tiểu thần sẽ phải ngự ở đâu, tiểu thần sẽ xin thu xếp chu đáo việc đó.

– Này bậc Trí giả, tốt lắm, ngài cứ chọn nơi nào ngài muốn trong kinh thành này, trừ cung điện trẫm ra thôi.

– Tâu Đại vương, chúng thần là ngoại nhân, Đại vương có nhiều bậc trọng thần, nếu chúng thần chiếm tư dinh của họ, binh sĩ của Đại vương sẽ gây chiến với chúng thần. Vậy chúng thần phải làm sao đây?

– Này bậc Trí giả, đừng nghe họ, cứ chọn nơi nào vừa ý ngài là được.

– Tâu Đại vương, họ sẽ đến kêu nài với Đại vương mãi, việc ấy sẽ không làm Đại vương hài lòng đâu. Song nếu Đại vương ban phép, chúng thần sẽ đến canh giữ cho đến khi chiếm xong các tư thất ấy, họ sẽ không đi ra cửa được, mà rồi phải bỏ đi thôi. Như vậy cả Đại vương lẫn chúng thần đều được toại ý.

Vua chấp thuận.

Bậc Đại Sĩ liền cho quân hầu canh ở chân và đầu cầu thang, ở đại hoàng môn và khắp nơi, rồi ra lệnh không cho ai đi qua cả. Ngài lại ra lệnh cho quân hầu đến cung thái hậu, làm như thể sắp phá cung. Khi họ bắt đầu gỡ ngói, gạch, đất sét khỏi cổng và tường, thái hậu nghe tin vội nói hỏi:

– Này các ngươi sao lại phá sập cung của ta?

– Bậc Trí giả Mahosadha muốn phá cung này để xây cung khác cho đức vua của ngài ngự.

– Nếu vậy thì các ngươi cứ ở cung này cũng được.

– Đoàn tùy tùng của Đại vương chúng thần rất đông đảo, cung này không đủ, chúng thần phải xây cung rộng hơn cho ngài.

– Các ngươi không biết ta ư, ta là thái hậu, ta sẽ đi gặp vương nhi xem lại việc này.

– Chúng thần đang thi hành lệnh vua, nếu lệnh bà ngăn cản được thì cứ làm.

Thái hậu nổi giận bảo:

– Để ta xem cách gì trị các ngươi đây. Rồi bà đến cung môn, nhưng họ không để bà đi vào.

– Này các khanh, ta là thái hậu mà.

– Chúng thần biết lệnh bà, nhưng đức vua ra lệnh không cho ai vào cả. Xin lệnh bà lui ra.

Bà không vào cung được đành đứng nhìn. Một tên quân hầu bảo:

– Lệnh bà làm gì đây, xin lui ra.

Gã nắm lấy cổ bà ném xuống đất. Bà nghĩ thầm: “Chắc chắn phải có lệnh vua, nếu không chúng không dám làm vậy đâu. Ta tìm gặp bậc Trí giả mới được”. Bà hỏi ngài:

– Này Vương tử Mahosadha, tại sao Vương tử phá sập cung của ta?

Song ngài không muốn nói chuyện với bà. Một người đứng cạnh đó hỏi:

– Tâu lệnh bà nói gì?

– Này nam tử, tại sao bậc Trí giả phá sập cung của ta?

– Để xây cung cho vua Vedeha ngự.

– Cớ sao vậy này nam tử, trong kinh thành rộng lớn này ngài không tìm được một cung thất nào để vua ngự sao? Hãy nhận lễ vật mọn này, một trăm ngàn đồng tiền và thưa với ngài đi xây dựng nơi khác.

– Tâu lệnh bà, thế thì tốt lắm, chúng thần sẽ để yên cung của lệnh bà, nhưng xin lệnh bà chớ cho ai biết việc nhận lễ vật này để họ khỏi lo lót cho chúng thần để yên nhà của họ.

– Này nam tử, nếu họ kháo nhau rằng thái hậu phải cần lo lót thì nhục nhã cho ta biết bao! Ta không cho ai hay đâu.

Người kia bằng lòng nhận một trăm ngàn đồng tiền rồi rời cung. Sau đó gã đến cung Kevatta, lão này vừa đến cửa cung, đã bị cây tre quất vào lưng tét cả da thịt mà cũng không vào cung được, nên cũng lo lót một trăm ngàn đồng tiền . Cứ bằng cách này họ chiếm nhà khắp kinh thành, để đòi của đút lót, họ thu được chín mươi triệu đồng tiền vàng.

Sau đó bậc Đại Sĩ đi khắp kinh thành, rồi trở về cung. Vua hỏi ngài đã tìm ra chỗ chưa. Ngài bảo:

– Tâu Đại vương, dân chúng đều muốn dâng nhà cửa, nhưng khi chúng thần đến nhận gia sản, họ hết sức âu sầu, chúng thần không muốn gây nên sự bất mãn. Ngoài kinh thành, khoảng một dặm, giữa kinh thành và sông Hằng có một nơi chúng thần có thể xây cung điện cho Đại vương của chúng thần.

Vua nghe vậy liền đẹp ý, rồi ông nghĩ thầm: “Đánh nhau trong kinh thành thật nguy hiểm, vì khó phân biệt bạn thù, chứ ngoại thành thì dễ đánh, vậy ta sẽ đánh giết chúng ở ngoại thành”.

Thế là vua bảo:

– Được lắm, này Vương tử, cứ xây cung ở chốn đã tìm được.

– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh. Nhưng dân chúng không được đến nơi chúng thần xây cất để kiếm củi hay cây thuốc, nếu không, chắc chắn sẽ có tranh chấp cãi cọ không hay gì cho Đại vương lẫn chúng thần.

– Tốt lắm, này Vương tử, cứ cấm hết lối ra vào phía ấy.

– Tâu Đại vương, bầy voi của chúng thần thích vui đùa dưới nước, nếu nước sông bị khuấy đục bẩn bùn và dân chúng than phiền vì Trí giả Mahosadha đến đây mà họ không có nước sạch để uống, thì xin Đại vương lượng thứ việc ấy.

Vua đáp:

– Được, cứ cho voi xuống vui chơi.

Rồi vua truyền đánh trống ra lệnh:

– Kẻ nào đến chỗ bậc Trí giả Mahosadha đang xây cung sẽ bị phạt một ngàn đồng tiền.

Sau đó, bậc Đại Sĩ tạ từ vua, cùng đám tùy tùng ra ngoài thành bắt đầu xây một thành trì ở nơiđã được dành riêng ra. Bên kia sông Hằng ngài đã xây một ngôi làng đặt tên là Gaggali. Nơiđó ngài dự trữ voi ngựa, xe pháo, trâu, bò.

Chính ngài đích thân xây thành ấy và giao cho mỗi người một phận sự. Khi đã phân chia nhiệm vụ xong, ngài bắt đầu xây đường hầm lớn, miệng hầm ở trên bờ sông Hằng, có sáu mươi ngàn quân sĩ đào hầm. Họ bỏ đất mới đào vào các bao da vứt xuống sông, hễ nơi nào đất được thả xuống thì bầy voi đến dẫm lên, khiến sông Hằng vẩn đục cả bùn. Dân chúng than phiền rằng từ khi ngài Mahosadha đến đây, họ không có nước sạch để uống, nước sông vấy bùn, phải làm sao đây? Quân thám tử của bậc Đại Sĩ bảo họ rằng bầy voi của ngài đang chơi đùa dưới nước làm khuấy bùn lên, cho nên nước mới đục.

Lúc bấy giờ mọi dự định của Bồ-tát đều được thành tựu, vì thế trong hầm mới, các rễ cây, sỏiđá đều chìm xuống đất. Lối vào đường hầm nhỏ ở bên trong kinh thành, có bảy trăm quân đang đào hầm nhỏ ấy. Họ mang đất trong bao da đổ vào thành, mỗi lần mang đến một đống, họ lại trộn với nước xây một bức thành để dùng vào việc khác.

Còn lối vào hầm lớn nằm trong kinh thành có cửa vào, cao mười tám gang tay, có máy móc để khi bấm một nút thì tất cả đều đóng chặt. Phía bên kia hầm được xây bằng gạch và hồ vữa, mái lợp ván, trét hồ vữa và sơn trắng. Bên trong có tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, tất cả đều được đóng lại hoặc mở ra bằng một nút bấm. Trên mỗi phía đều có hàng trăm ổ đèn trang bị máy móc, để khi một đèn được bật sáng thì tất cả đều bật, khi một đèn được tắt thì tất cả đều tắt.

Mỗi phía có một trăm lẻ một gian phòng cho một trăm lẻ một chiến vương. Trong mỗi phòngđặt một tọa sàng đủ màu, trong đó lại có một trường kỷ lớn được che bằng lọng trắng, mỗi phòng lại có một chiếc ngai đặt gần trường kỷ lớn ấy, một tượng mỹ nhân, nếu không sờ tay vào thì không ai bảo các tượng đó không phải người thật.

Ngoài ra, trong mọi phía hầm, các họa sĩ tinh xảo đã vẽ đủ loại tranh: Cảnh huy hoàng của Thiên chủ Đế Thích, các miền núi Sineru (Tu-di), các biển cả cùng đại dương bốn châu, dãy Himavat (Tuyết Sơn), hồ Anotatta, núi Hồng Thổ, mặt trăng, mặt trời, cõi Tứ Thiên vương với sáu tầng trời cõi Dục và các thành phần trong đó.

Tất cả đều hiện ra trong địa đạo này, nền đất rải cát trắng như một phiến bạc, trên các mái đầy hoa sen nở. Hai bên có lều quán đủ loại, rải rác các rèm hoa lơ lững tỏa mùi thơm ngát. Như vậy họ trang hoàng địa đạo rực rỡ chẳng khác nào thiên đình Sudhamma (Thiện Pháp đường ở cõi trời ba mươi ba).

Lúc bấy giờ sau khi ba trăm thợ đóng ba trăm chiếc thuyền xong, họ liền chất đầy thuyền mọi dụng cụ sẵn sàng lúc cần đến, rồi đem xuống trình bậc Trí giả. Ngài dùng họ ở kinh thành, bảo họ giấu chúng ở một nơi bí mật để đưa chúng ra khi có lệnh ngài.

Trong kinh thành các hào nước, trường thành, hoàng môn, tháp canh, cung thất cho vương tử và nhà dân chúng, chuồng voi, hồ nước đều đã xong xuôi. Như vậy đại địa đạo và tiểu địa đạo cùng toàn kinh thành được xây xong trong bốn tháng .

Sau đó, bậc Đại Sĩ gởi sớ trình xin vua đến ngự.

Khi vua được sớ, ông rất đẹp lòng, liền cùng đoàn xa giá rầm rộ lên đường.

*

Bậc Đạo Sư bảo:

  1. Vị Đại vương cùng bốn đạo binh,
    Bấy giờ liền ngự giá du hành,
    Cùng vô số cỗ xe hầu cận,
    Đến viếng Kam-pil-la hiển vinh.

Vào giờ đã định, vua đến sông Hằng, bậc Đại Sĩ ra lệnh đón vua vào kinh thành ngài vừa xây xong. Vua vào cung hưởng một bữa tiệc cao lương mỹ vị và sau khi nghỉ ngơi một lát xong, về buổi chiều ông gửi thông điệp báo cho vua Cùlani biết ông đã đến.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi đến nơi, vua nhắn gửi lời,
    Với Brah-ma: “Kính lễ chân ngài,
    Xin ban công chúa làm vương hậu,
    Nữ báu dung nhan thật tuyệt vời,
    Đầy vẻ yêu kiều và khả ái,
    Được đoàn thị nữ hộ lên ngôi”.

Vua Cùlani hoan hỷ nhận được thông điệp, nghĩ thầm: “Các quốc thù của ta sẽ đến đâu đây? Ta sẽ chặt đầu chúng ra và nâng chén khải hoàn”. Nhưng ông chỉ làm ra vẻ hân hoan đón sứ giả rất trọng thể rồi ngâm kệ sau:

  1. Cung nghênh Đại chúa Vi-đề-ha,
    Hạnh ngộ ngày nay quả thật là!
    Hãy chọn giờ lành mang hạnh phúc,
    Trẫm đem công chúa tặng vương gia,
    Nàng đầy vẻ đẹp yêu kiều ấy,
    Được đám cung tần hộ tống ra.

Sứ giả liền đi về trình vua Vedeha:

– Tâu Chúa công, Đại vương truyền: “Hãy chọn giờ lành cho mối lương duyên này và trẫm sẽ kết duyên công chúa cho ngài.”

Vua gửi sứ giả trở lại tâu:

-Hôm nay chính là giờ lành!

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vi-đề chúa chọn giờ lành xong,
    Trình với Brah-ma-at Đại vương:
    Xin gả công nưông làm ái hậu,
    Nữ nhân diễm lệ tuyệt trần gian,
    Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
    Được các cung phi hộ tống nàng.
  2. Đại đế Cù-la-ni đáp lại:
    Ta ban ngài nữ báu siêu phàm,
    Tròn đầy mọi vẻ yêu kiều ấy,
    Được các cung phi hộ tống nàng.

Nhưng khi vua bảo:

– Trẫm sẽ đưa công chúa vu quy ngay bây giờ.

Vua đã nói dối và ông ra lệnh cho một trăm lẻ một vương hầu kia:

– Hãy chuẩn bị sẵn sàng ra trận với mười tám đạo binh của các vị và tiến lên, ta sẽ chặt đầu hai kẻ thù của ta và nâng chén khải hoàn.

Vua để mẫu hậu ở lại trong cung cùng hoàng hậu Nandà, hoàng tử Pañcàlacanda, công chúa Pañcàlacandì, cùng các cung nga thị nữ khác rồi ra đi.

Bồ-tát tiếp đãi rất nồng hậu đoàn đại binh cùng đến với vua Vedeha, kẻ uống rượu, người ăn thịt, có kẻ nằm nghỉ mệt vì đường xa. Còn vua Vedeha, cùng với Senaka và các vị kia ngồi trên bảo tọa cùng đám cận thần.

Nhưng vua Cùlani đã bao vây thành bốn vòng trong ba khoảng cách, thắp hàng trăm ngàn ngọn đuốc rực trời, đứng sẵn sàng chiếm lấy kinh thành ấy khi mặt trời mọc. Hay tin này, bậcĐại Sĩ ra lệnh cho ba trăm chiến sĩ của ngài:

– Các ngươi hãy đi theo đường hầm nhỏ, đưa thái hậu, hoàng hậu, hoàng tử và công chúa vềđây qua đường hầm lớn nhưng đừng để cho các vị ấy ra ngoài bằng cửa hầm lớn, mà phải bảo vệ các vị ấy an toàn trong đường hầm cho đến khi ta tới, rồi hãy đem họ ra khỏi hầm và dẫn các vị vào Đại sảnh.

Khi họ nhận chỉ thị xong, họ đi dọc đường hầm nhỏ, đẩy tấm sàng dưới cầu thang, bắt lấy quân canh ở đầu và chân cầu thang, trên thượng lầu, những tên gù cùng nhiều người khác, trói tay chân lại, nhét giẻ vào mồm họ rồi giấu họ rải rác đây đó, xong lấy một số thức ăn dâng lên vua, phá hủy số thức ăn còn lại rồi lên thượng lầu.

Lúc ấy thái hậu Talatà không biết việc gì sẽ xảy ra, nên đã bảo hoàng hậu Nandà cùng hoàng tử, công chúa đến nằm chung với bà trên giường. Ba chiến sĩ đứng ở cửa phòng gọi họ. Bà bước ra bảo:

– Việc gì thế các con?

Họ đáp:

– Tâu lệnh bà, Đại vương đã giết vua Vedeha và Mahosadha, rồi biến toàn cõi Diêm-phù-đề thành một đế quốc. Ngài đang được một trăm lẻ một vị vương hầu vây quanh nâng chén đại khải hoàn.Vì thế ngài phái chúng thần đến đây rước lệnh bà cùng các vị kia đến cùng ngài.

Các vị ấy đi xuống tới chân cầu thang. Khi quân sĩ đem họ vào hầm, họ bảo:

– Suốt đời ta sống ở đây, chưa từng đi đường này bao giờ.

Quân sĩ đáp:

– Người ta thường ít đi đường này hầm này, đây là con đường hưởng lạc, vì hôm nay là ngày hội vui chơi nên thánh thượng bảo chúng thần đưa các ngài về lối này.

Họ tin lời ngay. Sau đó vài quân sĩ dẫn họ đi, còn các người khác trở lại cung vua, phá cửa kho tàng mang đi hết mọi báu vật họ muốn lấy. Bốn vị kia đi vào đường hầm lớn, thấy chẳng khác nào sảnh đường huy hoàng của chư Thiên, nên cứ tưởng nơi này dành cho vua. Rồi họ được đưa đến một nơi không dòng sông, vào một cung thất đẹp trong đường hầm. Vài quân sĩ canh chừng họ, còn các kẻ khác đi tâu trình với Bồ-tát rằng họ đã đến.

Bồ tát nghĩ thầm: “Nay tâm nguyện của ta sẽ tự viên mãn”. Lòng đầy hoan hỷ, ngài bước vào yết kiến vua rồi đứng qua một bên. Vua đang nôn nao khát vọng, nghĩ thầm: “Ngài đang đưa công chúa đến bây giờ, chính bây giờ đây!”. Rồi vua đứng dậy nhìn qua cửa sổ. Lúc bấy giờ cả kinh thành đang rực sáng trong hàng ngàn bó đuốc và bị bao vây trong đạo binh rầm rộ ghê hồn. Đầy kinh hãi và nghi hoặc, vua kêu lên:

– Cái gì thế?

Và ông ngâm kệ với các bậc Trí giả:

  1. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân.
    Mang bào giáp đứng cả đoàn đông
    Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy.
    Ý nghĩ ý gì chăng, các Trí nhân?

Senaka đáp:

– Xin Đại vương chớ sợ. Đám đuốc cháy rực, thần đoán là đức vua đang đem công chúa đến cho Đại vương.

Pukkasa lại nói:

– Chắc chắn vua ấy muốn đón Đại vương thật trọng thể nên đã đến đây với đoàn hộ tống.

Họ mặc tình tâu vua những điều họ thích. Nhưng vua nghe các hiệu lệnh:

– Để một chi đội ở đây, một đội phòng vệ đằng kia, hãy cẩn mật.

Vua lại thấy quân sĩ cầm khí giới, nên ông sợ mất hồn mong nghe được một lời gì của bậc Đại Sĩ, liền ngâm kệ nữa:

  1. Voi, ngựa, cỗ xe, các đạo quân,
    Mang bào giáp đứng cả đoàn đông,
    Rực trời ánh đuốc đang bừng cháy,
    Ý nghĩa gì chăng, hỡi Trí nhân.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Trước hết ta phải làm cho hôn quân si ám này khiếp đảm một hồi đã, rồi ta sẽ tỏ oai lực của ta và trấn an sau”. Ngài liền nói:

  1. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
    Đang vây ngài chặt, tấu minh quân,
    Brah-ma-dat chính người gian trá,
    Vua ấy sẽ tàn sát đại vương!

Nghĩ thế mọi người đều kinh hoảng đến mất vía, cổ họng của vua khô cứng lại, không còn nước bọt nữa, cơ thể ông như đang bị thiêu đốt, hoảng hồn như sắp chết, ông rên rỉ ngâm hai vần kệ sau:

  1. Tim ta hồi hộp miệng khô rang,
    Lòng dạ ta nay thật bất an,
    Ta giống một người được đốt lửa,
    Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.
  2. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
    Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
    Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
    Nhưng chẳng một ai có thể nhìn.

Khi bậc Đại Sĩ nghe lời than thở ấy, ngài nghĩ thầm: “Hôn quân ngu muội này thường chẳng nghe lời ta lúc trước, nay ta phải trừng phạt thêm nữa mới được”. Ngài liền nói:

– Hỡi chiến vương, ngài thật bất cẩn, không quan tâm đến lời khuyến cáo và thiếu tài trí, giờđây xin để các quân sư của ngài giải cứu ngài. Một vị vua không làm theo lời khuyên của quân sư trung tín và tài trí, chỉ tham đắm dục lạc riêng của mình, thì có khác gì con nai bị bắt trong lưới? Như con cá ham mồi không để ý tới lưỡi câu giấu trong miếng thịt bao quanh, không nhận biết chỗ chết của mình. Tâu Đại vương, ngài cũng vậy, tham đắm sắc dục, như con cá kia, không nhận thấy công chúa con vua Cùlani chính là tử thần của mình. Thần đã nói rằng nếu Đại vương đi Pañcàla, ngài sẽ mất ngay phúc lạc như con nai bị bắt trên đường sẽ gặp đại nạn. Tâu Chúa thượng. một ác nhân sẽ cắn vào bụng ngài như con rắn độc. Không một hiền nhân nào nên kết bạn với kẻ ác, kết bạn với kẻ ác sẽ gặp bất hạnh. Tâu Chúa thượng, bất cứ người nào mà ta nhận ra là có đức hạnh và thông thái thì đó chính là người mà bậc trí kết bạn. Kết bạn với thiện nhân chính là hạnh phúc.

Rồi để nhấn mạnh sự khiển trách một người không nên đối xử với kẻ khác như thế, ngài nhắc lại những lời lẽ mà vua đã nói trước kia và nói tiếp:

  1. Ngài điếc câm, ngu muội, Đại vương,
    Khinh lời khuyên tối thượng từ thần,
    Hỏi: “Sao thần hiểu như người khác,
    Khi lớn lên cày cấy ruộng đồng?
  2. “Bắt lấy gã kia, tóm cổ mau,
    Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
    Con người dám nói hòng ngăn cản,
    Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!”

Sau khi ngâm hai vần kệ xong, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, làm sao một kẻ nông dân như thần lại biết được chuyện gì là tốt là hay như Senaka và các trí giả kia được? Chuyện đó không phải là tài nghệ của thần, thần chỉ biết nghề cày sâu cuốc bẫm, còn chuyện này thì Senaka và phe nhóm của lão biết rõ lắm, họ là những trí giả. Vậy hôm nay xin để họ giải thoát ngài khỏi trùng vây của mười tám đạo quân hùng mạnh kia đang bao quanh ngài và xin ra lệnh cho họ tóm cổ thần vứt đi, tại cớ sao Đại vương lại hỏi han đến thần?

Ngài trách móc vua không tiếc lời như vậy. Vua nghe xong nghĩ thầm: “Bậc hiền trí đang kể lại những việc sai trái mà ta đã làm. Trước kia ngài đã biết trước tai họa sắp đến, nên nay ngài mới trách cứ ta gay gắt như vậy. Nhưng chắc ngài không bỏ phí mọi thì giờ một cách phù phiếm đâu, chắc hẳn ngài đã sắp xếp cho ta được an toàn”. Vì thế vua ngâm kệ khiển trách ngài:

  1. Bậc Trí không nhai chuyện đã qua,
    Giữa hàm răng, hỡi Ma-sa-dha,
    Cớ sao khanh cứ rầy rà trẫm,
    Như ngựa bị dây trói chặt à?
  2. Nếu thấy được đường lối giải vây,
    Cách an toàn thoát nạn giờ này,
    Hãy mau làm trẫm yên lòng nhé,
    Sao trút chuyện xưa xuống trẫm đây?

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Vua này rất mê muội mù quáng, chẳng phân biệt được các hạng người trên đời. Vậy ta phải hành hạ một lát đã rồi sẽ giải cứu vua”. Và ngài đáp:

  1. Hành động giờ đây quá muộn màng,
    Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
    Thần không giải cứu quân vương được,
    Ngài phải tự lo liệu số phần.
  2. Có giống voi bay giữa cõi không,
    Lực thần đầy đủ, thật vinh quang,
    Người nào có được loài voi ấy,
    Có thể bay cùng chúng thoát thân.
  3. Có giống ngựa bay giữa cõi không,
    Lực thần đầy đủ,thật vinh quang,
    Người nào có được loài phi mã,
    Có thể bay cùng chúng thoát nàn.
  4. Có các loài chim hoặc quỷ thần,
    Đủ tài bay bổng giữa không gian,
    Còn nay quá muộn nên người tục,
    Không thể làm vì quá khó khăn,
    Thần chẳng thế nào cứu Chúa thượng,
    Ngài cần quyết định việc riêng phần.

Nghe vậy, vua ngồi yên lặng không thốt một lời, nhưng Senaka nghĩ thầm: “Không ai cứu giúp được vua và bọn ta trừ bậc Trí giả. Tuy thế vua lại quá kinh sợ nên không đáp lời ngài được. Vậy ta sẽ hỏi ngài xem”. Rồi lão cầu xin ngài qua hai vần kệ:

  1. Một người không thể thấy bờ xa,
    Ở giữa đại dương rộng lớn mà,
    Khi nó tìm ra nơi trú ngụ,
    Đủ đầy hạnh phúc với hoan ca.
  2. Cũng vậy với quân sĩ, Đại vương,
    Ngài là đất trú ngụ an toàn,
    Ngài là tối thượng quân sư báu,
    Xin giải cứu toàn thể thoát nàn.

Bậc Đại Sĩ quở trách lão qua vần kệ:

  1. Hành động giờ đây quá muộn màng,
    Vô cùng nguy hiểm, lại gian nan,
    Ta không giải cứu cho ngài được,
    Ngài phải tự lo liệu số phần.

Vua không tìm được lối thoát và quá khiếp sợ cho mạng sống của mình, nên không thể nóiđược lời gì với bậc Đại Sĩ cả, mà chỉ nghĩ rằng chắc lão Senaka có mưu kế, liền ngâm kệ này:

Senaka nghĩ thầm: “Nhà vua hỏi mưu kế, thôi dù hay dù dở, ta cũng phải nói ra một kế cho ngài”. Lão liền ngâm kệ:

  1. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
    Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
    Chúng ta cùng đả thưông nhau chết,
    Chốc lát ta không sống nữa nào.
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng cái chết dài lâu!

Vua nghe vậy nổi cơn thịnh nộ nghĩ thầm: “Cái đó thật xứng làm giàn hoả cho ngươi cùng con cháu ngươi”. Ông lại hỏi Pukkusa và các người kia, kẻ nào cũng đều thưa trình ngu ngốc theo kiểu của mình, và đây là câu chuyện của họ. Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    Puk-ku-sa, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Pukkusa đáp:

  1. Chúng ta uống thuốc độc từ trần,
    Chốc lát ta không phải sống còn,
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng cái chết dần mòn!

Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    Kà-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Kàvinda đáp:

  1. Chúng ta thắt cổ họng lìa đời,
    Chốc lát ta không sống nữa rồi,
    Đừng để Brah-ma-dat Đại đế,
    Giết ta bằng các chết lần hồi!

Vua hỏi:

  1. Hãy lắng nghe lời trẫm nói vầy:
    Khanh nhìn thấy mối hiểm nguy này,
    De-vin-da, trẫm hỏi khanh nhé,
    Khanh nghĩ làm gì được ở đây?

Devinda đáp:

  1. Ta hãy đốt lên ngọn lửa cao,
    Ở bên cửa lớn lấy gươm dao,
    Chúng ta cùng đả thương nhau chết,
    Chốc lát ta không sống nữa nào.
    Thần không thể cứu nguy chư vị,
    Chỉ Đại Trí nhân có phép mầu!

Devinda nghĩ thầm: “Nhà vua đang làm gì thế? Ngọn lửa đây mà ngài lại đi thổi con đom đóm! Trừ Mahosadha ra, không ai giải cứu được ta. Thế mà nhà vua lại bỏ ngài và hỏi kế chúng ta, làm sao chúng ta biết được?”

Nghĩ thế xong, lão không thấy ai có mưu kế gì, lão liền lập lại mưu kế Senaka đã đưa ra, rồi ca ngợi bậc Đại Sĩ qua hai vần kệ:

140-141. Tâu Đại vương, thần muốn nói đây:
Chúng ta cùng hỏi Trí nhân này,
Nếu như việc hỏi han đầy đủ,
Bậc Trí nhân không thể giải vây,
Thì chúng ta cùng theo cách nọ,
Se-na-ka đã khuyến ta vầy.

Nghe vậy, vua nhớ lại mình đã bạc đãi Bồ-tát trước kia, nên không thể nói gì thêm với ngài nữa, chỉ than thở khi lão nói vậy thôi:

  1. Giống kẻ đi tìm chất nhựa thông,
    Ở trong cây chuối hoặc cây bông,
    Nên không thấy nhựa, như ta vậy,
    Không thể tìm lời giải khó khăn.
  2. Chỗ trú ta đây thật hãi hùng,
    Như bầy voi ở chốn khô cằn,
    Với người vô dụng và ngu xuẩn,
    Chẳng biết làm gì để thoát thân.
  3. Tim ta hồi hộp, miệng khô ran,
    Lòng dạ ta nay thật bất an,
    Ta giống một người được đốt lửa,
    Rồi đem phơi dưới nắng chang chang.
  4. Như cháy bên trong, lửa thợ rèn,
    Bên ngoài chẳng có thể nào xem,
    Lòng ta cũng vậy, đang bừng cháy,
    Nhưng chẳng một ai có thể nhìn!

Nghe vậy bậc Trí giả nghĩ thầm: “Nhà vua đã vô cùng lo sợ, nếu ta không trấn an ngài, chắc ngài sẽ vỡ tim ra mà chết!”. Thế là ngài trấn an vua.

*

Bậc Đạo Sư diễn tả cảnh này qua các vần kệ:

  1. Thế rồi Trí giả Ma-sa-ha,
    Nhận thức điều hiền thiện tối đa,
    Khi ngài thấy mặt vua sầu thảm,
    Ngài nói như vầy với đức vua:
  2. – Xin đừng sợ hãi, tấu Anh quân,
    Chúa tể đoàn xa mã đại hùng,
    Thần sẽ giải vây phò Chúa thượng,
    Như trăng bị nuốt bởi La Thần,
  3. – Như vầng dương bị La Thần nuốt,
    Như thể voi chìm xuống dưới bùn,
    Như rắn bị giam trong giỏ kín,
    Như con cá lọt lưới quay cuồng.
  4. – Thần sẽ giải vây cứu Đại vương,
    Cùng đoàn xa mã, với đoàn quân,
    Sẽ làm kinh hãi Pãn-cà-đế,
    Như quạ bị quăng đá hoảng hồn!
  5. – Có ích lợi gì là trí tuệ,
    Hoặc quân sư thuộc hạng tầm thường,
    Không tài giải cứu phò Minh chúa,
    Ra khỏi gian nguy, bước cuối đường?

Vua nghe vậy an lòng ngay: “Thế là ta được bình an rồi”. Ông nghĩ thầm. Mọi người đều hoan hỷ khi Bồ-tát nói lớn như sư tử rống. Lúc ấy Senaka hỏi:

– Thưa bậc Trí giả, làm thế nào ngài thoát ra cùng chúng thần cả đây?

– Bằng một đường hầm được trang hoàng thật đẹp, Ngài bảo. Hãy chuẩn bị sẵn sàng.

Nói xong, ngài ra lệnh cho quân hầu mở địa đạo này.

– Này các người hãy đến mở cửa miệng hầm ra, vua Vedeha cùng quần thần sẽ đi qua địa đạo này.

Họ đứng lên mở cửa hầm, toàn địa đạo sáng ngời như cung đình được trang hoàng của chư Thiên.

*

Bậc Đạo Sư giải thích chuyện này như sau:

Nghe lệnh bậc Trí giả, quân hầu của ngài mở cửa hầm và các then tự động.

Họ trình bậc Đại Sĩ rằng cửa đã mở và ngài bảo vua:

– Tâu Chúa thượng, đã đến thời, xin bước xuống khỏi thượng lầu.

Vua liền bước xuống và Senaka cởi khăn trùm đầu, buông áo ra. Bậc Đại Sĩ hỏi lão làm gì, lão đáp:

– Thưa bậc Trí giả, khi đi qua đường hầm, ta phải cởi khăn trùm đầu và buộc áo quần quanh mình cho chặt.

Ngài đáp:

– Này Senaka, đừng tưởng là ông phải bò lết suốt đường hầm, nếu ông muốn cỡi voi cứ cỡi, hầm của ta cao ngất mười tám gang tay, cửa rộng rãi, cứ mặc xiêm y tốt đẹp vào như ông muốn, rồi đi trước đức vua.

Nói xong, Bồ-tát bảo Senaka đi trước, ngài đi cuối cùng, vua đi giữa và đây là lý do : Trong hầm là cả một thế giới đồ ẩm thực, người ta vừa ăn uống vừa ngắm đường hầm, bảo nhau:

– Đừng đi vội, cứ ngắm đường hầm trang hoàng tuyệt đẹp này đã.

Nhưng bậc Đại Sĩ đi sau vua, thúc giục ông bước nhanh, trong lúc ông chiêm ngưỡng đường hầm được trang hoàng đẹp như cung đình chư Thiên.

*

Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:

Senaka đi trước, Mahosadha đi sau, vua ở giữa cùng đám quân thần.

Bấy giờ khi được biết vua đến nơi, quân hầu đem ra khỏi đường hầm bà thái hậu, hoàng tử, công chúa của vua kia, để họ ở trước sân chầu rộng lớn. Vừa lúc ấy vua cùng Bồ-tát bước ra khỏi hầm. Khi bốn vị kia trông thấy vua và bậc Trí giả, họ kinh hoàng đến chết cứng, hoảng sợ thét lên:

– Chắc chắn ta đã ở trong tay địch rồi, chắc chắn quân sĩ của bậc Trí giả đến bắt ta đấy.

Còn vua Cùlani sợ vua Vedeha trốn thoát. Lúc bấy giờ vua ấy ở cách sông Hằng khoảng một dặm, nghe tiếng họ thét to trong đêm vắng, ông muốn bảo: “Hình như giọng của hoàng hậu Nandà”. Nhưng ông sợ bị cười nhạo vì nghĩ quẩn như thế, nên không nói gì.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ đặt công chúa Pañcàlacandì trên một đám trân bảo và ra lệnh vẩy nước thánh lễ trong khi ngài nói:

– Tâu Đại vương, vì nữ nhân này, Đại vuơng đến đây, vậy xin sắc phong nàng làm vương hậu.

Họ mang đến ba trăm chiếc thuyền, vua bước ra khỏi sân chầu rộng lớn, ngự lên một chiếc thuyền được trang hoàng lộng lẫy và bốn vị kia cùng bước lên cùng vua .

*

Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:

Vua Vedeha bước ra khỏi đường hầm ngự lên thuyền và khi ông đã an vị, Mahosadha khuyên nhủ ông:

– Đây là quốc trượng, đây là quốc mẫu, tâu Chúa thượng, ngài thường phụng dưỡng mẫu hậu ra sao thì xin phụng dưỡng quốc mẫu như vậy. Đây là hoàng tử cùng cha cùng mẹ với vương hậu, xin Đại vương hãy bảo hộ Pañcàlacandì, tâu Chúa tể đoàn chiến xa. Còn Pañcàlacandì là công chúa rất được nuông chìu, xin Đại vương hãy yêu quý nàng, nàng là vương hậu của Đại vương.

Vua chấp thuận ngay, nhưng tại sao bậc Đại sĩ không nói gì đến hoàng thái hậu? Chỉ vì đó là một bà già. Bồ-tát nãy giờ đứng trên bờ nói đủ mọi việc như thế. Vua vừa thoát khỏi đại nạn chỉ muốn ra khỏi ngay, liền nói:

– Vương nhi nói chuyện mà vẫn đứng trên bờ thế?

Rồi vua ngâm kệ:

  1. Nào, hãy nhanh chân bước xuống đò,
    Sao vương nhi mãi đứng trên bờ,
    Ta vừa thoát được nơi nguy hiểm.
    Ta hãy đi mau, Ma-sa-dha.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, thần đi cùng Chúa thượng thì chẳng thuận tiện.

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Việc này không đúng, tâu Quân vương,
    Thần thủ lãnh toàn thể đạo quân,
    Nếu bỏ đoàn quân và tẩu thoát.
    Vậy toàn quân lính ở trong làng,
    Rồi đây thần sẽ đem về cả,
    Theo lệnh Brah-ma-dat Thượng hoàng.

Trong đám quân sĩ này, có kẻ ngủ mệt vì đường xa, có kẻ ăn uống, không biết ta khởi hành và kẻ bệnh hoạn vì đã làm việc cùng thần bốn tháng nay, họ lại có kẻ hầu cận của thần. Thần không thể bỏ lại một tên lính nào mà đi cả, nên thần sẽ trở lui. Thần sẽ mang đi toàn quân sĩ ấy theo lệnh của vua Brahmadatta mà không cần một trận đánh nào, xin Đại vương hãy lên đường thật nhanh, không trì hoãn ở nơi nào, thần đã sắp đặt những trạm voi và xe ngựa trên lộ trình, nên Đại vương có thể để lại những con vật nào mỏi mệt, còn những voi ngựa mạnh khỏe sẽ trở về Mithìlà nhanh chóng.

Lúc ấy vua ngâm kệ:

  1. Một đoàn quân quá nhỏ nhoi,
    Làm sao thắng nổi đoàn người đông hơn?
    Đoàn quân yếu bị diệt vong,
    Bởi đoàn quân mạnh, Trí nhân hỡi ngài!

Bồ-tát ngâm kệ tiếp:

  1. Một đoàn quân quá ít oi,
    Có minh sư sẽ thắng người đông hơn,
    Nhưng không có vị dẫn đường,
    Một vua thắng lắm quốc vương lẽ thường,
    Khác gì với ánh chiêu dương,
    Đánh tan bóng tối, vinh quang mọi nhà.

Nói lời này xong, bậc Đại Sĩ vái chào vua và tiễn ngài lên đường. Vua nhớ lại mình đã được giải cứu khỏi bàn tay kẻ thù như thế nào và chiếm được công chúa là đã đạt được tâm nguyện, suy xét kỹ đến công đức của Bồ-tát, vua hân hoan diễn tả cho Senaka nghe những công đức ấy của bậc Trí giả qua vần kệ sau:

  1. Quốc sư hỡi, Se-na-ka,
    Sống cùng người trí thật là lạc hoan !
    Như Chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-sa-dha cứu ta đây
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Senaka ngâm kệ khác đáp lời vua, vừa tán dương bậc trí giả:

  1. Muôn tâu Chúa thượng, chúng ta,
    Sống cùng người trí thật lạc hoan!
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay.
    Ma-sa-dha cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Lúc ấy vua Vedeha đã qua sông cách chừng một dặm. Ông thấy ngôi làng mà Bồ-tát đã dựng sẵn, quân hầu do Bồ-tát giao nhiệm vụ tại đó cung cấp voi ngựa và các phương tiện chuyên chở khác, rồi dâng thức ăn uống. Vua giao lại những voi ngựa chuyên chở nào đã mệt mỏi rồi nhận thứ khác và đi đến làng kế cận, cứ thế ông vượt qua cuộc hành trình dài trăm dặm đường và sáng hôm sau ông đến Mithilà.

Còn Bồ-tát khi đi đến cổng địa đạo, rút kiếm đeo trên vai ra đem giấu trong cát, rồi ngài trở vào địa đạo đi đến kinh thành, tắm gội nước thơm, ăn uống cao lương mỹ vị xong, nghỉ ngơi trên bảo tọa, sung sướng nghĩ rằng tâm nguyện của ngài đã thành đạt. Khi đêm tàn, vua Cùlani ra lệnh quân sĩ vào kinh thành.

*

Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Hoàng đế Cù-la-ni đại cường,
    Đã canh giữ kỹ suốt đêm trường,
    Rạng đông vừa đến thành U-pak,
    Đang ngự trên lưng của tượng vương.
  2. Mãnh tượng sáu mươi tuổi đã già,
    Đại vương hùng dũng Pañ-cà-la,
    Quân trang vũ khí toàn châu báu,
    Cung nắm trong tay cất tiếng ra:

Sau đó vua miêu tả chúng đủ loại:

  1. – Truyền lệnh đại quân tề tựu ngay,
    Lên voi vệ sĩ chiến xa này,
    Các người thiện xạ và cung thủ,
    Tất cả cùng nhau tụ họp đây.

Bấy giờ vua ra lệnh họ bắt sống vua Vedeha:

  1. Đưa hết các voi chiến có ngà,
    Sáu mươi tuổi thọ, dẫm tan ra,
    Kinh thành mới dựng cao sang ấy,
    Do chính Đại vương Vi-đế-ha.
  2. Hãy bắn tên ra mọi phía này,
    Từ bao cung nọ, đám tên bay,
    Như răng bò nghé, đầu tên nhọn,
    Đâm thủng tận xương bọn chúng ngay.
  3. Anh hùng tiến tới, giáp bào mang,
    Vũ khí cầm tay khéo điểm trang,
    Dũng mãnh can trường và tự nguyện,
    Sẵn sàng đối diện với voi đàn.
  4. Các gươm giáo được tẩm dầu trong,
    Đầu nhọn lung linh tựa lửa hồng,
    Lấp lánh như chùm sao hội tụ,
    Cả trăm tinh tú giữa hư không.
  5. Khi các anh hùng ấy tấn công,
    Mang bào giáp, vũ khí hiên ngang,
    Không hề tháo chạy bao giờ cả,
    Như vậy làm sao Vi-đế vương,
    Có thể tìm đường nào tẩu thoát,
    Cho dù bay lượn tựa chim muông?
  6. Ba vạn chín ngàn chiến sĩ ta,
    Ta chưa từng thấy thế bao giờ,
    Toàn quân được chọn rất tinh nhuệ,
    Tất cả hùng quân của nước nhà.

166-167. Hãy nhìn voi mạnh đủ đôi ngà,
Tô điểm cân đai đẹp mắt ta,
Tuổi thọ sáu mươi, lưng ngất ngưỡng,
Các vương tử rực rỡ, xa hoa,
Trang hoàng lộng lẫy bao xiêm áo,
Như các Thiên thần Nan-da-na.

  1. Gươm màu cá bạc tẩm dầu trơn,
    Lấp lánh anh hùng, nắm vững vàng,
    Bén nhọn, sáng ngời, hoàn hảo quá,
    Được làm bằng thép luyện nhiều lần.

169-170. Gươm mạnh, do bao dũng sĩ cầm,
Những người chiến đấu mãi không ngừng,
Kim hoàn vàng ánh, đai màu đỏ,
Gươm sáng lung linh lúc vẫy vùng,
Như chớp lòe trong mây xám ngắt.
Anh hùng mang giáp vẫy cờ tung,
Có tài dùng kiếm và khiên mộc,
Nắm chặt chuôi gươm, thiện chiến quân.

  1. Bị vây bởi chiến sĩ anh hùng,
    Như vậy trên lưng voi tấn công,
    Ngươi chẳng có nơi nào tẩu thoát,
    Ta không thấy một lực oai thần,
    Giúp ngươi trở lại kinh thành cũ,
    Ở tại Mi-thi-là, biết chăng?

Vua này hăm dọa vua Vedeha như vậy, nghĩ rằng sẽ bắt được vua kia lúc ấy ngay tại chỗ, nên thúc voi đi nhanh hơn, ban lệnh quân sĩ bắt được là đánh và giết đi. Vua Cùlani tiến vào thành Upakàri như dòng thác lũ.

Lúc ấy các thám tử của bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra?”. Và đám hầu cận xúm xít quanh ngài. Ngay lúc này Bồ-tát đứng dậy khỏi tọa sàng, quân hầu giúp ngài tắm rửa xong, ngài dùng điểm tâm rồi mặc xiêm y kàsi trị giá cả trăm đồng tiền vàng, hồng y khoác lên, bên vai, mang gậy biểu thị tước vị của ngài có gắn bảy bảo vật, đôi hài vàng mang ở chân, phe phẩy quạt sơn ngưu như một vị Thiên thần được trang hoàng rực rỡ, bước lên thượng lầu mở cửa sổ, xuất hiện trước vua Cùlani, đi đi lại lại với dáng điệu uy nghi của một vị Thiên chủ.

Còn vua Cùlani trông thấy dung sắc của ngài, không thể nào giữ được lòng bình thản, mà vội lao lên mình voi, tưởng rằng có thể bắt được ngài ngay lúc đó. Bậc Trí giả nghĩ thầm: “Vua ấy vội đến chỗ kia vì tưởng vua Vedeha sẽ bị bắt, mà không biết rằng chính các hoàng tử, công chúa đã bị bắt, còn Đại vương ta đã đi rồi. Ta sẽ xuất đầu lộ diện như một tấm gương vàng chói và nói chuyện với vua này”. Thế là đứng ở cửa sổ, ngài thốt lên những lời này với giọng ngọt ngào như mật:

172-173. Sao ngài thúc giục mãi con voi,
Ngài đến với khuôn mặt thật tươi,
Ngài nghĩ là ngài tròn ước muốn,
Ném cung ấy xuống, ném tên thôi.
Cởi ngay bào giáp kia ngời sáng,
Cùng với san hô, các ngọc trai.

Khi vua nghe lời ấy của ngài, ông nghĩ thầm: “Tên nông dân kia đang chế nhạo ta, hôm nay ta sẽ chứng kiến điều cần làm cho gã ấy”. Rồi ông nói giọng hăm dọa:

  1. Trông ngươi có dáng điệu vui tươi,
    Ngươi nói lời ra với nụ cười,
    Giờ chết của ngươi nay sắp đến,
    Cho nên vẻ đẹp hiện ra ngoài!

Khi hai vị đang nói chuyện như trên, đám quâm sĩ chú ý đến hảo tướng của bậc Đại Sĩ, liền bảo nhau:

– Đại vương đang đàm đạo với bậc Trí giả Mahosadha. Các ngài đang bàn luận gì đây? Ta thử nghe xem sao.

Rồi họ đến gần vua, nhưng bậc Trí giả khi nghe vua nói xong, liền đáp lại:

– Đại vương không biết ta là bậc Trí giả Mahosadha, ta không để Đại vương giết ta đâu. Mưu kế Đại vương đã hỏng, những điều Đại vương cùng Kevatta đã nghĩ trong tâm không xảy ra đâu, mà vừa xảy ra những việc Đại vương chỉ nói đầu môi chót lưỡi.

Rồi ngài giải thích sự việc như sau:

  1. Sấm sét của ngài thật uổng công,
    Âm mưu đã hỏng, hỡi Quân vương!
    Vua ta khó bắt cho ngài quá,
    Như tuấn mã so với ngựa thường!
  2. Vua ta đã vượt quá sông Hằng,
    Vào tối qua cùng các cận thần,
    Ngài sẽ giống như con quạ nọ,
    Cố công săn bắt thiên nga vương!

Một lần nữa, như con sư tử giương bờm dũng mãnh, ngài phát họa một ảnh dụ qua các lời sau:

  1. Chó rừng đang ở giữa đêm trường,
    Nhìn thấy hoa cây phượng đỏ hồng,
    Cứ tưởng hoa kia là miếng thịt,
    Súc sinh hạ liệt họp từng đàn.
  2. Khi các canh khuya ấy đã qua,
    Mặt trời đã xuất hiện dần ra,.
    Chó nhìn cây phượng đầy hoa nở,
    Thất vọng, súc sinh thật xấu xa!
  3. Hỡi Đại vương, cũng giống các vua,
    Đã bao vây chúa Vi-đề-ha,
    Sẽ tan hy vọng và đi mất,
    Như lũ chó rừng tránh phượng hoa!

Khi vua nghe những lời lẽ can trường như vậy, nghĩ thầm: “Tên nông dân này nói năng thật bạo dạn, chắc chắn vua Vedeha đã trốn thoát”.

Vua liền nổi cơn thịnh nộ, nghĩ thầm: “Xưa kia vì tên nông dân này mà ta chẳng còn mảnh vải che thân, nay cũng vì gã mà kẻ thù đã làm hại ta quá nhiều, ta phải trả thù gã cả hai chuyện mới được”.Vua liền ban lệnh như sau:

  1. Cắt hết tay chân, tai mũi ra,
    Vì tên kia thả Vi-đề-ha,
    Kẻ thù đã thoát tay ta đó,
    Xẻo thịt, đem chiên nấu chín mà,
    Vì tên kia thả Vi-đề chúa,
    Kẻ thù đã thoát khỏi tay ta !
  2. Như tấm da trâu trải đất bằng,
    Hoặc da sư, hổ được đem căng,
    Bằng cây cọc, vậy ta mong muốn,
    Căng nọc nó và lấy giáo đâm,
    Vì nó thả Vi-đề chúa tể,
    Kẻ thù ta thoát khỏi giam cầm!

Nghe vậy bậc Đại Sĩ mỉm cười nghĩ thầm: “Vua này không biết là hoàng hậu và hoàng gia đã được ta chở về Mithilà rồi, nên mới ra lệnh bắt ta như vậy. Nhưng trong cơn thịnh nộ, vua ấy có thể lấy cung tên đâm xuyên thân ta, hay làm một chuyện gì đó cho hả dạ, vậy ta phải làm cho vua ấy hoảng hốt đau buồn, rồi ngất xỉu trên lưng voi khi ta kể chuyện cho vua nghe mới được”. Ngài liền nói:

  1. Nếu chặt tay chân, tai mũi ta,
    Vi-đề chúa sẽ chặt Can-da,
    Can-dì, hoàng hậu Nan-dà nữa,
    Công chúa cùng hoàng tử cả nhà!
  2. Nếu xẻo ta rồi xiên thịt ta,
    Vi-đề chúa sẽ xẻo Canda
    Can-dì, hoàng hậu Nandà nữa,
    Công chúa và hoàng tử cả nhà!
  3. Nếu đóng cọc ta, đâm giáo ta,
    Vi-đề sẽ đóng cọc Can-da,
    Can-dì, hoàng hậu Nan-dà nữa,
    Công chúa và hoàng tử cả nhà!
  4. Vậy việc kia đã được mật bàn,
    Giữa ta và chính Vi-đề vương,
    Giống như tấm chắn bằng da thuộc,
    Dầy một trăm tầng được khéo làm,
    Bởi các thợ da, là vật dụng,
    Đề phòng tên nọ bắn xuyên ngang.
  5. Ta mang hạnh phúc, tránh đau buồn,
    Cho chúa Vi-đề-ha vẻ vang,
    Ta thoát âm mưu ngài dự tính,
    Như khiên tránh khỏi mũi tên đâm.

Nghe thế, vua nghĩ thầm: “Tên nông dân này nói gì thế, nếu ta làm gì gã thì vua Vedeha cũng sẽ làm thế cho gia quyến ta ư? Gã chẳng biết ta đã cho canh phòng thê tử ta rất cẩn mật, nên cứ dọa ta như thế vì sợ chết ngay đây, ta không tin lời gã nói đâu”.

Bậc Đại Sĩ đoán biết rằng vua tưởng ngài nói thế vì sợ chết, nên ngài quyết định giải thích rõ. Ngài nói:

  1. Đại vương xin hãy bước vào trong,
    Các nội cung đều đã trống không:
    Hoàng hậu, hoàng nhi, hoàng thái hậu,
    Thảy đều được dẫn xuống đường hầm.
    Chiến vương hỡi! họ được giao phó,
    Vi-đề vương giám sát hộ phòng.

Lúc ấy vua nghĩ thầm: “Bậc Trí giả này nói có vẻ chắc chắn, ta đã nghe đêm qua bên sông Hằng có giọng của hoàng hậu Nandà, bậc Trí giả này thật là tài tình, chắc đang nói sự thật đây”. Vua thốt nhiên đau khổ ghê gớm, nhưng cố thu hết can đảm giấu nỗi buồn phiền, phán bảo thị vệ đi điều tra tin tức và ngâm bài kệ này:

  1. Mau bước vào trong các nội cung,
    Xem lời tên nọ đúng hay không?

Tên thị giả cùng quân hầu đi ra mở cửa cung bước vào, ở đó toàn kẻ tay chân bị trói, nhét giẻ vào mồm, treo trên cọc, gã thấy quân canh hậu cung, những tên lùn, gù lưng đều thế, cả chén bát đổ vỡ vung vãi khắp nơi, cùng với thức ăn uống, cửa kho tàng đều bị mở tung, kho đã bị cướp phá sạch, các phòng ngủ mở toang cửa, bầy quạ bay qua cửa sổ mở vào trong, chẳng khác nào một làng bỏ hoang hay bãi tha ma.

Gã thấy cung điện trong cảnh tiêu điều ấy, liền báo tin cho vua:

  1. Ma-ho-sad nói đúng, Minh quân,
    Nội điện hoàng cung đã trống không,
    Như một làng bên bờ bến nước,
    Được bầy quạ trú ẩn nương thân.

Vua run rẩy buồn rầu sợ mất các người thân yêu, liền nói:

– Ta gặp nỗi đau buồn này cũng do gã nông dân kia.

Rồi giống như con rắn bị đánh một gậy, ông hết sức phẫn nộ với Bồ-tát. Khi bậc Đại Sĩ thấy dáng điệu của vua như vậy, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua này đang được đại vinh hiển, nếu trong cơn thịnh nộ liền nói: Ta phải làm gì trước những việc như thế? Vì lòng kiêu mạn của chiến sĩ, vua ấy có thể làm hại ta. Giả sử ta tả sắc đẹp của hoàng hậu Nandà cho vua nghe, làm như thể ông chưa từng gặp được hoàng hậu, ông sẽ thương nhớ bà và hiểu rằng ông sẽ không bao giờ thấy lại được nữ báu ấy nếu giết ta đi. Như vậy vì thương yêu hoàng hậu, vua sẽ không làm hại ta nữa”.

Thế là đứng an toàn trên thượng lầu, ngài khoát cánh tay sắc vàng óng từ dưới vạt hồng y của ngài lên và chỉ về hướng hoàng hậu đã ra đi, ngài tả dung sắc của hoàng hậu như vầy:

  1. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
    Đã bước lối này, hỡi Đại vương,
    Giọng nói bà: thiên nga trổi nhạc,
    Môi bà như các phiến vàng ròng,
  2. Giai nhân có sắc đẹp toàn thân,
    Được dẫn lối này, hỡi Đại vương,
    Đã khoác xiêm y màu lụa sẩm,
    Đai lưng sáng rực kết vàng ròng.
  3. Đôi chân hồng đỏ trông kiều diễm,
    Đai kết vàng ròng với bảo trân,
    Đôi mắt bồ câu, hình yểu điệu,
    Đôi môi như trái bim-ba rừng.
  4. Lưng eo thon dịu, dáng cao sang,
    Như một cây leo, giống cát đằng,
    Hoặc chỗ tế đàn cao, giữa hẹp,
    Tóc dài đen nhánh, dưới cong cong,
    Như nai tơ, thuộc dòng cao quý,
    Như ngọn lửa hồng giữa tiết đông!
  5. Như dòng sông ẩn dưới sườn non,
    Trong đám cây leo bé cỏn con,
    Tuyệt sắc giai nhân hoàn hảo quá,
    Ngực đầy như trái tin-dook tròn,
    Cũng không ngắn quá, không dài quá,
    Cũng chẳng nhiều lông, chẳng trụi lông!

Trong lúc bậc Đại Sĩ ca tụng dung sắc diễm kiều của bà như vậy, vua cảm thấy như thể mình chưa gặp bà bao giờ cả, một nỗi khát khao ghê gớm khởi lên trong lòng ông. Bậc Đại Sĩ nhận thấy thế, lại ngâm kệ sau:

  1. Vậy ngài, Đại đế vinh quang,
    Thấy Nan-dà chết, hân hoan trong lòng,
    Thì Nan-dà sẽ cùng thần,
    Đến trình diện trước Diêm vương bây giờ!

Bậc Đại Sĩ ca tụng hoàng hậu Nandà như vậy, chứ không ca tụng ai khác, lý do là: Người ta không thương yêu ai bằng ái thê của mình. Ngài chỉ ca tụng bà, vì ngài nghĩ nếu vua nhớ đến bà, ông cũng sẽ nhớ đến các con. Trong lúc bậc Đại Sĩ ca tụng bà bằng giọng ngọt như mật, hoàng hậu Nandà như thể hiển diện toàn thân ra trước mắt vua. Lúc ấy ông nghĩ thầm: “Không ai ngoài Mahosadha có thể đem ái hậu về cho ta”. Nhớ đến bà, nỗi đau buồn lại dâng lên trong lòng ông. Bậc Đại Sĩ nói:

– Tâu Đại vương, xin đừng sầu khổ, hoàng hậu, hoàng tử và hoàng thái hậu sẽ trở về đây, với điều kiện duy nhất là thần được trở về trước, xin Đại vương hãy an lòng.

Ngài trấn an vua và vua lại nói:

– Ta canh phòng kinh thành của ta thật cẩn mật, ta đã bao vây thành Upakàri này với đoàn quân sĩ thật đông đảo, thế mà kẻ tài trí này vẫn đem ra khỏi thành được canh kỹ kia toàn thể hoàng hậu, hoàng tử, hoàng thái hậu và đưa họ đến thành Vedeha. Trong lúc ta đang vây hãm thành này, mà không một ai hay biết, kẻ này lại đưa vua Vedeha thoát đi cùng quân sĩ và voi ngựa chuyên chở, có thể rằng kẻ này có thần thông hay là có cách làm mờ mắt ta chăng?

Và ông hỏi ngài như sau:

  1. Nhà ngươi có pháp thuật ư?
    Hay là ngươi đã làm mờ mắt ta?
    Nên ngươi cứu chúa Đề-ha,
    Kẻ thù ta thoát tay ta giam cầm?

Nghe thế, bậc Đại Sĩ đáp:

-Tâu Đại vương, tiểu thần có thần thông biến hóa, vì các Trí giả học được phép thần thông, sẽ giải cứu luôn bản thân cùng các người khác, khi tai họa đến.

  1. Tâu Đại vương, các trí nhân,
    Vẫn thường học phép thần thông ở đời;
    Trí nhân đầy đủ kế tài,
    Bản thân giải thoát ra ngoài gian lao.
  2. Tiểu thần có các quân hầu,
    Khéo tài phá vỡ các hào lũy ra,
    Họ làm cách ấy giúp vua,
    Vi-đề đã đến Mi-la kinh thành.

Câu này ám chỉ vua kia đã ra đi bằng địa đạo được trang hoàng như trên, vì thế vua hỏi:

– Địa đạo ấy ra sao?

Và vua muốn xem nó. Bậc Đại Sĩ thấy vẻ mặt vua, biết rằng đây là vua muốn biết, nên ngài sẵn sàng chỉ nó cho vua xem:

  1. Đường hầm xây thật tài tình,
    Ngự du, xin hãy thân hành, Đại vương!
    Hầm to đủ chứa voi đàn,
    Đoàn xe, bầy ngựa, hàng hàng lục quân,
    Bên trong đèn thắp sáng trưng,
    Một đường hầm quả kỳ công thực là!

Rồi ngài tiếp tục nói:

– Tâu Đại vương, xin ngự lãm địa đạo do trí tuệ thần xây dựng nên, sáng ngời như thể đôi vầng nhật nguyệt mọc lên trong đó, được trang hoàng thật lộng lẫy với tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, một trăm lẻ một loan phòng, hằng trăm ổ đèn, xin Đại vương hoan hỷ ngự giá cùng tiểu thần và quân cận vệ vào kinh thành Upakàri.

Nói xong, ngài bảo cổng thành mở toang và vua cùng một trăm lẻ một vị vương hầu ngự vào. Bậc Đại Sĩ bước xuống khỏi thượng lầu triều bái vua và đưa ngài cùng đoàn tùy tùng vào trongđịa đạo. Khi vua thấy địa đạo đẹp như kinh thành được trang hoàng của chư Thiên, vua liền ca tụng Bồ-tát:

  1. Lợi thay chúa tể Đề-ha,
    Có nhiều người trí trong nhà như khanh,
    Hoặc trong đất nước của mình,
    Ma-ho-sad hỡi, thông minh tuyệt trần!

Sau đó bậc Đại Sĩ dẫn vua đến một trăm lẻ một loan phòng, hễ mở một cửa thì tất cả đều mở và một cửa đóng thì tất cả đều đóng lại. Vua bước vào trước, chiêm ngưỡng địa đạo, bậc Đại Sĩ theo sau, rồi tất cả quân sĩ đều vào trong hầm. Nhưng khi bậc Trí giả biết vua đã ra khỏi địa đạo, ngài liền ngăn đám người kia bước ra bằng cách đi đến một nút bấm và đóng cửa hầm lại. Thế là tám mươi cửa lớn và sáu mươi bốn cửa nhỏ, các cửa của cả trăm lẻ một loan phòng và cửa của hàng trăm ổ đèn đều đóng chặt lại, toàn thể địa đạo tối đen như địa ngục.

Tất cả đám người đông đảo ấy đều kinh hoàng.

Bấy giờ bậc Đại Sĩ tuốt kiếm ra, cây kiếm mà ngài đã giấu hôm qua khi ngài vào địa đạo. Từ dưới đất, ngài phóng mình lên không chừng tám thước rồi hạ xuống chụp lấy cánh tay vua, vung kiếm ra và thét lên hăm dọa:

– Này Đại vương, tất cả vương quốc ở cõi Diêm -phù- đề thuộc về ai?

– Thưa bậc Trí giả, của khanh tất cả, xin tha mạng trẫm.

Ngài đáp:

– Xin Đại vương chớ sợ, thần không có ý gì lấy kiếm ra sát hại Đại vương đâu, mà chỉ để bày tỏ trí khôn của thần đó thôi.

Rồi ngài trao kiếm cho vua, khi vua đã cầm kiếm xong, ngài lại nói:

– Tâu Đại vương, nếu ngài muốn giết thần xin hãy lấy kiếm này giết đi, còn nếu muốn tha cho thần, xin hãy tha cho.

Vua đáp:

– Này bậc Trí giả đừng sợ, trẫm hứa bảo toàn tánh mạng của khanh.

Thế là khi vua giơ kiếm lên, cả hai đều kết tình bằng hữu rất chân thật. Rồi vua bảo Bồ-tát:

– Này bậc Trí giả, hiền khanh thật nhiều tài trí, tại sao khanh không chiếm lấy vương quốc này?

– Tâu Đại vương, nếu thần muốn, chỉ nội hôm nay thần có thể thu trọn mọi vương quốc ở cõi Diêm-phù-đề này và giết hại mọi vị vua, nhưng một hiền nhân không đạt vinh quang bằng cách giết hại kẻ khác.

– Này bậc Trí giả, đám đông đang khổ sở vì không đi ra được, vậy khanh hãy mở cửa địa đạo và tha mạng cho hết thảy.

Ngài mở cửa, cả địa đạo sáng lòa, mọi người đều bình tâm trở lại, vua chúa cùng các đoàn tùy tùng bước ra, đến gần bậc Trí giả đang đứng giữa sân chầu rộng lớn với vua, rồi các vua này bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ngài đã tha mạng cho tất cả chúng ta, nếu cửa địa đạo đóng lâu hơn chốc nữa, chắc cả đám chết hết rồi.

– Tâu các vị Chúa công, đây không phải lần đầu tiên các ngài được thần cứu giá đâu.

– Thế thì khi nào nữa, thưa bậc Trí giả?

– Các ngài còn nhớ khi tất cả vương quốc ở cõi Diêm-phù-đề đều bị chinh phục trừ kinh thành của tiểu thần và khi các vị đến vườn Thượng uyển Uttarapañcàla sẵn sàng nâng chén khải hoàn chăng?

– Thưa bậc Trí giả, còn nhớ.

– Lúc ấy chính vua này cùng lão Kevatta đã dùng độc kế, đầu độc thức ăn thức uống và mưu toan sát hại các vị, nhưng tiểu thần lại không muốn để các vị chịu một cái chết ngu si như vậy trước mắt thần, nên thần cho người vào đánh vỡ hết chén bát nồi niêu, phá hỏng kế hoạch của họ, cứu mạng các vị đấy!

Các vua đều kinh hãi hỏi lại vua Cùlani:

– Tâu Đại vương, có thật vậy chăng?

– Thật vậy, các việc ta làm đều do lời bàn của Kevatta. Bậc Trí giả nói đúng thật đấy.

Thế là các vua đều ôm lấy bậc Đại Sĩ và bảo:

– Thưa bậc Trí giả, ngài là vị cứu tinh của chúng ta, ngài đã giải cứu chúng ta.

Các vua ấy ban tặng vật trang sức cho ngài để tỏ lòng quý trọng.

Bậc Đại Sĩ nói với vua Cùlani:

– Xin Đại vương chớ sợ, lỗi lầm này do kết giao với một bạn ác, xin Đại vương yêu cầu các vua kia lượng thứ cho.

Vua bảo:

– Ta đã làm như vậy vì một kẻ ác, đó là lỗi lầm của ta, xin các vị hãy khoan dung, ta không bao giờ tái phạm điều ấy nữa.

Vua này liền được các vua kia tha thứ, tất cả đều thú tội cho nhau nghe và trở thành thân hữu, sau đó vua truyền đem đến đủ thứ sơn hào hải vị, hương thơm tràng hoa và suốt bảy ngày liền họ liên hoan trong địa đạo, rồi vào kinh thành ban đại vinh hiển cho bậc Đại Sĩ. Vua ngự trên ngai vàng, có cả trăm lẻ một vương hầu vây quanh. Và ước mong giữ bậc Trí giả ở lại triềuđình này, vua liền bảo:

  1. Trẫm ban thế lực, vinh quang,
    Gấp đôi thực phẩm, tiền lương công thần,
    Và thêm nhiều thứ đặc ân,
    Mong khanh hưởng thụ toàn phần tự do,
    Đừng về với Chúa Đề-ha,
    Vua kia làm được gì cho khanh à?

Nhưng bậc Trí giả tìm lời lẽ chối từ:

202-203. Đại vương, rời bỏ chủ ta,
Chỉ vì lợi lộc thật là nhục thay,
Cho người kia lẫn ta đây;
Trong đời Vi-đế vương này trị dân,
Thần không hầu hạ tha nhân,
Thần không thể sống giang sơn người ngoài.

Lúc ấy vua bảo ngài:

– Này bậc Trí giả, được rồi, khi nào Đại vương của khanh lên chầu trời, xin hiền khanh hãy hứa đến đây với trẫm.

– Tâu Đại vương, nếu thần còn sống, thần xin đến đây.

Thế là vua tiếp đãi ngài trọng thể trong bảy ngày. Sau đó, khi ngài tạ từ, vua ngâm kệ hứa hẹn ban tặng ngài thứ nọ kia:

  1. Ban khanh ngàn nén vàng thoi,
    Ở Kà-si đủ tám mươi ngôi làng,
    Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
    Một trăm thê thiếp, trẫm ban trọn phần.
    Rồi đem tất cả đoàn quân,
    Ma-ho-sad, hãy lên đường bình an.

– Khi đức vua của thần về bổn quốc, thần có tâu ngài phải tiếp đãi mẫu hậu Nandà như mẹ ngài, hoàng tử Pañcàlacanda như vương đệ của ngài và thần đã kết duyên công chúa cho ngài bằng nghi lễ vẩy nước thánh. Chẳng bao lâu nữa thần xin đưa thái hậu cùng hoàng hậu, hoàng tử trở về.

– Tốt lắm.

Vua phán, truyền ban hồi môn cho công chúa, cùng thị vệ nữ tỳ, xiêm y, nữ trang ngọc vàng trân bảo, voi ngựa, vương xa trang hoàng rực rỡ. Rồi vua ra lệnh cho quân sĩ thi hành:

  1. Hãy cho bầy ngựa, voi đàn,
    Gấp đôi số thực phẩm ban ngày,
    Toàn quân mở tiệc liên hoan,
    Quản xa, lính bộ uống ăn thỏa lòng!

Nói vậy xong, vua truyền bậc Trí giả ra về với những lời này:

  1. Lên đường, hỡi bậc Trí nhân,
    Đoàn xe, voi ngựa, lục quân ra về,
    Để cho chúa tể Vi-đề
    Thấy khanh trở lại Mi-thi-la thành.

Vua tiễn đưa bậc Trí giả vô cùng trọng thể như thế. Cả trăm lẻ một vương hầu cùng đưa tiễn ngài linh đình và trao quà tặng vô số.

Các thám tử theo phụng sự các vương hầu kia cũng đến vây quanh bậc Trí giả. Ngài rầm rộ lên đường. Trên lộ trình, ngài gửi người hầu đi thu lợi tức ở các ngôi làng mà vua Cùlani đã ban ngài. Rồi ngài trở về vương quốc Vedeha.

Bấy giờ Senaka đã phái một người hầu lên đường để rình xem vua Cùlani có đến hay không và phi báo cho lão biết bất kỳ ai đến. Gã kia trông thấy bậc Đại Sĩ cách ba dặm đường, liền trở về báo cho lão biết bậc Trí giả đang cùng đám tùy tùng đông đảo rầm rộ trở về. Được tin ấy lão liền đến hoàng cung. Vua cũng nhìn ra cửa sổ trên thượng lầu thấy một đám đông rầm rộ thì đâm hoảng sợ. “Đám tùy tùng của bậc Đại Sĩ còn ít lắm, còn đám này lại quá đông, phải chăng đích thân vua Cùlani đến đây?”. Ngài liền hỏi như sau:

  1. Ngựa voi, xe pháo, bộ binh,
    Đạo quân rầm rộ hiện hình trước ta,
    Bốn đoàn khủng khiếp lộ ra,
    Việc này có ý nghĩa là sao đây?

Senaka đáp:

  1. Hân hoan lớn nhất đời này,
    Đại vương còn thấy vui vầy nào hơn?
    Ma-ho-sad được bình an,
    Trở về cùng cả đoàn quân của ngài.

Vua bảo:

– Này Senaka, quân sĩ của bậc Trí giả ít lắm, mà đám này lại quá đông?

– Tâu Đại vương, ắt hẳn vua Cùlani đẹp ý vì ngài lắm nên đã ban cho ngài đám tùy tùng đông như vậy.

Vua liền cho lệnh truyền đi khắp nơi kinh thành bằng tiếng trống:

– Cả kinh thành hãy trang hoàng để nghênh đón bậc Trí giả về.

Dân chúng tuân lệnh, bậc Trí giả về thành, liền vào cung vua. Lúc ấy vua đứng dậy ôm hôn ngài, rồi lui về ngai và hoan hỷ bảo ngài:

209-210. Giống như có bốn người trai,
Để thi thể nọ ra ngoài nghĩa trang,
Chúng ta để bậc Trí nhân.
Tại Kam-pil quốc, nhanh chân trở về.
Nhưng khanh có đặc tính gì,
Lập mưu, phương tiện, cứu nguy an toàn?

Bậc Đại Sĩ đáp:

  1. Vi-đề-ha, tấu Đại vương,
    Thần nhờ một đích phá tan địch thù,
    Dùng quân cơ thắng quân cơ,
    Và thần vây hãm vị vua đại cường,
    Như là biển lớn, Chiến vương,
    Bao vây khắp cả giang sơn Diêm-Phù.

Nghe thế vua rất đẹp lòng. Rồi bậc Đại Sĩ kể cho vua nghe những tặng vật mà vua Cùlani đã ban :

  1. Được ban ngàn nén vàng thoi,
    Ở Kà-sì đủ tám mươi ngôi làng
    Bốn trăm tỳ nữ gia nhân,
    Một trăm thê thiếp được ban cho thần.
    Rồi cùng tất cả đoàn quân,
    Tiểu thần trở lại quê hương an toàn.

Lúc ấy vua hết sức vui mừng, hoan hỷ thốt lời ca ngợi tán thán đầy cung kính trước tài đức của bậc Đại Sĩ:

  1. Thật là hạnh phúc muôn vàn,
    Khi ta được sống cùng hàng trí nhân.
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-ho-sad cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Senaka đáp lại như sau:

  1. Muôn tâu chúa thượng, chúng ta,
    Sống cùng bậc Trí thật là lạc quan,
    Như chim thoát khỏi lồng giam,
    Như con cá thoát lưới càng vui thay,
    Ma-ho-sad cứu ta đây,
    Khi ta còn ở trong tay quân thù.

Sau đó vua cho trống hội đánh khắp kinh thành:

Hãy làm hội hè trong bảy ngày, những kẻ nào có thiện ý với trẫm thì hãy phụng sự cung kính bậc Trí giả.

*

Bậc Đại Sư giải thích việc này như sau:

Dân chúng hãy trổi vang mọi loại đàn sáo trống chiêng, tù và trong xứ Ma-kiệt-đà hãy khua vội lên, thanh la rung thật nhộn nhịp.

Dân chúng từ thành thị đến thôn quê đều ước ao tỏ lòng tôn kính bậc Đại Sĩ, khi nghe công bố như vậy, liền mở hội liên hoan cho thỏa thích. Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Đàn bà, con gái mọi nhà,,
    Thương gia cùng vợ, các Bà-la-môn
    Đem đầy đủ thức uống ăn,
    Đến dâng bậc Trí nhân làm quà.
  2. Luyện voi, vệ sĩ, quản xa,
    Bộ binh, tất cả đem quà đến, dâng.
    Toàn dân làng xã hợp quần
    Người người vui thấy Trí nhân khải hoàn.
    Trong khi tiếp đón chào mừng,
    Trên không phất phới khăn quàng vẫy tung.

Khi tan hội hè, bậc Đại Sĩ vào cung và thưa:

– Tâu Đại vương, mẫu hậu và hoàng hậu, hoàng nam của vua Cùlani phải được đưa về nước ngay lập tức.

– Vương nhi, tốt lắm. con hãy đưa họ trở về.

Ngài liền cư xử rất cung kính đến với ba người kia và tiếp đãi ân cần đám tùy tùng đã đi theo ngài, rồi ngài đưa ba vị ấy về nước với đầy đủ đoàn hầu cận của ngài cùng một trăm thê thiếp và bốn trăm nữ tỳ mà vua kia đã ban cho ngài, ngài đều đưa về theo hoàng hậu Nandà và đoàn quân sĩ đã đến đây với ngài, ngài cũng cho về luôn.

Khi đoàn đại binh này đến thành Uttarapañcàla, vua hỏi mẫu hậu:

– Tâu mẫu hậu, vua Vedeha có tiếp đãi mẫu hậu nồng nhiệt chăng?

– Này hoàng nhi, con hỏi sao vậy? Ngài đã tiếp đãi ta vinh dự chẳng khác nào đón tiên nữ trên trời.

Rồi bà lại kể hoàng hậu Nandà được tiếp đãi như bà mẹ ra sao và Pañcàlacandà như một vương đệ thế nào. Việc này khiến vua rất hài lòng và truyền gửi nhiều tặng vật rất hậu hỷ. Từ đó hai nước sống trong tình thân hữu mật thiết.

Lúc bấy giờ công chúa Pancàlacandì rất được vua yêu quý, năm sau nàng hạ sinh được một vương tử. Mười năm sau, vua Vedeha từ trần. Bồ-tát giương chiếc lọng hoàng gia lên cho vương tử, rồi xin giã từ về để đi đến với tổ phụ của ngài là vua Cùlani. Vương tử bảo:

– Thưa bậc Trí giả, xin đừng bỏ trẫm lúc còn thơ ấu, trẫm sẽ tôn trọng ngài như cha trẫm vậy.

Công chúa Pañcàlacandì lại bảo:

– Thưa bậc Trí giả, xin đừng đi, không có ai bảo vệ mẹ con ta nếu ngài ra đi.

Nhưng ngài đáp:

– Thần đã hứa lời, vậy thần phải ra đi.

Thế là giữa đám đông kêu than thảm thiết, ngài ra đi cùng đám hầu cận đến thành Uttarapañcàla. Vua này hay tin ngài đến, liền ra đón tiếp, đưa ngài vào thành rất trọng thể, ban cho ngài dinh cơ rộng lớn ngoài tám mươi làng đã ban trước kia, lại ban thêm tặng vật khác và từ đó ngài phụng sự vua này.

  1. VẤN ĐỀ THỦY QUÁI.

Thời ấy có một nữ tu sĩ tên là Bheri, vẫn thường dùng cơm trong cung. Bà này thông thái tài trí và chưa hề tiếp kiến bậc Đại Sĩ, nay nghe báo tin bậc Trí giả Mahosadha đang phụng sự vua. Ngài cũng chưa hề thấy bà này bao giờ, nhưng ngài nghe rằng một nữ tu sĩ tên là Bheri thường ăn cơm cùng vua.

Lúc bấy giờ hoàng hậu Nandà không hài lòng Bồ-tát vì ngài đã làm bà mất tình yêu của vua khiến bà sinh lòng phiền muộn, nên bà cho gọi năm tỳ nữ thân tín đến và dặn:

– Các ngươi rình tìm cho được lỗi lầm của bậc Trí giả, rồi ta cố làm cho gã bị thất sủng.

Thế là họ đi tìm cơ hội chống phá ngài. Một hôm vị nữ ẩn sĩ ấy sau buổi ăn, đang đi ra ngoài thì gặp Bồ-tát trên sân chầu đến yết kiến vua. Ngài vái chào bà rồi đứng yên. Bà nghĩ thầm: “Họ bảo đây là một trí giả, vậy ta thử xem ngài có thật là một trí giả hay không”. Bà liền hỏi ngài bằng cách ra dấu tay, bà mở bàn tay ra trong khi nhìn về phía Bồ-tát. Ý bà muốn hỏi vua có ân cần chu đáo với bậc Trí giả mà vua đã đưa về từ ngoại quốc chăng. Khi Bồ-tát thấy bà hỏi ngài bằng cách ra dấu, ngài đáp bằng cách nắm tay lại, ý ngài muốn nói: “Thưa hiền tỷ, nhà vua đem ta về đây để làm tròn một lời hứa, nay ngài nắm chặt tay lại, chẳng cho ta gì cả”. Bà hiểu ý, giơ tay ra xoa đầu như muốn nói: “Hiền giả, nếu ngài không toại ý, cớ sao ngài không đi làm ẩn sĩ như ta”. Thấy thế, bậc Đại Sĩ vỗ bụng như muốn bảo: “Hiền tỷ ta còn phải cấp dưỡng nhiều người nên ta chưa làm ẩn sĩ được”. Sau lần chất vấn không lời ấy, bà trở về nơi ẩn cư.

Bậc Đại Sĩ chào bà và đến yết kiến vua. Lúc bấy giờ các kẻ tâm phúc của hoàng hậu thấy rõ cảnh trên từ cửa sổ nên đến trình vua:

– Tâu hoàng thượng, Ngài Mahosadha đang âm mưu với nữ ẩn sĩ Bheri để chiếm vương quốc này, đó chính là kẻ thù của ngài.

Rồi họ vu khống cho ngài. Vua hỏi:

– Các ngươi đã nghe thấy gì?

Họ đáp:

– Tâu hoàng thượng, khi nữ ẫn sĩ ra về sau buổi ăn, thấy bậc Đại Sĩ, bà mở bàn tay ra như muốn bảo: “Ngài không thể đè bẹp nhà vua như lòng bàn tay này hay cái sàn đập lúa rồi chiếm lấy vương quốc này cho ngài sao?”. Và ngài Mahosadha nắm tay lại như thể cầm thanh kiếm và bảo: “Vài ngày nữa ta sẽ chém đầu vua và cầm quyền”. Bà ra dấu: “Hãy chém đầu vua”, bằng cách lấy tay xoa đầu. Bậc Đại Sĩ lại ra dấu: “Ta sẽ chặt vua làm đôi” bằng cách xoa bụng. Xin hoàng thượng hãy đề phòng, phải giết Mahosadha ngay mới được.

Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ta không thể làm hại bậc Trí giả được, ta phải hỏi lại nữ tu sĩ kia”. Vì thế ngày hôm sau, lúc bà đang dùng cơm, vua liền đến hỏi:

– Này hiền tỷ có gặp Trí giả Mahosadha chăng?

– Tâu Đại vương, hôm qua sau khi dùng cơm xong thần có gặp.

– Thế các vị có đàm luận gì với nhau chăng?

– Đàm luận ư? Thưa không, nhưng vì thần nghe nói về tài trí của ngài, nên để thử tài ngài, thần đã ra dấu hỏi ngài bằng cách nắm tay lại, xem thử đức vua có rộng rãi hay hẹp hòi đối với ngài, đức vua có ân cần đối với ngài chăng? Ngài nắm tay lại, ám chỉ rằng đức vua đã bảo ngài đến đây để làm tròn một lời hứa, nay chẳng ban cho ngài gì cả. Sau đó thần xoa đầu để hỏi tại sao ngài không xuất gia tu hành nếu ngài không toại ý, ngài vỗ bụng muốn bảo là ngài còn phải cấp dưỡng nhiều người và nuôi họ ăn uống đầy đủ, nên chưa xuất gia được.

– Thế Mahosadha có phải là bậc Trí giả chăng?

– Quả thật vậy, tâu Đại vương, khắp thế gian này chẳng có ai tài trí như ngài cả.

Sau khi nghe bà tường thuật, vua cho bà lui ra. Sau khi bà đi về, bậc Trí giả vào chầu. Vua hỏi:

– Này bậc Trí giả, khanh đã gặp nữ ẩn sĩ Bheri chưa?

– Tâu Đại vương, thần gặp bà ấy hôm qua trên đường về, bà hỏi thần bằng cách ra dấu, thần trả lời bà ấy ngay.

Rồi ngài kể lại câu chuyện như bà ấy đã kể trước đây. Vua đẹp lòng, ngay hôm sau phong cho ngài chức đại tướng quân và giao một mình ngài đảm chức vụ ấy. Vinh quang của ngài thật lừng lẫy, chỉ đứng sau vua mà thôi.

Ngài nghĩ thầm: “Nhà vua bỗng dưng ban cho ta vinh quang tột bực lẫy lừng; đây là chuyện vua chúa thường làm ngay cả khi họ muốn sát hại ai. Để ta thử xem nhà vua có thiện ý với ta hay không. Không ai có thể làm việc này trừ ẩn sĩ Bheri đầy tài trí ấy và bà ấy sẽ có cách”.

Thế là ngài đem hương hoa đến thăm nữ ẩn sĩ, sau khi vái chào bà, liền bảo:

– Thưa hiền tỷ, từ khi hiền tỷ khen ngợi tài năng của ta với đức vua, ngài liền ban tặng ta nhiều bảo vật, nhưng ngài có thực tâm không thì ta chưa rõ. Vậy nếu hiền tỷ chịu khó tìm hiểu dùm cho ta về tâm ý đức vua thì hay quá.

Bà hứa sẽ làm thế và hôm sau bà vào cung, bà chợt nghĩ đến câu chuyện Thủy quái Dakarakkhasa. Lúc ấy bà suy nghĩ: “Ta không nên làm như một thám tử, ta phải tìm cơ hội hỏi chuyện này xem đức vua có thiện ý với bậc Trí giả chăng?. Rồi bà đi vào, sau buổi ăn bà ngồi yên. Vua vái chào bà và ngồi sang một bên, bà nghĩ thầm: “Nếu đức vua có ác ý với bậc Trí giả và khi ngài được hỏi vấn đề kia, ngài bày tỏ ác ý của ngài trước mặt nhiều người, điều ấy không có lợi gì, vậy ta phải hỏi riêng mới được”. Bà liền bảo:

– Tâu hoàng thượng, thần ao ước được đàm luận riêng với ngài.

Vua liền bảo cận thần lui ra, bà nói:

– Thần mong muốn hỏi hoàng thượng một điều.

– Hiền tỷ cứ nói, nếu ta biết, ta sẽ đáp ngay.

Bà liền đọc vần kệ thứ nhất về chuyện Thủy quái Dakarakkhasa:

  1. Bảy người thân của hoàng cung,
    Ngự du trên chốn ngàn trùng đại dương,
    Quỷ thần đòi hỏi tế đàn,
    Khi vừa chụp lấy thuyền vàng của vua,
    Những ai ngài sẽ đưa ra,
    Dần theo thứ tự để mà cứu nguy?

Vua liền đáp kệ hết sức chân thành:

  1. Trước tiên mẫu hậu tức thì,
    Kế là hoàng hậu chánh phi Nandà,
    Tiếp theo tiểu đệ hoàng gia,
    Thứ tư thân hữu, năm bà-la-môn,
    Chính ta thứ sáu bản thân,
    Nhưng ta không hiến Trí nhân của mình!

Như thế ẩn sĩ đã thấy rõ thiện tâm của vua đối với bậc Đại Sĩ, nhưng tài trí của ngài chưa được công bố cho mọi người rõ nên bà liền nghĩ đến một chuyện khác nữa: “Trước công chúng, ta sẽ ca ngợi tài đức của nhiều người khác, và để đức vua tán dương tài trí của bậc Trí giả, như vậy tài trí ngài sẽ sáng tỏ như mặt trăng trên trời”. Bà liền tập hợp tất cả mọi người ở trong hậu cung; trước mặt họ, bà cũng hỏi câu trên và được đáp lại như thế, rồi bà nói:

– Tâu Hoàng thượng, ngài bảo sẽ đem thái hậu ra tế lễ trước tiên, nhưng một bà mẹ thật nhiều công đức. Hơn nữa thái hậu lại chẳng giống các bà mẹ khác, mẫu hậu thật đắc dụng.

Rồi bà kể công đức của mẫu hậu trong hai vần kệ sau:

  1. Lệnh bà dưỡng dục sinh thành,
    Bao năm tận tụy nhiệt tình với con,
    Khi Cham-bhì hại hoàng nam,
    Khôn ngoan bà thấy việc làm lợi vua,
    Đem người thế chỗ vương gia,
    Nên ngài đã được chính bà cứu nguy.
  2. Mẹ cho đời sống từ bi,
    Chính bà mang nặng hoàng nhi trong lòng.
    Vì đâu là các lỗi lầm,
    Ngày đem hiền mẫu hiến dâng thủy thần?

Nghe vậy vua liền đáp:

– Mẫu hậu rất nhiều tài đức, trẫm thừa nhận mẫu hậu có nhiều công đức với trẫm, nhưng lỗi lầm của bà còn nhiều hơn nữa.

Rồi vua tả các lỗi lầm của mẹ trong hai vần kệ:

221-222. Giống như thiếu nữ còn xuân
Bà đeo các món bội hoàn nữ trang
Mà bà già chẳng nên mang.
Phi thời bà chế nhạo quân canh phòng.
Lại thường gửi điệp địch vương,
Mà không được lệnh của hoàng gia đây.
Chính vì các lỗi lầm này,
Nên ta đem hiến bà ngay thủy thần!

– Tâu Hoàng thượng, đã đành vậy, nhưng hoàng hậu cũng có nhiều tài đức.

Và bà kể tài đức của hoàng hậu:

223-224. Lệnh bà đệ nhất hồng quần,
Cực kỳ diễm lệ, nói năng ân cần,
Tràn đầy đức hạnh, nhiệt tâm,
Kề bên hoàng hậu uyên ương bóng hình,
Chẳng hề giận dỗi bất bình,
Khôn ngoan, thận trọng, chân thành lợi vua.
Vậy vì lầm lỗi đâu mà
Ngài đem hoàng hậu hiến dâng thủy thần?

Vua liền kể các lỗi lầm của bà:

225-226. Nhờ bao vẻ đẹp mê hồn,
Bà hoàng đã khiến vương quân phục tòng,
Chịu nhiều ảnh hưởng bất nhân,
Và đòi những thứ bà không nên đòi
Dành cho con của bà thôi.
Vì ta say đắm ban hoài đặc ân.
Ta ban những vật khó ban,
Về sau hối hận muôn vàn đắng cay,
Chính vì các lỗi lầm này.
Ta đem hoàng hậu tế ngay thủy thần!

Nữ ẩn sĩ đáp:

– Đã đành vậy, nhưng còn hoàng đệ Tikhinamatì rất lợi ích cho Hoàng thượng. Vì lỗi gì ngài đem chàng cho thủy quái?

Và bà ngâm kệ:

  1. Chàng đem phồn thịnh cho dân,
    Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
    Chàng đưa Hoàng thượng tái hồi,
    Chàng không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
  2. Anh hùng thiện xạ vô song,
    Ti-khi-na thật tinh thông muôn phần,
    Vậy đâu là các lỗi lầm,
    Ngài đem hoàng đệ tế dâng thủy thần?

Vua kể lỗi lầm của chàng:

  1. “Ta đem phồn thịnh cho dân,
    Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
    Ta đưa Hoàng thượng tái hồi,
    Ta không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
    Ta là thiện xạ vô song,
    Anh hùng vô địch tinh thông trí tài.
    Ta tôn Hoàng thượng lên ngôi”.
    Chàng suy nghĩ vậy, thế rồi về sau.
  2. Chàng không đi đến cung chầu,
    Như thường thuở trước chàng hầu bên ta.
    Chính vì lầm lỗi kia mà,
    Ta đem hoàng đệ tế dâng thủy tề.

Ẩn sĩ bảo:

– Hoàng đệ nhiều lỗi lầm như thế, nhưng còn hoàng tử Dhanusekha thương yêu ngài rất tận tụy lại rất hữu ích.

Bà tả tài đức của chàng:

  1. Ngài và Dha-nu-sek-ha,
    Cùng mang tên tộc Pañ-cà-la-mà.
    Một đêm hai vị sinh ra,
    Vừa là thân hữu vừa là đồng môn,
    Suốt đời hầu cận minh quân,
    Đồng cam cộng khổ vui buồn bên nhau.
  2. Nhiệt tình thận trọng bấy lâu,
    Hết lòng phục vụ kể đâu đêm ngày.
    Vậy thì lầm lỗi nào đây,
    Ngài đem thân hữu tế ngay thủy thần?

Vua liền tả lỗi lầm của chàng:

  1. Suốt đời, thưa nữ đạo nhân,
    Chàng thường vui thú chung cùng bên ta.
    Chính vì duyên cớ ấy mà,
    Nay chàng hành động quá là tự do.
  2. Nếu ta nói chuyện riêng tư,
    Cùng hoàng hậu, cứ xông vô phi thời,
    Mà không có lệnh ta đòi,
    Cũng không thông báo cho người nào hay.
  3. Nếu cho chàng một dịp may,
    Làm điều bất kính, nhục đầy xấu xa,
    Chính vì lầm lỗi ấy mà
    Ta đem thân hữu hiến cho thủy thần.

Nữ ẩn sĩ đáp:

– Lỗi lầm của chàng thật nhiều đấy, song còn vị quân sư rất hữu dụng cho Hoàng thượng.

Bà liền tả tài đức của vị này:

  1. Tế sư quả thật tinh khôn,
    Biết nhiều điềm triệu, thanh âm ở đời,
    Chuyên môn đoán rộng, vãng lai,
    Am tường dấu hiệu đất trời, trăng sao,
    Vậy thì do lỗi lầm nào,
    Đại vương đem đạo sĩ trao thủy thần?

Vua giải thích lỗi lầm của vị ấy:

  1. Dù ngay ở giữa quần thần,
    Lão thường mở mắt trừng trừng nhìn ta,
    Nên ta muốn hiến lão già,
    Nhăn mày quỷ quái ấy cho thủy thần!

Lúc ấy vị ẩn sĩ nói:

– Tâu Hoàng thượng, ngài phán rằng ngài sẽ đem năm người này cho thủy quái và sẽ hy sinh thân mình cho bậc Trí giả Mahosadha mà không nghĩ gì đến ngai vàng vinh hiển của mình. Vậy Hoàng thượng thấy vị ấy có tài đức gì?

Và bà ngâm các vần kệ này:

  1. Đại vương ở giữa triều thần,
    Trong châu lục lớn, ngàn trùng biển xanh,
    Thay vì thành lũy bao quanh,
    Ngự trên đế quốc hùng anh đại cường,
    Độc tôn hoàng đế trần gian,
    Thật là vĩ đại vinh quang vô vàn.
  2. Nữ nhi một vạn sáu ngàn,
    Điểm tô châu ngọc, nữ trang sáng ngời,
    Giai nhân từ khắp mọi nơi,
    Khác nào tiên nữ cao vời thiên cung.
  3. Được dâng mọi thứ cần dùng,
    Mọi điều ước nguyện cầu mong vẹn toàn,
    Đại vương đã sống trường tồn,
    Trong niềm hạnh phúc hân hoan tột cùng.
    Đâu là duyên cớ nguyên nhân,
    Hy sinh ngọc thể hộ phòng Trí nhân?

Nghe vậy, vua ngâm các vần kệ này ca tụng đức hạnh của bậc Trí giả:

  1. Thưa bà, Trí giả Đại thần,
    Từ khi đến ở kế gần bên ta,
    Ta không hề thấy bao giờ,
    Con người khí phách tạo ra lỗi lầm,
    Dù là một mảy cỏn con.
  2. Nếu ta chết trước Trí nhân lúc nào,
    Người đem hạnh phúc biết bao,
    Cho đàn con cháu mai sau lâu dài.
  3. Người thông minh mọi việc trên đời,
    Dù là quá khứ, tương lai xa gần.
    Người này không có lỗi lầm,
    Ta không muốn tế thủy thần quỷ ma.

Như vậy chuyện Tiền thân này đã đến hồi kết thúc tốt đẹp. Lúc ấy vị ẩn sĩ suy nghĩ: “Chuyện này vẫn chưa đủ để bày tỏ đức độ của bậc Trí giả, ta sẽ cho dân chúng khắp kinh thành biết rõ công đức của ngài như người ta rãi dầu thơm trên mặt biển”.

Thế là bà mời vua cùng bà đi xuống khỏi cung, soạn bảo toạ trên sân chầu, mời vua ngự lên, rồi triệu tập dân chúng lại, bà hỏi vua một lần nữa về chuyện Thủy quái từ khởi đầu, và khi vua trả lời như trên đây, bà liền bảo dân chúng:

  1. Thần dân của xứ Pañ-cà,
    Nghe lời này của vua Cù-la-ni,
    Bảo toàn bậc Trí giả kia,
    Đức vua nào có kể chi mình vàng.
  2. Cuộc đời của chính mẫu hoàng,
    Em trai, hoàng hậu, thân bằng, bản thân,
    Vua Pãn-cà thảy sẵn lòng,
    Hy sinh tất cả hiến dâng thủy thần.
  3. Diệu kỳ thay trí lực hùng,
    Thông minh tài giỏi vô song như vầy,
    Chỉ vì ích lợi đời này,
    Cùng là hạnh phúc lâu dài đời sau.

Như vậy bà đã đạt đỉnh cao trong sự chứng minh tài đức của bậc Đại Sĩ, chẳng khác nào người ta đặt ngọn tháp cao chót vót lên một đống bảo vật.

Đến đây chấm dứt Vấn đề Thủy quái và cũng chấm dứt luôn toàn chuyện Đường hầm vĩ đại.

*

Và sau đây là sự nhận diện Tiền thân:

– Uppalavannì (Liên Hoa Sắc) là nữ ẩn sĩ Bheri, Suddhodana (Vua Tịnh phạn) là cha của bậc Trí giả, Mahàmàyà (hoàng hậu Ma-gia) là mẹ ngài, giai nhân Bimbà (tức Yasodhàrà) là Amarà, Ànanda là con két, Sàriputta là vua Cùlani, Mahosadha là đức Thế tôn.

Tiền thân này được hiểu như vậy.

Devadatta là Kevatta, Cullanandikà là Talatà, Sundarì là Pañcàlacandì, Yasassika là hoàng hậu, Ambattha là Kàvinda, Potthapàda là Pukkusa, Pilotika là Devinda, Saccala là Senaka, Ditthamangalikà là Hoàng hậu Udumbarà (Cây sung), Kundali là chim Maynah và Làludàyì là Vedeha.

-ooOoo-

  1. CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG VESSANTARA (Tiền thân Vessantara)

Phu-sa-tì, mỹ hậu huy hoàng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú gần thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) về một cơn mưa lớn.

Lúc bậc Ðạo Sư đang chuyển Pháp luân trên đường dẫn đến thành Ràjagaha (Vương Xá), nơi đó Ngài trú mùa đông cùng Trưởng lão Udàyi (Ưu-đà-di) dẫn đường, và được hai mươi ngàn Thánh đệ tử hầu cận, Ngài đi vào thành Kapilavatthu. Ngay lập tức các vương tử dòng Sàkya (Thích-ca) tụ tập lại để đón vị trưởng tộc của họ.

Họ quan sát nơi cư trú của đức Thế Tôn và bảo:

– Rừng Cây đa này thật là một nơi an lạc xứng đáng với một vị Thích-ca.

Rồi họ làm đủ mọi vật dụng thích hợp để bảo vệ nơi ấy chuẩn bị sẵn sàng nghênh đón Ngài với những bó hoa thơm ngát trong tay. Trước hết họ đưa các thiếu nhi nam nữ trong thành mặc áo quần đẹp nhất, kế đó là các vương tôn công chúa đến kính lễ đức Thế Tôn với hương hoa thơm ngát và theo hầu đức Thế Tôn đến tận rừng Cây đa, nơi đó đức Thế Tôn an tọa được hai mươi ngàn Thánh đệ tử vây quanh bảo tọa dành cho Ngài.

Bấy giờ dòng họ Thích-ca là một bộ tộc kiêu mạn và cứng đầu nghĩ thầm: “Nam tử Siddhattha trẻ tuổi hơn ta, đó là em ta, cháu gọi ta bằng chú, bằng ông”. Vì thế họ bảo các vương tử trẻ tuổi:

– Các anh hãy kính lễ người ấy, còn chúng tôi chỉ muốn ngồi sau các anh.

Trong khi họ ngồi yên đó không muốn làm lễ chào Ngài, đức Thế Tôn biết ý định của họ, nghĩ thầm: “Thân tộc ta không kính lễ ta, được rồi, ta sẽ làm cho hội chúng kính lễ”. Do đó Ngài khởi lên một định lực nhờ thần thông vụt lên không trung và làm như thể phủi bụi trên chân Ngài lên đầu họ, thực hiện một phép thần kỳ như Thần thông Song hành dưới gốc cây xoài có cục u (Yamaka Patihariya: số 483 Tiền thân Sarabha-miga, tập V).

Vua cha thấy việc kỳ diệu này liền nói:

– Bạch Ngài, vào ngày Ðản sinh của Ngài, khi trẫm thấy chân Ngài đặt lên đầu Bà-la-môn Kèladevala đến kính lễ Ngài, trẫm đã kính lễ Ngài, đó là lần đầu. Vào ngày Lễ Cày ruộng, khi Ngài ngự trên vương tọa dưới bóng cây hồng đào, trẫm thấy bóng cây ấy không lay động, trẫm cũng kính lễ dưới chân Ngài và đó là lần thứ hai. Và bây giờ nữa, trẫm thấy một phép mầu mà trẫm chưa từng thấy trước kia, nên trẫm lại kính lễ chân Ngài: đây là lần thứ ba.

Nhưng khi vua cha đã kính lễ như vậy thì không một vị Sàkya nào có thể ngồi yên và tự kiềm chế được nữa, tất cả bọn họ đều kính lễ Ngài.

Sau khi đã làm cho cả thân tộc kính lễ Ngài như vậy đức Thế Tôn từ trên không hạ xuống ngồi trên chiếc bảo tọa đã soạn sẵn. Khi đức Thế Tôn đã an tọa, đám thân tộc của Ngài đã được sáng trí và cùng ngồi xuống với tâm an tịnh.

Lúc ấy một vầng mây lớn nổi lên và bùng ra thành một trận mưa lớn: mưa màu hồng đổ trút xuống ầm ầm, những ai muốn ướt đều được ướt sũng, còn ai không muốn thì chẳng có giọt nào rớt trên mình. Mọi người thấy vậy đều rất kinh ngạc trước phép mầu và đồng kêu to với nhau:

– Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay! Hãy nhìn thần lực của chư Phật! Cơn mưa lớn này đang trút xuống đám thân tộc của Ngài!

Nghe vậy, đức Phật bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên một trận mưa lớn trút xuống đám thân tộc của Ta.

Và rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

  1. THÁI TỬ RA ÐỜI

Một thuở nọ, vị vua có tên Sivi ngự trị ở kinh thành Jetuttara, trong vương quốc Sivi. Ngài có một vương tử là Sañjaya. Khi chàng đến tuổi trưởng thành, vua cha kết duyên chàng với công chúa Phusatì, con gái vua Madda, rồi giao vương quốc cho chàng và phong Phusatì làm chánh hậu.

Mối liên hệ đời trước của nàng với thế giới này như sau:

Cách đây chín mươi mốt kiếp, một bậc Ðạo Sư ở thế gian có danh hiệu là Vipassi (Tỳ-bà-thi). Trong lúc Ngài an trú tại Vườn nai Khema (Thái Hòa) gần thành Bandhumati, một vị vua gởi tặng vua Bandhuma một chuỗi vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền cùng khúc gỗ quý trầm hương (chiên-đàn).

Bấy giờ vua ấy có hai con gái, và vì muốn tặng bảo vật cho hai con, vua ban khúc gỗ trầm hương cho cô chị, và chuỗi vòng vàng cho cô em. Nhưng cả hai cô đều không muốn dùng các tặng vật này cho mình, và có ý định dâng chúng lên bậc Ðạo Sư để tỏ lòng tôn kính, họ liền tâu vua cha:

– Tâu phụ vương, chúng con muốn dâng gỗ trầm hương và chuỗi vàng này lên đấng Thập Lực (Dasabala).

Vua cha thấp thuận việc này. Vì thế công chúa chị nghiền bột gỗ trầm hương và đổ bột ấy vào một hộp bằng vàng. Còn công chúa em bảo lấy chuỗi vàng làm thành một vòng vàng đeo cổ và đặt vào một hộp bằng vàng.

Sau đó hai nàng cùng đi đến thảo am ẩn sĩ trong Vườn nai, cô chị kính cẩn rảy bột trầm hương lên kim thân của đấng Thập Lực, và rắc phần bột còn lại trong nội thất của Ngài cùng cầu nguyện:

– Bạch Ngài, trong thời vị lai, tiện nữ ước mong làm mẹ một vị Phật như Ngài.

Công chúa em kính cẩn đặt lên kim thân của đấng Thập lực chuỗi vòng cổ được làm từ vòng vàng ấy và phát nguyện:

– Bạch Ngài, tiện nữ ước mong chuỗi kim hoàn này không rời thân mình cho đến ngày tiện nữđắc Thánh quả.

Và bậc Ðạo Sư đã ban các điều nguyện ước ấy sau khi mạng chung, cả hai nàng đều tái sinh vào thiên giới. Cô chị từ thiên giới đến thế giới loài người rồi trở lại thiên giới, sau chín mươi mốt kiếp, nàng đã trở thành vương hậu Màyà, mẹ của đức Phật.

Còn cô em cũng tái sinh liên tiếp như vậy, vào thời đấng Thập Lực Kasspa (Ca-diếp), nàng trở thành con gái vua Kiki. Lúc mới sinh đã có hình chiếc vòng trên cổ và vai nàng, dung sắc diễm lệ như tranh vẽ và được đặt tên Uracchadà.

Khi nàng lên mười sáu tuổi, nàng nghe lời thuyết Pháp của bậc Ðạo Sư, và đắc Sơ quả Dự lưu, và cùng ngày đó nàng đắc Thánh quả (A-la-hán) rồi thọ giới xuất gia và nhập Niết-bàn vô dư y.

Bấy giờ vua Kiki có bảy công chúa tên là:
Samanì, Samanà, Thánh nữ Tỷ-kheo-ni Guttà,
Tỷ-kheo-ni Dàsikà, Dhammà và Sudhammà.
Và nàng thứ bảy là Sanghadàsì.

Vào thời đức Phật Gotama xuất hiện bảy chị em này:
Khemà, Uppalavannà, thứ ba là Patàcàrà,
Gotamì, Dhammadinnà, thứ sáu là Mahà-màyà.
Trong đám chị em này thứ bảy là Visàkhà.
Ðây là các nữ Đại đệ tử của Ngài.

Bấy giờ, trong số này, nàng Phusatì trở thành Sudhammà, chuyên làm thiện sự và bố thí. Và nhờ phước báo do cúng dâng gỗ trầm hương lên Ðức Phật Vipassi, thân nàng như được rảy trầm hương thượng hạng. Sau đó nàng tái sinh qua lại giữa thiên giới và nhân giới, cuối cùng nàng trở thành chánh hậu của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích).

Vào thời số phần của nàng ở đấy đã mãn, năm tướng suy theo lệ thường hiện ra. Thiên chủ Sakka biết thọ mạng của nàng sắp tận, nên tiễn đưa nàng vô cùng trọng thể vào Thiên lạc Viên Nandana. Trong khi nàng ngự trên bảo tọa được trang hoàng lộng lẫy, ngài ngự bên cạnh nàng và bảo:

– Này ái hậu Phusatì, trẫm ban nàng Mười điều ước hãy chọn đi.

Cùng với những lời trên, ngài ngâm vần kệ đầu trong Tiền thân Vessantara vĩ đại này với gần ngàn bài kệ:

  1. Phu-sa-tì, mỹ hậu huy hoàng,
    Mười ước nguyện nay trẫm tặng nàng,
    Hãy chọn điều gì nàng nhận thấy
    Ðược nàng quý báu giữa trần gian.

Như vậy nàng đã được an trú trên thiên giới theo lời thuyết giáo trong Ðại Tiền thân Vessantara.

Nhưng nàng không biết cảnh giới sắp tái sinh của mình nên nàng hốt hoảng ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Vạn tuế Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
    Tội gì thần thiếp lỡ tay làm
    Khiến ngài đày thiếp xa thiên giới
    Như gió thổi cây nọ nát tan?

Thiên chủ nhận thấy vẻ thất vọng của nàng, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Nàng luôn được sủng ái từ xưa,
    Tội lỗi nàng đâu có tạo ra?
    Trẫm bảo phước trời nàng đã tận,
    Bây giờ đến lúc phải chia xa.
  2. Tống biệt nàng nay đã đến thì,
    Tử thần đang đến phút phân kỳ,
    Trẫm ban ái hậu Mười điều ước,
    Lâm mạng chung thời, hãy chọn đi.

Nghe những lời Thiên chủ nói, nàng tin mình sắp phải tận số, nên nàng chọn các ước nguyện này:

  1. Thiên chủ Sak-ka, đấng Thượng hoàng,
    Ban Mười điều ước, thiếp tri ân:
    Mong rằng thần thiếp đời sau sẽ
    Ở xứ Si-vi được trú thân.
  2. Ðôi mắt huyền mơ tựa mắt nai,
    Như nhung đen nháy, cặp mày ngài,
    Phu-sa-tì ấy là tên thiếp,
    Thánh thượng, thiếp mong ước nguyện này.
  3. Thiếp mong có được một hoàng nam,
    Vua chúa kiêng oai, tiếng lẫy lừng,
    Hòa nhã, nhân từ, tâm rộng lượng,
    Lắng tai nghe mọi tiếng cầu ân.
  4. Trong khoảng thời gian thiếp thọ thai,
    Ước mong giữ trọn tấm hình hài,
    Toàn thân thiếp được luôn kiều diễm
    Như thể cành cung uốn mảnh mai.
  5. Ðế Thích, thiếp mong ngực gợi tình,
    Xin được nhuốm bạc mái đầu xanh,
    Tấm thân bồ liễu luôn hoàn hảo,
    Mong cứu tù nhân thoát tử hình.
  6. Giữa tiếng hạc rền, khổng tước vang,
    Cung nhân hầu cận đẹp quanh nàng,
    Thi sĩ ca nhân đồng tán tụng,
    Khăn quàng tung vẫy giữa không gian.
  7. Khi ngõ nhẹ nhàng cánh cửa hoa
    Nô tỳ cất tiếng lớn trình thưa:
    “Vạn tuế Ðại vương! Giờ ngự thiện!”
    Thiếp mong làm chánh hậu hoàng gia!

Thiên chủ Sakka đáp:

  1. Mười ước nguyện kia, hỡi nữ hoàng,
    Phải biết rằng ta đã tặng nàng,
    Mỹ nương đến xứ Si-vi nọ
    Mười ước nguyện kia sẽ thập toàn.
  2. Phán vầy chúa tể các Thiên thần,
    Phu tướng Su-ja, đại đế vương,
    Ðược gọi Và-sa-va mỹ hiệu,
    Hân hoan ban nguyện ước cho nàng.

Khi đã chọn xong Mười ước nguyện như vậy, nàng từ giã thiên giới và nhập vào mẫu thai hoàng hậu của vua Madda. Lúc nàng ra đời, thân thể nàng tỏa mùi thơm như được rảy phấn trầm hương, nên nàng được đặt tên Phusatì (được rảy hương). Nàng lớn lên giữa đám cung tần đông đảo cho đến năm mười sáu tuổi dung sắc nàng vượt hẳn lên tất cả.

Lúc bấy giờ vương tử Sañjaya, con vua Sivi, được phong vương với chiếc lọng trắng, công chúa này được phong làm chánh hậu đứng đầu mười sáu ngàn cung phi; do vậy có chuyện kể:

  1. Kế đó nàng công chúa tái sinh
    Phu-sa-tì được rước về thành
    Je-tut-ta ấy là tên gọi,
    Cùng với Sañ-ja kết mối tình.

Vua Sañjaya vô cùng sủng ái nàng. Bấy giờ Thiên chủ Sakka nhớ lại thấy chín điều ước nguyện ngài ban cho Phusatì đã trọn vẹn, ngài nghĩ thầm: “Chỉ còn một điều ước chưa trọn đó là một thiện nam tử. Ta sẽ ban nguyện ước này cho nàng.”

Thời ấy bậc Ðại Sĩ đang ở trên cõi trời Ba mươi ba, và thọ mạng ngài đã tận; nhận thấy điều này, Thiên chủ đến gần ngài và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài phải sinh vào thế giới loài người, ngài phải nhập mẫu thai chánh hậu Phusatì của vua Sivi, xin đừng chậm trễ.

Cùng với những lời này yêu cầu bậc Ðại Sĩ chấp thuận và sáu mươi ngàn vị Thiên tử sắp được tái sinh, Thiên chủ trở về cung của ngài.

Bậc Ðại Sĩ giáng trần và tái sinh tại đó, cùng sáu mươi ngàn thiên tử tái sinh vào gia đình của sáu mươi ngàn triều thần.

Khi bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai, hoàng hậu Phusatì biết mình đã có thai, liền ước nguyện xây sáu bố thí đường, mỗi nhà ở một trong bốn cửa thành, một nhà ở giữa kinh thành và một nhà ở ngay cửa cung của nàng. Mỗi ngày nàng phát sáu trăm ngàn đồng tiền. Vua biết được việc làm ấy của nàng liền hỏi ý các vị xem tướng số, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, chánh hậu đang mang thai một bậc chuyên tâm bố thí, ngài sẽ không bao giờ thỏa mãn với việc bố thí cả.

Nghe vậy vua hoan hỷ và thực hành hạnh bố thí như trên.

Từ thời Bồ-tát nhập mẫu thai, phước lộc của nhà vua có thể nói là vô cùng tận; nhờ ảnh hưởng lòng nhân từ của vua lan rộng khắp nơi, các quốc vương ở toàn cõi Diêm-phù-đề đều dâng ngài cống vật.

Bấy giờ lúc chánh hậu mang thai, nàng vẫn ở chung cùng đám thị nữ hậu cận nàng. Sau mười tháng tròn vẹn, nàng muốn đi thăm kinh thành. Nàng tâu trình với vua, ngài truyền kinh thành được trang hoàng như kinh thành chư Thiên rồi đưa hoàng hậu ngự lên vương xa sang trọng và cử hành đám rước quanh kinh thành về phía hữu. Khi xe đến giữa khu phố Vessa (Vệ-xá: thương nhân), nàng thấy giờ lâm bồn chợt đến. Thị nữ liền trình vua và ngài truyền làm ngay một phòng bảo sinh tại đó và đưa nàng đến nơi, nàng liền sinh hạ một nam tử và vì thế có chuyện kể:

  1. Trong lòng mười tháng mẹ mang con,
    Ðám rước ngày kia khắp phố phường,
    Khi đến khu dân cư Vệ-xá,
    Vì con, mẫu hậu phải lâm bồn.

Bậc Ðại Sĩ từ lòng mẹ sinh ra không bị cấu uế, mở lớn mắt và một lát đưa tay cho mẹ, ngài nói:

– Thưa mẫu hậu, con muốn bố thí, có gì không?

Bà mẹ đáp:

– Này vương nhi, con hãy bố thí như ý.

Rồi bà đặt túi tiền một ngàn đồng vào bàn tay mở rộng của con.

Có ba lần bậc Ðại Sĩ nói ngay khi giáng sinh: Ðó là trong Tiền thân Ummagga, trong Tiền thân này và trong đời cuối cùng của ngài.

Vào ngày lễ đặt tên, vì ngài sinh ra ở phố Vessa, ngài được đặt tên Vessantara, do đó có chuyện kể:

  1. Tên ta chẳng phía mẹ đưa ra,
    Cũng chẳng phát từ quý tộc cha,
    Vì được sinh trên đường Vệ-xá,
    Nên tên ta gọi Ves-san-ta.

Vào đúng ngày ngài ra đời, một con voi cái sinh được một voi con, được xem là có điềm lành, toàn thân màu trắng và được đặt vào chuồng nhà vua. Vì con voi này ra đời đáp ứng một nhu cầu của bậc Ðại Sĩ, nó được đặt tên Paccaya (Phương tiện).

Vua cha ban ngài hai trăm bốn mươi nhũ mẫu không quá cao cũng không quá thấp, không bệnh tật gì và có sữa ngọt. Ngài cũng ban các nhũ mẫu cho sáu mươi ngàn hài nhi kia, vì thế vương tử lớn lên giữa đám sáu mươi ngàn ấu nhi hầu hạ quanh mình.

Vua cha truyền làm cho vương tử một chiếc vòng đeo cổ trị giá một trăm ngàn đồng tiền rồi đem tặng con. Nhưng khi vừa lên bốn lên năm, ngài đã đem nó cho các nhũ mẫu và khi họ muốn đưa trả nó lại, ngài không muốn nhận nó. Họ tâu trình vua, ngài phán:

– Vật gì vương tử đã ban đều xứng đáng được ban cả, dù đó là tặng vật dành cho một vị Bà-la-môn.

Và vua truyền làm chiếc vòng cổ khác. Nhưng trong thời thơ ấu, vương tử vẫn đem vòng ấy cho các nhũ mẫu cả đến chín lần như vậy.

Khi ngài lên tám, trong lúc nằm trên vương sàng, vương tử suy nghĩ: “Tất cả các vật ta cho đều có từ bên ngoài. Ðiều này không làm ta hài lòng. Ta muốn cho cái gì của chính thân ta. Nếu có người xin quả tim ta, ta sẽ cắt lồng ngực và xé tim ra cho. Nếu ai xin đôi mắt, ta sẽ móc mắt ra cho. Nếu ai muốn xin thịt, ta sẽ lóc hết thịt trên thân ta và cho họ.”

Ngài suy nghĩ như vậy với tất cả tâm hồn lẫn thể xác mình; vì thế quả đất này với bề rộng bốn mươi ngàn tỷ triệu dặm và hai trăm ngàn dặm chiều sâu, rúng động ầm ầm như một con voi khổng lồ điên loạn. Ngọn núi Sineru (Tu-di) chúa tể núi non, cúi rạp xuống như một cây con trong dòng nước nóng và dường như nhảy múa rồi đứng nghiêng mình về phía kinh thành Jettutara. Giữa lúc quả đất rúng động, bầu trời sấm sét vang dội và đổ mưa, tia chớp sáng lòa, đại dương sôi sục lên, Sakka Thiên chủ vỗ tay, Ðại Phạm thiên tán đồng, toàn thể chấn động lên đến Phạm Thiên giới, vì thế có chuyện kể:

  1. Khi ta còn trẻ, tuổi còn thơ
    Chỉ khoảng chừng lên tám tuổi dư,
    Trên thượng lầu ta trong nội điện,
    Nhân từ, bố thí vẫn suy tư:
  2. Nếu người nào đến hỏi xin cho
    Máu, thịt, tim và con mắt ta,
    Ta sẽ cho thân, tim, máu, mắt,
    Sẵn sàng ta cất tiếng kêu to.
  3. Trong khi ta nghĩ ngợi trầm ngâm
    Như vậy cùng toàn thể bản thân,
    Quả đất vững bền kia rúng động,
    Chuyển rung cùng thảo mộc, sơn lâm.

*

  1. BỐ THÍ VOI BÁU

Vào năm mười sáu tuổi, Bồ-tát đã tinh thông mọi môn học thuật. Lúc ấy phụ vương muốn cho ngài lên ngôi, liền hỏi ý kiến hoàng hậu. Từ hoàng gia Madda tiến dâng công chúa Maddì, em họ ngoại của ngài cùng mười sáu ngàn thị nữ, vua phong nàng làm chánh hậu và cử hành lễ quán đảnh (rảy nước) phong vương cho ngài. Từ lúc lên ngôi, ngài vẫn thực hành đại bố thí, mỗi ngày phân phát sáu trăm ngàn đồng tiền.

Sau đó chánh hậu Maddì sinh một vương tử được đặt vào một chiếc võng bằng vàng, vì thế vương tộc đặt tên vương tử Jàli (chiếc võng). Vào thời vương tử chập chững biết đi, chánh hậu lại sinh một công chúa, được đặt vào một tấm da đen nên họ gọi tên cô là Kanhàjinà.

Mỗi tháng bậc Ðại Sĩ ngự đến sáu bố thí đường sáu lần trên con voi lộng lẫy của ngài.

Lúc bấy giờ quốc độ Kàlinga có hạn hán, lúa không mọc, nạn đói tràn lan, dân chúng không sống nổi sinh trộm cướp. Bị cơn túng quẩn bức bách, dân chúng tụ tập trước sân chầu và phỉ báng vua. Nghe vậy, vua hỏi:

– Có chuyện gì vậy các con?

Họ trình vua. Ngài đáp:

– Ðược rồi, các con. Ta sẽ làm mưa xuống:

Rồi vua bảo họ ra về. Ngài phát nguyện sống đức hạnh và giữ ngày trai giới (Bố tát), nhưng vẫn không thể làm mưa xuống. Vì vậy vua triệu tập dân chúng lại và bảo họ:

– Ta đã phát nguyện sống đức hạnh và giữ bảy ngày trai giới, tuy nhiên vẫn không làm mưa rơi. Vậy phải làm gì bây giờ?

Họ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nếu ngài không thể làm mưa rơi, thì có đại vương Vessantara ở kinh thành Jettuttara thái tử của vua Sañjaya, chuyên tâm bố thí. Ngài có một con voi lộng lẫy toàn trắng. Hễ nơi nào ngài ngự đến, mưa liền rơi xuống. Chúa thượng hãy phái các Bà-la-môn đến xin con voi ấy và đem nó về đây.

Vua chấp thuận, triệu các vị Bà-la-môn đến chọn tám người trong số đó và ban lương thực cho họ đi đường và bảo:

– Các khanh hãy đi tìm voi báu của vua Vessantara.

Vì sứ mạng này, họ lên đường đến Jetuttara. Tại bố thí đường, họ được tiếp đãi ân cần. Rồi rảy bụi bặm và phết bùn dơ khắp thân mình, vào ngày trăng rằm, họ đi xin voi báu của vua. Từ sáng sớm, vua định đi thăm bố thí đường, nên đã tắm rửa bằng mười sáu bình nước hoa thơm và dùng điểm tâm, rồi ngự lên lưng bảo tượng được trang hoàng rực rỡ tiến về cổng phía Ðông. Các Bà-la-môn không tìm được cơ hội ở đó, liền đi về cổng nam, đứng trên một mô đất cao nhìn vua bố thí ở cổng Ðông. Khi ngài đến cổng Nam, họ đưa tay ra và kêu lên:

– Ðại vương Vessantara vạn tuế!

Khi thấy các Bà-la-môn, bậc Ðại Sĩ thúc voi về phía họ đứng và ngâm vần kệ:

  1. Các đạo sĩ kia, rậm tóc, lông,
    Răng dơ, đầu phủ bụi màu hồng,
    Cớ sao giơ cả hai tay nọ,
    Gì đó các người vẫn ước mong?

Nghe vậy, các Bà-la-môn đáp:

  1. Bảo vật chúng thần vẫn khát khao
    Cứu toàn dân tộc ấy, muôn tâu,
    Con voi tối thượng phò nguy khốn,
    Ngà trắng dài như một chiếc sào.

Bậc Ðại Sĩ nghe vậy, nghĩ thầm: “Ta đang muốn bố thí bất cứ vật gì của chính ta, từ đầu trở xuống, thế mà họ đòi một vật ở ngoài thân ta. Thôi ta sẽ cho họ thỏa nguyện”. Và từ lưng voi, ngài đáp:

  1. Bố thí, ta không hề chối từ
    Vật kia Ðạo sĩ muốn ta cho,
    Cao sang bảo vật phò vua ngự,
    Dũng mãnh con voi có bộ ngà.

Và ngài chấp thuận:

  1. Vua, vị cứu tinh dân tộc ngài,
    Nhẹ nhàng bước xuống khỏi lưng voi,
    Hy sinh bố thí, đầy hoan hỷ
    Cho đám La-môn vật họ đòi.

Các vật trang hoàng bốn chân voi trị giá bốn trăm ngàn đồng, các vật hai bên hông trị giá hai trăm ngàn, tấm vải che dưới bụng trị giá một trăm ngàn, trên lưng là những tấm lưới đầy ngọc vàng, châu báu, ba tấm mạng trị giá ba trăm ngàn, hai tấm trên hai lỗ tai trị giá hai trăm ngàn, trên lưng có tấm thảm trị giá một trăm ngàn, món trang hoàng trên mắt trị giá một trăm ngàn, ba tấm phủ đầu trị giá ba trăm ngàn, các vật nhỏ trang hoàng lỗ tai trị giá hai trăm ngàn, các vật trang hoàng đôi ngà trị giá hai trăm ngàn, các món trang hoàng biểu hiện điềm lành trên vòi trị giá một trăm ngàn, bảo vật trên trị giá một trăm ngàn, không kể các món trang hoàng vô giá trên thân giá hai trăm hai mươi vạn đồng, máng thức ăn trị giá một trăm ngàn đồng, tất cả lên đến hai trăm bốn mươi vạn đồng.

Hơn nữa, các thứ châu ngọc lớn nhỏ trên tấm thảm, trong chuỗi đeo cổ, châu báu trong chiếc gậy thúc, châu báu trong chiếc vòng quanh cổ, châu báu trên mắt voi, tất cả các món này đều vô giá, con voi cũng vô giá, hợp lại thành thất bảo vô giá. Tất cả các vật này ngài đều bố thí cho các Bà-la-môn. Ngoài ra còn có năm trăm quân hầu cùng đám quản tượng và quét chuồng voi.

Một cuộc tài thí lớn như vậy khiến quả đất rúng động cùng với các điềm hy hữu như đã kể trên.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng
    Người người cảm thấy rợn da lông,
    Khi ngài bố thí con voi báu
    Quả đất kinh hoàng phải chuyển rung.
  2. Lúc ấy khắp nơi thật hãi hùng,
    Người người cảm thấy rợn da lông,
    Khi ngài bố thí con voi báu
    Tất cả kinh thành phải chuyển rung.
  3. Tiếng kêu gào thét thật kinh hoàng
    Toàn thể kinh thành bỗng dậy vang:
    Si-vi chúa tể nuôi dân chúng
    Cho các La-môn đại tượng vương.

*

Cả kinh thành Jetuttara đều rúng động. Chuyện kể rằng các Bà-la-môn ở cổng phía Nam nhậnđược voi báu xong liền cỡi lưng voi chen lấn trong đám người đông như thác lũ, đi qua giữa kinh thành.

Ðám dân chúng nhìn thấy họ, liền la lớn:

– Này các Bà-la-môn ngất ngưởng trên lưng voi, tại sao các ông lấy voi của nước ta?

Bọn họ đáp:

– Ðại vương Vessantara đã ban voi cho chúng ta. Còn các người là ai?

Bộ điệu họ hống hách với quần chúng như vậy, rồi họ băng qua kinh thành và ra khỏi cổng phía Bắc nhờ sự hỗ trợ của chư Thần.

Dân chúng kinh thành phẫn nộ với Bồ-tát cất tiếng trách móc ầm ĩ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
    Tai nghe như vậy thật kinh hoàng
    Khi vua bố thí con voi báu,
    Quả đất hãi hùng phải chuyển rung.
  2. Tiếng hét lớn kia cứ vọng vang
    Tai nghe như vậy thật kinh hoàng,
    Khi vua bố thí con voi báu
    Dân chúng kinh thành thảy chuyển rung.
  3. Tiếng thét lớn kia cứ vọng vang
    Toàn dân đều khủng khiếp bàng hoàng:
    Si-vi Chúa thượng nuôi dân chúng
    Ðem bố thí luôn đại tượng vương!

*

Tất cả dân chúng kinh thành rúng động trong lòng vì đại sự bố thí này, liền đến trình vua cha.

Do đó có chuyện kể:

  1. Vương tứ, La-môn, Vệ-xá, Ug-ga,
    Quản tượng, bộ binh, kỵ mã, quản xa,
  2. Ðiền chủ, toàn dân Si-vi vội đến,
    Thấy tượng vương đi, tìm vua yết kiến:
  3. – Quốc độ suy tàn rồi, tấu Ðại vương,
    Sao Ves-san-ta, Thái tử vinh quang,
    Bố thí tượng vương mọi người quý trọng?
  4. Voi cứu tinh, ngà như sào, bạch tượng,
    Biết lập chiến công trên mọi đấu trường,
  5. Với quạt đuôi trâu rừng, ngọc trang hoàng,
    Ðã dẫm nát tan mọi quân cừu địch,
    Hung hãn, ngà dài, toàn thân trắng bạch
    Như tuyết trên đỉnh núi Ke-là-sa,
  6. Với cân đai, lọng trắng xứng vương gia,
    Cùng quản tượng và đám quân hầu cận,
    Bảo vật này, ngài đã đem ban tặng.
    Sau đó, dân chúng còn nói thêm:
  7. Ban y phục, lửa, xe, thức uống ăn,
    Là cúng dường xứng với Bà-la-môn.
  8. Tâu Ðại vương, bạn của toàn dân chúng,
    Xin cho biết sao xảy ra hành động
    Bởi vương nhi là dòng dõi vương gia,
    Chính người là Thái tử Ves-san-ta?
  9. Lệnh dân Si-vi, nếu ngài từ chối,
    Các ngài sẽ bị toàn dân chống đối.

Nghe vậy, vua cha nghi ngờ họ muốn giết Vessantara, nên ngài phán:

39-40. Vâng, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng chút nào lầm lỗi,
Ta cũng không muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta dòng chính thống là chàng.

41-42. Không, ta chẳng màng quốc độ, ngai vàng,
Ta quyết không đày trẻ khỏi quê hương,
Thái tử ta chẳng có gì lầm lỗi,
Ta cũng chẳng muốn vâng lời dân nói,
Vì con ta, đích thực chính là chàng.

43-44. Không, ta quyết không làm hại hoàng nam,
Vì Thái tử thật vô cùng cao cả.
Việc ấy đối với ta đầy nhục nhã,
Nó sẽ gây nhiều khổ não cho ta:
Làm sao ta cầm kiếm giết Ves-sa?

Dân chúng Si-vi đáp:

  1. Người không xứng dù bất kỳ hình phạt,
    Dù kiếm, đao hay phải vào ngục thất,
    Song hãy đuổi người ra khỏi giang sơn,
    Ðến đỉnh núi Vam-ka để náu nương.

Vua phán:

  1. Hãy xem đây ý nguyền toàn dân chúng
    Và chính ta không thể nào phủ nhận,
    Song cho chàng hạnh phúc một đêm thôi
    Trước khi chàng phải cất bước xa rời.
  2. Sau khoảnh khắc của đêm nay vừa mãn,
    Khi ngày mai bình minh vừa ló dạng,
    Cả toàn dân hãy đến đuổi chàng đi.

Dân chúng đồng ý lời vua đề nghị chỉ một đêm thôi. Sau đó, vua bảo họ lùi về và nghĩ đến việc gửi thông điệp cho con, ngài giao trọng trách cho một sứ giả, người này liền đi đến cung của Thái tử Vessantara và trình mọi việc đã xảy ra.

*

III. THÁI TỬ BỊ ÐÀY LÊN NÚI VAMKA

Các vần kệ sau đây giải thích việc này:

  1. – Ngươi hãy đi nhanh và bảo Vương nhi
    Lời ta nhắn thần dân đầy căm phẫn,
    Và tất cả đều đồng lòng chấp thuận,

49-50. Ug-ga, vương tử, Vệ-xá, La-môn,
Quản tượng, quản xa, lính bộ, vệ quân,
Tất cả dân thôn quê cùng thành phố
Ðã cùng nhau kéo về đây rầm rộ,

  1. Sau khoảng thời gian chỉ một đêm nay,
    Khi bình minh vừa ló dạng ngày mai,
    Toàn dân chúng sẽ cùng nhau tụ họp,
    Và sẽ đuổi Vương nhi ra khỏi nước.
  2. Sứ giả này được lệnh chúa Si-vi,
    Liền vội vàng đem sứ mạng ra đi,
    Cởi con voi có mang đầy gươm giáo,
    Ngát dầu thơm và rỡ ràng xiêm áo,
  3. Tẩm ướt đầu, vòng ngọc mỗi bên tai,
    Gã lên đường đến thành thị tuyệt vời,
    Nơi Thái tử Ves-san-ta-ra ngự.
  4. Gã nhìn ngắm hạnh phúc sao Vương tử
    Cư trú trong lãnh thổ thật bình yên
    Như Và-sa-va, chúa tể chư Thiên,
    Chung quanh ngài quần thần đang hầu hạ.
  5. Gã đến nơi thật nhanh chân vội vã,
    Và đến bên Thái tử, gã thưa trình:
    – Tâu Ðại vương, tin mang đến chẳng lành,
    Xin ngài chớ vì hạ thần phẫn nộ.

56-57. Kính lễ ngài với bao hàng lệ đổ,
Gã thưa trình lên với đấng vương quân:
– Với hạ thần, ngài là bậc chủ nhân,
Và ngài đã ban hạ thần tất cả,
Nhưng giờ đây thần phải tâu ngài rõ:
Tin chẳng lành, xin Chúa thượng bình tâm.

  1. Dân thị thành cùng tất cả toàn dân
    Ðồng một lòng, nổi lên cơn thịnh nộ,
    Ug-ga, Vệ-xá, La-môn, vương tử,
  2. Quản tượng, quản xa, vệ sĩ, bộ binh,
    Dân làng quê cùng dân chúng thị thành
    Nay rầm rộ kéo về đây đồng loạt,
  3. Sau khoảnh khắc một đêm nay thấm thoắt,
    Khi bình minh vừa đến rạng ngày mai
    Ðã quyết lòng đến từng đám đông người
    Và sẽ đuổi ngài đi xa xứ sở.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. Sao với ta, thần dân đang phẫn nộ?
    Vì ta không thấy phạm lỗi lầm chi,
    Này bạn hiền, hãy nói thử ta nghe,
    Sao dân chúng muốn đuổi ta xa xứ?

Sứ giả đáp:

62-63. Ug-ga, Ðạo Sĩ, quản xa, Vương tử,
Quản tượng, vệ quân, Vệ-xá, bộ binh
Kéo về kinh và nổi trận lôi đình
Về việc ngài đã đem cho báu vật,
Cho nên định đưa ngài ra tống xuất.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ đầy hân hoan đáp:

  1. Chính mắt và tim ta cũng muốn cho,
    Sao chẳng cho gì không phải của ta,
    Hoặc vàng ròng, hoặc kho tàng, đá quý,
    Hoặc ngọc trai hay bảo châu tuyệt mỹ?
  2. Nếu có người nào đi đến hỏi ta
    Ta sẽ cho luôn cả tứ chi mà
    Lòng chẳng ngập ngừng dù trong phút chốc,
    Trong phát ban chính là niềm hoan lạc.
  3. Nay thần dân xin cứ đuổi ta ra,
    Nay thần dân xin hãy cứ giết ta,
    Hoặc cứ chặt thân ta thành bảy khúc,
    Song bố thí, ta vẫn còn tiếp tục.

Khi nghe vậy, sứ giả lại nói lên, không phải thông điệp của vua cha hay của thần dân, mà chính là lệnh phát xuất từ tâm của gã:

67-68. Ðây là ý nguyền của dân chúng Si-vi,
Họ bảo thần đến nói Chúa công nghe,
Ở bên đồi À-rañ-ra ấy
Có dòng suối Kon-ti-mà-rà chảy,
Ðến miền kia, Chúa thượng hãy đăng trình,
Nơi kẻ lưu đày vẫn phải du hành.

Tương truyền gã nói điều này theo gợi ý của một vị thần. Nghe vậy, Bồ-tát đáp:

– Tốt lắm, ta sẽ đi theo con đường mà những kẻ phạm tội phải đi. Nhưng dân chúng không đuổi ta vì một tội nào cả, mà họ đuổi ta vì sự bố thí voi báu. Do vậy, ta muốn làm Lễ đại bố thí bảy trăm món nữa, và ta xin dân chúng gia hạn cho ta một ngày vì việc ấy. Ngày mai ta sẽ bố thí và ngày kế ta sẽ đi.

  1. Vậy ta sẽ đi cùng con đường ấy
    Như những kẻ xưa nay làm việc quấy,
    Nhưng trước tiên để bố thí cúng dường,
    Ta mong dân cho phép một ngày trường.

– Tốt lắm – Vị sứ giả đáp – Thần sẽ trình việc này với dân chúng.

Khi người ấy đi rồi, bậc Ðại Sĩ triệu một tùy tướng của ngài đến và bảo:

– Ngày mai ta sẽ làm lễ bố thí gọi là Lễ bố thí bảy trăm món. Khanh hãy sắp đặt sẵn sàng bảy trăm voi, cùng bảy trăm ngựa, xe, con gái, bò cái, nam nô, nữ tỳ và đủ mọi thức ăn uống ngay cả rượu nồng, đủ mọi vật xứng đáng đem bố thí.

Như vậy, sau khi đã chuẩn bị Ðại lễ bố thí bảy trăm món, ngài bảo quần thần lui về. Rồi một mình ngài đi đến cung thất vương hậu Maddì, tại đó, trong lúc ngồi trên vương tọa, ngài bảo nàng.

*

Bậc Ðạo Sư miêu tả việc ấy như sau:

  1. Như vậy cùng với Mad-dì vương hậu,
    Tuyệt thế công nương này, vua phán bảo:
    – Những thứ gì ta đã tặng cho nàng,
    Các đồ dùng, lúa gạo, hãy canh phòng,
  2. Hoặc vàng, ngọc quý cùng nhiều kho báu,
    Hồi môn vương phụ, tìm nơi chôn giấu.
  3. Rồi Mad-dì đã đáp lại quân vương,
    Nàng chính là vị tuyệt thế công nương:
    – Thiếp sẽ kiếm nơi đâu, tâu Chúa thượng,
    Xin cho biết chỗ nào chôn giấu chúng?

Vua Vessantara đáp:

  1. Hãy đem phân phát của cải kho vàng
    Tương xứng với điều lợi ích cho nàng,
    Không nơi nào an toàn hơn nơi đó,
    Chính điều này ta vẫn thường biết rõ.

Nàng chấp thuận và ngài còn khuyên giáo nàng thêm theo hướng này:

  1. Hỡi Mad-dì, hãy yêu quý con nàng,
    Cùng phụ vương, mẫu hậu của phu quân,
    Ðối với người sẽ là chồng nàng đó,
    Nàng hãy sẵn sàng hết lòng phục vụ.
  2. Còn nếu không ai muốn hỏi cưới nàng
    Sau khi ta đã khuất bóng trên đường,
    Hãy tìm một phu quân cho nàng nữa,
    Nhưng nàng đừng sống cô đơn tàn úa.

Lức ấy Maddì nghĩ thầm: “Ta tự hỏi tại sao Vessantara lại nói một điều như vậy với ta”.

Và nàng hỏi ngài:

– Tâu Chúa thượng, tại sao ngài nói với thần thiếp những điều không nên nói?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

– Này vương hậu, dân chúng Si-vi phẫn nộ vì ta đã bố thí con voi báu, nên muốn đuổi ta đi ra khỏi đất nước. Vậy ngày mai ta sẽ làm Lễ bố thí bảy trăm món, và ngày kế đó ta sẽ rời kinh thành.

Và ngài ngâm kệ:

  1. Ngày mai đi vào khu rừng hoang dã,
    Bị bầy thú săn mồi đến tấn công,
    Ai biết chăng: Ta còn sống được không?
  2. Rồi đáp lời, nàng Mad-dì diễm lệ,
    Nàng chính là vị công nương tuyệt thế:
    – Không phải đâu! Lời nói thật bạo tàn!
    Ðừng nhẫn tâm nói điều ấy, thưa chàng!
  3. Tâu Chúa công, chẳng chút nào thích hợp
    Nếu chỉ riêng chàng ra đi đơn độc,
    Dù cuộc du hành chàng sẽ tới đâu,
    Thiếp cũng xin nguyền cất bước theo hầu:
  4. Cho thiếp chọn: Ở cùng chàng để chết,
    Hoặc là sống phải xa chàng, ly biệt.
    Chết là điều thần thiếp ước mong làm,
    Nếu thiếp không được sống ở bên chàng.
  5. Hãy đốt lên ngọn lửa hồng đỏ rực,
    Ngọn lửa nào thật hung tàn đệ nhất,
    Thà thiếp chết kia trong ngọn lửa hồng
    Vẫn còn hơn thiếp phải sống xa chồng.
  6. Cũng như ở phía sau mình voi nọ,
    Vẫn thường thấy một nàng voi là vợ
    Di chuyển qua các đèo, núi, hay rừng,
    Trên dốc gồ ghề hay mặt đất bằng.
  7. Cùng các con, thiếp sẽ theo chàng mãi
    Ði bất cứ nơi nào chàng dẫn lối,
    Thiếp sẽ không làm gánh nặng cho chàng,
    Cũng không đòi chàng vất vả kiếm ăn.

Cùng với những lời này, nàng bắt đầu ca tụng miền Tuyết Sơn như thể nàng đã thấy cảnh ấy tận mắt:

  1. Khi chàng thấy các con chàng xinh đẹp
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  2. Khi nhìn thấy con xinh tươi chạy nhảy,
    Và nghe lời chúng chuyện trò vang dậy
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  3. Khi chàng thấy các con thơ xinh đẹp
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  4. Nhìn thấy các con thơ chơi mải miết,
    Và nghe lời chúng chuyện trò tíu tít,
    Trong khu rừng xanh tốt với muôn hoa,
    Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.
  5. Khi nhìn các con điểm trang rực rỡ
    Và ngắm chúng đem về bao hoa nở
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ không còn nhớ thuở làm vua.
  6. Khi nhìn các con chơi đùa rộn rã,
    Và ngắm chúng đem về bao hoa lá
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  7. Khi chàng thấy các con đang nhảy múa,
    Và mang về những vòng hoa rực rỡ
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  8. Khi chàng ngắm chúng chơi đùa nhảy múa,
    Và đem về những vòng hoa rực rỡ
    Trong ngôi nhà diễm lệ của đôi ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  9. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
    Phiêu bạt lang thang hoàn toàn cô độc,
    Trong khu rừng đầy cỏ mọc hoang sơ,
    Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.
  10. Ông voi già có tuổi chừng sáu chục
    Về buổi chiều vẫn lang thang cô độc,
    Và ra đi vào buổi sáng tinh mơ,
    Sẽ khiến chàng quên một thuở làm vua.
  11. Khi chàng ngắm ông voi già trưởng thượng,
    Ðem theo cả đàn voi con tùy tướng,
    Voi sáu mươi, và nghe tiếng thét to,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  12. Khi chàng ngắm bầy thú hoang gầm rống,
    Cùng mọi vật mà lòng chàng ước vọng,
    Và không gian rộng rãi của rừng thưa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  13. Ðàn hươu nai kéo về lúc chiều tối,
    Nhảy nhót múa may từng bầy ếch nhái,
    Và nơi nơi nở rộ cả muôn hoa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  14. Khi chàng nghe suối sông reo ào ạt,
    Và biết bao loài thần tiên ca hát,
    Tin thiếp đây, chàng sẽ chóng quên là
    Có một thời chàng đã được làm vua.
  15. Khi chàng nghe tiếng cú mèo đang hú
    Trong hang sâu chốn núi rừng cư trú,
    Chắc chắn rằng chàng sẽ chẳng nhớ ra
    Có một thời chàng đã được làm vua.
  16. Loài trâu rừng cùng với loài tê giác,
    Làm cho cả khu rừng vang tiếng nhạc,
    Loài cọp beo và sư tử gầm gừ
    Khiến chàng quên một thuở đã làm vua.
  17. Khi chàng thấy trên non cao chót vót
    Chim công trống múa men và nhảy nhót
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  18. Nhìn công trống noãn sinh kia nhảy múa,
    Xòe đôi cánh đẹp huy hoàng rực rỡ
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  19. Chim công trống với cổ màu xanh đỏ
    Nhìn công trống vụt lên và nhảy múa
    Trước cả bầy công mái thật nên thơ,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  20. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá,
    Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
    Các mùi hương ngào ngạt nhẹ nhàng đưa,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.
  21. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
    Chàng ngắm nhìn các cây hoa rộ nở,
    Hương sen, Bim-ba, Ku-ta thoảng đưa,
    Chàng se quên một thuở đã làm vua.
  22. Khi núi rừng ở vào mùa đông giá
    Chàng ngắm khu rừng muôn hoa đua nở
    Và hoa sen rộ nở ở quanh ta,
    Chàng sẽ quên một thuở đã làm vua.

Như vậy Maddì đã ca tụng vùng Tuyết Sơn qua các vần kệ này như thể nàng đang sống ở đó.

Ðến đây chấm dứt Lời Ca tụng cảnh Tuyết Sơn (Himavanta-vannanà).

*

  1. THÁI TỬ GIÃ TỪ THÂN TỘC

Lúc bấy giờ Thái hậu Phusatì suy nghĩ: “Một bản án nặng nề đã áp đặt lên vai vương nhi. Con ta sẽ làm gì đây? Ta muốn đi xem sao”.

Bà liền ngự lên một chiếc xe được phủ kín, và khi bà dừng trước cửa cung thất của con bà, bà nghe lọt câu chuyện ấy và bật tiếng than khóc thảm thiết.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Bà nghe tiếng vương phi và vương tử
    Lời hai vị đang hàn huyên tâm sự
    Bà bật ra tiếng kêu khóc thảm thương
    Thái hậu kia thật vĩ đại vinh quang:

106 -107.- Ta bảo thà ta phải dùng độc dược
Hoặc là ta phải nhào đầu xuống vực,
Hoặc thắt dây thòng lọng ở cổ ta,
Sao thần dân tống xuất Ves-san-ta?

108 -109. Chuyên cần, bố thí và ly tham dục,
Ðược tất cả các địch vương kính phục,
Danh vọng huy hoàng vang dội gần xa,
Sao đuổi con vô tội Ves-san-ta?

  1. Là điểm tựa của song thân phụ mẫu,
    Biết kính trọng bậc đàn anh trưởng lão,
    Sao thần dân đuổi Ves-san-ta-ra,
    Chính là vương nhi vô tội của ta?

11I-112. Được phụ vương và mẫu hoàng ái mộ
Cùng tất cả đám bà con dòng họ,
Ðược quý yêu bởi tất cả thân bằng,
Cả quê hương cùng tất giang sơn,
Con vô tội, sao chúng đòi tống xuất?

Sau lời khóc than bi thảm này, bà an ủi vương nhi và vương hậu, sau đó bà yết kiến vua cha và tâu:

  1. Giống như đám xoài kia rơi xuống đất,
    Như bạc tiền đã phung phí tiêu tan,
    Vương quốc ngài cũng sụp đổ điêu tàn,
    Người vô tội nếu bị dân đầy ải.
  2. Rồi giống như chim thiên nga cánh gãy
    Khi các nguồn suối nước cạn khô dần,
    Bị bỏ rơi bởi tất cả quần thần,
    Ngài sẽ sống trong khổ đau cô độc.
  3. Tâu Ðại Vương, thiếp trình ngài chân thật:
    Ðừng để nguồn phúc lộc Ðại vương tàn,
    Ðừng đuổi con vô tội bởi dân than.
    Nghe vậy, phụ vương đáp:
  4. Biểu tượng của toàn dân, vương tử đó,
    Nếu ta truyền lưu đày nơi gian khổ,
    Là ta tuân phận sự của hoàng gia,
    Còn thiết thân hơn cả chính đời ta.
    Nghe lời này, thái hậu lại khóc than:
  5. Xưa biết bao đoàn quân hầu hộ tống
    Với cờ xí huy hoàng bay lồng lộng,
    Như rừng cây nở rộ với muôn hoa,
    Nay vương nhi đành đơn độc đi xa.
  6. Các hoàng giáp Gan-dhà-ra rực rỡ
    Khoác quanh con sáng ngời ngày xưa đó,
    Hay bừng lên đỏ sẫm lúc con đi,
    Hôm nay cô độc cất bước vương nhi.
  7. Xưa con ngự vương xa, voi, hay kiệu,
    Nay vua Ves-san-ta đi thất thểu.
  8. Ngày xưa con được tẩm ngát trầm hương,
    Ðược đánh thức bằng vũ khúc, ca xang,
    Nay làm sao khoác tấm da thô nhám,
    Mang bình nước, chiếc rìu trên đường vắng?
  9. Sao chúng không dâng những chiếc hoàng bào,
    Không có da hươu quý bởi vì sao?
    Khoác vỏ cây, con bước vào rừng rậm,
  10. Vua bị đuổi, vỏ cây làm sao quấn?
    Rồi làm sao nàng công chúa Mad-dì
    Khoác vỏ cây và cỏ lá rừng kia?
  11. Xưa thường mặc lụa tơ Ba-la-nại,
    Gấm Ko-dum-ba-ra đầy êm ái,
    Nay làm sao khoác lá vỏ cây kia?
  12. Xưa tới lui, nàng ngồi kiệu hay xe,
    Nàng công chúa yêu kiều và khả ái,
    Nay làm sao bước chân nàng đi nổi?
  13. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
    Ðứng bình yên trong hạnh phúc êm đềm,
    Nay làm sao nàng công nương mỹ lệ
    Bước run run vào khu rừng hoang phế?

126 -127. Nàng có đôi chân yếu với tay mềm,
Nàng sống xưa trong hạnh phúc êm đềm,
Loại hài xưa nàng mang êm dịu nhất
Vẫn làm đau đôi chân nàng gót ngọc,
Nay làm sao nàng cất bước chân đi?

  1. Ngày xưa kia ở giữa ngàn nữ nhi
    Nàng cất bước vòng hoa đeo lủng lẳng,
    Nay làm sao giữa khu rừng hoang vắng
    Nàng diễm kiều đơn độc bước chân lê?
  2. Xưa, nếu loài sơn cẩu hú, nàng nghe
    Nàng thường thấy trong lòng đầy lo lắng,
    Nàng rụt rè nay sao đi rừng vắng?

130 -131. Nàng rùng mình lo sợ tiếng thiên xa,
Hoặc run run như kẻ thấy tà ma
Khi nghe tiếng cú kêu gào văng vẳng
Mỹ nữ rụt rè sao đi rừng rậm?

  1. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng,
    Lòng thiêu đốt trong khổ đau đằng đẳng.
  2. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp gầy mòn, võ vàng khi nhìn thấy
    Con dấu yêu chẳng bao giờ trở lại.
  3. Giống như chim nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
    Thấy con yêu không bao giờ trở lại.
  4. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, bầy chim non
    Khi thiếp nhìn thấy nơi này trống vắng
    Thiếp sẽ sống trong khổ đau đằng đẵng.
  5. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp yếu gầy, võ vàng khi nhìn thấy
    Con dấu yêu nhất đời không trở lại.
  6. Như diều hâu nhìn thấy tổ trống trơn
    Tất cả đều bị giết, lũ chim non,
    Thiếp sẽ phát điên cuồng và ngây dại
    Thấy con yêu chẳng bao giờ trở lại.
  7. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ sống trong khổ đau dằng dặc,
    Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.
  8. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ gầy mòn, võ vàng héo hắt,
    Không còn thấy đứa con yêu quý nhất.
  9. Như bầy hồng nga nọ đứng bên hồ,
    Làn nước kia nay biến mất, cạn khô,
    Thiếp sẽ hóa dại cuồng khi thấy mất
    Ðứa con trai mà thiếp yêu thương nhất.
  10. Và nếu Ðại vương đành tống xuất đi
    Khỏi quê hương, dù vô tội, vương nhi,
    Mặc dù thiếp đang khổ đau than thở
    Cuộc đời thiếp e rằng đành từ bỏ.

*

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Nghe mẫu hoàng than khóc thật đau thương,
    Tất cả cùng nhau thẳng tiến vội vàng,
    Các cung phi dang đôi tay trước mặt
    Ðể cùng bà tiếp nối lời than khóc.
  2. Và ở trong cung điện của ông hoàng
    Tất cả đều nằm la liệt ngổn ngang,
    Ðàn bà trẻ con nằm như cây cỏ
    Bị ngã dài trên đất liền tại chỗ.
  3. Và đến khi đêm ấy đã gần tàn
    Rạng ngày sau vừa lúc mặt trời quang,
    Khi ấy Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bắt đầu Lễ đại cúng dường bố thí.
  4. Ðem thức ăn cho những kẻ đói cơm,
    Ðem rượu nồng cho những bọn túy ông,
    Ðem y phục cho người cần y phục,
    Cho mỗi người tùy theo lòng mong ước.
  5. Ðừng để người xin thất vọng trở về,
    Hãy tỏ bày lòng kính trọng tràn trề,
    Đừng để thiếu thức uống ăn tùy thích.
  6. Vì thế quần chúng tựu tề chật ních
    Và nhanh chân nhảy múa với nô đùa,
    Khi Si-vi Chúa tể chính là vua
    Nuôi quốc độ đang sẵn sàng biệt xứ.
  7. Chúng đã đốn nhào một cây đại thụ
    Ðứng vươn cao đầy quả chín trên cành,
    Khi quần chúng đuổi ra khỏi đất lành
    Vua vô tội Ves-san-ta-ra ấy,
  8. Cây ban ước nguyện chúng đành đốn gãy
    Với bao điều ân huệ sẵn trong tay
    Ves-san-ta-ra vô tội thế này,
    Quần chúng tống xuất ngài ra khỏi nước.
  9. Chúng đã đốn cây thần ban điều ước
    Với tối cao ân huệ sẵn trong tay,
    Ves-san-ta-ra vô tội thế này
    Chúng đã tống xuất ngài đi biệt xứ.

151-152. Quần chúng trẻ già, mọi người đủ cỡ
Ðều khóc than và gào thét suốt ngày
Ðồng giơ cao lên tất cả cánh tay,
Khi chúa tể sẵn sàng đi biệt xứ,
Vị vua đã nuôi Si-vi quốc độ.

153-154. Bà cốt, hoạn quan, cung nữ khóc thương
Và thét gào suốt cả một ngày trường
Ðồng giơ các cánh tay ra phía trước,
Khi Ðại vương sẵn sàng rời đất nước,
Ngài đã nuôi dưỡng quốc độ Si-vi.

  1. Trong kinh thành tất cả bọn nữ nhi
    Ðồng than khóc và thét gào hôm ấy,
    Khi vị vua nước Si-vi vĩ đại
    Bảo dưỡng dân sắp sửa bước lưu đày.
  2. Bà-la-môn, khổ hạnh giả xưa nay
    Cùng tất cả những ai cần khất thực,
    Ðều giơ cao các cánh tay trước mặt
    Và thét to: “Thật hành động bạo tàn!”
  3. Trong khi vua đem phước lộc phát ban
    Cho tất cả toàn kinh thành thừa hưởng,
    Và nay bị chính thần dân kết án
    Ngài đã đành cất bước chốn lưu vong.

I58. Bảy trăm con voi ngài đã tặng không
Với tất cả vẻ huy hoàng tô điểm:
Với dây đai bằng vàng ròng kiều diễm,
Với khăn vàng được phủ kín sáng ngời.

  1. Mỗi con voi đều chở một chú nài
    Với dáo móc cầm trong tay hộ vệ,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bị đày đi khỏi đất nước lưu vong.
  2. Bảy trăm con ngựa ngài cũng phát không,
    Ðược tô điểm với yên cương láng bóng,
    Các ngựa Sindh, ngựa rặc nòi thuần chủng,
    Tất cả đều phi vùn vụt đôi chân.
  3. Mỗi ngựa đều được cỡi một tên quân
    Với cung kiếm trong tay đầy bạo dạn,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa thượng
    Bị đày đi khỏi đất nước quê hương.
  4. Bảy trăm xe ngựa đầy đủ yên cương
    Với cờ xí rợp tung bay theo gió,
    Da hổ, báo, cảnh huy hoàng rực rỡ,
  5. Mỗi xe đều được cỡi một quản xa
    Mang giáp bào, cầm cung nỏ sáng lòa,
    Nay nhìn Ves-san-ta-ra Chúa tể
    Bị đi đày khỏi quê hương như thế.
  6. Bảy trăm nữ nhi ngài cũng phát ban,
    Trên mỗi cỗ xe đều đứng một nàng
    Với chuỗi vàng và kim hoàn tô điểm,
    Các nữ nhi này thật là kiều diễm.

165- 166. Với nữ trang và y phục xinh xinh
Với eo lưng nhỏ bé và thanh thanh,
Ðôi mày cong và nụ cười tươi sáng,
Với đôi mông tròn gợi tình duyên dáng,
Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

  1. Bảy trăm bò ngài cũng đem phân phát,
    Với mỗi thùng đựng sữa đều bằng bạc,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  2. Bảy trăm nữ tỳ ngài đem cho hết
    Khi đám mày râu kêu vang tha thiết,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  3. Ngài ban ngựa voi, cỗ xe, nô lệ,
    Sau mọi việc kia xảy ra, tuy thế,
    Nay hãy nhìn Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!
  4. Việc kia quả thật vô cùng kinh khủng,
    Ðã khiến cho lông tóc ta dựng đứng,
    Khi giờ đây Chúa thượng Ves-san-ta
    Bị đày đi khỏi đất nước quê nhà!

Bấy giờ một vị thần báo tin cho các vua chúa khắp cõi Diêm-phù-đề việc vua Vessantàra đã làm Ðại lễ bố thí các phụ nữ cao sang cùng các tặng vật khác ra sao. Vì thế các vị quý tộc Sát-đế-ly nhờ thần lực hỗ trợ đã đến kịp bằng xe và trở về cung với các phụ nữ cao sang cùng các tặng vật khác mà họ nhận được. Nhờ đấy, các Sát-đế-ly (quý tộc), Bà-la-môn (Ðạo sĩ), Vệ xá (thương nhân), Thủ-đà (công nhân) đều nhận quà từ chính tay ngài trước khi họ ra về.

Ngài vẫn đang phân phát thí vật thì trời tối, vì thế ngài trở về cung thất để từ giã song thân và lên đường đêm ấy. Ngài ngự trên chiếc vương xa lộng lẫy đến cung của cha mẹ cùng nàng Maddì để nàng cùng ngài từ giã hai vị. Bậc Ðại Sĩ kính lễ vua cha và thưa trình việc ngài cùng vương phi đến hầu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Xin tạ từ Minh chúa Sañ-jà ya,
    Và xin trình để phụ vương biết rõ:
    – Con sẽ ra đi đến đồi Vạn-cổ
    Vì giờ đây cha phán lệnh lưu đày.
  2. Tấu Anh quân, thời sắp đến sau này
    Sẽ biết rõ những ai đầy tham dục
    Không biết thỏa, sẽ đi vào địa ngục.
  3. Vì con làm nên tội với thần dân,
    Ðã phát ban hào phóng với tay con,
    Nên con đã bị toàn dân xét xử,
    Con phải chịu đi đày ra khỏi xứ.
  4. Con sẽ đền tội lỗi ấy bây giờ
    Trong khu rừng loài hổ báo du cư.
    Nếu cha muốn lội bùn nhơ ác dục,
    Tuy thế, con vẫn muốn làm công đức.

*

Bậc Ðại Sĩ ngâm bốn vần kệ này với vua cha rồi ngài quay sang mẹ xin phép là được rời thế tục với các lời này:

175- 176. Thưa mẹ hiền, con xin phép giã từ,
Con bị đày ra khỏi xứ biệt cư,
Vì tội lỗi đã làm cho dân chúng,
Con bố thí với bàn tay hào phóng,
Nay chiếu theo án lệnh của toàn dân
Con đi đày khỏi đất nước quê hương.

  1. Bây giờ con sắp phải đền tội lỗi
    Trong rừng hoang loài hổ beo lui tới.
    Nếu mẹ muốn chìm trong chốn dục tham,
    Song phần con công đức quyết tâm làm.

Mẫu hậu Phusatì đáp:

178-179. Mẹ cho phép con ra đi, Thái tử,
Hãy nhận lời mẹ chúc lành vạn sự,
Ðể Mad-dì và các cháu ở nhà,
Nàng sẽ không làm lợi nữa bao giờ,
Chân yếu, tay mềm, thân hình yếu đuối,
Tại sao nàng cần phải đi, con hỡi?

Vua Vessantara đáp:

  1. Con chẳng đem theo dù một nữ tỳ
    Trái ý nguyền nàng chẳng muốn ra đi.
    Song nàng muốn, hãy cho nàng đi với,
    Còn nếu không, hãy để nàng ở lại.

Nghe lời Thái từ nói, vua cha tìm cách thuyết phục nàng.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lúc ấy phụ vương phán bảo công nương:
    – Ðừng để tay chân tẩm ướt đàn hương
    Chịu lấm bụi và đất dơ, cha bảo,
  2. Con đừng đắp vỏ cây rừng làm áo
    Thay lụa tơ Ba-la-nại mượt mà,
    Công nương diễm phúc, đừng bước đi xa,
    Ðời rừng rậm thật khó khăn gian khổ.
  3. Công chúa Mad-dì yêu kiều, rực rỡ,
    Liền đáp lời thưa với phụ vương nàng:
    – Ðược diễm phúc kia con cũng chẳng màng
    Nếu không có Ves-san-ta Thái tử.
  4. Rồi Ðại vương Si-vi nuôi-quốc-độ
    Lại nói thêm với nàng nữa như vầy:
    – Này Mad-dì con hỡi, hãy nghe đây,
    Khi cha giảng nỗi gian nan rừng thẳm:
  5. Những bầy bọ ruồi, muỗi mòng, ong, gián,
    Sẽ đốt con trong lúc sống ở rừng
    Cho đến khi con mắc bệnh thương vong.
  6. Còn cư dân trên bờ sông bến nước
    Lại nghe nói đến nhiều tai họa khác:
    Dù không mang nọc độc, giống trăn rừng,
    Loài cuộn tròn siết chặt, mạnh vô cùng,
  7. Hễ người, vật đến gần, liền tóm chặt,
    Rồi kéo về hang, cuộn trong nhiều khúc.
  8. Còn nhiều loài dã thú khác hiểm nguy
    Phủ đầy lông chằng chịt lại đen sì,
    Chúng có thể trèo cây bắt người đấy,
    Con gấu chính là tên sinh vật ấy.
  9. Dọc theo bờ sông nước So-tum-ba
    Có loài trâu cư trú chốn giang hà
    Với cặp sừng thật to và nhọn hoắc
    Có thể húc một cú đau cùng cực.
  10. Thấy những đàn trâu vĩ đại thế này
    Ði lang thang qua rừng rậm đó đây,
    Như bò mẹ đi tìm con, khốn khổ,
    Mad-dì sẽ làm gì, cho ta rõ?
  11. Khi vượn khỉ trên cây tụ họp đoàn,
    Chúng sẽ làm con hốt hoảng kinh hoàng,
    Công chúa Mad-dì chẳng hề hiểu biết
    Trước cảnh tượng dị kỳ và gớm ghiếc.
  12. Xưa mỗi lần tiếng hú của chó rừng
    Vẫn làm con thật run sợ hãi hùng,
    Nay phải sống ở trên đồi Vạn-cổ
    Con sẽ làm gì, Mad-dì bé nhỏ!
  13. Sao con muốn đi vào chốn như vầy?
    Ngay cả lúc trời đang giữa ban ngày,
    Khi các loài chim nghỉ ngơi im lặng,
    Khu rừng cây vẫn thét gào vang động.

194 -195. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
– Về những điều này thật là đáng sợ
Mà cha đã cố trình bày cho rõ,
Con sẵn sàng chấp nhận mọi điều kia,
Và nay con đã quyết định ra đi.

  1. Qua mọi đồi hoang và rừng cỏ dại,
    Xuyên suốt các đầm lau và khóm sậy,
    Với sức mình, con sẽ mở con đường,
    Quả thật con không oán trách kêu than.
  2. Nàng nào muốn giữ chồng cho tốt đẹp,
    Phải làm xong phận sự mình trên hết,
    Phải sẵn sàng vò các cục phân bò,
    Và sẵn sàng ăn bữa đói bữa no.
  3. Nàng phải siêng năng chăm lo ngọn lửa
    Và phải chuyên cần lọc trong nước nữa.
    Song cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
    Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.
  4. Việc vặt vãnh cũng làm nàng lo lắng,
    Nàng thường ăn thứ cơm thừa canh cặn,
    Vì cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng,
    Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

200-201. Bị quật ngã và dìm trong bụi bặm,
Bị nắm tóc lôi thật là tàn nhẫn,
Ðàn ông đều có thể đả thương nàng,
Mọi người ngoài chỉ đứng ngắm bàng quan.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

202-203. Bọn đàn ông vây đánh trẻ mồ côi
Thật bạo tàn vì đấm đá tả tơi
Như bầy quạ thường vồ chim cú nhỏ.
Dù mỹ miều và tự cao quyến rủ,
Ôi cuộc đời quả phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

204-205. Ngay cả trong nhà giàu sang thịnh vượng
Sáng ngời lên với bạc vàng vô tận,
Lời đắng cay tuôn chảy mãi không ngừng
Từ đám anh em hoặc các thân bằng,
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

206-207. Chẳng khác dòng sông suối nước cạn khô.
Chẳng khác gì vương quốc thiếu vị vua,
Người sương phụ dù có mười anh ruột
Cũng chỉ là tấm thân trần trùng trục,
Ôi cuộc đời sương phụ thật kinh hoàng!
Con quyết ra đi, tâu bậc Ðại vương.

208-209. Dấu hiệu cỗ xe: lá cờ phấp phới,
Lửa được khói xông nên người biết tới,
Ðất nước sáng danh nhờ các quốc vương,
Người vợ có tên nhờ chính phu quân.
Ôi hãi hùng là cuộc đời sương phụ!
Tâu Ðại vương, con quyết đi khỏi xứ.

210-211. Người vợ chia chung số phận với chồng,
Dù được giàu sang hay chịu bần cùng,
Danh vọng nàng được thần linh tán tụng,
Lúc hoạn nạn nàng cũng đành an phận.

212-213. Con vẫn quyết tâm nối gót theo chàng
Dù khoác hoàng y con cũng chẳng màng,
Làm hoàng hậu khắp thế gian chẳng thiết
Ðời sương phụ than ôi, đầy kinh khiếp,
Tâu Ðại vương, con sẽ quyết ra đi.

  1. Quả thật vô tâm là những nữ nhi
    Lòng sắt đá nên không sao nhận thức
    Khi các vị lang quân đang khổ cực,
    Lại ước mong vui hưởng cảnh giàu sang.
  2. Khi chúa tể Si-vi bỏ quê hương,
    Để cất bước lưu đày ra khỏi nước,
    Con quyết sẽ cùng theo chàng cất bước,
    Vì chàng ban mọi hỷ lạc, hân hoan.

216-217. Lúc bấy giờ cất tiếng vị Ðại vương
Nói với Mad-dì huy hoàng diễm lệ:
– Nhưng hãy để lại đây hai con trẻ
Vì chúng làm gì được ở nơi kia,
Hỡi công nương đầy phước đức, Mad-dì?
Chúng ta sẽ chăm nom đầy kỹ lưỡng.

218-219. Rồi Mad-dì trả lời ngay Chúa thượng,
Vị công nương thật rực rỡ yêu kiều:
– Bé Jà-li, Kan-hà ấy thân yêu
Với lòng con thật vô cùng quý giá,
Chúng sẽ cùng con vào rừng cư trú,
Và làm con vơi nhẹ nỗi sầu bi.

220-221. Vị Ðại vương nuôi-quốc-độ Si-vi,
Vị chúa tể đáp lời ngay lập tức:
– Trước giờ ăn thịt hầm, cơm thơm phức,
Nếu phải dùng quả dại ở rừng hoang,
Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?

  1. Trước giờ ăn bằng chén vàng, dĩa bạc,
    Nay chỉ lá cây chúng làm gì được?
  2. Trước áo quần Ba-la-nại lụa tơ,
    Nay phải mặc vỏ cây với cỏ khô,
    Bọn trẻ ấy biết làm gì cho được?
  3. Xưa xe, kiệu, chúng được người đưa rước,
    Nay chạy đi quanh quẩn với đôi chân,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay không?
  4. Trước giờ ngủ trong vương cung nóc nhọn,
    Cửa khóa then cài thật là an ổn,
    Nay phải nằm ngay dưới gốc cây rừng,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?
  5. Trước gối nệm với giường thêu nằm ngủ,
    Nay phải ngã lưng nằm trên giường cỏ,
    Bọn trẻ thơ làm gì được hay chăng?
  6. Trước được tẩm đầy các thứ dầu hương,
    Nay bị phủ bùn nhơ và bụi bặm,
    Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?
  7. Xưa được người phe phẩy quạt lông công,
    Hay quạt đuôi trâu rừng phủ rậm lông,
    Nay bị muỗi ruồi bọ sâu đốt cắn,
    Bọn trẻ thơ sẽ làm gì cho đặng?

Trong khi các vị bàn luận như vậy thì bình minh đến và sau đó mặt trời lên. Quân hầu mang một cỗ xe lộng lẫy cùng một đoàn bốn ngựa Sindh thuần chủng đến cho bậc Ðại Sĩ và đặt ở cửa.

Mad-dì kính lễ song thân của ngài và chào từ biệt các bà phu nhân kia, rồi ra đi cùng với hai con đến trước Vessantara và lên ngồi trong xe ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

229-230. Rồi Mad-dì diễm lệ ấy, công nương,
Liền nói lên vầy đáp lại phụ vương:
Ðừng than khóc vì chúng con, cha hỡi,
Xin phụ vương cũng đừng nên bối rối,
Hai trẻ này cùng cha mẹ lên đường
Bất cứ nơi nào rảo bước tha phương.

  1. Với những lời này Mad-dì từ giã,
    Vị công nương thật yêu kiều rực rỡ,
    Hai trẻ thơ cùng chia xẻ đường trường.
  2. Rồi Ves-san-ta-ra chính quốc vương,
    Lời ước nguyện đã hoàn thành như ý,
    Ðến trước song thân ngài đồng kính lễ
    Và đi quanh về phía hữu một vòng.
  3. Rồi ngài ngự lên xa giá lẹ làng
    Ðược kéo đi nhờ một đoàn tuấn mã,
    Cùng vợ con, ngài lên đường vội vã
    Ðến nơi kia đồi Vạn-cổ cao vời.
  4. Vua Ves-san-ta thúc ngựa đến nơi
    Mà hầu hết đám thần dân tụ tập:
    Và kêu lớn: – Chúng ta đi! Cầu phúc
    Cho bà con thân tộc, vậy giã từ!

*

  1. CUỘC HÀNH TRÌNH LÊN NÚI VAMKA

Khi nói các lời này với quần chúng, bậc Ðại Sĩ khuyên nhủ họ tinh cần bố thí, và làm các thiện sự.

Khi ngài đi xa, mẹ Bồ-tát nói:

– Nếu vương tử muốn bố thí, hãy để chàng bố thí.

Rồi bà gửi cho ngài hai xe nhỏ đi kèm mỗi bên xe ngựa, chứa đầy nữ trang gồm bảy báu vật. Trong mười tám lần ban phát, ngài phân chia cho đám hành khất mà ngài gặp trên đường đi tất cả những gì ngài có, gồm cả số đồ vật trang sức trên chính thân ngài.

Khi ngài đã rời kinh thành, ngài quay lại và muốn nhìn lui, vì thế thuận theo ý ngài, mặt đất nứt ra theo chiều chiếc xe và quay lại khiến cho xe đối diện kinh thành, ngài liền chiêm ngưỡng nơi song thân ngài cư ngụ. Tiếp theo đó là đất chấn động và nhiều việc kỳ diệu khác.

Vì vậy có chuyện kể:

  1. Khi ngài đi ra khỏi kinh thành ấy,
    Ngài đã quay đầu nhìn xem trở lại,
    Vì thế núi Tu-di lớn chuyển rung
    Chẳng khác một cây đa giữa cõi không.

Trong lúc ngắm cảnh, ngài ngâm kệ thúc giục Maddì cũng nhìn lui:

  1. Này Mad-dì, nhìn nơi thân yêu đó,
    Nơi chúng ta vừa cất bước ra đi,
    Ấy vương cung của chúa tể Si-vi,
    Và cũng chính nơi quê cha đất tổ.

Sau đó, ngài nhìn về phía sáu mươi ngàn triều thần, những người sinh ra cùng thời với ngài, nhìn đám quần chúng còn đó, và ra hiệu cho họ lui về, rồi trong khi tiếp tục lái xe đi, ngài bảo Maddì:

– Này công nương, nàng hãy nhìn xem thử có kẻ cầu xin nào đang đi phía sau chăng.

Nàng liền nhìn ra. Bấy giờ bốn Bà-la-môn không thể có mặt kịp trong Lễ bố thí bảy trăm báu vật đã đến kinh thành, và thấy lễ phân phát đã xong, biết chắc là vương tử đã ra đi.

-Thế ngài có đem theo vật gì không?

– Vâng, có cỗ xe.

Vì thế họ quyết định đi xin bầy ngựa. Maddì thấy những người này đang tiến lại gần.

– Tâu Chúa công, có các vị hành khất- Nàng nói.

Bậc Ðại Sĩ dừng xe lại. Họ tiến đến xin bầy ngựa và bậc Ðại Sĩ cho ngựa.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

  1. Khi bốn Bà-la-môn bắt kịp ngài,
    Và muốn xin bầy ngựa, họ kêu nài,
    Ngài ban bầy ngựa kia ngay tại chỗ,
    Mỗi hành khất được một con tuấn mã.

Bầy ngựa được lấy đi rồi, dây cương của cỗ xe vẫn còn treo lơ lửng trên không. Nhưng chẳng bao lâu sau khi các Bà-la-môn vừa đi, thì bốn vị thần giả dạng bầy hươu đỏ tía đến kéo xe đi.

Bậc Ðại Sĩ biết chúng là thần linh liền ngâm kệ này:

  1. Này Mad-dì, hãy ngắm việc diệu kỳ,
    Này nhìn xem việc hy hữu, Mad-dì:
    Những con ngựa này đây thông minh quá,
    Ðội lốt hồng dương kéo xe ta đó!

Nhưng khi ngài tiến lên thì một Bà-la-môn khác đến xin cỗ xe. Bậc Ðại Sĩ đưa vợ con xuống và cho ông cỗ xe. Khi ngài cho xe xong, các vị thần cũng biến mất.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc tặng cỗ xe này:

  1. Một kẻ thứ năm tiến đến tức thì
    Và cầu xin xe nọ của vương nhi.
    240. Việc này khiến Ves-san-ta Chúa thượng
    Phải đưa đám vợ con ngài đi xuống,
    Và ban xe cho kẻ đến xin quà.

*

Sau đó cả đoàn đều đi bộ. Bậc Ðại Sĩ bảo Maddì:

  1. Này Mad-dì, nàng hãy bế Kan-hà
    Vì nó nhẹ và hãy còn thơ dại,
    Còn Jà-li là bé trai nặng đấy,
    Ta sẽ mang con trẻ ấy theo cùng.

Sau đó hai vị bế con lên và mang chúng bên hông.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ngài, con trai, nàng, con gái lên đường
    Cùng trò chuyện thật hân hoan mãn nguyện.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Bố thí (Dàna-khandam)

*

Khi gặp kẻ nào trên đường, hai vị hỏi đường đi đến đồi Vamka (Vạn-cổ) và được biết còn xa lắc. Vì thế, có chuyện kể:

  1. Bất cứ khi nào gặp du khách đến,
    Hai vị hỏi thăm phương hướng đi đường,
    Và nơi đâu là Vạn-cổ Cao sơn.
  2. Ðám du hành đều khóc than thương xót,
    Nhìn các ngài trên con đường rảo bước,
    Và bảo ngài nhiệm vụ quá nặng nề:
    – Con đường còn xa lắc ở đằng kia.

Ðôi trẻ reo lên khi thấy đủ loại trái cây mọc hai bên đường. Nhờ thần lực của bậc Ðại Sĩ, cây cối rạp mình xuống đưa trái đến tầm tay họ hái được và hai vị hái những quả chín nhất đưa cho các con.

Lúc ấy Maddì reo lên:

– Thật kỳ diệu quá!

Vì thế chuyện kể lại:

  1. Khi trẻ thơ ngắm nhìn trên sườn núi
    Nhiều cây cao mọc lên đầy hoa trái,
    Hai trẻ kia liền kêu khóc đòi ăn.
  2. Khi cây rừng nhìn lũ trẻ khóc than,
    Cây cao vút bỗng sinh lòng ái ngại
    Cúi rạp mình đưa các cành đi tới
    Cho tay người hái được trái cây rừng.
  3. Lúc ấy Mad-dì reo lớn vui mừng,
    Nàng công chúa diễm kiều và rực rỡ,
    Khi nhìn thấy phép thần kỳ diệu đó
    Khiến cho người ta phải dựng tóc lông.
  4. Tóc lông người dựng đứng lúc nhìn trông
    Nhờ thần lực Ves-san-ta Chúa thượng
    Các cây cao bỗng nghiêng mình cúi xuống.

Kể từ kinh thành Jetuttara, núi Suvannagiritàla cách đó năm dặm, sông Kontimàrà lại cách đó năm dặm, và núi Arañjaragiri lại cách đó năm dặm nữa, ngôi làng Bà-la-môn Dunnivittha lại cách đó năm dặm nữa, và kinh thành của quốc cửu ngài cách đó mười dặm, như vậy kể từ Jetuttara, hành trình dài ba mươi dặm. Các vị thần rút ngắn khoảng đường ấy, vì vậy chỉ trong một ngày, họ đã đến thành của vị quốc cửu.

Do đó, chuyện kể:

  1. Thần Dạ-xoa thâu ngắn dặm trường
    Vì thương con trẻ gặp tai ương,
    Ce-ta quốc độ nay vừa đến
    Trước buổi hoàng hôn kịp bước đường.

Bấy giờ các vị rời thành Jetuttara lúc rạng đông, và buổi chiều đã đến vương quốc Ceta và vào thành của quốc cửu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Cả đoàn đi đến xứ Ce-ta
    Gian khổ lộ trình quả thật xa,
    Vương quốc tràn trề đồ ẩm thực,
    Phú cường, thịnh vượng cõi sơn hà.

*

Bấy giờ trong kinh thành của vị quốc cửu ấy có sáu mươi ngàn võ tướng (Sát-đế-ly) cư trú. Bậc Ðại Sĩ không vào thành, mà chỉ ngồi ở sảnh đường ở cổng thành. Maddì phủi bụi trên chân bậc Ðại Sĩ và xoa bóp chân ngài, rồi với ý định thông báo việc ngài đến, nàng đi ra khỏi sảnh đường và đứng lại để người ta nhìn thấy. Vì thế những phụ nữ vào ra kinh thành trông thấy nàng và đến vây quanh.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Nhìn thấy vương phi dáng tốt lành
    Ðàn bà xúm lại đứng vây quanh:
    – Bà phu nhân ấy trông hiền dịu
    Sao phải đi chân suốt lộ trình?
  2. Ngày xưa trên võng kiệu, vương xa,
    Bà mệnh phụ kia được rước ra,
    Nay lúc Mad-dì đành rảo bước,
    Nơi nàng cư trú: chốn rừng già.

Quần chúng lúc ấy vừa thấy Maddì và Vessantara cùng các con đến nơi không có lễ nghi đón chào gì cả, liền trình vua. Rồi sáu mươi ngàn võ tướng quý tộc đến gặp ngài và than khóc.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

253-254. Vương tộc Ce-ta đến yết kiến ngài
Tất cả đều khóc lóc, thở than hoài:
– Chúng thần kính chào ngài, tâu Chúa thượng,
Chúng thần tin ngài an khang, thịnh vượng.
Còn giang sơn cùng với đại phụ vương
Mong ngài đem mọi tin tức cát tường.

255-256. Quân sĩ của ngài đâu, tâu Chúa tể,
Và ở đâu chiếc vương xa oai vệ?
Không ngựa xe, ngài cất bước hành trình,
Có phải chăng ngài đi đến một mình
Vì đã bị đám quân thù đánh bại?

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói cho các vương tử biết nguyên nhân ngài đến đây:

  1. Xin cám ơn các ngài đầy ưu ái,
    Hãy bình tâm: ta thịnh vượng, khang an,
    Về phụ vương và quốc độ giang sơn
    Ta có đủ tin lành đem thông cáo.
  2. Ta đã tặng con voi là quốc bảo
    Có ngà dài, toàn trắng, thật tốt lành,
    Ðã bao lần thắng trận lúc giao tranh.
  3. Với quạt đuôi trâu rừng và ngọc thạch,
    Ðã dẫm tan bao đám quân thù địch.
    Thật hung hăng, dài thẳng tắp đôi ngà,
    Trắng ngần như núi tuyết Ke-là-sa.
  4. Lọng trắng, cân đai xứng ngôi chúa thượng,
    Với đám quân hầu cùng người quản tượng,
    Bảo vật này ta đã lấy phát phân.

261 -262. Vì thế toàn dân ta đã hận sân,
Và vương phụ xem đây là lầm lỗi.
Do việc kia, ta bị ngài xua đuổi,
Bây giờ ta đi đến Vạn-cổ Sơn,
Xin các ngài cho biết chỗ náu nương.

Các vương tử đáp:

  1. Xin đừng nghi ngờ, cung nghênh Chúa thượng,
    Xin ngự trị đây, tùy nghi thọ hưởng,
  2. Dùng mật ong, cỏ thuốc, thịt, gạo ngon
    Chọn món nào trắng nhất, loại cao lương,
    Tùy thánh ý, ngài sẽ là khách quý.

Vua Vessantara nói:

265-266. Ðây ta nhận quà trao từ các vị,
Xin cảm ơn về thiện chí tràn đầy,
Nhưng phụ vương đã tống xuất giờ đây
Ta đi đến vùng núi đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài chỉ ta nơi cư trú.

Các vương tử đáp:

  1. Xin Ðại vương ở lại xứ Ce-ta
    Cho đến khi dâng sớ tấu đức vua
    Si-vi quốc điều chúng thần biết được!
  2. Lúc ấy dân đi theo ngài lũ lượt
    Hộ tống ngài, đầy tin tưởng hân hoan,
    Ðiều này thần xin thông báo Ðại vương.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. Ta không muốn nhờ các ngài dâng sớ
    Trình phụ vương nơi đây ta cư trú,
    Trong việc này, ngài không phải vua đâu,
    Ta e rằng ngài không có quyền cao.
  2. Triều thần và dân thị thành căm phẫn
    Tụ họp nhau, mọi người đầy kích động
    Bởi vì ta, chúng có thể hại vua.

Các vương tử đáp:

  1. Nếu trong xứ kia có thể xảy ra
    Một sự việc đầy kinh hoàng như thế,
    Ngài được dân xứ Ce-ta hộ vệ,
    Xin ở đây và làm bậc Ðại vương.
  2. Ðất nước này đang thịnh vượng, phú cường
    Với dân chúng thật hào hùng, vĩ đại,
    Cầu xin ngài hãy quyết tâm ở lại
    Với chúng thần và cai trị quốc gia.
  3. – Hãy nghe ta! Các vương tử Ce-ta
    Ta không có ý mong cầu ở lại,
    Vì ta đi như một người bị đuổi,
    Chẳng đến đây cầm quyền lực quân vương,
  4. Dân Si-vi tất cả sẽ bất bằng
    Biết các ngài tôn ta làm Thiên tử,
    Trong khi ta bị đày ra khỏi xứ.
  5. Nếu các ngài muốn thực hiện điều này,
    Sẽ là điều thật bất hạnh từ đây:
    Gây tranh chấp với Si-vi dân chúng,
    Ta không thích đấu tranh và căm hận.

276-277. Ðây ta nhận quà do các vị trao
Xin cám ơn thiện chí biết dường nào,
Nhưng từ nay vua đuổi ta khỏi xứ,
Ta ra đi đến vùng đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài hãy nói rõ cho ta,
Một nơi đâu có thể gọi là nhà.

Như vậy dù có nhiều lời thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ vẫn chối từ vương quốc. Sau đó các vương tử ấy tiếp đón ngài trọng thể. Nhưng ngài không muốn đi vào thành, vì thế họ trang hoàng sảnh đường mà ngài đang ở, giăng màn quanh đó và soạn một chiếc tọa sàng lớn, rồi họ canh phòng cẩn mật chung quanh.

Ngài cư trú trong sảnh đường ấy một đêm một ngày, được canh phòng cẩn mật. Ðến hôm sau, vào lúc tảng sáng, sau một bữa cơm đầy cao lương thượng vị, được các vương tử hộ tống, ngài rời sảnh đường. Sáu mươi ngàn võ tướng Sát-đế-ly ấy đưa tiễn ngài suốt mười lăm dặm đường, rồi dừng lại ở lối vào khu rừng, họ nói về mười lăm dặm đường còn lại của cuộc hành trình:

  1. – Vâng, chúng thần xin trình tâu Chúa tể
    Làm cách nào một vị vua xuất thế
    Nhờ lửa thiêng được an tịnh, tốt lành,
    Mọi sự đều trôi êm ả, thanh bình.
  2. Gan-dha-mà, tâu Ðại vương, núi đá
    Là nơi ngài cùng vợ con cư trú.
  3. Dân Ce-ta với vẻ mặt thảm sầu
    Tất cả đều tuôn chảy những dòng châu,
    Khuyên Ðại vương đi thẳng đường phương Bắc,
    Nơi các đỉnh núi non cao chất ngất.
  4. Nơi kia ngài thấy núi Vi-pu-la,
    (Cầu phúc lành đi sát cạnh vương gia),
    Ðầy lạc thú với nhiều cây xanh ngắt
    Ðang đổ xuống dưới kia bao bóng mát.
  5. Khi đến nơi, ngài sẽ thấy bên mình
    (Cầu chúc ngài lần nữa được phúc lành)
    Ke-tu-ma, dòng nước sâu thăm thẳm
    Tuôn chảy ra từ ngọn đồi vô tận.
  6. Ðầy cá, tôm, nơi trú ngụ bình an,
    Dòng nước sâu kia tuôn chảy tràn lan,
    Ngài sẽ uống, tắm, chơi cùng con cái.
  7. Và nơi kia, trên ngọn đồi khả ái,
    Bóng mát che, ngài sẽ thấy trĩu đầy
    Trái cây thơm như mật ngọt ngào thay,
    Thật hùng vĩ một cây đa đại thọ.
  8. Ngài sẽ thấy núi Na-li-ka nọ
    Và đó là vùng đất của quỷ thần,
    Nơi bầy chim cất tiếng hót hòa âm,
    Nhiều ma quái, lắm sơn thần ẩn nấp.
  9. Từ đó đi xa hơn về phía Bắc
    Là đến hồ tên gọi Mu-ca-linh
    Bao phủ đầy loài sen súng trắng xanh.

287-288. Kế đó cánh rừng dày như mây phủ,
Bước chân lên giống như trên thảm cỏ,
Cây đầy hoa và trái nặng trĩu cành
Ở trên đầu che bóng mát tàng xanh,
Hãy vào đó: sự rình mồi mong ngóng
Bắt con thịt và ăn tươi nuốt sống.

  1. Nơi kia khi rừng nở rộ ngàn hoa,
    Nghe rạt rào muôn vạn tiếng chim ca,
    Tiếng líu lo ở khắp nơi đây đó
    Của bao cánh chim rừng màu rực rỡ.
  2. Nếu ngài đi theo ngọn thác dần dần
    Cho đến khi lên tận chốn suối nguồn,
    Ngài sẽ thấy một hồ hoa sen phủ
    Với các loài hoa chen nhau đua nở.
  3. Ðầy cá tôm, nơi trú ngụ an thân
    Dòng nước kia sâu thăm thẳm vô cùng
    Bền vững, thanh bình, tỏa mùi thơm dịu,
    Chẳng hơi nồng nặc làm ta khó chịu,
  4. Nơi kia ngài xây dựng một thảo đường
    Hơi nghiêng về một chút hướng Bắc phương,
    Và từ am tranh ngài sắp xây cất,
    Ngài hãy bước lên đường tìm lương thực.

Như vậy các vương tử báo cho ngài biết về cuộc hành trình dài mười lăm dặm ấy và tiễn ngài ra đi. Nhưng để đề phòng mọi hiểm nguy đối với vua Vessantara và dự trù không để bất cứ địch thủ nào có thể lợi dụng tấn công, họ ra lệnh cho một người trong xứ, khôn ngoan và khéo léo, theo dõi bước đi của ngài cho đến tận lối vào rừng, rồi họ trở về kinh thành của mình.

Còn vua Vessantara cùng vợ con tiến lên đỉnh Gandhamàdana (Hương Sơn), ở lại đó ngày hôm ấy, sau đó hướng về Bắc đi qua chân núi Vipula, nghỉ chân tại bờ sông Ketumatì để dùng một bữa ăn ngon lành do người thợ rừng thết đãi, xong cả đoàn tắm rửa và uống nước rồi tặng người dẫn đường một cái trâm vàng.

Với tâm thanh thản, ngài vượt qua dòng sông, nghỉ chân một lát dưới gốc đa mọc trên một khoảng đất bằng phẳng của núi này. Sau khi ăn trái đa xong, ngài đứng lên và đi tiếp đến đồi Nàlika. Vẫn tiếp tục tiến lên, ngài đi dọc theo bờ hồ Mucalinda về phía Ðông bắc, từ đó nhờ con đường mòn hẹp ngài đi sâu vào rừng rậm, và xuyên suốt rừng cây dọc theo dòng suối phát ra từ núi ấy cho đến khi ngài gặp chiếc hồ vuông góc.

Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka nhìn xuống cõi trần và xem xét những việc đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Bậc Ðại Sĩ đã vào núi Himavat (Tuyết Sơn), và chắc người phải có nơi cư trú”. Vì thế ngài ra lệnh cho Vissakamma (Thần xây dựng):

– Xin hiền hữu hãy đi vào vùng thung lũng núi Vam ka và xây ẩn am trên một địa điểm an lạc.

Vissakamma ra đi làm hai am tranh với hai lối đi có mái che, có phòng ban đêm và phòng ban ngày. Dọc theo các lối đi, vị ấy trồng các hàng cây hoa và khóm chuối, cùng sắp đặt mọi vật dùng cần thiết cho các ẩn sĩ. Rồi vị ấy ghi một câu:

– Các vật này dành cho ai muốn làm ẩn sĩ.

Và xua đuổi các loài phi nhân (ma quỷ) cùng các loài chim thú có giọng kêu khó chịu đi nơi khác, vị ấy trở về cõi của mình.

Khi nhìn thấy con đường mòn, bậc Ðại Sĩ biết chắc chắn nó phải dẫn đến khu vực của các ẩn sĩ cư trú. Ngài liền để Maddì và hai con ở trước cổng vào am tranh, và tự bước vào: khi thấy câu ghi chú kia, ngài nhận ra Sakka Thiên chủ đang để mắt đến ngài.

Ngài mở cửa, bước vào, đặt cung kiếm xuống cùng xiêm áo mà ngài đang mặc, ngài khoác bộ áo tu hành của ẩn sĩ, cầm cây gậy đi ra mái hiên lui lui tới tới với vẻ thanh tịnh của một vị Ðộc Giác Phật và đến gần vợ con. Maddì quỳ xuống chân ngài, mắt đẫm lệ rồi cùng ngài đi vào am, nàng đến am thất riêng của mình và khoác áo ẩn sĩ. Sau đó hai vị cùng bảo các con làm như vậy. Thế là cả bốn ẩn sĩ cao quý kia ở lại trong vùng thung lũng của đồi Vamka.

Bấy giờ Maddì thỉnh cầu bậc Ðại Sĩ:

– Tâu Chúa thượng, xin chàng ở lại đây với các con, đừng ra ngoài hái quả dại, xin để thiếp đi thế.

Từ đó, nàng thường tìm các thứ quả rừng về nuôi cả ba. Bồ-tát cũng thỉnh cầu nàng:

– Này Maddì, bây giờ chúng ta là ẩn sĩ và nữ nhân là mối bất tịnh. Vậy từ nay về sau xin nàng đừng đến gần ta phi thời.

Nàng ưng thuận ngay.

Nhờ uy lực lòng từ bi của bậc Ðại Sĩ, ngay cả thú rừng trong khoảng ba dặm đất này đều có lòng thương xót lẫn nhau. Hằng ngày vào lúc rạng đông, Maddì thức dậy, đem nước uống và thức ăn cùng nước rửa và đồ chải răng để súc miệng, quét sạch thảo am. Rồi để hai con ở lại với cha chúng, nàng cầm thúng, xẻng và cào đi vào rừng kiếm củ quả dại, và chất đầy thúng. Buổi chiều nàng trở về đặt quả rừng vào am xong, liền tắm rửa các con và cả bốn người ngồi ở cửa am ăn trái cây. Sau đó Maddì đem hai con lui vào trong nội thất của nàng.

Theo cách này họ sống trong vùng thung lũng của núi rừng được bảy tháng.

Ðến đây chấm dứt Sự kiện Ði vào rừng (Vanappavesana-khandam).

*

  1. BÀ-LA-MÔN JÙJAKA VÀ VỢ

Thời ấy, trong vương quốc Kàlinga, tại làng Bà-la-môn tên là Dunnivittha, có một người Bà-la-môn được gọi là Jùjaka. Nhờ khất thực, lão đã kiếm được một trăm đồng tiền và gửi cho một gia đình Bà-la-môn kia rồi lại đi kiếm tiền thêm.

Trong khi lão đi xa, gia đình ấy tiêu hết số tiền. Khi lão trở lại liền mắng nhiếc họ, nhưng họ không thể trả nổi số tiền ấy, vì thế họ gả cô con gái tên Amittatàpanà cho lão. Lão đem cô gái cùng về làng Dunnivittha ở Kàlinga và sống tại đó.

Cô gái Amittatàpana săn sóc lão Bà-la-môn thật chu đáo.

Một số thanh niên Bà-la-môn thấy nàng tận tụy như thế, liền trách móc các bà vợ của họ:

– Hãy xem cô ả săn sóc lão già chu đáo thế kia, trong khi các bà thật vô tình đối với các anh chồng trẻ của mình!

Việc này khiến các bà vợ ấy quyết định đuổi nàng ra khỏi làng. Vì thế họ tụ tập bên bờ sông và nhiều nơi khác để phỉ báng nàng.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ngày xưa ở Kà-lin-ga,
    Jù-jà-ka chính tên Bà-la-môn,
    Sống đây với vợ còn son
    A-mit-ta ấy vẫn còn xuân xanh.
  2. Bọn đàn bà nọ mang bình
    Xuống sông chửi rủa chính danh của nàng,
    Cố làm ô nhục hồng nhan,
    Cả bầy tụ tập, dọc ngang quây quần:
  3. – Mẹ cô quả thật “cừu nhân”,
    Và cha cô nữa cũng đồng “oan gia”
    Ðể cho một lão già nua
    Cưới xin vợ trẻ như cô nõn nường!
  4. Nhà cô mưu kế gì chăng,
    Âm mưu hèn hạ bạo tàn xấu xa!
    Ép duyên cô gái còn tơ
    Gả cho ông lão già nua lòm khòm.
  5. Đời cô quả thật chán chường
    Trong khi cô vẫn còn đang nõn nà,
    Kết duyên với một lão già,
    Ôi thôi, chết quách cũng là tốt hơn!
  6. Hỡi cô xinh đẹp, rõ ràng
    Mẹ cha cô quả bất nhân quá chừng,
    Nếu như con gái còn xuân
    Họ không tìm được một chàng rể xinh.
  7. Lễ dâng lửa, lễ tế sinh
    Sau ngày sinh nhật hóa thành uổng công,
    Nếu như cô gái còn xuân
    Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

300-301. Hẳn nhà khổ hạnh La-môn
Hay là ẩn sĩ đa văn, thiện hiền,
Không còn cấu uế trần duyên
Bị cô phỉ báng rủa nguyền hay chăng?
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm.

  1. Như dao đâm thật đau lòng,
    Như là nọc rắn cháy nồng đốt thiêu,
    Song còn đau khổ hơn nhiều
    Khi nhìn ông lão tiêu điều tả tơi!
  2. Với chồng đã quá già rồi
    Còn gì thích thú vui cười nữa đâu?
    Chuyện trò chẳng chút vui nào,
    Khi cười, lão cũng nhăn nheo khó nhìn!
  3. Gái trai độ tuổi thanh niên,
    Sống cùng nhau chốn tư riêng thắm nồng
    Dứt ngay mọi nỗi đau buồn
    Vẫn còn tiềm ẩn trong lòng vấn vương.
  4. Cô là con gái còn xuân
    Xinh tươi, được đám đàn ông mơ hoài,
    Thế sao ông lão già rồi
    Làm cô thích thú? Hãy lui về nhà!

*

Khi nàng nghe họ nhạo báng, nàng liền mang bình nước về nhà và khóc.

– Tại sao nàng khóc?

Ông chồng hỏi và nàng trả lời qua vần kệ:

  1. Tôi không lấy nước về nhà,
    Ðằng kia một đám đàn bà cười tôi,
    Vì chồng tôi quá già rồi,
    Họ luôn chế nhạo lúc tôi ra ngoài.

Jùjaka đáp:

  1. Nàng không cần lấy nước hoài,
    Nàng không cần phục vụ tôi thế này.
    Nàng ôi, đừng giận dỗi vầy,
    Vì tôi sẽ lấy nước thay cho nàng.

Cô vợ đáp:

  1. Chàng đi lấy nước? Không màng!
    Ðó không phải cách thông thường thế gian.
    Tôi xin nói thật rõ ràng:
    Nếu chàng làm vậy, tôi chàng chia tay.
  2. Ngoại trừ mua một nô tài,
    Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này,
    Tôi xin nói rõ chàng hay:
    Tôi thề, không ở lại đây với chàng.

Jùjaka đáp:

  1. Làm sao mua nổi tiểu đồng?
    Tôi không nghề ngỗng, bạc vàng, thóc ngô.
    Thôi đừng giận dỗi, liễu bồ,
    Tôi đi làm việc gia nô của nàng.

Cô vợ bảo:

  1. Giờ tôi muốn nói với chàng
    Những lời nghe được dân làng nói ra:
    Ðằng kia trên đỉnh Vam-ka
    Có vì vua Ves-san-ta lưu đày.
  2. Giờ chàng hãy vội đi ngay,
    Xin ngài cho được một tay tiểu đồng,
    Vương gia chắc chắn bằng lòng
    Ban chàng những thứ chàng mong ước mà.

Jùjaka đáp:

313 – 314. Tôi đây lụ khụ quá già,
Lòng e lắm nỗi đường xa gập ghềnh,
Xin đừng than khóc buồn tình,
Nay tôi chẳng có thân mình dẻo dai,
Nhưng đứng giận dỗi, nàng ôi,
Tôi nguyền làm việc chính tôi sẵn lòng.

Cô vợ bảo:

  1. Chàng sao chẳng khác tên quân
    Trước khi ra trận đầu hàng, lý do?
    Và chàng đành phải chịu thua
    Trước khi ra trận và so thử tài?

316 – 317. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này.
Tôi xin nói rõ chàng hay
Tôi thề không ở lại đây với chàng,
Chuyện này quả thật đáng buồn,
Ðó là một chuyện đau thương cho chàng.

  1. Nhìn tôi hạnh phúc ngập tràn
    Trong tay của một tình lang khác rồi,
    Áo quần lộng lẫy thắm tươi,
    Theo mùa thay đổi, trăng trời chuyển luân.
  2. Khi chàng năm tháng tàn dần,
    Còn tôi vắng bóng, chàng buồn khóc than,
    Tóc chàng sẽ bạc trắng ngần,
    Mặt chàng sẽ gấp bội phần nếp nhăn!

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Và bây giờ lão La-môn
    Lòng đầy sợ hãi phục tuân ý nàng,
    Bị nàng hành hạ nát tan,
    Ta nghe lão phải vội vàng nói năng:
  2. – Cho tôi thực phẩm đi đường,
    Làm cho tôi bánh mật ngon ngọt ngào,
    Làm thêm lương thực khô nào,
    Bánh mì lúa mạch nướng mau trên lò.
  3. Thế rồi một cặp gia nô
    Có cùng đẳng cấp với cô đem về,
    Bọn này mệt mỏi chẳng hề,
    Ngày đêm phục vụ cận kề ái nương.

*

Nàng nhanh chóng chuẩn bị lương thực và báo cho lão mọi sự đã xong. Trong lúc ấy, lão sửa lại các chỗ xiêu vẹo quanh túp lều, làm cửa ngõ chắc chắn, mang củi từ rừng về, kéo nước vào cái lu lớn và đổ đầy mọi nồi chảo.

Rồi lão vừa khoác chiếc áo của người tu khổ hạnh, vừa dặn vợ lúc ra đi:

– Nàng hãy chắc chắn đừng đi ra ngoài những lúc không thích hợp và hãy cẩn thận giữ mình cho đến khi ta về.

Vừa mang giày và đeo bao lương thực lên vai, lão vừa đi vòng quanh vợ về phía hữu, rồi ra đi với đôi mắt đẫm lệ ròng ròng.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này qua vần kệ:

  1. Việc này xong, lão La-môn
    Mang giày rồi lại đứng lên tức thì
    Ði vòng quanh ả nữ nhi
    Nghiêng về phía hữu chia ly vợ mình.
  2. Ra đi khoác áo tu hành
    Lệ rơi lả tả quanh vành mắt y,
    Vội vàng đến nước Si-vi,
    Kinh đô trù phú tìm về gia nô.

Khi lão đến kinh thành này, lão hỏi đám đông đang tụ tập để biết nơi vua Vessantara ở.

*

VII. JÙJAKA LÊN NÚI VAMKA

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

325-326. Lão đi đến tận nơi xa,
Hỏi thăm dân chúng vào ra quây quần:
– Xin cho tôi biết Ðại vương
Ves-san-ta ấy tìm phương hướng nào?
Ðáp ngay cho lão đôi câu,
Ðám đông tụ họp cùng nhau trả lời:

  1. – Ngài đành phải chịu tàn đời
    Chỉ vì bố thí lũ tồi như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi
    Ra ngoài xứ sở, đến đồi Vam-ka.
  2. Ngài đành phải chịu tiêu ma
    Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
    Ðem con vợ đến ở đồi Vam-ka.

– Thế là các ngươi đã hủy hoại Ðại vương của ta, nay còn vác mặt đến đây nữa ư? Ngươi hãy đứng yên đấy!

Rồi lấy gậy gộc, sỏi đá, họ đánh đuổi lão ra.

Nhưng lão được các vị thần dẫn vào đúng con đường đi đến đồi Vamka…

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lão kia bị vợ rầy la
    Do niềm tham dục bùng ra hoành hành,
    Chuộc sai lầm ở rừng xanh
    Nơi loài hổ báo thường rình mồi săn.
  2. Tay cầm gậy, bát xin ăn,
    Muỗng làm tế lễ, vào rừng hoang sơ,
    Nơi đây là chốn ẩn cư
    Của người bố thí đúng như ý mình.
  3. Một khi vào tận rừng xanh
    Từng bầy chó sói vây quanh con đường,
    Nhảy quàng xiêng lão La-môn,
    Rồi đi hốt hoảng lạc đường nào hay.
  4. La-môn lắm dục vọng này,
    Lòng tham buông thả, thấy ngay lạc loài
    Ðường lên Vạn – cổ mất rồi,
    Bắt đầu thăm hỏi những lời dò la:
  5. -Ai cho biết Ves-san-ta,
    Ông hoàng chiến thắng mọi vua trên đời,
    Người ban an lạc đúng thời,
    Vị vua vĩ đại, hùng oai trên trần?
  6. Nơi an trú kẻ cầu ân,
    Như đất lành với muôn dân sinh thành?
    Nào ai sẽ nói cho mình
    Ves-san-ta Chúa quang vinh, hùng cường?
  7. Mọi người mong muốn cầu ân
    Tìm ngài như biển mọi sông đổ vào,
    Nào ai nói với ta mau
    Ves-san-ta Chúa tối cao hùng cường?

336 – 337. Như hồ lạc thú an toàn,
Nước trong mát lạnh ngập tràn nhấp nhô,
Súng sen giăng trải lô xô,
Ngó tơ bao phủ mặt hồ lặng thinh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

338 – 339. Như cây sung lớn bên đường,
Mọc lên làm chốn nghỉ chân an toàn
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

340 – 341. Như xoài, hoặc cây bàng
Mọc làm thành chốn bên đường nghỉ chân
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ báo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường?

  1. Nào ai nghe tiếng ta than
    Chung quanh toàn cả rừng hoang hãi hùng?
    Lòng ta xiết đỗi vui mừng
    Nếu ai cho biết vương quân nơi nào.
  2. Chung quanh toàn cả rừng sâu,
    Ai nghe ta thở than nào có hay?
    Hân hoan hạnh phúc lắm thay
    Nếu ai cho biết ngài rày nơi nao?

*

Bấy giờ người kiểm lâm đã được chia phiên canh giữ rừng, nghe lời than vãn này liền suy nghĩ: “Ðây là lão Bà-la-môn đang kêu ca tìm nơi trú ẩn của vua Vessantara, lão đến đây không có mục đích gì tốt đâu. Lão muốn xin ngài cho Maddì hoặc hai trẻ kia, chắc chắn thế. Ðược rồi, ta sẽ giết lão”. Thế là y liền đến gần lão và rút cây cung ra hăm dọa lão:

– Này lão Bà-la-môn, ta sẽ không tha mạng lão đâu!

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

344 – 345. Thợ săn ngang dọc rừng hoang,
Lắng nghe lời lão thở than, nói rằng:
– Ngài đành phải chịu tiêu vong
Chỉ vì bố thí những phường như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ra ngoài xứ sở đến đồi Vam-ka!

  1. Ngài đành phải chịu tiêu ma
    Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
    Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
    Ðem vợ con đến ở đồi Vam-ka.
  2. Ðồ ngu vô dụng quả là,
    Nếu ngươi mong muốn bỏ nhà ra đây,
    Ðể tìm vương tử rừng này
    Như con hạc kiếm cá bầy giữa sông.
  3. Thế thì đây, hỡi tôn ông,
    Mạng kia của lão, ta không tha vầy,
    Tên ta sẽ hút máu đầy
    Khi ta bắn nó từ cây cung dài.
  4. Rồi ta sẽ chẻ đầu ngươi,
    Xé tim gan ấy tức thời tại đây,
    Như chim cúng lễ thần cây,
    Ta làm thịt lão giờ đây tế thần.
  5. Rồi ta lấy thịt, mỡ, gân,
    Lấy đầu, tim lão đủ phần thiếu chi,
    Lão thành tế vật tức thì
    Ngay khi lão mới ra đi lìa dời.
  6. Lão là lễ vật đáng mời,
    Lễ dâng đàn tế tuyệt vời ước mong,
    Về sau lão chẳng còn hòng
    Tìm đường hãm hại vợ con của ngài.

Nghe những lời này, lão già sợ chết khiếp, liền tìm cách trả lời dối trá:

  1. Sứ thần ai cũng kiêng oai,
    Không ai được phép giết người sứ quân,
    Ðây là qui luật ngàn năm,
    Nếu ông muốn, hãy chú tâm nghe này:
  2. Thần dân hối hận lắm thay,
    Vua cha thương nhớ suốt ngày lo âu,
    Mẹ ngài mòn mỏi ưu sầu,
    Mắt bà đang hóa ra mau mờ dần.
  3. Ðến đây ta chính sứ thần
    Ðem về Chúa tể Ves-san-ta này,
    Hãy nghe, cho lão biết vầy
    Nơi đâu có thể tìm ngài Chúa công.

Lúc ấy, người kia hài lòng khi nghe lão đến để tìm vua Vessantara về, nên y vội vàng buộc bầy chó lại, gọi lão Bà-la-môn xuống và vừa mời lão ngồi trên một đống củi, y vừa ngâm vần kệ này:

355-356. Ta yêu vương tử, sứ thần,
Và đây ta có để phần tặng ông
Món quà thân thiện đón mừng:
Ðùi nai cùng hũ mật ong ngọt ngào;
Ân nhân tìm kiếm cách nào
Ta đây sẽ nói làm sao bây giờ.

Nói xong, y cho lão Bà-la-môn thức ăn, cùng một bầu mật ong và một đùi nai nướng, rồi để lão lên đường, vừa đưa tay phải lên chỉ nơi bậc Ðại Sĩ đang ở, y vừa ngâm kệ:

  1. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa,
    Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
    Nơi Ves-san-ta Ðại vương
    Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
  2. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
  3. Cây đằng xa đó, kìa trông,
    Trĩu cành sai quả xanh um sườn đồi,
    Trong khi đỉnh núi cao vời
    Thẫm đen đến tận mây trời ẩn thân.
  4. Bụi sal, tai ngựa, cát đằng,
    Cùng nhiều cây khác nhẹ nhàng chuyển rung
    Khác nào một đám túy ông
    Lắc lư trong gió, người trông thấy hoài.
  5. Trên cao các dãy cây trời
    Bầy chim hòa nhạc đồng thời ca vang,
    Naj-ju, cu gáy từng đàn
    Chuyền từ cây nọ nhẹ nhàng lướt nhanh.

362-363. Chen nhau giữa đám lá cành
Chim mời khách lạ, hoan nghênh đón mừng,
Làm vui lòng mọi thế nhân
Tìm nhà an trú giữa rừng hoang sơ,
Nơi kia cùng với con thơ,
Ves-san-ta chúa ẩn cư xuất trần.

  1. Với y của bậc La-môn
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
    Người này lại nói thêm để ca tụng vùng thảo am ấy:
  2. Hồng đào, xoài mít thơm nồng,
    Mận mơ đủ loại lòng thòng, Sà-la,
    Tin-dook vàng ánh, cây đa,
    Cùng nhiều cây khác hiện ra cây bàng.
  3. Lắm cây sung, vả trên ngàn
    Toàn thân mọc thấp, chín thơm ngọt ngào,
    Chà là, nho tuyệt diệu sao,
    Tổ ong mật, hãy ăn vào thỏa thuê.
  4. Vài cây xoài mới trổ hoa,
    Vài cây có trái nhú ra đúng mùa,
    Một vài trái đã chín vừa,
    Trái xanh như ếch, trái chưa chín vàng.
  5. Người nào đứng dưới cây rừng
    Hái bao nhiêu quả cây dâng đón mời,
    Sắc hương, mùi vị tuyệt vời,
    Dù chưa chín, hoặc chín rồi đều phô.
  6. Ôi! Làm ta phải la to
    Khi nhìn cảnh tượng bao la, phi thường
    Khác nào khung cảnh thiên đường,
    Nơi thần tiên ở, khu vườn Lạc hoan.

370-371. Cọ, dừa, thốt nốt tràn lan
Trên cao nguyên của núi ngàn hoang sơ,
Muôn hoa dăng chuỗi kết tua
Khác nào lễ hội ngọn cờ tung cao,
Hoa kia có đủ sắc màu
Giống như ngàn vạn vì sao điểm trời.

  1. Gụ, đàn hương mọc khắp nơi
    Cùng nhiều cây khác không lời diễn ra,
    Cây dâu, cây dẻ, phượng hoa
    Mọc dày chi chít chen đua la đà.
  2. Gần bên có một cái hồ,
    Súng sen xanh trắng tràn bờ phủ lên,
    Khác nào vườn các thần tiên
    Chính tên là cảnh Lạc Viên trên trời.
  3. Sơn ca, cu gáy hót hoài
    Làm cho khắp mọi sườn đồi âm vang,
    Ðắm say vì các hoa ngàn
    Nở ra theo đúng mùa màng quanh năm.

375-376. Hãy nhìn mật ngọt âm thầm
Rơi rơi từng giọt trên tàn sen thưa,
Và nghe ngọn gió đong đưa
Lướt đi nhè nhẹ từ bờ tây nam
Ðến khi tất cả phấn hương
Ðược mang theo gió tỏa lan ngát trời.

377-378. Biết bao dâu, lúa chín muồi
Mọc quanh vùng ấy thường rơi xuống hồ,
Từng đàn cua, cá, trạnh, rùa
Phóng vào tìm kiếm say sưa miệt mài,
Mật rơi như thể sữa tươi,
Như bơ từ đám hoa cười mênh mang.

  1. Từng làn gió nhẹ đưa ngang
    Cỏ cây đủ loại mùi hương diệu huyền,
    Hình như rừng rậm quanh miền
    Ðắm say với đám hoa trên núi đồi.

380-381. Bầy ong bay lượn khắp nơi
Vo ve quanh quẩn theo mùi hoa thơm,
Bầy chim đủ sắc bay cùng
Líu lo, chiêm chiếp trong lòng hân hoan
Nhiều chim cùng bạn lượn vòng:

  1. – Chích chích, chép chép, vui mừng biết bao!
    Chim kêu ríu rít lao xao:
    – Bạn yêu, bạn quý, bạn trao ân tình!

383 – 384. Muôn hoa dăng chuỗi viền quanh
Như khi cờ xí tung hoành lượn bay,
Hoa đầy màu sắc đẹp thay,
Hương thơm ngào ngạt thoảng bay xa gần,
Nơi kia cùng với đàn con,
Ves-san-ta Chúa ẩn thân xuất trần.

  1. Với y của bậc La- môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.

Người dân quê miêu tả nơi cư trú của vua Vessantara như vậy, khiến Jùjaka thích thú đáp lễ và chào y qua vần kệ:

  1. Nhận đây bánh lúa mạch non
    Thảy đều được nhúng mật ong ngọt ngào.
    Nhiều viên bánh mật khéo sao,
    Ta nay đem biếu ông nào ăn đi.
    Người dân quê đáp lại:
  2. Cám ơn, tôi chẳng cần gì,
    Giữ phần lương thực mà đi đường dài.
    Lấy thêm lương thực tôi mời,
    Rồi xin Ðạo sĩ đến nơi ông cần.
  3. Thẳng lên về phía thảo đường,
    Lộ trình nơi ấy dẫn ông đến nhà
    Ẩn nhân là Ac-ca-ta,
    Răng đen, đầu bẩn, ly gia xuất trần.

389 – 390. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Ðến kia, và hỏi con đường,
Rồi ngài sẽ chỉ cho tường, Tôn ông.

  1. Ðiều này nghe được vừa xong,
    Lão quay bên phải, đi vòng Ce-ta,
    Rồi đi tìm Ac-ca-ta,
    Con tim rộn rã chan hòa hân hoan.
  2. Jù-ja-ka tiến thẳng đường
    Ðến khi lão đã bước gần thảo am,
    Vào nơi ẩn sĩ trú thân,
    Như vầy lão vội ân cần hỏi thăm:
  3. – Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  4. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Vị khổ hạnh đáp:

  1. Cám ơn ngài, hỡi La-môn,
    Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Ta đây tránh được mọi loài, Tôn ông.
  3. Biết bao nhiêu tháng năm ròng
    Mà ta đã sống trong vùng đất đây,
    Những gì bệnh tật xưa nay,
    Ta không hề thấy ở đây khi nào.
  4. Bà-la-môn hỡi, kính chào!
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa vào chốn đây.
    Xin vào, ta chúc cầu may,
    Và xin hãy rửa chân tay của ngài.
  5. Pi-yal, tin-dook lá cây,
    Kà-su-ma quả ngọt thay nồng nàn,
    Trái cây như thể mật ong
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  6. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới một đồi cao trong rừng,
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

Jùjaka nói:

401-402. Tôi xin nhận vật ngài ban,
Và xin nhận lễ cúng dường, Tôn ông.
Tôi tìm con của vương quân
Sañ-ja-ya bị lưu vong lâu rày,
Dân Si-vi phán lệnh đày,
Xin cho tôi biết nơi ngài ẩn thân.

Vị khổ hạnh đáp:

  1. Ông tìm Si-vi Ðại vương
    Mà không có ý thiện lương trong đầu,
    Chắc ông cố ý mong cầu
    Chiếm vương phi của ngài đâu khó gì.

404-405. Kan-hà cùng với Jà-li
Làm gia nô với nữ tỳ nhà ông,
Hay ông tìm mẹ lẫn con
Nếu ông có thể cầu ơn vua này,
Ngài không lạc thú gì đây,
Cũng không thực phẩm, tiền tài, Tôn ông.

Nghe vậy, Jùjaka nói:

  1. Tôi không có ý bất lương,
    Cũng không đến để cầu mong ơn ngài.
    Song nhìn người thiện tuyệt vời,
    Vui thay sống với các người thiện lương.
  2. Tôi chưa từng thấy quân vương,
    Chính ngài đã bị thần dân lưu đày.
    Tôi mong diện kiến vua này,
    Xin ông cho biết nơi ngài ẩn cư.

Vị Ðạo sĩ kia tin lời lão:

– Ðược rồi, ta sẽ nói với ông. Chỉ cần ở lại đây với ta hôm nay.

Thế là vị ấy tiếp đãi lão đủ thứ củ quả rừng và hôm sau, đưa tay ra chỉ đường cho lão.

Vị ấy lại ngâm các vần kệ như trước:

  1. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa
    Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
    Nơi Ves-san-ta Ðại vương
    Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
  2. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
    Và vị ấy nói thêm:
  3. Tàn cây tiêu nọ, thấy không,
    Ở trên mảnh đất tiên thần khác đâu,
    Bụi không hề thổi lên cao,
    Cỏ kia xanh mãi chẳng bao giờ tàn.
  4. Cỏ xanh tựa cổ chim công,
    Sờ vào êm dịu nhu bông khác nào,
    Mọc không quá bốn tấc cao,
    Lúc nào cũng vậy, không bao giờ nhiều.
  5. Ka-pi, xoài, mận hồng đào,
    Chùm sung lủng lẳng không cao, chín muồi,
    Mọi cây có quả tốt tươi,
    Mọc lên trong cánh rừng đồi xinh sao.
  6. Trong veo dòng suối ngọt ngào
    Xanh như ngọc bích rì rào chảy ngang,
    Tung tăng cá lội từng đàn,
    Vui đùa lên xuống khe ngàn lượn quanh.
  7. Hồ nằm trong cảnh hữu tình
    Với bao sen trắng sen xanh kế gần,
    Khác nào ở chốn thiên cung,
    Trong vườn Hoan lạc trên tầng trời xa.
  8. Có ba chủng loại liên hoa
    Trong hồ khoe sắc cho ta thấy nào,
    Sắc màu thay đổi biết bao
    Xanh lơ, đỏ sẫm, trắng sao trắng ngần.

Như vậy vị ấy ca tụng hồ sen vuông góc kia và kế đó ca tụng hồ Mucalinda:

  1. Hoa kia êm dịu như bông,
    Hoa sen xanh thẫm, trắng ngần đua chen,
    Nhiều cây cỏ khác mọc lên,
    Mu-ca-lin chính là tên của hồ.
  2. Ông nhìn hoa nở thật to,
    Nơi kia vô số chen đua lục hồng,
    Mùa hè hay dẫu mùa đông
    Ðều cao đến tận gối ông đây này.
  3. Hoa nhiều màu sắc đẹp thay
    Theo làn gió nhẹ hương bay dịu dàng,
    Rồi ông nghe tiếng rộn ràng
    Của bầy ong đến theo làn hương đưa.
  4. Chung quanh bến nước bờ hồ
    Ðứng thành một dãy lô xô tiếp liền,
    Kìa cây gụ, nọ hoa kèn,
    Ka-dam-ba ngất nghểu lên cao hoài.
  5. Loài hoa sáu cánh khoe tươi,
    Nhiều cây hoa khác cùng cười rộ ra;
    Lùm cây rậm rạp quanh hồ
    Thảy đều đứng lặng để cho ta nhìn.
  6. Cây kia đủ mọi dáng hình,
    Hoa kia đua nở đẹp xinh đủ màu,
    Các lùm cây rậm biết bao
    Chen nhau cao thấp đón chào mắt ta.
  7. Từng làn gió nhẹ hương đưa
    Từ rừng hoa trắng, xanh lơ, đỏ hường,
    Mọc lên quanh chốn thảo đường,
    Nơi kia ngọn lửa được ươm nóng bừng.
  8. Chung quanh bờ nước kế gần
    Nhiều cây cỏ mọc quây quần thiết thân,
    Cỏ cây vẫn cứ rung rung
    Trong khi vang vọng tiếng ong thầm thì.
  9. Mùi hương của vạn hoa kia
    Mọc lên khắp chốn bờ khe, suối, hồ
    Luyến lưu bên bạn lâu xa
    Nếu như bạn giữ hai ba tuần liền.
  10. Ba loài bầu, bí hiển nhiên
    Mọc lên giữa hồ sen thế này,
    Quả bằng bình nước trong tay,
    Quả kia thật lớn sánh tày trống canh.
  11. Tỏi, hành, hạt cải, súng xanh
    Muôn hoa nở rộ trên cành dễ thương.
    Hoa lài, ngào ngạt trầm hương,
    Cát đằng rậm rạp vấn vương cây hoài.
  12. Ngọt ngào thay khóm hoa lài,
    Cây chàm, bông vải, nhiều loài hữu danh,
    Hoa kèn, rau diếp mọc quanh
    Khác nào ngọn lửa vàng hanh nắng trời.
  13. Thưa vâng, mỗi loại hoa tươi
    Mọc ra trong nước hay trồi đất lên
    Chung quanh hồ nước thần tiên
    Hãy nhìn chúng sống đua chen quây quần.
  14. Nơi kia bầy sấu vẫy vùng,
    Mọi loài thủy tộc ẩn thân chốn này.
    Những đàn hươu đỏ thường ngày
    Cùng nhiều thú khác tìm đây nước nguồn.
  15. Nghệ vàng, long não, cỏ hương,
    Hạt thơm, cam thảo thân vươn cao ngồng.
  16. Nơi kia sư tử, voi rừng,
    Cọp vằn tìm kiếm bạn lòng dấu yêu,
    Từng bầy hươu đỏ, hươu sao,
    Chó hoang, nai hoẵng dáng cao lẹ làng.
  17. Chồn bay, trâu yak, linh dương,
    Những bầy lớn nhỏ khỉ rừng lao xao,
    Gấu, bò, mãnh thú biết bao,
    Từng đàn dồn dập đi vào dọc ngang.
  18. Tê ngưu, sóc nhỏ, chuột hoang,
    Chó săn, trâu nước, giả-can, heo rừng,
    Tắc kè, beo gấm, sói lang,
    Thỏ rừng, chồn nhỏ từng đàn ra vô.
  19. Ðủ loài rắn, nhện giăng tơ,
    Ðủ loài chim chóc líu lo trên cành,
    Tạo nên đủ loại âm thanh
    Trong khi chiêm chiếp lượn quanh lòng vòng.
  20. Diều hâu, cú, diệc, gà rừng,
    Sơn ca với tiếng du dương đồng hòa,
    Trĩ, ưng, công với thiên nga,
    Hạc, chim lưng đỏ hòa ca bạn tình.
  21. Nơi kia dịu ngọt âm thanh
    Sắc màu rực rỡ dáng hình chim muông:
    Cổ xanh, mào trắng, lục hồng
    Như công, vỗ cánh phập phồng bay lên.
  22. Sao ta cố kể ngàn tên
    Ðủ từng chi tiết chẳng quên thế này?
    Hãy suy đủ loại chim bay,
    Và đem chúng lại thêm đầy thơ ta.
  23. Cả đàn chim chóc đồng hòa
    Du dương ngàn khúc hoan ca tưng bừng,
    Ngập tràn đầy giữa khoảng không
    Hồ Mu-ca với tiếng ồn vui tai…
  24. Khu rừng có đủ loài voi,
    Linh dương, các loại hươu nai thiếu gì.
    Lòng thòng từ các cây kia
    Cát đằng to lớn từng bè quấn ngang.
  25. Nơi kia hạt cải, mía đường,
    Nhiều loài thóc gạo mọc vươn cao dày.
    Ðậu, mè, dược thảo quý thay
    Sẵn sàng cung cấp đủ đầy khách thăm.

441-442. Ðằng kia có lối đường mòn
Ðưa ông đến chốn ẩn thân của ngài.
Nơi kia đói khát không ai,
Cũng không hề thấy mảy may chán chường.
Nơi kia cùng với các con.
Ves-san-ta bậc Ðại vương lánh trần.

  1. Với y của bậc La-môn,
    Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào.
    Khoác thêm một tấm da vào,
    Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
  2. Việc này khi đã nghe xong,
    Quanh ngài bên phải, lão vòng bước ra,
    Ði tìm vua Ves-san-ta
    Tâm hồn rộn rã chan hòa niềm vui.

*

VIII. BỐ THÍ HAI CON

Jùjaka tiếp tục đi theo con đường ẩn sĩ Accata đã chỉ cho lão và đến tận cái hồ vuông góc. Lão nghĩ: “Bây giờ là chiều tối rồi. Giờ này Maddì đã trở về từ rừng và đàn bà thường hay cản trở. Ngày mai, khi bà ấy đã đi vào rừng, ta sẽ đến gặp vua Vessantara và xin ngài các đứa trẻ kia, rồi trước khi bà trở về, ta phải đi ngay”.

Thế là lão trèo lên ngọn đồi bằng phẳng không xa mấy, và nằm xuống một nơi êm ái.

Bấy giờ khoảng rạng ngày hôm sau, Maddì nằm mộng thấy như vầy: một người đàn ông da đen mặc hai áo vàng, đeo đôi hoa tai đỏ, bước vào lều cỏ và chụp lấy tóc trên đầu Maddì và lôi nàng ra ngoài ném nàng nằm sấp xuống đất và trong lúc nàng kêu thét, gã móc hai mắt nàng ra, chặt hai tay, cắt xẻ lồng ngực nàng, kéo tim nàng ra máu chảy ròng ròng và đem quả tim đi mất.

Nàng kinh hoàng thức dậy, và nghĩ: “Ta vừa thấy một cơn ác mộng. Ta không có ai ở đây trừ Vessantara giải thích mộng này, vậy ta phải hỏi ngài việc này”. Rồi nàng đi đến lều của bậc Ðại Sĩ và gõ cửa.

– Ai đó?

– Tâu Chúa công, thiếp là Maddì đây.

– Này hiền thê, sao nàng đến đây phi thời, và phá lời giao kết của chúng ta?

– Tâu Chúa công, thiếp đến đây không phải vì ham muốn gì, mà vì thiếp vừa thấy ác mộng.

– Vậy nàng hãy nói cho ta biết, Maddì.

Nàng kể lại giấc mộng đã hiện ra. Bậc Ðại Sĩ hiểu ngay ý nghĩa giấc này và suy nghĩ: “Sự bố thí của ta sắp thành tựu viên mãn. Hôm nay sẽ có người đến cầu xin các con ta. Ta sẽ an ủi Maddì và để nàng ra về”, vì thế ngài bảo:

– Tâm trí nàng chắc hẳn bị xao động vì ngủ không an giấc hay ăn khó tiêu đó thôi. Ðừng sợ gì cả.

Ngài giả vờ lấy cớ này an ủi nàng và để nàng đi ra.

Khi trời sáng dần, nàng làm tất cả mọi việc xong, hôn các con và nói:

– Hôm qua mẹ gặp cơn ác mộng, các con hãy cẩn thận nhé.

Rồi đem hai con giao cho bậc Ðại Sĩ, nàng xin ngài chăm sóc các con rồi lấy thúng, cuốc xẻng, lau nước mắt và đi vào rừng hái củ quả.

Còn Jùjaka nghĩ lúc ấy nàng đã đi rồi, liền từ đồi đi xuống theo con đường mòn tiến về phía am lá. Bậc Ðại Sĩ vừa ra khỏi am và ngồi xuống trên một phiến đá như một bức tượng bằng vàng. “Bây giờ người cầu ân sắp đến rồi!” Ngài suy nghĩ, như một người say rượu đang khát nước và ngồi ngắm con đường mà kẻ kia sắp đến, còn các con ngài đang chơi đùa quanh quẩn bên chân ngài.

Và trong lúc ngài ngắm con đường, ngài thấy lão Bà-la-môn đang đến, như thể gánh nặng bố thí trong suốt bảy tháng được đặt xuống nay ngài lại mang lên, ngài reo mừng:

– Này Bà-la-môn, hãy đến đây mau!

Rồi ngài ngâm kệ với bé trai Jàli:

  1. Jà-li, hãy đứng lên con,
    Ngắm xem kìa lão La-môn đến rồi,
    Chính thời xưa đã tái hồi,
    Làm ta tràn ngập niềm vui chan hòa.

Nghe vậy, cậu bé đáp:

  1. Vâng vâng, phải đấy thưa cha,
    Con đang nhìn thấy lão Bà-la-môn,
    Hình như lão đến cầu ân,
    Hẳn là vị khách đang cần nhà ta.

Cùng với những lời này, cậu muốn bày tỏ lòng cung kính lão, liền đứng lên từ chỗ ngồi và đi ra đón lão Bà-la-môn, xin xách dùm hành lý của lão.

Lão Bà-la-môn nhìn cậu và nghĩ: “Ðây hẳn là Jàli, con trai vua Vessantara; ngay từ đầu, ta phải nói năng thô lỗ với nó mới được”.

Thế là lão búng ngón tay ra phía cậu và thét to:

– Thôi cút đi! Cút đi!

Cậu bé suy nghĩ: “Người đâu mà thô lỗ thế?”. Rồi nhìn kỹ thân lão, cậu nhận thấy lão có đủ mười tám dị tật của con người!

Nhưng lão Bà-la-môn đến gần Bồ-tát và vừa cung kính, chào ngài, vừa nói:

  1. Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
  2. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Bồ-tát từ tốn đáp lại:

  1. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
    Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi
    Ta đây tránh được mọi loài bình an.
  3. Sống đây đã bảy tháng trường,
    Chúng ta hạnh phúc trong rừng hoang sơ,
    Chẳng hề từ trước đến giờ
    Ðược trông thấy một vị Bà-la-môn.
  4. Như nay nhìn thấy tôn ông
    Khác nào thấy được thần nhân thế này:
    Vil-va làm gậy cầm tay,
    Hộp bùi nhùi với bình đầy nước trong.
  5. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
    Hãy vào chúc phúc cầu may,
    Bước vào và rửa chân tay, ta mời.
  6. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
    Kà-su-ma quả ngọt bùi thơm ngon,
    Trái cây như thể mật ong,
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  7. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng,
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.

Nói lời này xong, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Chẳng phải lão Bà-la-môn đến khu rừng rậm này mà không có duyên cớ. Ta phải hỏi lão lý do ngay lập tức”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nói cho ta biết nguyên nhân,
    Lý do nào khiến tôn ông lên đường,
    Ðẩy đưa ông tận rừng hoang,
    Xin ông hãy nói rõ ràng ta hay.

Jùjaka đáp:

  1. Giống như hồng thủy ngập đầy
    Và không hề có một ngày nào vơi,
    Thần nay muốn đến xin ngài
    Ban cho thần được cả hai con nhà.

Nghe điều này, bậc Ðại Sĩ hân hoan trong lòng và ngài nói như thể người dang tay đưa ra chiếc túi cả ngàn đồng tiền:

  1. Ban ân, ta chẳng chần chừ,
    Ông là chủ chúng từ giờ trở đi.
    Sáng nay đi vắng vương phi,
    Ðể tìm thực phẩm, chiều về đến đây.
  2. Xin ông ở lại đêm nay,
    Sáng mai, ông sẽ đi ngay lên đường.
    Tắm con, bà xức dầu thơm,
    Và quàng cho chúng những tràng hoa tươi.

460-461. Ðêm nay ở lại, xin ông,
Sáng mai vừa hé vầng đông lên đường,
Hai con sẽ được điểm trang
Với nhiều hoa đẹp mùi hương ngạt ngào,
Rồi ông đem chúng đi mau
Cùng nhiều củ quả dồi dào thức ăn.

Jùjaka đáp:

  1. Thưa không, trình tấu Ðại vương,
    Thần đi, chẳng dám vấn vương nơi này,
    E rằng trở ngại gì đây
    Sẽ ngăn cản bước chân ngay trên đường.
  2. Nữ nhân chẳng phải rộng lòng
    Phát ban thường vẫn cản ngăn cố tình,
    Biết nhiều mưu kế thông minh,
    Thường hay lạc lối, ác hành tạo nên.
  3. Người ban bố với niềm tin
    Đừng nên thấy mặt mẹ mình thiết thân,
    Nếu không, bà sẽ cản ngăn,
    Tâu Quân vương, tiểu thần mong lên đường.
  4. Xin ban vương tử, công nương,
    Đừng cho trẻ thấy mặt vương phi này.
    Người ban bố, tín tâm đầy,
    Thì công đức ấy càng ngày càng tăng.
  5. Xin ban vương tử, công nương,
    Ðừng cho trẻ thấy mặt vương phi này
    Người cho kẻ giống thần đây,
    Ði lên thiên giới thẳng ngay tức thì!

Vessantara nói:

  1. Nếu không muốn thấy vương phi,
    Trung thành tận tụy hiền thê quả là,
    Hãy đưa Jà-lí, Kan-hà,
    Ði thăm tổ phụ vương gia trên đường.
  2. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
    Nói năng dịu ngọt đến gần vương gia,
    Ngài ban nhiều của lắm quà,
    Tràn đầy hỷ lạc, chan hòa hân hoan.

Jùjaka đáp:

469-470. Thần e làm hỏng hành trang,
Thần xin ngài, hỡi ông hoàng, nghe đây:
Phụ vương trừng trị thần ngay,
Hoặc sai giết, bản thân này còn chi,
Không tiền của, chẳng nô tỳ,
Thì bà nội tướng cười chê trăm đường.

Vessantara nói:

471-472. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt, đến gần vương quân,
Vị vua cấp dưỡng toàn dân
Si-vi quốc vốn công bằng chánh chân,
Sẽ ban ông lắm bạc vàng,
Hân hoan thích thú ngập tràn niềm vui.

Jùjaka đáp:

  1. Không, thần không thể nghe lời
    Làm điều này nọ mà ngài đưa ra.
    Thần mong đem bọn trẻ thơ
    Ðể về hầu hạ vợ nhà đó thôi!

Ðôi trẻ nghe những lời thô lỗ ấy, liền lẩn trốn ra sau lều tranh, rồi chạy khỏi lều giấu mình gần một bụi cây. Ngay chỗ đó, chúng hình như cũng thấy chúng sẽ bị Jùjaka bắt. Chúng run sợ không thể đứng yên nơi nào cả, mà cứ chạy loanh quanh, cho đến khi chúng đến bờ hồ vuông góc kia, quấn chặt bộ áo vỏ cây quanh mình rồi chúng nhảy xuống nước, đứng giấu đầu dưới đám lá sen.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Jà-li chạy tới chạy lui
    Cùng Kan-hà, chúng đứng ngồi không an
    Trong niềm đau khổ muôn vàn,
    Khi nghe giọng nói người săn theo mình.

Và Jùjaka, khi chẳng thấy bóng dáng đôi trẻ đâu liền quở trách Bồ-tát:

– Này Vessantara, khi ngài vừa cho ta đôi trẻ bây giờ, ngay lúc ta bảo ngài là ta không muốnđến thành Jetuttara, mà chỉ muốn đôi trẻ về hầu hạ vợ ta, thì ngài ra hiệu cho chúng và khiến chúng chạy trốn mất, rồi ngồi đó làm ra vẻ chẳng biết gì! Ta chắc trên đời chẳng có ai dối trá như vậy!

Bậc Ðại Sĩ thấy lòng xúc động: “Chắc chắn chúng nó đã chạy trốn”. Ngài suy nghĩ và nói to:

– Ðừng lo gì việc ấy, này tôn ông, ta sẽ dò tìm chúng về.

Thế là ngài đứng dậy đi ra sau am lá, nhận thấy chúng có lẽ đã trốn vào rừng, ngài đi theo dấu chân chúng dẫn đến bờ hồ, rồi vừa thấy dấu chân ở nơi chúng bước xuống hồ, ngài nghĩ chắc hẳn chúng đã lặn xuống nước, vì thế ngài gọi to:

– Này Jàli con ơi!

Và ngài ngâm hai vần kệ này:

  1. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
    Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
    Ðến đây thánh hóa tim ta,
    Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.
  2. Con làm thuyền chở băng dòng
    Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
    Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
    Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

– Này Jàli, hãy đến đây con ơi? Ngài kêu to.

Cậu bé nghe giọng cha nghĩ thầm: “Cứ để lão Bà-la-môn làm gì ta mặc ý, ta không muốn cãi cọ với cha ta”. Cậu bé ngẩng đầu lên, rẽ các lá sen và bước ra khỏi nước, nhào đến trên chân phải của bậc Ðại Sĩ ôm lấy mắt cá chân và khóc.

Sau đó bậc Ðại Sĩ nói:

– Này con, em gái con đâu?

Cậu đáp:

– Mọi vật đều biết tự bảo vệ mình lúc gặp hiểm nguy.

Bậc Ðại Sĩ nhận ra rằng chắc hẳn đôi trẻ đã giao kết với nhau rồi, nên ngài kêu to:

– Ðến đây Kanhà?

Và ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
    Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
    Ðến đây thánh hóa tim ta,
    Hãy theo ý nguyện cha đến cùng.
  2. Con làm thuyền chở băng dòng
    Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
    Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
    Cha nguyền qua đến bến miền tự do.

Cô bé cũng suy nghĩ: “Ta không muốn cãi cọ với cha ta”, và chỉ chốc lát, cô hiện ra ngã vào chân phải cha, nắm chặt mắt cá chân và khóc. Nước mắt hai trẻ thơ nhỏ xuống chân bậc Ðại Sĩ có màu như lá sen, và nước mắt ngài chảy xuống lưng chúng có màu như phiến vàng. Sau đó bậc Ðại Sĩ nâng hai con lên và an ủi chúng:

– Này con Jàli, con không biết cha đã hoan hỷ bố thí con sao? Hãy làm thế cho ước nguyện của cha được thành tựu.

Và ngay lúc ấy ngài định giá hai con như thể người ta định giá trâu bò.

Ngài bảo con trai:

– Này con Jàli, nếu con muốn được tự do, con phải trả cho đạo sĩ này một ngàn đồng vàng. Còn em gái con đẹp lắm, nếu có người nào thuộc dòng hạ đẳng đưa cho đạo sĩ này một số tiền nhiều độ như thế như thế để trả tự do cho em con, thì người ấy sẽ phá hủy quyền quý tộc của nó. Không ai trừ nhà vua mới có thể ban tặng vật theo số trăm! Vì vậy nếu em con muốn được tự do, phải trả cho đạo sĩ một trăm nô tài, một trăm nữ tỳ và voi, ngựa, bò đực, tiền vàng, mỗi thứ đều một trăm.

Ngài định giá hai con như vậy xong, rồi an ủi vỗ về chúng và đưa chúng trở lại am tranh. Sau đó ngài lấy nước trong bình ra, gọi đạo sĩ đến gần, vừa rót nước vừa cầu nguyện cho ngài đạt thành Chánh Giác:

– Còn đáng quý hơn con trai ta cả trăm, cả ngàn, cả trăm ngàn lần là quả vị Chánh Giác!

Ngài kêu lớn làm cho cõi đất vang dội, rồi ngài đem hai con làm tặng vật quý báu cho lão Bà-la-môn.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Người bảo dưỡng dân, vị Ðại vương
    Si-vi quốc độ dẫn hai con
    Và đem tặng vật cao sang nhất
    Cho đạo sĩ kia, thật sẵn lòng.
  2. Thế rồi, đầy sợ hãi, kinh hoàng,
    Cõi đất lớn này đã chuyển rung
    Giờ phút này vua tay chắp lại
    Và ban tặng vật: cả hai con.
  3. Thế rồi đầy sợ hãi, kinh hoàng,
    Cõi đất lớn này đã chuyển rung
    Khi chúa Si-vi đem quý tử
    Sẵn lòng cho lão Bà-la-môn.

Khi bậc Ðại Sĩ đã bố thí xong, ngài đầy hân hoan, nghĩ rằng tặng vật ngài ban thật tuyệt hảo làm sao, trong khi ngài đứng nhìn hai con. Còn lão Jùjaka đi vào rừng, cắt một nhánh cây leo, lấy buộc tay bên phải cậu bé vào tay trái cô bé và vừa xua chúng đi vừa đánh chúng bằng đầu dây leo ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lão đạo sĩ kia độc ác thay
    Cắt ngay một nhánh dây leo dài,
    Buộc dây vào cánh tay đôi trẻ
    Và kéo chúng đi cách thế này.
  2. Rồi đạo sĩ kia, gậy dưới tay,
    Cầm dây leo ấy chặt trong tay,
    Ðánh bầy con trẻ và xua chúng
    Trước mắt nhìn theo của chính ngài.

Nơi nào lão đánh chúng, da đều bị đứt ra và chảy máu, chúng lảo đảo dựa lưng nhau mà đi, nhưng đến một chỗ gồ ghề, lão té nhào. Bàn tay yếu mềm của đôi trẻ tuột ra khỏi sợi dây nhẹ và chúng vừa khóc vừa chạy về phía bậc Đại Sĩ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ðôi trẻ như vầy được thoát thân
    Chạy bay khỏi lão Bà-la-môn,
    Bé trai nhìn mặt cha khi ấy
    Dòng lệ tuôn ra cặp mắt tràn.
  2. Như gặp gió lay, ngọn lá sung,
    Thân bé trai kia cứ chuyển rung,
    Tay cậu ôm chân cha thật chặt,
    Nói lời cùng với vị cha thân:
  3. – Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
    Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
    Ðừng bỏ, đợi khi bà trở lại,
    Khi bà trở lại, hãy chần chờ.

487-488. Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Hãy đợi đến khi bà trở lại,
Rồi cho con trẻ hợp lòng cha!
Rồi cho đạo sĩ đem đi bán
Hoặc để lão già giết trẻ thơ!

  1. Chân lão to phù, móng xác xơ,
    Thịt u xệ xuống tựa bao da,
    Môi dài phía dưới luôn run rẩy,
    Mũi gãy, đen sì thật khó ưa!
  2. Bụng như cái trống, chiếc lưng còng,
    Ðôi mắt nhìn sao lé đứng tròng,
    Ðầy vết nhăn nheo và lốm đốm,
    Râu màu máu đỏ, tóc vàng hung.
  3. Võ vàng, rệu rã, khoác da nai,
    Thô lỗ, bạo tàn, chẳng giống ai,
    Nửa ngợm nửa người, co quắp lại,
    Thật là khủng khiếp cái hình hài!
  4. Quỷ ăn thịt sống hoặc người trần?
    Cha cứ nhìn xem thật tĩnh tâm:
    Con quỷ này vào rừng vắng vẻ
    Ðể xin cha bố thí ban ân?

493-494. Có phải tim cha hóa đá chăng
Buộc thêm sợi thép chặt quanh vòng,
Không quan tâm lão già tham dục
Chẳng chút nào thương xót chạnh lòng
Trói chúng con và xua đuổi mãi
Như trâu bò phải chạy lông rông?

  1. Ít nhất, con mong cầu khẩn cha
    Cho em ở lại, bé Kan-hà
    Giống như nai nhỏ đang còn bú
    Kêu khóc vì đi lạc cả nhà.

Nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ không đáp lại tiếng nào. Sau đó cậu bé lại khóc than vì cha mẹ mình:

  1. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
    Ðó là số phận mọi thường nhân,
    Nhưng không thấy bóng hình từ mẫu
    Quả thật điều trên đáng khổ buồn!
  2. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
    Ðó là số phận mọi thường nhân,
    Nhưng không nhìn thấy hình thân phụ,
    Quả thật điều trên đáng khổ buồn.

498-499. Mẹ cha than khóc sẽ dài lâu,
Chẳng biết bao giờ hết khổ đau,
Vào lúc nửa đêm, trời tảng sáng,
Như nguồn suối chảy, các dòng châu
Vì không thấy mặt Kan-hà nữa,
Con gái được yêu quý biết bao!

  1. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
    Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín,
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  2. Cây sung, cây mít với cây đa
    Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  3. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
    Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
    Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
    Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  4. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn
    Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
    Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
    Giờ phút này ta phải bỏ ngang!
  5. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
    Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
    Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
    Ngày nay ta cũng phải xa rời !

Mặc dù cậu than khóc như vậy, lão Jùjaka vẫn đến xua cậu đi cùng em gái.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm kệ:

  1. Hai con trẻ nói với người cha
    Trong lúc bị đưa đẩy thật xa:
    – Cha hỡi! Mẹ hiền mong mạnh khỏe,
    Và mong hạnh phúc tháng ngày qua!
  2. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
    Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
    Trao chúng dùm cho hiền mẫu nhé,
    Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.
  3. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
    Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
    Lúc mẹ ngắm nhìn vào bọn chúng
    Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi.

*

Bây giờ nỗi khổ đau thống thiết vì các con chợt nổi lên trong lòng bậc Ðại Sĩ khiến tim ngài nóng bừng: ngài run rẩy dữ dội như con voi bị sư tử có bờm chụp lấy, hoặc như mặt trăng bị nuốt trửng trong móng vuốt của thần Ràhu [La-hầu: vua của loài Asura (A-tu-la) thường nuốt mặt trăng, trời gây nên nhật thực, nguyệt thực]. Không còn đủ nghị lực chịu đựng nữa, ngài đi vào lều, nước mắt ràn rụa và ngài khóc lên thảm thiết.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Ông hoàng Sát-lỵ Ves-san-ta
    Bố thí như vầy lũ trẻ thơ,
    Vội bước đi vào lều cỏ lá,
    Ngồi kia than khóc lẫn buồn lo.

Sau đây là các vần kệ than khóc của bậc Ðại Sĩ:

  1. Vào lúc sáng mai hoặc xế chiều,
    Ðói ăn, lũ trẻ phải kêu rêu,
    Bị cơn đói khát luôn hành hạ,
    Ai sẽ cho con trẻ ít nhiều?
  2. Làm sao chân bé bỏng run run
    Cất bước đi theo mọi lối mòn
    Không có hài? Ai dắt díu chúng,
    Ai đưa lối chúng nhẹ nhàng chăng?
  3. Làm sao có thể lão La-môn
    Vô sỉ, lúc ta đứng ngóng trông,
    Lại đánh con ta nào có tội,
    Lão vô liêm sỉ thế là cùng!
  4. Không ai biết sỉ nhục như vầy
    Lại đối xử người khác thế này,
    Dẫu đó là con nô lệ nữa
    Mà ta xem thật thấp hèn thay.
  5. Ta không thể thấy lão đằng xa
    Nhưng lão đánh đau lũ trẻ nhà
    Như thể cá nằm trong chiếc bẫy,
    Ta đây bất lực đứng trơ ra!

Vì thương con, những tư tưởng này hiện ra trong trí bậc Ðại Sĩ, ngài không thể chịu được nỗi đau khổ khi nghĩ lão Bà-la-môn đánh đập tàn nhẫn con ngài như thế nào, nên ngài định đi tìm lão và giết lão, rồi đem các con về. Nhưng không, ngài lại nghĩ: “Làm thế là sai lầm. Bố thí rồi lại hối tiếc vì nỗi khổ của con trẻ quá lớn lao, thì đó không phải là cách của người chân chánh”.

Hai vần kệ sau đây chứa đựng những suy tư trên soi sáng vấn đề này:

  1. Bên trái buộc thanh kiếm cạnh sườn,
    Ngài nai nịt đủ với cây cung:
    “Ta đem con trẻ về nhà lại,
    Ðánh mất con thơ thật khổ buồn.
  2. Nhưng nếu con ta phải mạng vong
    Thật tàn nhẫn quá, nỗi đau lòng:
    Nào ai biết thói lề người thiện
    Và đến cầu xin nữa phải không?”

Trong lúc ấy lão Jùjaka đánh đập đôi trẻ kia khi lão dẫn chúng đi đường.

Cậu bé lại than khóc:

  1. Tục ngữ hình như thật đúng thay
    Người đời thường vẫn nói như vầy:
    Ai không có mẹ mình bên cạnh
    Cũng giống không cha ruột thế này.
  2. Ðời chẳng còn gì với chúng ta,
    Thà ta chết: chỉ phận gia nô,
    Con người tàn bạo đầy tham ác
    Xua đuổi chúng ta tựa lũ bò.
  3. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
    Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  4. Cây sung, cây mít với cây đa
    Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
    Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
    Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  5. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
    Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
    Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
    Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ!
  6. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn,
    Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
    Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
    Giờ phút này ta phải bỏ ngang!
  7. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
    Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
    Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
    Ngày nay ta cũng phải xa rời!

*

Lần nữa, lão Bà-la-môn lại ngã vào một nơi gồ ghề, và sợi dây sút ra khỏi tay lão, hai đứa trẻ run rẩy như đôi chim bị thương chạy một mạch về phía cha.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Lúc ấy Kan-hà với Jà-li
    Ðược La-môn nọ dẫn đường đi,
    Thoát thân, chúng vội vùng lên chạy
    Mải miết chúng bay biến tức thì.

*

Nhưng lão Jùjaka vội đứng lên ngay và đuổi theo chúng, với dây và gậy trong tay, lão gầm thét như lửa phun vào ngày tận thế:

– Chúng bây có tài chạy khôn lanh thật đấy!

Rồi lão buộc tay chúng lại và đưa chúng đi đường như cũ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Rồi lão đạo nhân nắm sợi dây,
    Và cầm cây gậy ở trong tay
    Vừa đem chúng trở về, vừa đánh,
    Trong lúc vua đành phải ngó ngây!

Trong lúc bị dẫn đi xa, Kanhàjinà quay lại và than khóc với cha.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Cô bé Kan-hà nói thế này:
    – Cha ơi, xin hãy ngắm nhìn đây:
    Con như nô lệ xuất thân ấy
    Ðạo sĩ đánh con thật mạnh tay!

526-527. Ðạo sĩ là người sống chánh chân,
Lão này không phải Bà-la-môn,
Quỷ ma đội lốt La-môn ấy
Lão dẫn đi ăn thịt chúng con,
Cha có thể ngồi yên ngắm nghía
Trẻ con bị bắt để ma ăn?

*

Trong khi con gái bé bỏng than khóc run rẩy bước đi, nỗi đau đớn xót xa bùng dậy trong lòng bậc Ðại Sĩ, tim ngài nóng bừng, mũi ngài không đủ sức để thở, vì thế từ miệng ngài thoát ra tiếng thở hổn hển và dòng lệ như những giọt máu tuôn ra từ mắt ngài. Rồi ngài suy nghĩ: “Tất cả nỗi đau đớn này đều do tình thân yêu chứ không vì cớ gì khác, ta phải xoa dịu tình cảm này và giữ bình thản”.

Như vậy là nhờ trí lực, ngài dứt được nỗi đau buồn sâu sắc này và ngồi yên như cũ.

Trước khi đi đến lối vào trong ngọn núi, cô bé lại tiếp tục than khóc:

  1. Ðau nhức đôi chân của trẻ thơ,
    Con đường thật khó bước đi qua,
    Ðạo nhân xua đuổi bầy con trẻ,
    Vầng nhật lăn dần ở phía xa.
  2. Qua các núi đồi, rừng thẳm xanh,
    Những nơi cư ngụ các thần linh,
    Chúng con trân trọng chào chư vị,
    Tất cả, chúng con thảy cúi mình.

530-531. Chào chư thần trú ngụ hồ này,
Cùng cỏ dây leo, rễ mọc dày,
Mong ước mẹ hiền con mạnh khỏe,
Nhưng La-môn nọ đuổi con ngay,
Nếu bà muốn chạy theo con trẻ.
Xin chớ chần chờ, phải chạy bay.

  1. Con đường dẫn đến chiếc am tranh,
    Con trẻ thường theo bước lộ trình,
    Nếu mẹ muốn theo đường lối ấy,
    Mẹ tìm con trẻ thật là nhanh.
  2. Mẹ hái trái cây, các củ rừng,
    Tóc thường được kết lại từng chùm,
    Khi nhìn thấy chiếc am tranh vắng
    Sẽ khiến mẹ đau đớn tột cùng.

534-535. Mẹ ta đi kiếm quả từ lâu,
Chắc mẹ đã chất đống thật cao,
Mẹ chẳng biết con người độc ác
Tham lam buộc chặt trẻ ra sao.
Vô cùng độc ác là người đó
Xua đuổi chúng ta tựa lũ trâu.

  1. Ôi, nếu mẹ ta đến xế tà,
    Nếu hai bên gặp gỡ tình cờ,
    Mẹ cho lão ấy ăn nhiều quả
    Trộn với mật ong thật đủ no,

537-538. Lão sẽ không xua đuổi bạo tàn,
Sau khi được một bữa ăn ngon,
Lão già xua trẻ thơ tàn nhẫn,
Chân của trẻ thơ bước vọng vang,
Vì ngóng mẹ hiền lâu quá đỗi,
Các con đã thảm thiết kêu than.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Trẻ thơ (Kumàra pañham).

*

  1. MADDÌ TRỞ VỀ

Bấy giờ ngay lúc vua ban các con yêu quý cho lão Bà-la-môn, cõi đất chấn động vang rền dữ dội đến tận cõi trời Phạm thiên và thấu suốt tâm các vị thần cư ngụ ở Tuyết Sơn. Các vị này nghe tiếng đôi trẻ than khóc trong lúc lão kia dẫn chúng đi, liền suy nghĩ: “Nếu Maddì về kịp tới lều tranh lúc này mà không thấy các con đâu, nàng sẽ hỏi Vessantara về chuyện này và nàng sẽ nôn nóng biết bao khi nghe chúng đã bị đem bố thí. Nàng sẽ chạy đi tìm chúng và sẽ gặp nhiều gian truân vất vả”.

Vì thế các vị ấy căn dặn ba vị thần giả dạng sư tử, cọp và báo để cản đường nàng, không để nàng đi trở lại tìm con cho đến khi mặt trời lặn, như vậy nàng chỉ có thể đi về dưới ánh trăng, và giữ cho nàng bình an khỏi bị sư tử hay các dã thú khác tấn công.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Sư tử, Hổ, Beo, ba vị thần
    Giả làm sinh vật của rừng hoang,
    Vừa nghe lời trẻ thơ than khóc,
    Các vị liền cất tiếng nói năng:
  2. – Đừng cho trở lại vị công nương
    Chiều tối sau khi kiếm thức ăn,
    Sợ lũ thú hoang kia sát hại
    Ở trong lãnh địa của rừng hoang.

541-542. Ví thử loài beo, hoặc hổ, sư
Sát tàn bà mẹ thật hiền từ,
Thì đâu vương tử Jà-li ấy
Cùng với Kan-hà sẽ ở nhờ?
Vậy mẹ và hai con trẻ nọ
Các ngài phải bảo vệ từ giờ. 

Các vị ấy đồng ý, và vâng lệnh các thần linh hóa thành sư tử, hổ, báo nằm cạnh con đường mà nàng phải đi qua.

*

Bấy giờ Maddì tự nghĩ: “Hôm qua ta mơ thấy ác mộng. Ta phải thu lượm củ quả và về lều cho kịp giờ”. Nàng run rẩy đi tìm củ quả, làm cái cuốc rơi khỏi tay nàng, cái thúng từ trên vai rớt xuống, mắt bên phải của nàng giật mạnh: Các cây đầy quả dường như chẳng có quả nào, còn cây không quả thì lại giống như đầy quả, nàng không còn biết đầu đuôi ra sao nữa. Nàng nghĩ thầm: “Có ý nghĩa gì chăng việc lạ hôm nay?”.

Và nàng ngâm kệ:

  1. Cuốc ta rơi xuống đất rồi,
    Ta nghe mắt phải giật hoài giờ đây,
    Trái cây dường chẳng có này,
    Chung quanh vạn vật như quay như cuồng.
  2. Khi nàng trở lại chiều hôm
    Sau ngày làm việc vẹn tròn xong xuôi,
    Thú hoang vẫn cứ rình hoài
    Ðường về nhà lúc mặt trời lặn mau.
  3. Thảo am xa tận nơi đâu
    Mặt trời khuất bóng chìm sâu xuống dần,
    Và đây tất cả thức ăn
    Cả nhà phải đợi ta mang tới rồi.
  4. Nơi kia vương tử thường ngồi
    Một mình một bóng trong chòi lá tranh,
    Con thơ chàng phải dỗ dành,
    Ta chưa trở lại, con đành đói meo.
  5. Giờ đây là buổi ăn chiều,
    Ôi! Ta phải khổ bao nhiêu muộn rồi!
    Khát khao sữa, nước, con đòi,
    Các con ta phải đợi hoài mẫu thân.
  6. Trẻ thơ thường đến đón mừng,
    Ðứng như bê con ngóng trông mẹ bò,
    Như thiên nga đậu bên hồ,
    Ôi sao phải khổ thân ta thế này!
  7. Con đường độc nhất là đây,
    Chung quanh hang hố rẫy đầy hồ ao,
    Ta không tìm thấy đường nào,
    Bây giờ ta phải làm sao về nhà?
  8. Các ngài chúa tể rừng già,
    Ta xin các vị là vua thú rừng,
    Hãy làm huynh đệ chánh chân
    Ðể cho ta được an thân về nhà.
  9. Ta là chánh hậu vương gia,
    Vinh quang thái tử bị đưa đi đày,
    Ta thờ chồng của ta nay
    Như Si-tà trước thờ ngài Rà-ma.
  10. Buổi chiều khi trở về nhà,
    Các ngài lại thấy con ra đón chờ,
    Như Jà-li với Kan-hà,
    Xin lần nữa hãy cho ta, thưa ngài!
  11. Ðây dồi dào củ quả tươi,
    Có nhiều thực phẩm ta mời ngài ăn,
    Ta đem một nửa xin dâng,
    Ðể cho ta được an thân về nhà.
  12. Vua rừng này chính là cha,
    Vương phi là mẹ, nghe ta than cùng:
    Hãy làm huynh đệ chánh chân,
    Ðể cho ta được an thân đi về.

Khi các vị thần thấy đã đến giờ để cho nàng về, liền đứng lên và chạy đi xa.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Thú rừng kia đã lắng nghe
    Lời nàng than khóc não nề thảm thương,
    Âm thanh êm ái dịu dàng,
    Chúng liền chạy mất để nàng đi ngay.

Khi bầy dã thú đã đi rồi, nàng trở về lều lá. Bây giờ là đêm trăng tròn, khi nàng vừa đến cuối lối đi có mái che, nơi nàng thường gặp các con, nay không thấy chúng đâu, nàng kêu to:

  1. Trẻ thơ lấm bụi thường ngày
    Vẫn ra đứng đón ta đây gần nhà
    Như bê con đợi mẹ bò,
    Như chim non ở trên hồ thiên nga.

557- 558. Như nai bé vểnh tai ra,
Chúng thường đi đến đón ta trên đường,
Tràn đầy hạnh phúc vui mừng
Ðùa chơi chạy nhảy tưng bừng quanh ta.
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

559-560. Như sư tử cái, sơn dương,
Rời bầy con nhỏ, chim muông rời lồng,
Ðể mà đi kiếm thức ăn,
Ta làm cho đỡ đói lòng con ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

561-562. Gần nhà đây những dấu chân
Giống như loài rắn ẩn thân trên đồi,
Chúng làm những đống đất bồi
Vẫn còn nằm đó rã rời quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón mừng.

  1. Các con thường chạy tung tăng
    Phủ đầy bụi bặm đến gần mẹ đây,
    Lấm lem mặt mũi bùn lầy,
    Nhưng ta chẳng thấy giờ đây đứa nào.
  2. Trẻ thơ thường vẫn đón chào
    Mẹ mình, chúng chạy lao xao từ nhà,
    Khi ta về tự rừng già,
    Ta không thấy chúng đón ta giờ này.
  3. Chúng thường đùa giỡn nơi đây,
    Vil-va vàng vẫn rụng đầy quanh ta,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Ta không thấy chúng đón ta giờ này.
  4. Vú ta căng sữa đã đầy,
    Tim ta như muốn vỡ ngay bây giờ,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Hôm nay không thấy đón ta ở nhà.

567-568. Chúng thường bám chặt hông ta,
Mỗi con đeo một vú da tươi cười,
Chúng thường đi đón ta hoài,
Bụi dơ vào lúc nghỉ ngơi chiều tà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường.

  1. Trước đây là chốn thảo am
    Là nơi gặp gỡ mẹ con sum vầy,
    Nhưng giờ chẳng thấy con đây,
    Chốn này như thể cứ xoay vòng tròn.
  2. Các con chắc đã mạng vong,
    Chốn này sao quá lặng câm như vầy?
    Quạ kia cũng chẳng kêu bầy
    Chim kia im tiếng trên cây cả rồi!

Than khóc như vậy xong, nàng đến gần bậc Ðại Sĩ và đặt thúng trái cây xuống. Thấy ngài ngồi yên lặng và không có hai con bên cạnh, nàng nói:

  1. Sao chàng cứ lặng yên ngồi
    Thế mà ác mộng tái hồi trong tâm:
    Quạ, chim đều bặt thanh âm,
    Các con chắc đã vong thân mất rồi!
  2. Con đều bị bắt, chàng ôi,
    Bởi loài dã thú săn mồi nào chăng?
    Hay vào sâu chốn rừng hoang,
    Các con đã bị lạc đường nào hay?
  3. Trẻ bi bô vẫn ngủ say,
    Hay là chạy việc đâu đây trên đường?
    Hay là quanh quẩn lang thang
    Chơi đùa thỏa thích không màng gần xa?
  4. Thiếp không thấy bóng trẻ nhà,
    Tay chân mặt mũi cùng là tóc tai,
    Hay là chim chụp mất người?
    Kẻ nào mang chúng đi rồi phải chăng?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ vẫn không đáp lại. Sau đó nàng hỏi:

– Này phu quân, sao chàng không nói gì với thiếp? Thiếp có lỗi gì chăng?

Và nàng ngâm kệ:

  1. Giống như tên bắn bị thương,
    Và còn đau xót muôn vàn hơn xa,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà,
    Thiếp không thấy chúng ở nhà hôm nay.
  2. Ðây là thương tích thứ hai
    Mà chàng đâm thiếp xuyên ngay vào lòng:
    Thiếp không nhìn thấy các con
    Nhưng chàng lại chẳng nói năng một lời.
  3. Vậy thì vương tử, chàng ôi!
    Ðêm nay chàng chẳng đáp lời thiếp chăng?
    Thiếp xem đời thiếp đã xong,
    Rồi chàng sẽ thấy thiếp vong thân mà.

Bậc Ðại Sĩ nghĩ rằng ngài sẽ làm dịu nỗi đau đớn của mình vì các con bằng cách nói năng gay gắt, nên ngài ngâm vần kệ:

  1. Mad-dì, công chúa vương gia,
    Vinh danh nàng quả thật là lớn thay,
    Ði tìm thực phẩm sáng nay,
    Cớ sao trở lại giờ đây muộn màng?

Nàng đáp:

  1. Nghe chăng sư, hổ, hỡi chàng,
    Chúng vừa gầm thét vọng vang nãy giờ,
    Trong khi giải khát bên hồ,
    Chúng vừa đứng đó trên bờ, biết chăng?
  2. Thiếp đang rảo bước rừng hoang,
    Bỗng nhiên dấu hiệu rõ ràng hiện ra:
    Cuốc từ tay thiếp rơi xa,
    Thúng kia từ cánh tay đà rớt luôn.
  3. Trong lòng hoảng sợ, đau thương,
    Thiếp liền quỳ lạy tứ phương lần lần:
    Mong sao mọi sự bình an,
    Ðôi tay của thiếp thẳng dang nguyện cầu:
  4. Không loài sư tử, beo nào,
    Sói lang, linh cẩu, gấu đâu tìm mồi
    Cướp đi, xé xác con trai,
    Hay là con gái của tôi, bây giờ.
  5. Con beo và cả hổ, sư,
    Cả ba dã thú nằm chờ đằng xa,
    Cản đường của thiếp về nhà,
    Cho nên thiếp phải dần dà tới khuya.

Bậc Ðại Sĩ chỉ nói bấy nhiêu lời với nàng từ đó cho đến tảng sáng. Vì thế nàng Maddì lại than vãn thật lâu:

  1. Phu quân và các con thơ,
    Thiếp thường tận tụy chăm lo đêm ngày
    Như trò săn sóc ông thầy,
    Khi trò cố gắng không sai đạo trời.
  2. Tấm thân thiếp khoác da nai,
    Quả rừng đem lại từ đồi núi xanh,
    Suốt ngày dài với đêm thanh
    Chỉ mong chàng được lợi hành tiện nghi.
  3. Cho chàng và các ấu nhi
    Vil-va vàng, quả đúng thì ngọt ngon,
    Và nhiều trái chín rừng hoang
    Ðể chơi cùng với các con vui nhà.
  4. Củ sen và đám ngó tơ
    Có màu óng ánh vàng mơ nhẹ nhàng,
    Hãy chơi cùng các con chàng
    Và này vương tử, ăn phần chàng đi.
  5. Cho con gái súng trắng kia,
    Sen xanh để tặng Jà-li của chàng,
    Rồi xem chúng múa ca vang,
    Vòng hoa tô điểm, xin chàng gọi ngay!
  6. Ðại vương ơi, hỡi lắng tai,
    Âm thanh thích thú tuyệt vời biết bao,
    Kan-hà hát thật ngọt ngào,
    Và con đang bước chân vào lều ta.
  7. Từ khi bị đuổi đày xa,
    Buồn vui chàng thiếp chung hòa với nhau.
    Ôi, chàng hãy trả lời mau,
    Kan-hà, Jà-li, thấy đâu hỡi chàng?

591-592. Hẳn bao nhiêu vị đạo nhân
Thiếp đà xúc phạm lỗi lầm nặng sao,
Các ngài đức hạnh thanh cao
Trí đầy kiến thức nhiệm mầu sâu xa,
Nên Jà-li với Kan-hà
Thiếp không còn thấy ở nhà hôm nay!

Nghe nàng than thở như vậy, bậc Ðại Sĩ vẫn không đáp một lời. Vì ngài không nói gì, nàng run rẩy đi tìm các con dưới ánh trăng, ở những nơi chúng thường chơi đùa, dưới các cây hồng đào và cả những nơi chúng không đến, nàng vừa tìm chúng vừa khóc than:

  1. Khóm cây đào đỏ thắm này
    La đà vẫn mọc bủa vây quanh hồ,
    Muôn loài cây quả rừng già,
    Nhưng không còn thấy con ta bây giờ.
  2. Cây sung, cây mít, đa to,
    Mọi loài cây khác chen đua mọc dần,
    Ồ, bao cây quả trong rừng,
    Nhưng bầy con trẻ lại không thấy giờ.
  3. Ðứng kia như một vườn hoa,
    Và kìa suối mát trôi qua lặng lờ,
    Nơi xưa chúng vẫn chơi đùa,
    Nhưng nay không có trẻ thơ nữa rồi.
  4. Trái cây xưa chúng ăn hoài,
    Bông hoa chúng vẫn thường cài tóc tai,
    Mọc đằng xa ở trên đồi,
    Con thơ vắng bóng ở nơi đó kìa.
  5. Các đồ chơi bé tí ti,
    Chúng thường đùa giỡn là kia cả rồi:
    Bầy bò, bầy ngựa, bầy voi,
    Con thơ không thấy ở nơi chốn nào.
  6. Ðây nhiều thỏ đế, cú mèo,
    Nai đen cùng với hươu sao cả bầy,
    Các con đùa giỡn thường ngày,
    Nhưng không còn thấy chúng đây nữa rồi.
  7. Bầy công xòe cánh đẹp tươi,
    Kìa bầy cò diệc, ngỗng trời thiên nga,
    Các con thường vẫn chơi đùa,
    Nhưng không thấy bóng trẻ thơ đây mà!

Không nhìn thấy các con thân yêu trong lều tranh, nàng đi vào khóm cây hoa vừa tìm chúng quanh quẩn, vừa ngâm kệ:

  1. Này đây các khóm rừng già
    Với muôn hoa lá nở ra theo mùa,
    Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
    Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

601-602. Các hồ khả ái lắng tai
Khi đàn ngỗng đỏ gọi dài âm thanh.
Biết bao sen trắng sen xanh,
Và nhiều cây mọc như cành san hô,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây.

Nhưng nàng cũng không thấy các con đâu cả. Rồi trở lại bên bậc Ðại Sĩ, nàng thấy ngài ngồi cúi mặt xuống, nàng bảo:

  1. Củi chàng không bổ ban ngày,
    Lửa chàng không đốt tối nay trong nhà,
    Nước không xách đến như xưa,
    Sao chàng ngồi đó thẫn thờ thong dong?
  2. Khi công việc mới vừa xong,
    Thiếp liền vội vã ước mong về nhà,
    Nhưng Jà-li với Kan-hà
    Thiếp không thấy chúng nô đùa hôm nay.

Nhưng bậc Ðại Sĩ vẫn ngồi im lặng, và nàng đau khổ vì sự im lặng ấy, nên run rẩy như con chim bị thương, nàng lại đi quanh những nơi nàng đã tìm kiếm trước kia, rồi trở về nói:

  1. Hỡi phu quân, thiếp chẳng hay
    Vì ai tạo cái chết này cho con,
    Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
    Chính bầy chim cũng lặng câm bây giờ.

Bậc Ðại Sĩ vẫn không nới lời nào. Còn nàng nóng lòng đi tìm con, lần thứ ba trở lại tìm con ở những nơi nàng đã tìm, nàng chạy nhanh như gió. Trong một đêm nàng đã đi qua một khoảng đường tìm con dài mươi lăm dặm. Rồi bóng đêm nhường chỗ cho ánh bình minh, vừa lúc rạngđông, nàng lại đến trước bậc Ðại Sĩ và đứng than khóc.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Khi nàng vội vã băng qua
    Ði tìm khắp chốn rừng già, núi non,
    Trở về bên cạnh phu quân,
    Nàng liền đứng lại khóc than từng hồi:
  2. – Hang sâu, rừng thẳm, lưng đồi,
    Thiếp không thể thấy bóng người giết con,
    Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
    Chính bầy chim cũng lặng câm cả rồi.
  3. Mad-dì, vương hậu cao ngôi,
    Công nương quý tộc buông lời khóc than,
    Với đôi tay ấy vừa dang,
    Nàng liền ngã xuống đất bằng mê man.

*

– Ôi nàng đã chết!

Bậc Ðại Sĩ run rẩy nghĩ thầm: “Ôi, đây không phải là nơi để cho Maddì chết! Nếu nàng chết ở thành Jetuttara, thì tang lễ sẽ linh đình biết bao, vì cả hai vương quốc đều chấn động. Nhưng ở đây ta chỉ một mình trong rừng, ta biết làm gì bây giờ?”. Nỗi lo âu tràn ngập lòng ngài, rồi cố trấn tĩnh đôi chút, ngài quyết định làm hết sức mình.

Ngài đứng lên đặt tay trên ngực nàng, và thấy nó vẫn còn ấm, ngài liền lấy nước trong bình đến, và mặc dù bảy tháng qua ngài không đụng chạm thân nàng, nay gặp lúc nguy khốn, ngài không thể giữ giới khổ hạnh, mà nước mắt tuôn tràn, ngài nâng đầu nàng lên đặt trên lòng mình, rảy nước và xoa bóp mặt nàng cùng ngực nàng trong lúc ngài ngồi đó.

Một lát sau, Maddì tỉnh dậy, bối rối vừa đứng lên, vừa kính lễ bậc Ðại Sĩ và hỏi:

– Tâu Chúa thượng Vessantara, các con đi đâu rồi?

Ngài đáp:

– Ta đã đem chúng cho một Bà-la-môn nọ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ngài liền rảy nước cho nàng
    Trong khi nàng ngã mê man lịm dần;
    Vừa khi nàng mới tỉnh hồn,
    Ngài liền cất tiếng khuyên lơn vỗ về.

Nàng hỏi ngài:

– Này phu quân, nếu chàng đem hai con cho một Bà-la-môn, tại sao chàng để thiếp than khóc đi tìm quanh quẩn suốt đêm mà không nói một lời?

Bậc Ðại Sĩ đáp lại:

610-611. Ta không thể nói tức thì
Vì ta không muốn hiền phi đau buồn.
Một người già yếu, đạo nhân,
Ðến đây xin được cầu ân đó mà,
Ta đem bố thí con thơ,
Mad-dì đừng sợ, thở vô ra liền!

  1. Xin nàng đừng quá ưu phiền,
    Xin nàng ngước mắt nhìn lên ta này.
    Ta đem con trẻ về ngay,
    Rồi ta hạnh phúc sum vầy biết bao.
  2. Thiện nhân được hỏi liền giao
    Các con, thóc lúa, bò trâu, bạc vàng;
    Mad-dì, xin hãy hân hoan
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Mad-dì đáp lại:

  1. Thiếp nay quả thật hân hoan
    Không gì hơn lễ cúng dường các con,
    Nhờ đây tâm trí bình an,
    Xin chàng cứ mãi phát ban cúng dường.
  2. Vì chàng là vị Ðại vương
    Của Si-vi, cả giang sơn oai hùng,
    Giữa đời ích kỷ nhân quần,
    Riêng chàng bố thí phát phân rộng lòng.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Tại sao nàng nói thế, Maddì? Nếu ta đã không thể giữ tâm thanh thản khi bố thí các con, thì những việc thần kỳ hy hữu kia đã không xảy ra.

Rồi ngài kể cho nàng nghe tất cả các cơn địa chấn cùng các sự kiện khác. Thế là Maddì hân hoan diễn tả các việc thần kỳ ấy như sau:

  1. Ðất bằng đã phải chuyển rung
    Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao.
    Chớp loè sáng chói biết bao,
    Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.
  2. Nà-ra-da với Pab-ba,
    Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
    Mọi Thiên thần cõi Ba mươi,
    Ind-ra Thiên chủ cùng ngài Phạm thiên,
  3. Vua So-ma ở cõi tiên
    Cùng ngài Diêm chúa ở miền Dạ-ma,
    Thiên vương Ves-sa-va-na
    Khi nghe tiếng vọng, đồng hòa niềm vui.
  4. Mad-dì, công chúa cao ngôi
    Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn,
    Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Bậc Ðại Sĩ mô tả việc bố thí của ngài như vậy và Maddì cũng lập lại chuyện ấy, công nhận ngài đã ban một thí vật cao quí. Nàng ngồi đó hoan hỷ về việc bố thí kia.

*

Vào dịp này, bậc Đạo Sư ngâm lại vần kệ:

  1. Mad-dì, công chúa cao ngôi
    Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn
    Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
    Không gì hơn lễ cúng dường các con.

Đến đây chấm dứt Chuyện Maddì (Maddìpabbam).

*

  1. SAKKA THIÊN CHỦ XUẤT HIỆN

Trong lúc hai vị đàm đạo cùng nhau như thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: “Hôm qua vua Vessantara đã cho Jùjaka cả hai con mình, nên quả đất đã rung động. Bây giờ giả sử một kẻ xấu xa nào khác xuất hiện và xin ngài chính nàng Maddì, bậc đức hạnh vô song ấy, rồi đem nàng đi, để vua ở lại một mình, ngài sẽ bơ vơ khổ sở. Thôi được, thế thì ta sẽ giả dạng một Bà-la-môn đến xin Maddì. Như thế ta sẽ có thể giúp ngài đạt công hạnh tối thượng và do vậy nàng không thể bị đem cho bất cứ ai khác, rồi ta sẽ trả nàng về.”

Vậy là vào lúc rạng đông, Thiên chủ Sakka đến gặp ngài.

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau.

  1. Vậy khi đêm đã dần tàn,
    Và trời vừa mới tinh sương sáng dần,
    Sak-ka giả dạng đạo nhân
    Lên đường thật sớm đến thăm thảo đường:
  2. – Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
    Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  3. Ngài nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng?

Bậc Ðại Sĩ đáp:

  1. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
    Ta nay thịnh vượng an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Ta không phải chịu phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Ta đây tránh được mọi loài, bình an.
  3. Sống đây đã bảy tháng trường,
    Và ông là vị đạo nhân thứ nhì
    Cầm cây gậy ở tay kia,
    Ðể đi vào chốn rừng già thảo am.
  4. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
    Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
    Hãy vào, chúc phúc cầu may,
    Bước vào và rửa chân tay, ta mời.
  5. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
    Kà-su-mà quả ngọt bùi thơm ngon,
    Trái cây như thể mật ong
    Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào.
  6. Nước này lấy tự hang sâu
    Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng.
    Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
    Uống vào cho thỏa tấm lòng ước ao.

Trong khi hai vị đàm đạo vui vẻ như vậy, ngài hỏi lý do vị kia đến đây:

  1. Bây giờ vì lý do nào
    Hoặc duyên cớ dẫn ông vào đường đây,
    Vì sao ông kiếm rừng cây,
    Ta xin ông giải điều này cho hay.

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, thần già rồi, nhưng thần đến đây xin ngài ban cho thần Vương hậu Maddì. Mong ngài ban nàng cho thần.

Và Thiên chủ ngâm vần kệ này:

  1. Giống như hồng thủy ngập đầy
    Và không hề có một ngày nào vơi,
    Ðại vương thần đến van nài
    Xin ban Vương hậu của ngài, thần mong.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ không đáp: “Hôm qua ta đã cho một Bà-la-môn cả hai con ta rồi. Nay làm sao ta cho ông nàng Maddì để rồi phải ở lại một mình trong rừng hoang?” Không, ngài như thể đang cầm cái túi đựng một ngàn đồng tiền trong tay: bình thản, không tham luyến, không chút vướng mắc trong tâm tư, ngài làm cho núi rừng vang dội với lời kệ này:

  1. Nhọc lòng, ta chẳng giấu ông,
    Tuy nhiên trong nỗi khổ lòng riêng tư,
    Phát ban, ta chẳng chần chừ
    Vì lòng hoan hỷ đến từ phát ban.

Nói lời này xong, ngài nhanh chóng lấy nước trong bình ra đổ lên tay rồi trao Maddì cho vị Bà-la-môn. Ngay lúc ấy, mọi việc thần kỳ đã xảy ra trước kia lại được nghe thấy lần nữa.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Thế rồi bình nước vừa nâng,
    Si-vi quốc độ Ðại vương thuở nào
    Ðem Mad-dì ấy liền trao
    Bà-la-môn nọ thẳng vào tay kia.
  2. Kinh hoàng xảy đến tức thì,
    Ðất dày chuyển động ngay khi ấy liền,
    Ngài đem trao tặng vợ hiền
    Mad-dì cho khách viếng miền thảo am.
  3. Mad-dì chẳng chút mày nhăn,
    Nàng không khó chịu, khóc than bây giờ.
    Lặng yên nhìn, dạ suy tư:
    “Hẳn chàng biết rõ lý do đâu là”.
  4. Cả Jà-li lẫn Kan-hà
    Ta đem cho một lão Bà-la-môn,
    Và Mad-dì, vợ keo sơn,
    Chỉ vì Tuệ Giác cao hơn cả mà.
  5. Vợ hiền ta chẳng xấu xa,
    Và hai đứa trẻ con nhà cũng không.
    Nhưng vì Tuệ Giác viên thông
    Với tâm ta, thật bội phần thiết thân.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nhìn lên mặt Mad-dì để xem nàng có thái độ thế nào, thì nàng liền hỏi ngài tại sao nhìn nàng như thế và thét to với giọng sư tử hống các lời kệ sau:

  1. Vợ chàng từ thuở thanh xuân,
    Chính chàng là chủ nhân ông suốt đời,
    Tùy chàng muốn bán cho ai,
    Biếu không, hoặc giết thân tôi tớ nhà.

Lúc ấy Thiên chủ Sakka nhận thấy quyết định tối cao của nàng, liền ca ngợi nàng hết lời.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðáp lời, khi ấy Sak-ka
    Thấy bao nguyện ước nàng vừa hướng tâm:
    – Mọi điều chướng ngại dẹp xong
    Ở trên trời lẫn ở trong nhân quần.
  2. Ðất bằng đã phải chuyển rung,
    Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao,
    Chớp loè sáng chói biết bao,
    Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ.
  3. Na-ra-da với Pab-ba
    Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
    Mọi Thiên thần cõi Ba mươi
    Hoan nghênh thành tích tuyệt vời khó khăn.
  4. Khó làm như các thiện nhân,
    Phát ban như bậc chánh chân vẫn làm.
    Ác nhân khó thể theo gương
    Cuộc đời mà bậc thiện lương sống hoài.
  5. Vậy khi thiện, ác lìa đời,
    Giã từ cuộc sống ở nơi phàm trần,
    Ác nhân vào ngục hạ tầng,
    Thiện nhân đến cõi Thiên thần tái sinh.
  6. Cỗ Xe này thật Cao minh:
    Cả thê nhi được hi sinh cúng dường,
    Nên không còn đọa bước đường,
    Việc này mang phước quả trong cõi trời.

Khi Thiên chủ Sakka bày tỏ sự tán đồng như vậy xong, ngài nghĩ: “Bây giờ ta không được trì hỗn nữa, mà phải trao trả lại nàng và ra đi”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nay ta trả lại cho ngài
    Mad-dì hiền phụ tuyệt vời đẹp xinh.
    Xứng đôi vừa lứa duyên tình,
    Sống đời hòa hợp an bình tối cao.
  2. Như dây ràng buộc nhiệm mầu,
    Như là cá nước gặp nhau lạ gì,
    Cũng vầy ngài với Mad-dì
    Ðồng tâm hòa hợp phu thê sắt cầm.

647-648. Cả hai đồng đẳng giống dòng,
Ðôi bên cha mẹ cũng đồng gia môn,
Nơi đây trong chốn thảo am
Các ngài chung sống rừng hoang một mình,
Ðể rồi tiếp tục làm lành
Ở ngay trong chốn rừng xanh là nhà.

Nói vậy xong, ngài tiếp tục ban một điều ước:

  1. Ta là Thiên chủ Sak-ka
    Ðến đây thăm viếng ngôi nhà Hiền nhân,
    Chọn ngay điều ước, Minh quân,
    Ta ban tám ước nguyện phần Hiền vương.

Ngài vừa nói, vừa bay lên không, sáng ngời như ánh chiêu dương. Lúc ấy, Bồ-tát chọn các điều ước qua các vần kệ:

650-651. Sak-ka, Chúa tể Thiên nhân
Khắp trần gian đã ban phần thưởng ta,
Mong vương phụ chóng giải hòa,
Mong ngài hãy sớm gọi ta về nhà,
Cho ta bảo tọa vương gia,
Ðầu tiên nguyện ước mong ta đạt thành.

  1. Ta không kết án tử hình,
    Dù ai có phạm tội tình ra sao,
    Mong ta cứu tử người nào
    Bị tù đày, ấy nguyện cầu thứ hai.
  2. Mong toàn dân chúng mọi người
    Khi cần giúp đỡ đến nơi ta liền,
    Trẻ già, lớn bé, trung niên,
    Và đây là chính ước nguyền thứ ba.
  3. Ta không tìm vợ người ta,
    Chỉ vừa lòng với vợ nhà thiết thân,
    Không chìu theo ý nữ nhân,
    Thứ tư ước nguyện ta mong mỏi hoài.
  4. Sak-ka, Thiên chủ, xin ngài
    Ban cho quý tử sống đời dài lâu,
    Chánh chân chinh phục toàn cầu,
    Thứ năm nguyện ước ân sâu xin ngài.
  5. Mỗi khi vừa hết đêm dài,
    Vầng đông vừa hé, ban mai tiếp liền,
    Mong sao thực phẩm thần tiên
    Cũng vừa xuất hiện, ước nguyền sáu đây.
  6. Mong sao thí vật đủ đầy
    Ta luôn ban phát rộng tay không ngừng
    Với lòng sung sướng hân hoan
    Ðây nguyền thứ bảy ta mong ước hoài.
  7. Mong ta thẳng tiến lên trời,
    Tự do, giải thoát khỏi nơi nhân quần,
    Không còn sinh cõi phàm trần,
    Ðây nguyền thứ tám ta mong cầu ngài.
  8. Sak-ka, Thiên chủ cõi trời,
    Ðã nghe ngài nói, đáp lời như sau:
    – Phụ vương ngài chẳng bao lâu
    Sẽ mong gặp mặt con, dâu tái hồi.

Vừa nói lời này xong, Sak-ka trở về cõi của ngài.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này qua vần kệ:

  1. Sak-ka, Thiên chủ hùng oai,
    Su-ja phu tướng [*], nói lời này xong,
    Sau khi ban đủ đặc ân,
    Trở về thẳng cõi Thiên thần trú an.

Ðến đây chấm dứt Chuyện Sakka Thiên chủ (Sakka-pabbam).

[*] Sujampati: phu quân của nàng Suja, một danh hiệu của Thiên chủ Sakka.

*

  1. ÐOẠN KẾT: Đại vương đi đón Thái tử

Bấy giờ Bồ-tát và Maddì sống hạnh phúc cùng nhau trong thảo am mà Thiên chủ Sakka đã ban hai vị. Còn Jùjaka cùng đôi trẻ tiếp tục cuộc hành trình dài sáu mươi dặm.

Các thần linh vẫn chăm sóc đôi trẻ. Mỗi khi mặt trời lặn, Jùjaka thường lấy cây liễu gai buộc chúng lại và để chúng nằm trên mặt đất, còn chính lão lại sợ thú dữ nên trèo lên cây ngồi giữa các cành chĩa ba.

Rồi một vị thần giả dạng Vessantara và một nữ thần giả dạng Maddì đến với đôi trẻ, mở dây cho chúng được tự do, xoa bóp tay chân, tắm rửa, mặc quần áo cho chúng. Rồi họ cho chúng ăn và ngủ trên chiếc giường thần tiên. Ðến lúc rạng đông, họ lại đặt chúng nằm trong dây trói và biến mất. Như vậy do sự giúp đỡ của thần linh nên đôi trẻ đi đường không bị thương tích gì.

Jùjaka cũng được các vị thần dẫn đường, vì thế lão dự định đi đến vương quốc Kalinga, nhưng trong vòng mười lăm ngày, lão đến kinh thành Jetuttara.

Cùng đêm ấy, vua Sañjaya của nước Si-vi nằm mộng một giấc mơ như vầy:

Trong khi ngài đang dự một buổi triều kiến quan trọng có người đến dâng ngài hai đóa hoa. Ngài đeo chúng vào mỗi bên tai và phấn hoa rơi xuống ngực ngài.

Sáng hôm sau ngài thức dậy và hỏi các Bà-la-môn ý nghĩa giấc mơ ấy. Các vị đáp:

– Tâu Đại vương, các thân vương của ngài xa cách đã lâu nay sắp trở về. Thế là sáng hôm sau, khi đã thọ hưởng đủ thứ cao lương mỹ vị, ngài ngự ra thiết triều, các vị thần nọ đưa lão Bà-la-môn này đến đặt lão trước sân chầu của cung điện. Trong chốc lát, vua nhìn thấy đôi trẻ và hỏi:

  1. Mặt ai đây chiếu ánh vàng
    Khác nào lửa đốt khô rang nóng bừng,
    Giống như mặt chiếc vòng vàng
    Nung trong ngọn đuốc héo tàn cả thôi?
  2. Cả hai đều giống dáng người
    Ðây là đôi trẻ nhà ai thế này?
    Kìa Jà-li giống cậu trai,
    Kan-hà, cô gái chẳng sai chút gì.
  3. Giống như sư tử thiếu nhi
    Mới từ hang núi bước đi xuống đường.
    Giống nhau như thể đúc khuôn,
    Khác nào các bức tượng vàng đứng kia.

Sau khi khen ngợi chúng như thế qua ba vần kệ, vua phái một vị triều thần đến gặp chúng và bảo đem chúng vào cho ngài. Vị ấy nhanh chóng mang chúng vào và vua hỏi lão Bà-la-môn:

  1. Hiền nhân Bhà-rad-và-ja,
    Từ đâu đem lũ trẻ thơ đến vầy,
    Hãy mau nói rõ ta hay.

Jùjaka đáp:

  1. Muôn tâu, nửa tháng trước đây có người
    Ðã đem lũ trẻ cho tôi,
    Hân hoan về việc làm người ban ân.

Vua hỏi:

  1. Nhờ tài dịu ngọt nói năng,
    Hay lời chân thật khiến ông được lòng
    Từ đâu có các nhi đồng,
    Thí tài đệ nhất tôn ông nhận vầy?

Jùjaka đáp:

  1. Ves-san-ta Ðại vương này
    Sống trong rừng thẳm lâu ngày ẩn thân,
    Cho làm nô lệ, gia nhân,
    Ngài như đất mẹ rộng lòng phát ban.
  2. Ves-san-ta, chính Ðại vương
    Cho tôi con ruột làm thân tôi đòi.
    Mọi người cầu phúc đến ngài
    Như muôn sông đổ biển khơi ngàn trùng.

Nghe vậy, các triều thần chê bai Vessantara:

  1. Khi còn ở tại vương cung
    Làm điều sai trái minh quân chẳng hề.
    Sao còn cho cả thiếu nhi,
    Khi ngài đã bị đuổi đi vào rừng?
  2. Hãy nghe ta, cả quần thần,
    Thảy đang tề tựu ở trong cung đình
    Sao vua ban chính con mình
    Ðể hầu hạ một gia đình khác kia?
  3. Cứ ban nô lệ, nữ tỳ,
    Ngựa, la, và cả cỗ xe để ngồi,
    Hoặc là cho cả bầy voi,
    Nhưng sao cho chính cả hai con ngài?

Nhưng cậu bé nghe vậy, không chịu nhận lỗi của cha mình, mà vung tay lên như thể nâng lấy núi Sineru (Tu-di) bị cuồng phong đánh ngã, và cậu ngâm vần kệ này:

  1. Làm sao có thể cho ai
    Khi không có chút gia tài đất đai,
    Ngựa, la và cả bầy voi
    Cỗ xe, tỳ nữ, tôi đòi cũng không?

Vua đáp:

  1. Ông khen cha cháu ban ân,
    Không lời chê trách lỗi lầm gì đâu,
    Nhưng lòng vương phụ thế nào,
    Khi cha trao các con vào tay kia?

Cậu bé đáp:

  1. Lòng ngài nặng trĩu sầu bi,
    Lòng nung nấu chẳng khác chi lửa nồng.
    Mắt ngầu đỏ tựa cá hồng,
    Tuôn rơi lệ thảm đôi dòng xuống chân.

Lúc ấy, Kanhàjinà lại nói:

  1. Ông ơi, xem lão La-môn
    Cứ ưa đánh đập lưng con mãi hoài
    Với dây leo nọ, liễu gai,
    Giống như nô lệ tôi đòi xuất thân.

676-677. Lão này không phải đạo nhân,
Vì đạo nhân phải chánh chân mới là.
Lão này đội lốt quỷ ma
Dẫn đi ăn thịt cả nhà trẻ con.
Sao đành nhìn cháu đích tôn
Bị lôi đi thật ác ôn bạo tàn?

Vua thấy lão Bà-la-môn không để cho chúng đi, liền ngâm kệ:

  1. Các con: vương tử, công nương,
    Mẹ cha là chính quốc vương nước này,
    Xưa thường đeo sát sườn đây,
    Sao bây giờ đứng như vầy xa xa?

Cậu trai đáp:

  1. Chúng con dòng dõi vương gia,
    Quốc vương là chính mẹ cha song toàn,
    Nhưng nay nô lệ đạo nhân,
    Cho nên con đứng trông chừng xa xa.

Vua đáp:

  1. Cháu yêu, đừng nói vậy mà,
    Nóng như thiêu đốt, lòng ta khô cằn,
    Thân ta như lửa cháy bừng,
    Ðứng ngồi quá thật bất an bây giờ.
  2. Cháu yêu, đứng nói vậy mà,
    Cháu làm ông thật xót xa buồn rầu,
    Ông mua cháu với giá nào
    Thoát thân nô lệ, hãy mau cháu à.
  3. Nói cho ông rõ thật thà,
    Rồi ông sẽ trả cho Bà-la-môn
    Giá nào cha đã định phần,
    Khi cha đem cháu ban ân cúng dường?

Cậu bé đáp:

  1. Một ngàn đồng giá của con,
    Phần em con muốn thoát thân nô tỳ,
    Trăm voi và mọi thứ kia,
    Một trăm mỗi thứ cha đà định luôn.

Vua ra lệnh trả giá chuộc hai cháu:

684-685. Cận thần, mau trả đạo nhân
Ðúng theo giá được định phần cháu ta.
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

686-687. Cận thần liền trả đạo nhân
Ngay khi giá được định phần rõ ra:
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn bò trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân.

Sau đó vua ban lão một cung thất bảy tầng, lão Bà-la-môn được đại vinh hiển. Lão đem cất mọi thứ tài sản, rồi đi vào cung, đặt mình xuống tọa sàng sang trọng và hưởng cao lương mỹ vị.

Khi đôi trẻ được đem đi tắm rửa, ăn uống và mặc áo quần xong, tổ phụ liền ôm vào lòng một cháu, và tổ mẫu ôm một cháu.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Chuộc xong, trẻ được tắm ngay,
    Uống ăn, trang điểm và thay áo quần.
    Ðược ông bà bế vào lòng,
    Quốc vương cất tiếng hỏi han ân cần:

689.- Ta tin rằng phụ mẫu thân
Thảy đều thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề thảo am.

  1. Song thân con có phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hay bầy dã thú tìm mồi,
    Song thân có tránh mọi loài được chăng?

Cậu bé đáp:

  1. Cám ơn ông, tổ phụ vương,
    Song thân thịnh vượng, an khương mọi bề,
    Với bao thóc lúa thu về
    Và bao củ quả tràn trề thảo am.
  2. Song thân không bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Song thân tránh được mọi loài, bình an.
  3. Mẹ đào củ cải, hành hoang,
    Mẹ tìm cỏ thuốc, rau thơm, bạc hà,
    Táo và hạt dẻ, Vil-va,
    Mẹ thường hái để cả nhà ăn luôn.
  4. Và khi nào mẹ cưu mang
    Dù là củ quả rừng hoang loại gì,
    Cả nhà đều đến tựu tề,
    Và cùng ăn uống no nê đêm ngày.
  5. Mẹ con vàng võ, ốm gầy,
    Bởi vì vất vả suốt ngày kiếm ăn,
    Dãi dầu mưa nắng gió sương
    Ở trong rừng rậm thú hoang trú nhiều.
  6. Như hoa sen thật yêu kiều
    Ở trong tay nọ tiêu điều xác xơ.
    Tóc bà chỉ mọc lơ thơ
    Vì lang thang giữa rừng già trống trơn.
  7. Dưới tay bám đất từng hòn,
    Tóc bà buộc chặt từng chòm phía trên.
    Bà chăm nom ngọn lửa thiêng,
    Ðắp nhiều da thú nằm trên đất dày.

Sau khi miêu tả mọi nỗi gian lao nhọc nhằn của mẹ mình như vậy, cậu bé trách móc ông nội qua các lời kệ này:

  1. Thói thường ở thế gian này,
    Mọi người yêu quí con trai trong nhà,
    Nhưng trừ trường hợp này ra
    Hình như tổ phụ bỏ ra việc này.

Vua liền công nhận lỗi của mình:

  1. Việc này ta thật trái sai,
    Hại người vô tội tàn đời rừng hoang,
    Khi nghe lời của thần dân,
    Ta đành đày ải con thân trong nhà.
  2. Vậy thì tài sản của ta,
    Những gì ta có bây giờ trong tay
    Thuộc quyền sở hữu con trai,
    Ves-san-ta hãy đến ngay trị vì
    Trên toàn đất nước Si-vi.

Cậu bé đáp:

  1. Không vì lời của ấu nhi vừa rồi,
    Mà vương phụ sẽ tái hồi,
    Tâu ngài tổ phụ cao ngôi nước mình,
    Vậy xin ngài tự thân hành
    Ban con trai đủ ân lành từ tay.

Vua Sañjaya liền ra lệnh cho vị đại tướng như sau:

  1. Cỗ xe bầy ngựa đi ngay
    Bầy voi và bộ binh nay sẵn sàng,
    Thần dân hãy đến quanh vùng,
    Tế sư tất cả đi cùng chỗ kia.
  2. Sáu mươi ngàn tướng lãnh ta
    Giáo gươm tô điểm thật là xinh sao,
    Giáp bào xanh,trắng hoặc nâu,
    Mão cao đỏ tựa máu đào, đến kia.
  3. Giống như đồi lắm quỉ ma,
    Nơi ngàn cây mọc chen đua thẳng hàng,
    Sáng ngời, thơm ngát dịu dàng
    Với cây thần, gió nhẹ nhàng tới lui.
  4. Hãy đem mười bốn ngàn voi
    Trang hoàng toàn thể cân đai bằng vàng,
    Bọn nài voi giáo liềm mang
    Cùng nhiều bầy ngựa, ta ban lệnh này.
  5. Ngựa Sindh toàn thể cả bầy,
    Giống nòi cao quý vẫn hay tốc hành,
    Mỗi con chở một kỵ binh
    Hiên ngang cung kiếm bên mình sẵn mang.
  6. Cỗ xe một vạn bốn ngàn
    Ðiểm tô thật đẹp yên cương đủ đầy,
    Bánh làm sắt rất khéo thay,
    Dát vàng toàn thể thắng ngay cả đoàn.
  7. Phướng, cờ chuẩn bị sẵn sàng,
    Giáp bào, khiên mộc vai mang xuất hành,
    Cung tên đầy đủ bên mình
    Những người chiến sĩ giao tranh không sờn.

Vua phác họa việc thành lập đạo binh của ngài như vậy xong, rồi ra lệnh san bằng đường sá từ thành Jetuttara đến núi Vamka có chiều rộng tám sào, và trang hoàng đường ấy theo cách này cách nọ như sau. Ngài bảo:

  1. Hoa là-ja trải khắp đường
    Những tràng hoa đẹp ngát hương dăng màn,
    Hãy đem lễ vật cúng dường
    Ðặt ngay trên lối quân vương du hành.
  2. Hãy đem ra rượu trăm bình,
    Mỗi thôn mời mọi dân lành muốn say.
    Trăm bình rượu ấy đặt ngay
    Bên đường vương tử mai này hồi loan.
  3. Hãy đem bánh thịt sẵn sàng,
    Món canh phải khéo trang hoàng cá ngon,
    Ðem ra đặt ở vệ đường,
    Ở ngay trên lối quân vương đi về.
  4. Rượu, dầu, bơ, sữa, hạt kê,
    Sữa chua, cơm chín ê hề thức ăn
    Ðem ra đặt chúng bên đường
    Ở ngay trên lối quân vương đi về.
  5. Hỏa đầu quân hãy tựu tề,
    Người làm bánh mứt, làm hề, hát rong,
    Người nhào lộn, các vũ công.
    Những người đánh trống, đóng tuống giải khuây.
  6. Ðàn tỳ trổi giọng lên ngay,
    Tù và inh ỏi, đủ đầy thần dân,
    Trống con, trống lớn khua rần
    Khắp nơi đủ loại thùng thùng dậy vang.

Vua phát họa cách chuẩn bị trang hoàng đường sá như vậy. Còn Jùjaka ăn uống quá nhiều, không tiêu hoá nổi, nên chết ngay lập tức.

Vua ra lệnh tổ chức tang lễ, thông báo truyền đi khắp kinh thành bằng tiếng trống, nhưng không tìm ra thân quyến của lão, nên tài sản của lão lại trở về tay vua!

Vào ngày thứ bảy, tất cả đạo quân tụ họp đầy đủ. Vua long trọng làm lễ xuất hành cùng với Jàli làm người dẫn đường.

*

Bậc Ðạo Sư diễn tả việc này như sau:

  1. Ðạo quân hùng hậu lên đường,
    Ðạo quân của cả nước non quê nhà,
    Ði về phía núi Vam-ka,
    Jà-li hướng dẫn đoàn ra trước liền.
  2. Voi già đã sáu mươi niên
    Rống lên một tiếng như kèn dậy vang,
    Thú rừng gầm thét rộn ràng
    Những khi chúng buộc dây cương chặt vào.
  3. Bánh xe dồn dập xôn xao,
    Rồi bầy ngựa hí giọng cao vang lừng,
    Ðại quân thẳng tiến lên đường,
    Mịt mù tung đám bụi hồng như mây.
  4. Nhu cầu cung cấp đủ đầy,
    Ðạo quân quyết chí đi ngay sẵn sàng.
    Jà-li hướng dẫn cả đoàn
    Tiến về đồi núi bạt ngàn Vam-ka.
  5. Ði vào rừng rậm bao la
    Tưng bừng chim chóc, cỏ hoa muôn loài,
    Với bao hoa nở nụ cười,
    Với bao trái chín làm người mừng vui.
  6. Khi rừng đang độ hoa tươi,
    Chim ca rào rạt như trời đổ mưa,
    Véo von ríu rít gần xa
    Với bao đôi cánh sáng lòa bay ngang.
  7. Ngày đêm thẳng tiến lên đường,
    Cuối cùng chấm dứt đường trường nơi đây,
    Tiến vào trong xóm thôn này
    Ves-san-ta Chúa lâu rày ẩn thân.

Trên bờ hồ Mucalinda, vương tử Jàli bảo đoàn cắm trại, cậu đặt mười bốn ngàn cỗ xe hướng ra phía con đường họ vừa đến và vệ binh đứng rải rác canh phòng sư tử, cọp, tê giác, và các dã thú khác.

Lúc ấy có tiếng voi rống to cùng nhiều tiếng ồn khác. Bậc Ðại Sĩ nghe vậy, sợ mất vía, nghĩ thầm: “Chúng đã giết phụ vương và đến đây tìm ta!”. Ngài liền đưa Mad-dì cùng leo lên một ngọn đồi và quan sát đoàn quân.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðoàn quân rầm rộ đến gần,
    Ves-san-ta lắng nghe ầm ầm vang,
    Ngài trèo lên ngọn đồi hoang
    Nhìn đoàn quân ấy, kinh hoàng lắm thay.
  2. – Mad-dì, hãy lắng nghe này,
    Âm thanh gầm thét tràn đầy rừng hoang,
    Tiếng bầy ngựa hí nghe vang,
    Nhìn cờ phấp phới bay ngang ngọn đồi.
  3. Phải chăng, bọn thợ săn mồi
    Với dao, lưới bẫy ở nơi hố hầm,
    Ði tìm dã thú trong rừng,
    Ðang gào thét để truy lùng chúng đây?
  4. Chúng ta, những kẻ lưu đày,
    Mặc dù vô tội, ở ngay trong rừng,
    Ðang chờ cái chết bạo hung,
    Rơi vào tay của cừu nhân bây giờ!

Khi nàng nghe lời này, nàng nhìn đạo quân và tin rằng đó chính là quân đội của nước mình, nàng liền ngâm vần kệ an ủi ngài:

  1. Thảy đều tốt đẹp với ta,
    Quân thù không hại vương gia đâu nào,
    Không hề có ngọn lửa cao
    Ðủ năng lực để tràn vào đại vương.

Do vậy, bậc Ðại Sĩ được an lòng cùng Mad-dì bước xuống đồi và ngồi trước lều cỏ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Ves-san-ta, bậc Ðại vương,
    Nghe vầy, bước xuống từ vườn đồi hoang,
    Và ngồi ngay trước thảo am,
    Nhưng lòng vẫn thấy bàng hoàng bất an.

Lúc ấy vua Sañjaya truyền đưa hoàng hậu đến và bảo bà:

– Này ái hậu, nếu tất cả chúng ta đều đến đó sẽ gây chấn động lớn, vì vậy trẫm sẽ đi trước một mình. Khi nào bà cảm thấy các con đã lắng dịu và an lòng thì bà có thể đến với một đám tùy tùng nhé.

Một lát sau, ngài bảo Jàli và Kanhàjinà đến. Ngài quay cỗ xe hướng về đường cái từ đó ngài vừa đến đây và đặt quân canh phòng nơi này nơi nọ xong, rồi ngự lên mình voi đầy đủ cân đai và đi tìm vương tử.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðiều hành quân đội sẵn sàng,
    Vương xa hướng đến con đường vừa qua,
    Và đi tìm chốn rừng già,
    Nơi kia vương tử làm nhà độc cư.
  2. Trên mình voi báu, vua cha,
    Hoàng y ngài đã khoác hờ trên vai,
    Giơ cao, nắm chặt đôi tay,
    Ngài đi trao lại chiếc ngai con mình.
  3. Ngài nhìn vương tử đẹp xinh,
    Dáng không sợ hãi, an bình trong tâm.
    Ngồi ngay ở trước thảo am
    Và đang tĩnh lặng thâm trầm tư duy.
  4. Ves-san-ta với Mad-dì
    Thấy vua cha, phải vội đi đón mừng,
    Vừa khi vương phụ đến gần
    Trong lòng mong mỏi viếng thăm con ngài.
  5. Mad-dì đảnh lễ tức thời
    Ðặt đầu nàng trước chân ngài, phụ vương,
    Ngài ôm chặt cả hai con,
    Ðôi tay ve vuốt đem nguồn hân hoan.

Vừa khóc than vì buồn tủi, vua cha vừa ân cần hỏi con:

  1. Ta tin rằng, hỡi con thương,
    Con thường thịnh vượng, an khương mọi bề
    Với bao thóc lúa thu về,
    Và bao củ, quả tràn trề ẩn am.
  2. Con nay có bị phiền lòng
    Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
    Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
    Chẳng hay con tránh mọi loài được chăng?

Bậc Ðại Sĩ đáp lời phụ vương:

  1. Chúng con sống, tấu phụ thân,
    Cuộc đời cực khổ khốn cùng vừa qua,
    Chúng con nỗ lực tối đa
    Ðể ăn những thứ tìm ra quanh đồi.
  2. Nghịch duyên rèn luyện con người
    Như người giữ ngựa luyện loài ngựa hoang.
    Nghịch duyên này, tấu phụ vương,
    Ðã làm thuần thục chúng con nơi này.
  3. Nhưng vì xa vắng lâu ngày
    Song thân khiến chúng con gầy tấm thân,
    Bị lưu đày, tấu Ðại quân,
    Và đi vào sống trong rừng hoang sơ.

Sau đó ngài hỏi cha về số phận của các con:

  1. Nhưng Jà-li, với Kan-hà,
    Vương tôn bất hạnh của cha nối dòng,
    Bà-la-môn nọ bạo tàn
    Ðã xua đuổi chúng như đàn bò non.
  2. Nếu cha biết chút gì chăng
    Về đôi trẻ nhỏ nối dòng, nói ngay,
    Như y sư chữa khéo thay
    Một người bị rắn cắn ngay tức thì.

Vua cha đáp:

  1. Cả Kan-hà với Jà-li
    Giờ đây đã được chuộc về hoàng cung.
    Ta đem tiền trả đạo nhân,
    Vậy đừng sợ, hãy yên lòng, con thương!

Bậc Ðại Sĩ được an tâm khi nghe điều này và vui vẻ đàm đạo với vua cha:

  1. – Con mong cha được an khương,
    Và không còn chuyện lo buồn xảy ra,
    Mẹ con không phải lệ sa
    Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

Vua cha đáp:

  1. – Cám ơn, cha được an khương,
    Và không còn chuyện đau buồn xảy ra,
    Mẹ con không phải lệ sa
    Ðến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng.

Bậc Ðại Sĩ nói:

  1. – Con mong vương quốc thịnh hưng
    Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
    Ðàn gia súc thật hùng cường,
    Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

Vua cha đáp:

  1. – Ồ, vương quốc vẫn thịnh hưng,
    Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
    Ðàn gia súc thật hùng cường,
    Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng.

Trong khi hai vị nói chuyện với nhau như vậy, hoàng hậu Phusatì cảm thấy tất cả mọi người hẳn đã trút hết lo âu, nên bà đến thăm con trai cùng với một đoàn tùy tùng rầm rộ.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Trong khi hai vị luận bàn,
    Bấy giờ lại thấy mẫu thân đến gần,
    Bước vào cửa lớn thảo am,
    Dù là hoàng hậu, chân trần sá chi.
  2. Ves-san-ta với Mad-dì
    Thấy thân mẫu, vội ra đi đón mừng,
    Mad-dì liền chạy lại gần,
    Ðặt đầu nàng xuống trước chân mẹ hiền.
  3. Mad-dì bất chợt nhìn lên,
    Thấy hai con trẻ bình yên sờ sờ,
    Như bê con thấy mẹ bò,
    Chúng liền la hét thật to chào mừng.
  4. Mad-dì thấy chúng bình an,
    Như người quỷ ám, vội vàng phi thân,
    Run run, bầu sữa phồng căng
    Vú nàng cho các con ăn thỏa lòng.

*

Ngay lúc ấy, núi đồi vang động, quả đất rung chuyển, đại dương nổi sóng, núi Tu-di, chúa tể của núi đồi, cúi mình xuống, sáu cõi trời của chư Thiên đồng vọng một âm thanh vĩ đại. Sakka Thiên chủ nhận thấy cả sáu vị trong hoàng gia cùng đám tùy tùng đều nằm bất tỉnh trên mặtđất, và không ai có thể đứng lên rảy nước cho các người kia, vì vậy ngài quyết định đổ một cơn mưa lớn.

Ngài làm mưa rơi xuống: kẻ nào muốn ướt đều được ướt, kẻ nào không muốn thì không có một giọt mưa nào rớt xuống mình họ, mà nước lăn ra như thể từ ngọn lá sen. Cơn mưa ấy thật giống mưa rơi trên cụm lá sen.

Sáu người trong hoàng gia đã hồi tỉnh, và tất cả mọi người đều reo to trước sự kiện diệu kỳ là mưa rơi trên đám người trong hoàng tộc như thế nào, quả đất lớn chấn động ra sao.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ngay khi thân tộc tương phùng,
    Âm thanh vĩ đại liền bùng nổ ra,
    Các đồi núi vọng vang xa,
    Ðất bằng rung chuyển thật là mạnh thay.
  2. Trời liền đem một vầng mây
    Từ trên giáng xuống mưa đầy tuôn ra,
    Khi quân vương Ves-san-ta
    Vừa cùng tái ngộ hoàng gia của ngài.

751-752. Phụ vương, mẫu hậu, con trai,
Con dâu, các cháu đồng thời nơi kia.
Khi vừa sum họp một nhà,
Tóc lông dựng đứng, thịt da rợn người,
Thần dân đồng vỗ tay hoài
Nêu cao nguyện ước một lời với vua.

  1. Dân yêu cầu Ves-san-ta
    Và Mad-dì, thảy cùng la vang lừng:
    – Hãy làm chúa tể chúng thần,
    Quốc vương, hoàng hậu, nghe dân gọi vầy!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ nói với vua cha:

754 . Phụ vương, quần chúng lâu nay
Dân quê, thành thị lưu đày thần nhi,
Khi con đang ngự ngai kia,
Và đang theo cách trị vì chánh chân.

Vua cha đáp lời để xoa dịu nỗi giận hờn của con:

  1. Thật là ta đã sai lầm
    Khi ta làm hại con không tội này,
    Vì nghe lời của dân vầy
    Ta đưa đến chốn lưu đày con ta.

Ngâm vần kệ này xong, ngài thêm một vần nữa để mong được xoa dịu nỗi sầu riêng của mình:

  1. Nỗi sầu của mẹ cùng cha,
    Hoặc là em gái, muốn xoa dịu dần,
    Nam nhi không chút ngập ngừng
    Cho dù ta phải hiến dâng cuộc đời.

Bồ-tát đã mong muốn trở lại vương vị, nhưng tránh nói nhiều để tạo niềm kính trọng đối với ngài, bây giờ mới đồng ý. Lập tức sáu mươi ngàn quần thần, các bạn thân của ngài từ bé, đồng la lớn:

  1. Ðại vương, tắm rửa đến thời,
    Tẩy cho sạch hết trần ai bấy giờ!

Nhưng bậc Ðại Sĩ đáp:

– Hãy đợi một lát.

Rồi ngài bước vào trong thảo am, cởi bộ áo ẩn sĩ ra và cất đi. Kế đó ngài bước ra khỏi am, và nói:

– Ðây là nơi ta đã sống chín tháng rưỡi tu tập khổ hạnh, và đã đạt pháp tối thượng về Bố thí viên mãn khiến quả đất chấn động.

Ngài đi quanh am lá ba lần về phía hữu và quỳ lạy trước am với năm phần thân sát đất (trán, hai cùi tay, bụng, chân, đầu gối).

Rồi quần thần chải chuốt râu tóc ngài và rảy nước lên thân ngài để làm lễ quán đảnh phong vương, trong khi ngài sáng rực trong vẻ uy nghi như một vị Thiên đế. Vì vậy chuyện kể.

Thế rồi vua Ves-san-ta
Tẩy cho thật sạch đất dơ, bụi trần.

Uy lực vinh quang của ngài thật vĩ đại thay: ngài nhìn đến nơi nào thì nơi ấy đã rúng động, những ai khéo nói lời chúc lành đều lên tiếng phát biểu, dân chúng đem đến đủ loại nhạc cụ đàn sáo. Trên đại dương có tiếng vang dậy như sấm sét.

Quần thần đưa vào con voi báu đã được tô điểm cân đai rực rỡ. Ngài vừa đeo thanh bảo kiếm vào mình vừa ngự lên bảo tượng, trong khi sáu mươi ngàn quần thần vây quanh ngài thành một cuộc dàn binh thật hùng tráng huy hoàng và rảy nước làm lễ tấn phong cho Maddì. Họ vừa rảy nước vừa kêu to:

– Cầu mong chúa tể Vessantara bảo vệ hoàng hậu !

Họ còn nói thêm nhiều lời chúc lành khác nữa.

*

Bậc Ðạo Sư diễn tả việc này như sau:

  1. Ðầu vừa được gội sạch xong,
    Xiêm y lộng lẫy, trang hoàng oai phong,
    Ðeo vào thanh kiếm vô song,
    Ngự lên bảo tượng, bạn đồng hành xưa.
  2. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ
    Ngắm xem thật đẹp, bước ra quây quần,
    Nay là sáu vạn quần thần,
    Thảy đều kính lễ chúa công tức thì.
  3. Cung nga tắm gội Mad-dì,
    Và đồng cầu chúc vương phi vang lừng:
    – Ves-san-ta bậc Ðại vương
    Sañ-ja Thái thượng bảo toàn nương nương!
  4. Thế là mọi sự phục hoàn,
    Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
    Trên miền đất của nhà vua,
    Nhân dân mở hội, hát ca vui mừng.
  5. Thế là mọi sự phục hoàn,
    Và hồi tưởng nỗi đau buồn đã qua,
    Vương phi hạnh phúc chan hòa,
    Cùng đi với các con thơ lạc bầy.

Trong niềm hạnh phúc ấy, nàng nói với các con:

  1. – Mẹ ăn một bữa mỗi ngày,
    Mẹ nằm ngủ mặt đất này trống trơn,
    Ðó là nguyện ước yêu thương
    Ðến khi con được vuông tròn tìm ra.

764-765. Lời nguyền đã đạt bây giờ,
Và nay lần nữa mẹ tha thiết cầu
Ðiều lành gì tạo bấy lâu,
Ước mong bảo hộ ngày sau con nhờ,
Và mong tổ phụ Sañ-ja
Luôn che chở các con nhà từ đây.

  1. Ðiều lành gì tạo bấy nay,
    Bởi thân phụ hoặc chính tay mẹ mà,
    Ước mong con trẻ không già,
    Nhờ chân chính, các con thơ trường tồn.

Mẫu hậu Phusatì cũng bảo:

– Kể từ nay, vương phi sẽ mặc những xiêm áo này và mang các nữ trang này.

Và bà trao cho nàng các thứ ấy đựng trong nhiều hộp.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Vải bông, tơ lụa, áo quần
    Thật là tuyệt mỹ, màn chăn thiếu gì,
    Mẫu hoàng trao tặng Mad-dì
    Làm cho sắc đẹp vương phi sáng bừng.
  2. Vòng tay, vòng cổ, vòng chân,
    Mạng che trán, chiếc đai lưng trang hoàng,
    Mẫu thân gửi tặng cho nàng
    Làm cho nàng đẹp huy hoàng sáng tươi.
  3. Và khi công chúa tuyệt vời
    Ngắm nhìn châu báu sáng ngời nàng mang,
    Rỡ ràng, nàng chiếu ánh quang
    Khác nào các vị nữ thần Lạc Viên [*].
  4. Với đầu tẩm ướt tóc tiên,
    Nữ trang, xiêm áo ngắm nhìn đẹp tươi,
    Vương phi tỏa ánh sáng ngời
    Như là Thiên nữ cõi trời Băm ba.
  5. Trong vườn Thiên giới Cit-ta [**]
    Cây ba tiêu ngọn gió lùa nhẹ rung,
    Ðôi môi công chúa tuyệt trần,
    Dáng nàng khả ái như thân cây trời.
  6. Như chim lông đẹp sáng ngời
    Lượn bay khắp mọi nẻo trời trên không,
    Môi nàng xinh tựa đóa hồng,
    Dung nhan làm ngẩn ngơ lòng thế nhân.
  7. Chúng dâng voi đẹp còn xuân,
    Con voi dũng mãnh oai phong hùng cường,
    Không hề biết sợ giáo gươm,
    Ngà dài, chẳng sợ chiến trường ba quân.
  8. Nàng lên voi nọ còn xuân
    Con voi dũng mãnh, oai phong hùng cường,
    Không hề biết sợ giáo gươm,
    Ngà dài, chẳng sợ chiến trường giao tranh.

Như vậy cả hai vị tiến về doanh trại trong cảnh đại huy hoàng. Phụ vương Sañjaya và đoàn tùy tùng đông vô số bày đủ trò tiêu khiển hai vị trên đồi và trong rừng suốt một tháng.

Suốt thời gian ấy, nhờ uy danh của bậc Ðại Sĩ, không một dã thú hay chim muông nào gây tai hại gì trong khu rừng bao la ấy.

[*] Nandana: Thiên Lạc Viên ở cõi trời Ba mươi ba.

[**] Cittalatà: Lạc Viên của Sakka ở cõi trời Ba mươi ba.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Nhờ Ves-san chúa quang vinh,
    Xuyên qua suốt dải rừng xanh bạt ngàn,
    Không loài dã thú, chim muông
    Làm gì hại chúng bạn, luôn làm lành…

776-777. Và khi ngài phải đăng trình,
Muôn loài như một đồng tình tiễn đưa,
Chim muông, dã thú gần xa,
Mọi loài trong chốn rừng già cùng nhau
Lặng im mọi tiếng xôn xao
Khi ngài rời chốn rừng sâu lên đường.

Sau một tháng hội hè vui chơi, vua Sañjaya triệu tập vị đại tướng quân vào bảo:

– Ta đã ở trong rừng này lâu rồi, thế con đường chuẩn bị cho vương nhi trở về đã sẵn sàng chưa?

Ông đáp:

– Tâu Chúa thượng, đã đến lúc ra đi.

Ngài liền nhắn lời đến vua Vessantara và cùng quân đội khởi hành, theo sau là đám tùy tùng trên con đường đã được chuẩn bị từ lòng đồi Vamka đến kinh thành Jetuttara.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Ðường vua đi mới được làm,
    Với muôn hoa lá trang hoàng đẹp xinh,
    Từ nơi ngài ở rừng xanh
    Xuôi dần đến chốn kinh thành Jet-ta.
  2. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ,
    Nam nhi, phụ nữ, thương gia quây quần,
    Ðạo nhân trở lại quê hương
    Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.
  3. Nhiều người quản tượng, quản xa,
    Cùng đoàn vệ sĩ hoàng gia xuất hành,
    Và nhiều lữ khách, bộ binh
    Thảy đồng tiến tới kinh thành Jet-ta.
  4. Chiến binh mang mão áo da,
    Quân mang bào giáp sáng lòa kiếm thương,
    Ðể cùng bảo vệ quân vương
    Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta.

Nhà vua trải qua cuộc hành trình dài sáu mươi dặm đường trong hai tháng. Sau đó ngài vào thành Jetuttara được trang hoàng để mừng đón ngài và ngài bước lên hoàng cung.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này:

  1. Ðoàn quân vào đến thành đô,
    Ðẹp xinh hào lũy, cửa ô cao vầy,
    Ðàn ca múa hát vui thay,
    Thức ăn thức uống đủ đầy luôn luôn.
  2. Thần dân toàn thể hân hoan
    Từ nông dân đến thị dân mọi nhà,
    Chào mừng trở lại quê cha
    Vương nhi danh vọng gần xa vang lừng.
  3. Mọi người đều vẫy chiếc khăn
    Lên không để đón ân nhân đến gần.
    Bấy giờ có tiếng trống rung,
    Lệnh truyền đại xá ban ân muôn loài.

*

Như vậy vua Vessantara ban ân xá mọi sinh vật cho đến loài mèo. Và hôm ấy ngài vào thành về buổi chiều tối, ngài suy nghĩ: “Khi vừa tảng sáng, những kẻ cầu ân nghe tin ta trở về sẽ đến đây. Vậy ta lấy gì cho họ đây?”. Ngay lúc ấy chiếc ngai của Thiên chủ Sakka bỗng nóng lên. Ngài xem xét và thấy rõ lý do, ngài liền đổ xuống một trận mưa gồm bảy báu vật chẳng khác gì trận mưa dông, tràn ngập cả mặt tiền lẫn hậu cung đến tận thắt lưng và khắp cả kinh thànhđến tận đầu gối.

Hôm sau, vua phân chia các phần đất này nọ cho nhiều gia đình và cho phép họ thu lượm châu báu, phần còn lại, ngài truyền quân góp nhặt và cất vào kho tàng trong cung thất của ngài. Như vậy ngài có sẵn các kho báu để phân phát trong tương lai.

*

Bậc Ðạo Sư giải thích việc này như sau:

  1. Khi Ves-san chúa tái hồi
    Ðại vương bảo hộ mọi người Si-vi,
    Trời cho mưa báu tràn trề
    Ở trên đất nước là quê hương này.
  2. Ves-san Vương tử rộng tay
    Phát ban tặng vật đủ đầy toàn dân,
    Cuối cùng ngài đã mạng chung,
    Tràn đầy trí tuệ, thiên cung ngài về.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại Vessantara với gần cả ngàn bài kệ này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là Jùjaka, nàng Cincà là Amittatàpana, Channa (Xạ-nặc) là Cetaputta, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị khổ hạnh Accuta, Anuruddha (A-na-luật) là Sakka, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là vua Sañjaya, Vương hậu Mahàmàyà (Ma-gia) là Phusatì, mẫu thân của Ràhula là vương hậu Maddì, Ràhula là vương tử Jàli, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Kanhàjina, các đệ tử đức Phật là thần dân và vua Vessantara chính là Ta.

[01] Chương XIII – Phẩm Mười Ba Bài Kệ
474. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân (Amba)
475. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Phandana)
476. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền Thân Javana-Hamsa)
477. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền Thân Culla-Nàrada)
478. Chuyện Sứ Thần (Tiền Thân Dùta)
479. Chuyện Cây Bồ Đề Và Thánh Đế Kàlinga (Tiền Thân Kàlinga-Bodhi)
480. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền Thân Akitta)
481. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền Thân Takkàriya)
482. Chuyện Lộc Vương (Tiền Thân Ruru)
483. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền Thân Sarabha-Miga)
[02] Chương XIV – Tạp Phẩm
484. Chuyện Cánh Đồng Lúa (Tiền Thân Sàlikedàra)
485. Chuyện Đôi Ca Thần Canda (Tiền Thân Canda Kinnara)
486. Chuyện Chúa Chim Ưng (Tiền Thân Màha Ukkusa)
487. Chuyện Nam Tử Uddàlaka (Tiền Thân Uddàlaka)
488. Chuyện Củ Sen (Tiền Thân Bhisa)
489. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền Thân Suruci)
490. Chuyện Nam Vi Hành Trì Trai Giới (Tiền Thân Pancùposatha)
491. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền Thân Mahà-Mora)
492. Chuyện Lợn Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Taccha-Sùkara)
493. Chuyện Vị Đại Vương Nhân (Tiền Thân Mahà-Vànija)
494. Chuyện Đại Vương Sadhìna (Tiền Thân Sàdhìna)
495. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn (Tiền Thân Dasa-Bràhmana)
496. Chuyện Cúng Thực Phẩm Đúng Cấp Bậc (Tiền Thân Bhikkhà-Parampara)
[03] Chương XV – Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
497. Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga (Tiền Thân Màtanga)
498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền Thân Citta-Sambhùta)
499. Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền Thân Sivi)
500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền Thân Sirimanda)
501. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền Thân Rohanta Miga)
502. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền Thân Hamsa)
503. Chuyện Anh Vũ Sattigumba (Tiền Thân Sattigumba)
504. Chuyện Ðại Vương Bhallàtiya (Tiền Thân Bhallàtiya)
505. Chuyện Vương Tử Hoan Lạc (Tiền Thân Somanassa)
506. Chuyện Long Vương Campeyya (Tiền Thân Campeyya)
507. Chuyện Sức Cám Dỗ Mạnh (Tiền Thân Mahà-Palobhana)
508. Chuyện Năm Vị Hiền Nhân (Tiền Thân Panca-Pandita)
509. Chuyện Hiền Giả Quản Tượng (Tiền Thân Hatthipàla)
510. Chuyện Vương Tử Trong Ngôi Nhà Sắt (Tiền Thân Ayoghara)
[04] Chương XVI – Phẩm Ba Mươi Bài Kệ
511. Chuyện Dục Tham Kỳ Dị (Tiền Thân Kimchanda)
512. Chuyện Bình Rượu (Tiền Thân Kumbha)
513. Chuyện Vương Tử Chiến Thắng (Tiền Thân Jayaddisa)
514. Chuyện Tượng Vương Ở Hồ Chaddanta (Tiền Thân Chaddanta)
515. Chuyện Nam Tử Sambhava (Tiền Thân Sambhava)
516. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Mahàkapi)
517. Tiền Thân Dakarakkhasa
518. Chuyện Long Vương Pandara (Tiền Thân Pandara)
519. Chuyện Hoàng Hậu Sambulà (Tiền Thân Sambulà)
520. Chuyện Vị Thần Cây Tindu (Tiền Thân Gandatindu)
[05] Chương XVII – Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
521. Chuyện Ba Con Chim (Tiền Thân Tesakuna)
522. Chuyện Đại Nhân Thiện Xạ Sarabhanga(Tiền Thân Sarabhanga)
523. Thiên Nữ Alambusà (Tiền Thân Alambusà)
524. Chuyện Long Vương Samkhapàla (Tiền Thân Samkhapàla)
525. Chuyện Tiểu Sutasoma (Tiền Thân Sutasoma)
[06] Chương XVIII – Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
526. Chuyện Công Chúa Nalinikà (Tiền Thân Nalinikà)
527. Chuyện Kỷ Nữ Ummadantì (Tiền Thân Ummadantì)
528. Chuyện Hiền Giả Đại Bồ Đề (Tiền Thân Mahà-Bodhi)
[07] Chương XIX – Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
529. Chuyện Hiền Giả Sonaka (Tiền Thân Sonaka)
530. Chuyện Hiền Giả Samkicca (Tiền Thân Samkicca)
[08] Chương XX – Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
531. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền Thân Kusa)
532. Chuyện Hai Hiền Giả Sona-Nanda (Tiền Thân Sona-Nanda)

Chương XIII

Phẩm Mười ba bài kệ

  1. Chuyện trái xoài (Tiền thân Amba)

Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Ðề-bà-đạt-đa không thừa nhận bậc Ðạo Sư của mình và bảo:

– Chính ta sẽ là bậc Chánh đẳng giác và Sa-môn Gotama không phải là bậc Ðạo Sư hướng dẫn của ta.

Vì vậy, khi xuất định, ông gây chia rẽ trong Tăng chúng. Sau đó dần dà ông tiến về Xá-vệ, ở bên ngoài Tinh xá Kỳ Viên, thì mặt đất há miệng, ông rơi vào địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián địa ngục). Lúc ấy tất cả Tăng chúng đều nói chuyện ấy tại Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư và bị hủy diệt khủng khiếp, đó là sinh vào một đời sống khác trong địa ngục A-tỳ sâu thẳm.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì, hội chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa cũng như nay, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư của mình và bị hủy diệt khủng khiếp.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, cả gia đình của vị tế sư trong triều bị bệnh sốt rét tiêu diệt. Chỉ một người con trai duy nhất phá được tường nhà trốn thoát đi xa.

Chàng đến Takkasilà và học tập đủ các nghệ thuật kỹ năng với một vị giáo sư tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ.

Sau đó chàng từ giã sư phụ, và ra đi, với ý định chu du khắp nhiều miền; trên bước giang hồ, chàng đến một làng ở biên địa. Gần đó là một làng của giai cấp hèn hạ Chiên-đà-la (Candàla). Thời đó Bồ-tát cư ngụ trong làng này, và ngài là một bậc hiền trí. Ngài biết một thần chú làm cho quả trên cây mọc rộ lên trong lúc trái mùa.

Một buổi sáng kia, ngài mang đòn gánh đi ra khỏi làng mãi đến tận cây xoài mọc trong rừng, khiđứng cách đó bảy bước, ngài đọc thần chú và rảy một bụm nước vào cây đó. Trong chớp mắt, lớp lá khô rụng hết, lớp lá non mọc mầm, hoa nở rồi hoa tàn rụng, các trái xoài nhú ra. Song chỉ trong chốc lát chúng đã chín mọng ngọt ngào thơm ngát, xoài lớn nhanh như loại trái thần rồi rụng xuống đất! Bậc Ðại sĩ chọn ăn tùy thích, rồi chất đầy hai giỏ trên đòn gánh, đem trái đi bán và kiếm tiền nuôi vợ con.

Lúc bấy giờ, chàng trai Bà-la-môn thấy bậc Ðại Sĩ bán xoài chín trái mùa. Chàng suy nghĩ: “chắc hẳn phải nhờ công năng của một loại thần chú nào đó xoài ấy mới mọc được. Người này có thể dạy ta một thần chú vô giá”. Chàng rình ngắm kỹ cách thức bậc Ðại sĩ hóa phép ra các thứ xoài của ngài, và phát hiện việc này một cách chính xác.

Sau đó chàng đi đến nhà bậc Ðại sĩ lúc ngài chưa trở về từ khu rừng ấy, rồi làm như thể chưa biết gì cả, chàng hỏi người vợ của bậc Ðại sĩ:

– Ðại sư đâu rồi?

Bà đáp:

– Ðã vào rừng.

Chàng đợi cho đến khi ngài về, liền tiến tới phía ngoài, đỡ lấy đòn gánh và đôi thúng từ vai ngài,đem hết đồ đạc vào nhà và đặt ở đó.

Bậc Ðại sĩ nhìn chàng trai bảo vợ:

– Này hiền thê, chàng trai này đến đây để được dạy thần chú; song chẳng có thần chú nào ở lâu với gã ấy cả vì gã là người không tốt đâu.

Còn chàng trai nghĩ thầm: “Ta sẽ học được thần chú bằng cách làm tôi tớ cho thầy ta”.

Thế là từ đó chàng làm mọi công việc trong nhà như gánh củi, giã gạo, nấu nướng, mang đến thầy đủ các thức cần thiết để rửa mặt rửa chân.

Một ngày kia bậc Ðại sĩ bảo chàng:

– Này con, đem cho ta một cái ghế đẩu để gát chân.

Chàng ta chẳng còn cách nào khác, liền để hai chân của bậc Ðại sĩ lên đùi mình suốt đêm.

Vào mùa sau, bà vợ của ngài sinh hạ một con trai, chàng lại làm đủ mọi việc phục dịch trong thời bà ấy sinh sản. Một ngày nọ, bà vợ bảo bậc Ðại sĩ:

– Này phu quân, cậu trai dù là ở giai cấp quý tộc, lại hạ mình làm mọi việc tôi đòi, phục dịch cho nhà ta chỉ vì muốn có thần chú. Vậy phu quân hãy dạy thần chú cho cậu ấy đi, dù thần chú có chịu ở với cậu ấy hay không.

Ngài đồng ý việc đó. Ngài liền dạy thần chú cho cậu trai và bảo thế này:

– Con ạ, đây là thần chú vô giá, con nhờ nó sẽ được vinh quang phú quý tột bực. Nhưng hễ khi nào đức vua hoặc vị đại thần của ngài có hỏi ai là thầy dạy con thì con đừng dấu tên ta; vì nếu con hổ thẹn về chuyện người dạy con câu thần chú kia là một người hạ đẳng và con bảo rằng thầy dạy con là một vị Bà-la-môn quyền cao chức trọng thì con sẽ chẳng được kết quả gì do thần chú đem đến cả đâu.

– Tại sao con lại phải dấu tên của sư phụ kia chứ? Khi nào con được ai hỏi thì con sẽ nói chính sư phụ đây.

Sau đó chàng kính lễ thầy rồi từ giã cái thôn làng hạ đẳng kia, chàng vừa ra đi vừa suy nghĩ mãi về thần chú ấy, kịp lúc đến Ba-la-nại. Tại đó chàng bán xoài và thu được nhiều tiền bạc.

Bấy giờ, một ngày kia người giữ vườn ngự uyển dâng vua một trái xoài gã mới mua từ chàng trai ấy. Sau khi ăn xoài, vua hỏi gã kiếm được ở đâu ra trái xoài ngon ngọt như thế. Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, có một chàng trai mang xoài trái mùa tới bán. Tiểu thần đã mua được từ chàng ấy.

Vua bảo:

– Hãy dặn cậu ta từ nay mang xoài đến đây cho trẫm.

Người ấy làm y lời dặn, từ đó chàng đem xoài đến cung vua. Vua mời chàng đến phục vụ ngài, từ đó chàng trở thành bề tôi phục dịch vua, được hưởng đại phú quý, dần dần chàng được vua rất tin cậy.

Một ngày nọ vua hỏi chàng:

– Này thiếu sinh, khanh kiếm ra xoài trái mùa này ở đâu mà ngon ngọt, thơm ngạt ngào và màu sắc tươi đẹp thế? Có phải một vị Long vương, Kim sí điểu hay thần linh nào đó ban thưởng cho khanh, hoặc đây là phép tiên chăng?

– Tâu Ðại vương, chẳng ai cho tiểu sinh cả – chàng trai đáp – song tiểu sinh có một thần chú vô giá và đây là thần lực của chú ấy.

– Ðược, thế khanh có định biểu diễn cho trẫm xem thần lực của chú này một ngày nào đó chăng?

– Tâu Chúa thượng, tiểu sinh xin sẵn sàng thực hiện điều đó hầu Chúa thượng – chàng đáp.

Hôm sau vua cùng chàng ta vào vườn ngự uyển và ngài phán bảo chàng hãy biểu diễn thần chú. Chàng trai vâng dạ và đi đến gần cây xoài, đứng cách chừng bảy bước đọc thần chú và rảy nước vào cây. Trong chốc lát cây xoài sinh trái như cách đã tả trên đây: một đám xoài rụng xuống ào ào như cơn bão; đám người xem vô cùng thích thú vung vẫy khăn để hoan nghênh. Còn vua dùng xoài, xong thưởng công chàng hậu hỉ, rồi bảo:

– Này thiếu sinh, ai đã dạy khanh thần chú kỳ diệu này?

Bấy giờ chàng nghĩ thầm: “Nếu ta bảo một kẻ Chiên-đà-la hạ đẳng đã dạy ta thì ta sẽ bị làm nhục, hội chúng sẽ chế diễu khinh thị ta, nay ta đã thuộc lòng thần chú này, ta không bao giờ có thể mất nó. Ðược rồi, ta sẽ nói đó là một giáo sư lẫy lừng thiên hạ.

Vì thế, chàng nói dối và bảo:

– Tiểu thần đã học được tại Takkasilà từ một danh sư lẫy lừng thiên hạ.

Khi chàng nói những lời phủ nhận thầy dạy mình như thế, lập tức thần chú biến mất. Còn vua rất hoan hỷ, cùng chàng trở về kinh thành.

Một ngày kia, vua muốn ăn xoài, liền đi vào ngự uyển ngồi trên ghế đá, nơi thường dùng vào những dịp quốc lễ, ngài ra lệnh chàng trai đem xoài dâng ngài. Chàng trai tuân lệnh đi đến cây xoài, đứng xa bảy bước, bắt đầu đọc thần chú, song thần chú không công hiệu. Lúc ấy chàng biết mình đã mất thần chú, nên đứng im đầy hổ thẹn. Còn vua suy nghĩ: “Trước kia chàng này đã dâng xoài ào ào như mưa dông ngay giữa đám đông người, nay chàng đứng như trời trồng, vì nguyên cớ nào đây?”.

Vì thế ngài ngâm vần kệ đầu hỏi chuyện ấy:

  1. Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai,
    Lớn nhỏ, chàng đem đủ loại xoài,
    Nay trái trên cây không xuất hiện,
    Dù chàng vẫn đọc chú kia hoài.

Khi nghe vậy, chàng trai nghĩ thầm rằng nếu chàng bảo hôm nay trái cây không thể có được thì vua sẽ tức giận, vì thế chàng nghĩ cách nói dối để lừa vua, liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thời gian không hợp: đợi khi nào,
    Kết hợp hành tinh giữa cõi cao,
    Gặp gỡ đúng thời, giây phút đến,
    Sẽ dâng xoài chín thật dồi dào!

“Cái gì thế này?” Vua tự hỏi. “Chàng trai trước kia chẳng hề nói chuyện hành tinh gặp gỡ cả”.

Ngài liền ngâm vần kệ để điều tra vấn đề này:

  1. Bữa trước, chàng không nói lúc nào,
    Hay mùa gặp gỡ các vì sao,
    Song xoài thơm ngát, ngon thanh vị,
    Màu đẹp, chàng dâng trẫm biết bao!
  2. Buổi nọ, chàng phô diễn trái cây,
    Nhờ câu thần chú, thật tài thay,
    Nay không làm được, dù chàng đọc,
    Trẫm muốn hỏi chàng ý nghĩa đây.

Nghe thế chàng trai suy nghĩ: “Không nên lừa phỉnh vua bằng lời dối trá. Nếu như khi ta nói sự thật mà ngài trừng phạt ta thì cứ để ngài trừng phạt; song ta phải nói sự thật này”. Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Một người hạ đẳng chính là thầy,
    Dạy đúng chú thần hữu hiệu đây,
    Bảo: Ðược hỏi tên thầy, chủng tộc,
    Con đừng giấu, kẻo chú thần bay!
  2. Thần được hỏi thăm bởi Ðại vương,
    Dù thần đã biết thật tinh tường,
    Vẫn mong lừa phỉnh, thần khai dối:
    “Thần chú kia là của đạo nhân”.
    Thần nói dối, nay đành mất chú,
    Ðắng cay, lòng tiếc việc si cuồng.

Nghe chàng nói điều này, vua tự nhủ: “Kẻ độc ác này không biết giữ gìn một kho báu vĩ đại dường ấy! Khi người ta có báu vật vô giá, thì nguồn gốc gia tộc có liên quan gì đến báu vật đó đâu?”. Trong cơn thịnh nộ, ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây nimb, hồng phượng hoặc thầu dầu,
    Bất cứ loại cây gỗ thế nào,
    Nơi đó thấy tầng ong mật ngọt,
    Người xem cây ấy tốt hàng đầu.
  2. Dù là Ðạo sĩ, Khat-ti-ya,
    Vệ-xá, Chiên-đà-la, Thủ-đà,
    Puk-ku-sa, người ta học tập,
    Thảy đều tối thượng với đời ta.
  3. Trừng phạt oắt con tệ bạc này,
    Hoặc lôi cổ nó giết đi ngay,
    Kho tàng đã được bao công khó,
    Lại vứt vì tâm ngã mạn đầy!

Quân sĩ của vua theo lời, bảo:

– Hãy trở lại thầy dạy anh và xin ngài tha thứ, rồi nếu anh học được thần chú lần nữa thì hãy vềđây; còn nếu không thì đừng bao giờ hòng để mắt đến xứ này nữa.

Nói thế xong, họ đuổi chàng đi.

Cậu trai hoàn toàn bơ vơ lạc lõng. Chàng nghĩ thầm: “Chẳng có nơi nào cho ta nương tựa trừ thầy ta ra. Ta quyết trở về với thầy ta, xin thầy tha tội cho, rồi xin học thần chú lại”.

Vậy là chàng vừa than khóc vừa tiến về phía làng ấy. Bậc Ðại sĩ thấy chàng đến, liền chỉ cho vợ ngài và bảo bà:

– Này hiền thê, hãy nhìn thằng khốn kia trở lại, mà thần chú đã biến mất rồi.

Chàng đến gần bậc Ðại sĩ, kính lễ ngài và ngồi xuống một bên. Ngài hỏi:

– Tại sao con đến đây?

Chàng đáp:

– Thưa sư phụ, con đã nói dối, chối bỏ về vị sư phụ của mình nên nay con hoàn toàn tiêu tan sự nghiệp.

Sau đó chàng kể lại lỗi lầm của mình trong một bài kệ và xin thần chú lần nữa:

  1. Kẻ nào nghĩ mặt đất san bằng,
    Ðang trải dài ra dưới gót chân,
    Liền ngã vào ao, hồ, vực thẳm,
    Vấp vào gốc rễ mục, long thân.
  2. Vật giống sợi dây, kẻ giẫm lên,
    Hóa ra con rắn, sắc đen huyền;
    Kẻ kia sa cẳng vào trong lửa,
    Vì mắt mù không thể xét xem.
  3. Con phạm tội, nên mất chú thần,
    Nhưng còn sư phụ, bậc Hiền nhân,
    Xin thầy tha thứ cho lần nữa,
    Nhìn tận mắt thầy, hưởng đặc ân!

Nhưng sư phụ chàng đáp:

– Sao này, con bảo gì vậy? Chỉ cần ra dấu cho kẻ mù lòa là nó tránh được ao hồ đủ thứ rồi; còn tađây đã dạy thần chú cho con một lần, con lại muốn gì nữa đây chứ?

Rồi ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Ðúng cách, ta từng dạy bảo ngươi,
    Chú kia, ngươi học đúng theo thời,
    Ta đà giảng đủ phần tinh túy,
    Ngươi khéo làm hay, chú chẳng rời.
  2. Ai đầy cực nhọc, hỡi ngu nhân,
    Học chú thần gian khổ, khó khăn,
    Ðối với loài người trên hạ giới,
    Rồi khi kẻ ngốc đã làm ăn,
    Cuối cùng nó lại đem quăng bỏ,
    Cũng chỉ vì mồm nói dối gian.
  3. Với kẻ ngu si muốn dối gian,
    Người không tự chế, kẻ vong ân,
    Cút ngay, đừng hỏi gì ta nữa,
    Ta chẳng còn cho nó chú thần!

Bị thầy dạy đuổi như vậy, chàng trai nghĩ thầm: “Ðời còn có nghĩa lý gì với ta nữa?”. Rồi chàng vào rừng sâu và chết bơ vơ một mình ở đó.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, này các Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa mới chối bỏ vị thầy dạy của mình, và phải chịu tiêu diệt thảm khốc.

Và nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ vong ân bội nghĩa kia, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là người Candàla (Chiên-đà-la) hạ đẳng.

-ooOoo-

  1. Chuyện cây hồng phượng vĩ (Tiền thân Phandana)

Người đứng cầm rìu ở dưới tay..

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trên bờ sông Rohini, về một việc tranh chấp cãi cọ trong gia đình.

Hoàn cảnh này được mô tả đầy đủ trong số 546. Tiền thân Kunàla. Vào dịp này, bậc Ðạo sư dạy bảo đám thân tộc ấy, Ngài nói:

*

Một thời kia vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, ngoài kinh thành là một làng thợ mộc. Trong làng có một người Ba-la-nại làm nghề kiếm sống bằng cách mang gỗ từ rừng về đóng xe kéo.

Vào thời ấy có một cây hồng phượng vĩ đại thọ ở vùng Tuyết Sơn. Một hắc Sư tử thường đến nằm dưới gốc cây ấy săn mồi.. Một ngày kia gió đánh mạnh cây khiến một cành cây khô rơi xuống, trúng vai Sư tử, cành đập mạnh vào khiến cho nó đau đớn vùng lên chạy trốn vì sợ hãi, sau đó quay lui nhìn trên con đường vừa mới chạy qua, khi chẳng thấy có gì cả; nó suy nghĩ: “Chẳng có sư tử, cọp, beo hay con gì nữa đuổi theo ta ở đây, thì ta chắc vị Thần cây không chịu cho ta nằm đó. Ta muốn xem có đúng vậy không?”. Suy nghĩ thế nó liền giận dữ thật vô lý, vừa đánh vào cây vừa thét lên:

– Ta chẳng ăn một ngọn lá nào bẻ trên cây của ông, cũng chẳng bẻ gãy cành nào, thế sao ông chịu cho các loài vật khác ở đây, mà ông không chịu cho ta ở? Ta có làm gì sai trái đâu, cứ đợi vài ngày nữa, ta sẽ phá nát gốc rễ cành lá ông, ta sẽ làm ông tan tác từng mảnh!

Sư tử mắng rủa vị Thần cây như vậy, rồi bỏ đi tìm một người.

Lúc ấy, người thợ mộc Bà-la-môn nói trên cùng với hai ba người khác đã dùng xe tải đến vùng lân cận ấy để kiếm gỗ đóng xe. Gã để chiếc xe một nơi, rồi cầm búa rìu trong tay đi tìm cây gỗ, gã chợt đến gần cây phượng vĩ. Con sư tử thấy gã, liền đi đến đứng dưới gốc cây vì nó nghĩ thầm: “Hôm nay ta phải trừ khử kẻ thù của ta mới được”. Người kia thấy nó và vội chạy trốn ra khỏi vùng rừng cây đó. Sư tử nghĩ thầm: “Ta phải nói chuyện với kẻ đó trước khi nó chạy đi mất”. Rồi nó ngâm vần kệ đầu:

  1. Người đứng cầm rìu ở dưới tay,
    Ði lui, đi tới chốn rừng này,
    Mau lên, nói rõ cho ta biết,
    Ông muốn cây gì ở chốn đây?

“Ô kìa! thật là kỳ diệu! – Người kia bảo khi nghe lời ấy – ta thề chưa bao giờ nghe thấy súc vật nói được như người. Chắc chắn nó sẽ biết rõ loài cây nào có gỗ tốt để đóng xe. Ta muốn hỏi nó”. Nghĩ vậy, gã liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên đồi, dưới vực, khắp đồng bằng,
    Làm chúa, ngài đi khắp núi rừng,
    Nói thật cho nghe, ta muốn hỏi,
    Cây gì tốt để bánh xe lăn?

Sư tử nghe vậy nghĩ thầm: “Bây giờ ta đã được toại nguyện rồi!”.

Nó liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chẳng keo, tai ngựa, chẳng chiên-đàn,
    Chẳng bụi cây nào tốt gỗ hơn,
    Cây ấy, phượng hồng như vẫy gọi
    Làm xe gỗ tốt nhất trần gian.

Kẻ kia nghe vậy rất hài lòng, nghĩ thầm: “Thật là một ngày tốt lành đưa ta vào rừng. Ðây là một vị nào mang lốt thú vật chỉ bảo cho ta cây gỗ tốt để làm bánh xe. Kỳ lạ thật, song lại tuyệt quá!” Vì vậy, gã hỏi Sư tử vần kệ thứ tư:

  1. Cành lá cây kia kiểu thế nào,
    Thân cây trông thấy, loại ra sao,
    Mong ngài nói thật, ta xin hỏi,
    Ðể biết loài cây ấy ở đâu?

Sư tử ngâm hai vần kệ đáp lời:

  1. Này cây cành rũ thấy là đà,
    Cong xuống, song không gãy trước giờ,
    Cây phượng vĩ hồng này đấy bạn,
    Gốc cây thường đứng của nhà ta.
  2. Ðể làm vành trục hoặc khung càn,
    Ðôi bánh, hay bất cứ mọi phần,
    Cây giống như vầy đều ích lợi,
    Cho người khi đóng chiếc xe lăn.

Sau khi tuyên bố như vậy, Sư tử đứng xích ra một bên, lòng mừng khấp khởi. Còn người thợ mộc bắt đầu đẵn cây. Lúc ấy, vị Thần cây nghĩ thầm: “Ta không hề làm rớt cành nào trên con thú kia, mà nó lại nổi cơn thịnh nộ thật phi thời, bây giờ nó lại đang muốn phá nhà ta, và ta cũng sẽ bị hủy diệt nữa. Vậy ta phải tìm cách đập tan oai lực của nó”. Vì thế vị Thần này giả dạng tiều phu, đến gần gã thợ mộc kia bảo:

– Này người kia, anh kiếm được cây này đẹp quá! Thế anh định làm gì khi chặt nó đây?

– Làm bánh xe.

– Sao, có kẻ nào bảo anh là cây ấy làm bánh xe tốt lắm ư?

– Ðúng thế, một con hắc Sư tử.

– Tốt lắm, hắc Sư tử khéo nói lắm. Song, này ta bảo anh là lột được da cổ Sư tử màu đen rồi phủ lên quanh vành ngoài của bánh xe như một tấm chắn bằng sắt, chỉ một mảnh rộng chừng bốn lóng tay thôi thì bánh xe vững vàng lắm, anh sẽ hưởng lợi rất lớn nhờ đó.

– Nhưng làm sao ta kiếm được da Sư tử bây giờ?

– Sao anh ngu thế? Cây này đứng trong rừng, nó chạy đi đâu được. Anh cứ đi tìm sư tử kia đã chỉ bảo cho anh cây này và hỏi nó xem phải chặt phần cây nào, rồi đem nó về đây. Sau đó, nó chẳng nghi ngờ gì cả và chỉ nơi này nơi nọ, cứ chờ lúc nó nhe hàm răng ra thì lấy chiếc rìu bén nhất đập nó trong khi nó đang nói, giết nó đi mà lột da ra, ăn phần thịt ngon nhất, rồi hãy chặt cây tùy thích.

Như thế là Thần cây nổi cơn thịnh nộ.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây kia lập tức bảo như vầy,
    Ý nguyện ước ao được tỏ bày:
    “Ta cũng có điều này muốn nói
    Này Bhà-rad hỡi, hãy nghe đây!
  2. Từ bên vai chúa tể khu rừng,
    Anh hãy cắt ra rộng bốn phân,
    Bao phủ da quanh vành gỗ ấy,
    Rồi xe sẽ mạnh gấp đôi lần.
  3. Cây kia phút chốc nổi lôi đình,
    Trút xuống loài sư tử đã sinh,
    Cả với loài chưa xuất hiện nữa,
    Gây ra tàn sát khiến hồn kinh.

Người thợ làm xe nghe theo lời chỉ dẫn của Thần cây, kêu to:

– Ôi hôm nay thật là một ngày may mắn cho ta.

Rồi gã đi giết Sư tử, chặt cây xuống và đi về.

  1. Cây phượng vĩ tranh đấu chúa rừng,
    Chúa rừng tranh đấu với cây thần,
    Mỗi bên tranh chấp nhau như vậy,
    Ðem lại bên kia họa tử vong.
  2. Vậy giữa người, nơi có hận hiềm,
    Hoặc là cãi cọ nổi hăng lên,
    Khác nào thú dữ và cây gỗ,
    Chúng nhảy như loài Công múa men.
  3. Ðây này Ta bảo, chính điều lành,
    Là lúc các ông thuận ý tình,
    Hãy giữ đồng tâm, đừng cãi vã,
    Như cây và thú đã thi hành.
  4. Nên tập bình an với mọi người,
    Ðiều này bậc trí tán dương hoài,
    Ai mong an ổn và chân chánh,
    Tối hậu bình an sẽ đạt thôi.

Khi đám người ấy nghe lời khuyến giáo của vua, họ liền giải hòa với nhau.

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

*

– Vào thời ấy, Ta là vị Thần sống trong rừng kia và đã chứng kiến toàn thể câu chuyện này.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền thân Javana-Hamsa)

Này Thiên nga đến đậu nơi này..,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về Kinh Dalhadhamma Suttanta hay Kinh Thí dụ các Lực sĩ.

Ðức Thế Tôn dạy:

– Này các Tỷ-kheo, giả sử có bốn thiện xạ đứng ở bốn điểm trên một vòng tròn, bốn lực sĩ khéo huấn luyện, thật tài giỏi, thiện xảo nghề cung tên, bắn ra bốn mũi tên từ bốn điểm, Tasẽ lấy bốn mũi tên vừa được bắn ra trước khi chúng chạm xuống đất; phải chăng rõ ràng các ông đều đồng ý rằng kẻ đó là một người rất nhanh nhẹn và chính là hiện thân của tốc lực tuyệt vời! Vậy mà, này các Tỷ-kheo, dù tốc lực của người kia nhanh đến đâu đi nữa, dù cho thần kỳ như tốc lực của mặt trăng, mặt trời, cũng còn cái khác nhanh hơn. Này các Tỷ-kheo, Tabảo tốc lực của người kia dù cho thần kỳ đến đâu đi nữa, dù nhiều vị Thiên bay nhanh hơn cả mặt trăng, mặt trời, vẫn còn có cái khác nhanh hơn chư Thiên ấy nữa. Này các Tỷ-kheo, tốc lực của người kia thần diệu là dường ấy (như trên). Tuy thế còn nhanh hơn cả chư Thiên biết bay là sự biến hoại của Tứ đại hợp thành sự sống. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các ông phải học tập điều này, phải tinh cần. Thật vậy, Tabảo các ông phải học tập điều này!”.

Hai ngày sau lời giáo huấn này, Tăng chúng bàn luận chuyện đó trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền hữu Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư trong địa vị tối thượng của một bậc Chánh Ðẳng Giác,đã chứng minh bản chất của những gì tác hợp nên sự sống, chỉ rõ đời sống thật là giả tạm và yếu ớt mỏng manh khiến cho Tăng chúng lẫn người ngoại đạo phải hết sức kinh hoàng. Ôi! Thần diệu thay uy lực của đức Phật!

Bậc Ðạo sư bước vào, hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài và Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay Tađạt Trí tuệ Viên mãn mà dùng lời khuyến giáo để báo trước cho Tăng chúng thấy rõ Tứ đại thật là giả tạm thì cũng chẳng kỳ diệu gì. Ngay cả khi Ta hóa sinh từ một chim thiên nga, Ta cũng chứng tỏ tính cách giả tạm của Tứ đại trong đời sống và bằng Giáo pháp của Ta, đã gây kinh hoàng cho cả triều đình một vị vua cùng với chín vị vua ở Ba-la-nại nữa.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh làm một chúa Thiên nga có thần tốc, sống trên núi Cittakùta, dẫn đầu một đoàn gồm chín mươi ngàn Thiên nga khác. Một ngày kia, sau khi cùng cả đoàn đi ăn lúa mọc hoang trong cái hồ ở vùng đồng bằng xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), ngài bay qua không gian (như thể một tấm thảm vàng óng ánh trải dài từ đầu nọ đến đầu kia của kinh thành Ba-la-nại) và lượn chầm chậm như đùa chơi về phía núi Cittakùta. Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại trông thấy ngài, liền bảo các triều thần:

– Con chim đằng kia ắt hẳn là chim chúa như trẫm đây.

Vua sinh lòng yêu mến chúa chim, nên đã đem vòng hoa, hương liệu và dầu thơm đi tìm bậc Ðại sĩ và bảo trình diễn đủ loại âm nhạc cho ngài nghe. Khi bậc Ðại sĩ thấy vua tôn vinh ngài như vậy, ngài hỏi các chim Thiên nga kia:

– Khi một ông vua muốn tôn vinh ta như vậy, vua ấy muốn gì chăng?

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn bầu bạn với Chúa thượng.

– Ðược rồi, thế thì ta bầu bạn với vua ấy!

Ngài bảo và ngài làm bạn với vua, rồi sau đó bay về tổ.

Một ngày kia, sau việc kết bạn này, vua vào ngự uyển và đi đến hồ Anotatta, chim chúa bay đến gần vua với một cánh mang đầy nước và cánh kia mang bột gỗ Chiên-đàn, chim rảy nước lên mình vua và rắc bột gỗ Chiên-đàn cho vua nữa, trong lúc hội chúng đang nhìn theo, ngài lại cùng với đàn chim bay về Cittakutà. Từ lúc ấy về sau, vua cứ mong ngóng bậc Ðại sĩ mãi; ngài thường nấn ná chờ đợi vừa nhìn con đường bậc Ðại sĩ đến và nghĩ thầm: “Hôm nay thân hữu ta sẽ đến”.

Lúc bấy giờ hai con thiên nga non trẻ nhất trong đàn của bậc Ðại sĩ, quyết định thi đua với mặt trời, vì vậy chúng xin phép bậc Ðại sĩ thử sức bay qua với mặt trời. Ngài bảo:

– Này các chú, tốc lực mặt trời rất thần kỳ, các chú không bao giờ có thể thi đua với mặt trời đâu. Các chú sẽ chết tiêu tan trong cuộc thi tài ấy. Vậy các chú đừng đi.

Lần thứ hai chúng xin phép, rồi lần thứ ba. Song Bồ-tát phản đối chúng đến lần thứ ba chúng xin. Tuy nhiên, chúng vẫn khăng khăng giữ ý định đó, không tự lượng sức mình, rồi cương quyết bay đua với mặt trời mà không tâu trình với chúa chim. Vì thế, trước lúc rạng đông, chúng đã đậu trên đỉnh núi Yugandhara (một trong bảy rặng núi lớn quanh núi Meru: Tu-di).

Bậc Ðại sĩ thấy vắng chúng, liền hỏi chúng đi đâu. Khi ngài nghe những việc xảy ra , ngài nghĩ thầm: “Chúng sẽ chẳng bao giờ đủ sức bay đua với mặt trời, và chúng sẽ bị tiêu diệt trong cuộc so tài ấy. Ta phải cứu mạng chúng mới được”. Vì vậy, ngài bay đến đỉnh núi Yugandhara và đậu bên cạnh chúng. Khi vầng nhật xuất hiện trên đường chân trời, đôi tiểu thiên nga vùng lên, lao tới đằng trước theo mặt trời, bậc Ðại sĩ cũng bay theo chúng. Con chim bé nhất bay tới trước giờ ngọ thì ngất xỉu. Bên trong khớp xương đôi cánh nó cảm thấy như thể đang bị lửa đốt. Rồi nó ra hiệu cho bậc Ðại sĩ:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không tiếp tục được nữa.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Ðừng sợ, ta sẽ cứu chú.

Rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài an ủi nó, đưa nó về núi Cittakùta đặt nó xuống giữa đàn thiên nga, sau đó ngài lại bay đi bắt kịp mặt trời, đến bên cạnh chim kia. Con chim ấy bay đua với mặt trời cho đến gần đúng ngọ thì ngất ngư và thấy như thể lửa đang thiêu đốt trong khớp xương ở đôi cánh của nó. Nó vừa làm dấu cho bậc Ðại sĩ vừa kêu lên:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không thể tiếp tục được nữa.

Ngài cũng an ủi nó như trên, rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài đưa nó về đỉnh Cittakùta. Vào lúc ấy mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ thử xem uy lực của mặt trời ra sao”. Thế là chỉ cần phóng lui một vòng, ngài đã đậu trên đỉnh Yugandhara. Sau đó vừa tung cánh lên là ngài bắt kịp mặt trời, ngài bay đi, lúc tiến về phía trước, lúc lùi lại đằng sau, ngài nghĩ thầm: “Ðối với ta thì chuyện bay đua với mặt trời thật là vô ích, chỉ do trí ngu si mà ra cả, nó có nghĩa lý gì đối với ta đâu? Ta muốn bay đến Ba-la-nại, nói cho thân hữu của ta là vua ấy một lời khuyến giáo về công bình và chân chánh”.

Rồi quay lại trước khi mặt trời dần đi xuống giữa không gian, ngài bay qua toàn cõi thế giới từđầu chí cuối xong, ngài giảm dần tốc lực, bay từ đầu nọ đến đầu kia toàn xứ Diêm-phù-đề, cuối cùng đến thành Ba-la-nại. Cả kinh thành này với chu vi chừng mười hai dặm, như thể đang nằm dưới bóng chim chúa, không có một khe hở nào lộ ra; rồi tốc lực giảm dần, những lỗ trống, kẽ hở lại xuất hiện trên bầu trời. Bậc Ðại sĩ bay chầm chậm rồi đáp xuống từ không trung, hạ cánh trước song cửa. Vua vui mừng reo lớn:

– Thân hữu của ta đang đến kìa!

Rồi đặt chiếc bảo tọa bằng vàng cho chim đậu, vua phán:

– Xin Hiền hữu vào đây, an tọa tại nơi này.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Chúa Thiên nga, đến đậu nơi đây,
    Lòng trẫm thiết tha diện kiến ngài,
    Hãy chọn thứ gì ngài thấy được,
    Nay ngài là chúa tể nơi này.

Bậc Ðại sĩ đậu trên bảo tọa bằng vàng. Vua xoa vào dưới đôi cánh của ngài những loại dầu thơm đã lọc sạch cả trăm lần, hay còn hơn thế nữa, cả ngàn lần, ban cho ngài thứ gạo mềm mại và nước đường trong cái đĩa bằng vàng, rồi nói chuyện với ngài với giọng ngọt ngào như mật:

– Này Hiền hữu, ngài đến đây một mình, vậy ngài từ đâu lại?

Chim chúa kể hết mọi việc. Sau đó vua bảo ngài:

– Này Hiền hữu, xin ngài lần nữa biểu diễn tốc lực của ngài so với mặt trời kia.

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không thể phô diễn được.

– Vậy xin ngài biểu diễn một việc tương tự như thế.

– Ðược lắm, thưa Ðại vương, ta sẽ biểu diễn một việc tương tự như vậy. Xin triệu tập các xạ thủ bắn nhanh như chớp lại đây.

Vua liền ra lệnh triệu tập họ. Bậc Ðại sĩ lựa bốn người rồi cùng họ từ cung điện đến sân chầu. Nơi đó, ngài bảo dựng một trụ đá, và buộc vào cổ ngài một cái chuông nhỏ. Sau đó, ngài đậu trên đỉnh trụ đá, đặt bốn xạ thủ quay lưng từ trụ đá hướng ra bốn phía, bảo:

– Thưa Ðại vương, xin ra lệnh cho bốn xạ thủ bắn ra cùng một lúc bốn mũi tên về bốn hướng và ta sẽ chụp lấy bốn mũi tên ấy trước khi chúng chạm mặt đất rồi đặt xuống chân các xạ thủ. Ðại vương sẽ biết khi nào ta đi nhặt các mũi tên nhờ tiếng chuông reng reng, song Ðại vương chẳng trông thấy được ta đâu.

Sau đó đồng loạt các xạ thủ bắn bốn mũi tên ra, ngài liền chụp lấy chúng và đặt dưới chân đám xạ thủ kia, còn mọi người thấy ngài đang đậu trên trụ đá.

– Thưa Ðại vương, ngài đã thấy tốc lực của ta chăng?

Rồi ngài nói tiếp:

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không phải là tốc lực bậc nhất của ta đâu, cũng không phải là tốc lực bậc trung mà là tốc lực kém nhất trong các tốc lực thấp kém: thế mà nó đã chứng tỏ cho Ðại vương thấy ta nhanh nhẹn đến mức độ nào.

Sau đó, vua hỏi ngài:

– Này Hiền hữu, thế có tốc lực nào nhanh hơn tốc lực của ngài chăng?

– Thưa Hiền hữu, có chứ. Nhanh hơn tốc lực của ta đến trăm lần, à không, cả ngàn lần, là sự biến hoại của Tứ đại trong đời sống của loài hữu tình: Chúng tan rã như vậy đó, chúng bị tiêu diệt như vậy đó.

Bằng cách ấy ngài đã làm sáng tỏ cách thế giới hữu hình hoại vong như thế nào, bị hủy diệt như thế nào từng giây từng phút. Khi nghe nói vậy, vua sợ chết, không còn giữ bình tĩnh được nữa, mà ngất xỉu đi. Cả hội chúng kinh hoàng, rảy nước vào mặt vua, khiến ngài hồi tỉnh. Sau đó bậc Ðại sĩ nói với vua:

– Thưa Ðại vương, chớ sợ hãi, nhưng hãy nhớ đến thần chết. Hãy tiến lên trong đường công chính, bố thí và làm thiện sự, phải gắng tinh cần.

Lúc ấy vua đáp lại:

– Tâu Chúa thượng, nếu không có một Ðạo sư hiền trí như ngài, trẫm không thể nào sống được, vậy xin ngài đừng trở về đỉnh núi Cittakùta nữa, mà hãy ở lại đây, dạy bảo trẫm, xin hãy làm Ðạo sư để giáo hóa trẫm.

Rồi vua ngâm hai vần kệ thỉnh cầu ngài:

  1. Nhờ nghe nói đến người mình yêu mến,
    Mà tình yêu thương được dưỡng nuôi hoài,
    Lòng nhớ nhung người vắng bóng dần phai,
    Vì nghe, thấy, khiến người sinh lưu luyến,
    Xin hãy cho ta đặc ân diện kiến.
  2. Giọng nói ngài thật thân ái bên ta,
    Diện kiến ngài còn thắm thiết hơn xa,
    Vì ta thích được cùng ngài diện kiến,
    Thiên nga hỡi, ở cùng ta, xin đến!

Bồ tát đáp:

  1. Ví dù ta ở lại với Quân vương,
    Trong cảnh vinh quang dường ấy được ban,
    Song ngày kia, choáng men nồng, Chúa thượng
    Có thể truyền: “Ðem chúa chim ra nướng!”.

– Không đâu – Vua nói – Lúc có ngài ở bên cạnh, trẫm sẽ không bao giờ đụng đến men rượu nồng nữa.

Rồi vua cam kết hứa hẹn điều này qua vần kệ sau:

  1. Thức uống, ăn kia thật đáng rủa nguyền
    Nếu trẫm quý yêu hơn cả bạn hiền!
    Trẫm không nếm, dầu giọt nào hay ngụm,
    Bao lâu ngài ở lại đây cùng trẫm!

Sau vần kệ này, Bồ-tát ngâm sáu vần kệ khác:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng tối nghĩa, hỡi quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình!”.
    Song tình bằng hữu thường hay mất,
    Căm hận, oán thù lại khởi sinh.
  3. Ai được ngài thương, cũng quý ngài,
    Gần ngài, dù ở tận phương trời,
    Song người sống cận kề ngài đó,
    Lòng ngài hờ hững, cũng xa vời.
  4. Ai ở nhà ngài, dạ mến thương,
    Vẫn ân cần, dẫu cách trùng dương,
    Nhà ngài ai ở, tâm thù nghịch,
    Xa cách trùng dương, vẫn oán hờn!
  5. Những người thù nghịch, Chúa công ôi!
    Dù ở gần nhau, vẫn cách vời.
    Song hỡi Ðại vương-nuôi-quốc-độ,
    Các hiền nhân kết hợp nhau hoài!
  6. Ai ở quá lâu sẽ thấy rằng
    Thân bằng có lúc hóa cừu nhân,
    Trước khi để mất tình thân hữu,
    Ta giã biệt ngài, cất bước chân.

Sau đó vua nói với ngài:

  1. Dù trẫm chấp tay lại cố nài,
    Ngài không hề chịu để vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho bằng hữu
    Tha thiết cầu mong giúp đỡ hoài.
    Trẫm khát khao ngài ban đặc huệ:
    Trở về đây viếng trẫm nay mai.

Thế rồi Bồ tát đáp lời:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Vì thử ngài, ta, Chúa thượng ôi!
    Còn sống, hỡi Người-nuôi-đại-chúng,
    Ta bay về lại chốn đây thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến,
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Với lời nhắn nhủ vua xong, bậc Ðại sĩ lên đường về núi Cittakùta.

*

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, ngày xưa, ngay cả khi Ta được sinh vào loài súc vật, Ta đã chứng minh tính cách mong manh của Tứ đại trong cuộc sống và tuyên thuyết Chánh pháp.

Nói vậy xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là con chim trẻ nhất, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim non thứ hai, hội chúng của đức Phật là tất cả Thiên nga, và Ta chính là Chúa Thiên nga có thần tốc.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền thân Culla-Nàrada)

Không có củi nào được bổ ra..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các trò quyến rủ của một cô gái thô tục.

Thời ấy, Ta biết rằng có một cô gái chừng mười sáu tuổi, con của một người dân thành Xá-vệ là một cô gái có thể đem vận may đến cho đàn ông, song chẳng có nam nhân nào chọn nàng cả. Vì vậy, mẹ nàng nghĩ thầm: “Con gái ta đã đến tuổi trưởng thành. Song chẳng ai chọn nó cả. Ta muốn dùng nó như miếng mồi câu cá, khiến cho một vị xuất gia tu hành trong dòng họ Thích-ca phải hoàn tục và nó sống nương nhờ vị ấy”.

Lúc bấy giờ, có một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, đã quyết tâm tu hành và gia nhập Tăng chúng. Nhưng từ khi chàng đã thọ Ðại giới xong, chàng lại mất cả ước vọng tu tập và cứ sống chuyên lo tô điểm bản thân chàng.

Người nữ cư sĩ này thường hay dọn sẵn cháo gạo trong nhà và nhiều thức ăn loại cứng, loại mềm, rồi đứng ở cửa trong khi Tăng chúng đi ngang qua đường phố và cố tình xem ai là người có thể bị lòng thèm ăn của ngon vật lạ lôi cuốn. Kìa lũ lượt trên đường là đám nam tử hành trì Tam Tạng Kinh, Luật, Luận, song bà không tìm được ai có thể mắc vào mồi của bà cả. Giữa các vị mang bình bát đắp y kia là những vị pháp sư thuyết giáo với giọng ngọt ngào như mật, di chuyển như đám mây bồng bềnh trước gió, bà chẳng thấy ai cả.

Song cuối cùng bà chợt thấy một nam nhân tiến tới, khóe mắt xoa dầu thơm, tóc buông xõa, mang chiếc y trong bằng thứ lụa mượt mà, chiếc y ngoài được giặt giũ sạch sẽ, bình bát có màu sắc đẹp như loại bảo châu, chiếc dù thật vừa ý, một con người buông thả các căn theo sở thích, toàn thân một màu đồng vàng bóng lộn. “Ðây chính là người mà ta có thể bắt lấy!” Bà nghĩ thầm và đảnh lễ vị kia, bà đến cầm lấy bình bát và mời ông vào nhà.

Bà dọn chỗ ngồi cho ông, đưa cháo gạo và các thức khác. Rồi sau bữa ăn, bà yêu cầu ông ghé nhà bà làm nơi nghỉ chân lui tới trong tương lai. Vì thế, ông thường viếng thăm nhà đó về sau, dần dần với thời gian trở nên thân thiết.

Một ngày kia, bà cư sĩ ấy nói cốt cho ông nghe:

– Trong nhà này, chúng ta sung sướng lắm, duy chỉ một điều là ta chẳng có con trai hay con rể để bảo tồn gia sản thôi.

Ông nghe được, tự hỏi không biết lý do gì bà lại nói vậy, chẳng mấy chốc dường như việc đó đã đâm sâu vào tim ông. Bà ta bảo con gái:

– Con hãy quyến rủ người này đi, hãy tìm cách điều khiển chàng theo ý con.

Vì thế sau đó, cô gái tô điểm đầy mình đủ loại trang sức và quyến rủ vị kia, dùng đủ mánh lới xảo quyệt của nữ nhân. (Ta phải hiểu rằng “một cô gái thô tục” đây không có nghĩa là thân hình mập mạp, nhưng dù mập hay gầy, cô ta cũng bị gọi là “thô tục” vì mãnh lực năm thứ dục tình của cô ta).

Sau đó, nam tử kia còn trẻ lại bị dục tình chi phối, nên lòng thầm nghĩ: “Nay ta không thể nào tu theo Giáo pháp của đức Phật được nữa”. Và ông đi đến Tinh xá đặt y bát xuống, nói với các vị giáo thọ của mình:

– Tâm con đang thối thất.

Rồi các Tỷ-kheo ấy dẫn ông đến bậc Ðạo sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ kheo này đang thối thất.

Ngài hỏi:

– Này Tỷ kheo, họ bảo rằng tâm ông đang thối thất. Có đúng vậy không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy.

– Thế việc gì khiến ông như vậy?

– Bạch Thế Tôn, một cô gái thô tục.

Ngài bảo:

– Này Tỷ kheo, ngày xưa, lâu lắm rồi, khi ông ở trong rừng, chính cô gái này đã cản trở đời thanh tịnh của ông và đã làm hại ông rất nhiều, thế thì tại sao ông lại sinh thối thất vì cô ta nữa?

Rồi theo lời thỉnh cầu của tăng chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời kia, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn rất giàu có. Sau khi thành đạt việc học vấn, ngài về điều hành cả tài sản. Kế đó, bà vợ ngài sinh một con trai rồi qua đời. Ngài suy nghĩ: “Cũng như vợ yêu quý của ta, cái chết sẽ không chừa ta đâu, vậy gia đình có nghĩa gì với ta nữa? Ta muốn xuất gia tu hành”.

Vì thế, ngài từ bỏ mọi tham dục, cùng con trai ngài đi vào vùng Tuyết Sơn, ở đó cùng sống đời ẩn sĩ, tu tập Thiền định và Thắng trí, cư trú trong rừng, sinh sống bằng trái cây và củ rừng.

Vào thời ấy, dân chúng ở biên địa cướp phá xứ sở, sau khi tấn công một thị trấn và bắt các tù nhân, bọn chúng chất đầy chiến lợi phẩm, trở về biên địa. Trong đám ấy, có một cô gái tuyệt đẹp, song đầy mánh khóe giả dối. Cô ta nghĩ thầm: “Các đàn ông này khi mang chúng ta đi xa nhà, sẽ biến bọn ta thành nô lệ, quyết tìm cách trốn thoát”. Vì vậy, cô ta bảo:

– Thưa chủ nhân, thiếp muốn nghỉ chân, vậy cho thiếp đi nghỉ chân một lát.

Nàng đánh lừa bọn cướp như thế, rồi trốn đi.

Lúc bấy giờ, Bồ tát đã đi vào rừng tìm củ quả, để con trai ở lại am lá. Trong khi ngài đi vắng, cô gái đang lang thang trong rừng, bước đến am này vào sáng sớm, quyến rủ chàng trai bằng dục tình, phá hủy công đức của chàng và chinh phục chàng theo ý mình. Nàng bảo chàng:

– Sao chàng lại ở trong rừng, này đôi ta cùng về một làng kia làm nhà riêng cho ta ở. Tại đó đôi ta dễ dàng tận hưởng mọi lạc thú ái tình.

Chàng bằng lòng và bảo:

– Nay cha ta đang ở trong rừng kiếm trái cây, khi nào gặp lại cha ta thì sẽ cùng nhau đi xa.

Lúc ấy, cô gái thầm nghĩ: “Cậu trai khờ dại này chẳng biết gì cả, song còn cha cậu ắt hẳn đã xuất gia tu hành lúc tuổi già. Khi ông ấy về nhà, ông ấy sẽ biết ta làm gì ở đây và đánh đập ta, lôi cổ kéo cẳng ta ra, quẳng ta vào rừng sâu. Vậy ta muốn đi ngay trước khi ông ấy về”.

Rồi chỉ rõ dấu hiệu đi đường xong, nàng liền đi ngay. Sau khi nàng vừa khuất bóng, chàng trai trở nên buồn bã, không làm phận sự hàng ngày như thường lệ, mà đi trùm kín từ đầu tới chân nằm dài ra trong am lá, u sầu phiền muộn.

Khi bậc Ðại sĩ đem mớ quả rừng về nhà, ngài quan sát dấu chân cô gái: “Ðây là dấu chân một nữ nhân”, ngài nghĩ thầm: “Ắt hẳn công đức của con trai ta đã mất rồi”. Sau đó ngài bước vào am đặt mớ quả rừng xuống và ngâm vần kệ đầu hỏi con trai ngài:

  1. Không có củi nào được bổ ra,
    Và không kéo nước tự ao hồ,
    Cũng không có lửa nào con nhóm,
    Ðờ đẫn nằm sao giống kẻ rồ?

Nghe giọng của cha, chàng trai vùng dậy đảnh lễ cha và hết sức cung kính, chàng thổ lộ rằng chàng không thể nào chịu được cuộc sống trong rừng nữa, và chàng ngâm đôi vần kệ:

  1. Con không thể sống ở sơn lâm,
    Cuộc sống trong rừng thật khó khăn,
    Con quyết điều này, Ca-diếp hỡi!
    Con mong trở lại chốn phàm nhân.
  2. Này Ðại sĩ ơi, hãy dạy con,
    Khi con từ giã, bước lên đường,
    Thế nào phong tục trong toàn quốc
    Con phải biết cho thật tỏ tường.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Này con, được lắm, ta sẽ dạy con mọi phong tục trong nước.

Và ngài ngâm đôi vần kệ:

  1. Nếu con đã quyết chí xa rời
    Các trái cây rừng với sắn khoai,
    Về sống thị thành, nghe dạy bảo
    Làm sao phong cách hợp theo đời.
  2. Tránh nơi vách đá, chốn hang sâu,
    Thuốc độc, rời xa, dẫu loại nào,
    Bước thận trọng nơi loài rắn ở,
    Ðống bùn nhơ bẩn, chờ sa vào.

Con trai vị ẩn sĩ không hiểu được lời khuyên cốt lõi ấy, liền hỏi:

  1. Cách đá, dốc cao ấy có gì
    Liên quan đến Thánh đạo ta đi,
    Bùn nhơ, thuốc độc cùng loài rắn?
    Xin nói điều này với tiểu nhi.

Vị ấy đáp lời giải thích:

  1. Có thuốc uống kia ở cõi trần,
    Mà người ta gọi rượu, con thân,
    Thơm tho, như mật ong ngon ngọt,
    Giá rẻ, đầy hương vị dịu dàng,
    Cái ấy, Na-ra-da, bậc trí
    Bảo là thuốc độc đối hiền nhân.
  2. Và bọn nữ nhân ở cõi trần,
    Làm người ngu trí phải điên cuồng,
    Chúng lôi đám trẻ người non dạ,
    Như bão dưới đường bắt hạt bông,
    Ta nói vực sâu là đấy nhé
    Ðang nằm ngay trước mặt hiền nhân.
  3. Ðược đời trao tặng đại vinh quang,
    Ân sủng, lộc nhiều, tiếng tốt vang,
    Này đó, Nà-ra, bùn cấu uế
    Có cơ làm bẩn các hiền nhân.
  4. Ðế vương cùng với đám quần thần
    Ðang ngự trong cung chốn thế nhân,
    Này đó, Na-ra đều chức trọng,
    Mỗi vua là một chúa oai hùng.
  5. Trước chân vua chúa, các quân vương,
    Con nhớ đừng nên chọn bước đường
    Vì đó, Na-ra là rắn cả,
    Những người ta đã nói, con thương.
  6. Ngôi nhà con đến để xin ăn,
    Khi mọi người an tọa trước bàn,
    Nếu thấy tốt lành trong chỗ ấy,
    Thì con ăn uống thỏa thuê lòng.
  7. Khi người kia dọn bữa mời con,
    Thực hiện điều này lúc uống ăn:
    Ðừng uống quá chừng, ăn quá độ,
    Tranh xa nguồn dục lạc phàm trần.
  8. Rượu chè, chuyện phiếm, bạn tà gian,
    Các tiệm bán buôn của thợ vàng,
    Con hãy tránh xa như những kẻ
    Ði trên đường lộ chẳng bình an.

Trong khi người cha cứ tiếp tục nói mãi, nói mãi bên tai, chàng trai dần dần hồi tỉnh và nói:

– Thưa phụ thân, con đã chán chê cõi phàm trần rồi.

Sau đó vị cha dạy cho chàng tu tập từ tâm và các thiện pháp khác. Người con nghe theo lời cha dạy bảo, chẳng bao lâu phát khởi Thiền định trong tâm trí chàng. Và cả hai cha con không bao giờ gián đoạn Thiền định, nên được tái sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, cô gái thô tục này là thiếu nữ kia, Tỷ-kheo thối thất là con trai vị ẩn sĩ, và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sứ Thần (Tiền thân Dùta)

Trầm tư trên bến nước sông Hằng..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc tán thán trí tuệ của Ngài.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang bàn luận:

– Này các Tỷ kheo Hiền hữu, tài trí của đấng Thập lực thật dồi dào phương tiện thiện xảo biết bao! Ngài đã chỉ cho vương tử Nanda (em trai của Ngài) thấy cả bầy thiên nữ xong khiến vị ấy đắc Thánh quả; Ngài lại trao chiếc y cho chàng tiểu thị giả của Ngài và giáo hóa cho chàng chứng quả Thánh quả bốn Thiền chứng. Ngài chỉ đóa hoa sen cho người thợ rèn nọ khiến người ấy đạt Thánh quả. Thật Ngài đang hóa độ chúng sinh với muôn vàn phương tiện khác nhau.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang ngồi bàn luận chuyện gì; các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai có đủ phương tiện thiện xảo và tài trí để biết rõ việc gì sẽ đem lại kết quả như ý đâu, mà ngày xưa Như Lai cũng đã đầy đủ tài trí.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, cả nước đó không có vàng vì vua áp bức toàn dân và lấy hết kho vàng. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng nọ trong xứ Kàsi. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngài đến Takkasilà và nói:

– Ta sẽ kiếm tiền để trả học phí cho sư phụ ta sau, bằng phương pháp xin của bố thí một cách kín đáo.

Ngài đi đến thọ giáo và khi đã hoàn thành việc học tập, ngài nói:

– Thưa sư phụ, con sẽ dùng hết năng lực tinh cần của con để đem về dâng sư phụ số tiền xứng đáng với việc sư phụ dạy bảo.

Thế là xin phép từ giã thầy dạy, ngài ra đi tất cả vùng đó để cầu bố thí.

Sau khi ngài đã kiếm được vài lạng vàng theo đúng cách chơn chánh và ngay thẳng, ngài ra về định trao tận tay thầy mình, rồi trên đường đi đã dùng thuyền vượt qua sông Hằng. Khi con thuyền tròng trành trên mặt nước, số vàng ấy rơi mất. Ngài suy nghĩ: “Xứ này thật khó kiếm vàng, nếu ta lại đi lần nữa để kiếm tiền trả thầy ta thì sẽ chậm trễ lắm, vậy nếu ta cứ ngồi tuyệt thực bên bờ sông Hằng thì sao? Dần dần cũng có lúc đức vua biết được việc ta ngồi đây, và vua sẽ phái một vài cận thần đến, nhưng ta sẽ chẳng nói gì với họ. Sau đó, chính đức vua sẽ đến và nhờ đó ta sẽ kiếm được tiền học phí trả thầy ta”.

Vì vậy, ngài đắp thượng y lên mình, đặt sợi dây tế đàn ra ngoài và ngồi bên bờ sông Hằng như thể một pho tượng vàng trên vùng cát bạc. Ðám đông đi ngang qua thấy ngài ngồi đó không ăn thứ gì cả, liền hỏi tại sao ngài ngồi như vậy. Nhưng ngài không nói lời nào với dân chúng cả. Hôm sau, dân làng kế cận hay tin ngài ngồi đó, cũng đến hỏi han, nhưng ngài cũng không nói gì; dân chúng thấy ngài kiệt sức như vậy thì vừa bỏ đi vừa thương xót than vãn.

Ngày thứ ba, dân từ kinh thành kéo đến, ngày thứ tư là các bậc quyền cao chức trọng trong kinh thành, ngày thứ năm là đám triều thần quanh vua, ngày thứ sáu, vua sai các đại thần đến, nhưng ngài chẳng hề nói với ai điều gì. Ngày thứ bảy, vua lo ngại đến gặp ngài và xin ngài giải thích qua vần kệ đầu:

  1. Trầm tư bên bến nước sông Hằng,
    Và tại sao chàng chẳng nói năng,
    Ðể trả lời ta truyền nhắn hỏi,
    Hay chàng dấu chuyện khổ đau chăng?

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nỗi sầu của thần chỉ được thổ lộ cho người có thể vứt bỏ nó đi chứ không nói với ai khác được.

Rồi ngài ngâm bảy vần kệ:

  1. Hỡi Ðại vương nuôi-xứ-Kà-si!
    Số ngài ví thử gặp sầu bi,
    Nỗi sầu chớ lộ cho người khác,
    Nếu kẻ này không có ích gì.
  2. Song nếu ai san sẻ một phần
    Nỗi sầu, nhờ thế lực quyền năng,
    Thì con người ấy đang sầu muộn
    Nói rõ người kia mọi ước mong.
  3. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế
    Vô cùng khó hiểu, hỡi Quân vương!
  4. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc bà con, bạn chí tình”,
    Song mối tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận, lại sần sinh!
  5. Người không được hỏi gặn nhiều lần,
    Nói chẳng đúng thời nỗi khổ tâm,
    Chắc chắn làm phiền lòng bạn hữu,
    Mong mình an ổn, phải than van.
  6. Tìm kiếm cơ may để nói năng,
    Biết người hiền trí lại đồng lòng,
    Bạn hiền tỏ nỗi ưu cùng bạn,
    Ý nghĩa nằm sau tiếng dịu dàng.
  7. Song, nếu trí nhân thấy rõ ràng,
    Không gì giải được nỗi gian truân,
    Ðiều gì đem nói cho người biết,
    Cũng chẳng đạt thành quả ước mong,
    Bậc trí một mình đành nín lặng,
    E dè nhẫn nhục đến sau cùng.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy qua bảy vần kệ trên để giáo hóa vua, rồi ngâm thêm bốn vần nữa để kể chuyện ngài đi kiếm tiền trả cho thầy dạy:

  1. Ðại vương! Thần đã phải lang thang,
    Nhiều nước, kinh thành, mỗi quốc vương,
    Thị trấn, thôn làng, cầu bố thí
    Bởi vì học phí, quyết lòng mang.
  2. Ðến trước thềm ai, mọi chủ nhà,
    Triều thần, đạo sĩ hoặc thương gia,
    Cầu xin một ít vàng, thần được
    Chừng một hay hai lạng ấy mà,
    Chúa thượng, số vàng nay đã mất
    Nên thần buồn bã thật sâu xa.
  3. Các sứ giả không thế lực gì
    Làm thần thoát khỏi nỗi sầu bi,
    Thần đà cân nhắc hoài cho kỹ,
    Chúa thượng! Thần không giải thích chi.
  4. Song ngài, uy lực đủ, Anh quân!
    Giải thoát cho thần nỗi khổ thân.
    Vì xét kỹ ngài nhiều đức độ,
    Thần cho ngài biết thật tinh tường.

Khi vua nghe lời cảm khái ấy, liền đáp:

– Này chàng Bà-la-môn, thôi đừng phiền muộn nữa. Vì trẫm sẽ tặng học phí cho chàng đem trả thầy giáo.

Rồi vua hoàn lại gấp đôi số vàng cũ.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðại vương nuôi dưỡng-cả-giang-san,
    Hoàn lại người kia một số vàng,
    Tròn vẹn với lòng tin tưởng nhất,
    Trước chàng đã có, gấp đôi lần.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ phương tiện thiện xảo, xưa kia Như Lai cũng vẫn như vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị giáo thọ, và Ta là chàng thanh niên kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Bồ Đề và Thánh Đế Kalinga (Tiền thân Kalinga-Bodhi)

Kha-linh, Thánh đế Chuyển Luân Vương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Tôn giả Ànanda cử hành lễ cúng dường cây Bồ-đề.

Trong lúc đức Như Lai đi du hành vì mục đích thâu nhận những người đủ cơ duyên để thọ giáo, dân chúng thành Xá-vệ tiến đến Kỳ Viên, tay cầm đầy vòng hoa thơm ngát, thấy không có nơi nào khác để tỏ lòng ngưỡng mộ sùng kính, liền đặt hoa bên cổng vào Hương phòng của đức Phật rồi ra đi. Việc này đã gây được niềm hoan hỷ rất lớn. Song Trưởng giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) nghe được chuyện ấy; khi đức Như Lai trở về, vị trưởng giả liền đến thăm Tôn giả Ànanda và nói với ngài:

– Thưa Tôn giả, tinh xá này không được cúng dường trong lúc đức Như Lai du hóa, và không có nơi nào cho dân chúng dâng hoa thơm để tỏ lòng sùng bái. Xin Tôn giả từ bi thưa với đức Như Lai về vấn đề này để Ngài cho biết xem có thể tìm được nơi nào dùng vào mục đích này chăng?

Vị Tôn giả kia sẵn sàng làm theo, liền thưa đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu loại bảo Tháp?

– Này Ànanda, có ba loại.

– Bạch Thế Tôn, đó là các loại nào?

– Bảo tháp thờ kim thân, bảo tháp thờ các vật thường dùng hay mang trên người và bảo tháp thờ các kỷ vật (ảnh tượng).

– Trong lúc Thế Tôn còn tại thế, có thể xây một bảo tháp được chăng?

– Không được, này Ànanda, không thể xây một bảo tháp thờ kim thân, loại tháp đó chỉ được xây khi nào một đức Phật diệt độ (đắc Niết bàn vô dư y). Một bảo tháp thờ kỷ vật cũng không đúng đâu vì mối liên hệ chỉ tùy thuộc vào tâm tưởng mà thôi. Còn cây Ðại Bồ-đề đã được chư Phật sử dụng, nên rất đáng làm nơi chiêm bái, dù chư Phật còn tại thế hay diệt độ.

– Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn du hóa xa xôi, ngôi Ðại Tinh xá Kỳ Viên này không có nơi nương tựa, và dân chúng không có nơi nào để có thể tỏ bày lòng quy ngưỡng. Xin Thế Tôn cho phép con trồng một hạt giống từ cây Ðại Bồ-đề (ở Bồ-đề Ðạo tràng) ngay trước cổng Tinh xá này được chăng?

– Dĩ nhiên nên làm như vậy lắm, này Ànanda, và nó cũng sẽ là một nơi an trú cho Ta như trước kia.

Tôn giả này nói lại chuyện ấy với trưởng giả Cấp Cô Ðộc, bà Visàkkà và vua Pasenadi. Sau đó, tại cổng Tinh xá Kỳ Viên, Tôn giả đào một lỗ để trồng cây Bồ-đề và nói với Ðại trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên):

– Tiểu đệ muốn trồng một cây Bồ-đề trước Tinh xá Kỳ Viên, xin Tôn huynh kiếm cho tiểu đệ một quả Bồ-đề có được chăng?

Vị Trưởng lão kia rất sẵn sàng đồng ý, liền bay qua không gian đến tận vùng đất có cây Bồ-đề ấy. Ngài lấy đặt dưới tấm y một quả Bồ-đề đang rụng ra khỏi thân cây nhưng không rớt xuống đất, và mang nó về giao cho Tôn giả Ànanda. Vị Tôn giả này báo tin cho vua xứ Kosala biết là mình sắp trồng cây Bồ-đề. Vì thế, buổi chiều vua đến cùng một đám tùy tùng đông đảo, sau đó ông Cấp Cô Ðộc và bà Visàkkà cũng đến cùng một đám người mộ đạo nữa.

Ở chỗ cây Bồ-đề sắp được trồng, Tôn giả Ànanda đặt một chiếc bình vàng, dưới đáy có lỗ, đựng đầy đất tắm nước hương thơm ngát. Tôn giả bảo:

– Tâu Ðại vương, xin hãy trồng hạt giống Bồ-đề này.

Và Tôn giả trao hạt ấy cho vua. Song vua nghĩ rằng vương quốc này không ở trong tay mình mãi được, nên để cho ông Cấp Cô Ðộc trồng, liền giao hạt giống cho vị trưởng giả đại phú kia. Sau đó, ông Cấp Cô Ðộc xới đất thơm lên và thả hạt giống vào. Vừa lúc hạt rơi ra khỏi tay vị ấy, ngay trước mắt mọi người, vọt lên một cây Bồ-đề con, to cỡ bằng đầu lưỡi cày, cao chừng năm mươi cubit (1cubit = 45cm) tứ phía nảy ra năm cành lớn dài 50cubit, như thân cây ấy. Cây đứng sừng sững như thế quả là một chúa tể rừng xanh, một phép lạ hy hữu thần kỳ.

Vua tưới quanh thân cây những bình bằng vàng, bằng bạc, tất cả tám trăm bình đựng đầy nước tỏa hương thơm ngát, tươi đẹp với vô số hoa sen xanh. Bao giờ cũng vậy, vua ra lệnh tất cả một dãy dài bình bát đựng đầy thực phẩm và một sàng tọa làm bằng bảy báu vật, có lớp nhủ vàng rảy lên, rồi dựng một bức tường bao quanh vùng ấy, lại xây một nhà canh cổng làm bằng bảy báu vật. Vua bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt trọng thể như vậy đối với cây Bồ-đề.

Trưởng lão Ànanda đến gần đức Như Lai và thưa với Ngài:

– Bạch đức Thế Tôn, vì lợi lạc của chúng sinh, xin Thế Tôn thị hiện ngay dưới cây Bồ-đề con vừa mới trồng này sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác mà Thế Tôn đã thành tựu dưới gốc cây Bồ-đề trước kia.

– Này Ànanda, ông nói gì thế? Không có nơi nào khác có thể chịu đựng nổi sức mạnh của Ta nếu Ta ngồi nơi đó để chứng đắc quả vị mà Ta đã chứng đắc trong khu vực có cây đại Bồ-đề trước kia cả đâu.

Tôn giả Ànanda lại nói:

– Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lợi lạc của chúng sinh mà dùng cây Bồ-đề này làm nơi nhập đại định, bao lâu mặt đất chốn này đủ sức chịu đựng sức mạnh của Thế Tôn.

Bậc Ðạo sư liền sử dụng nơi mới trồng cây Bồ-đề ấy để nhập đại định suốt một đêm.

Tôn giả Ànanda liền thông báo với vua và mọi người khác, rồi gọi nó bằng tên “Hội Bồ-đề”. Và cây này do Tôn giả Ànanda trồng nên được đặt tên là cây Bồ-đề của Ànanda.

Vào thời ấy, Tăng chúng bắt đầu nói đến việc trên tại Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu, ngay khi đức Như Lai còn tại thế, Tôn giả Ànanda đã xin trồng một cây Bồ-đề và cử hành đại lễ cúng dường cây ấy. Uy lực của Tôn giả thật cao cả thay!

Bậc Ðạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda hướng dẫn hội chúng loài người trên khắp bốn châu thế giới cùng các đám tùy tùng đông đảo mang đến vô số vòng hoa thơm và mở Hội Bồ-đề trong vùng Ðạo tràng quanh cây Bồ-đề kia đâu.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong vương quốc Kalinga tại kinh thành Dantapura, có một vị vua mệnh danh là Kalinga cai trị. Vua có hai vương tử tên là Mahà-Kalinga và Culla-Kaling. Thời ấy các nhà tiên tri đã đoán rằng vị thái tử sẽ cai trị sau khi vua cha băng hà, còn vị vương đệ sẽ trở thành nhà tu khổ hạnh, sống đời khất sĩ; tuy thế, con trai vị sau này sẽ làm một đấng Chuyển luân Thánh vương (Ràja Cakkavatti: vị vua ngự trị toàn cầu bằng Chánh pháp).

Thời gian trôi qua và khi vua cha băng hà, thái tử lên ngôi báu, còn vương đệ làm phó vương. Vị vương đệ cứ nghĩ rằng con trai mình sau này sẽ là một Chuyển luân vương, nên sinh lòng kiêu mạn về cớ đó. Vua không chịu được chuyện này, liền ra lệnh cho một vị sứ thần truy bắt Phó vương Kalinga. Vị sứ giả kia đi đến bảo:

– Tâu Ðiện hạ, Ðại vương muốn sai bắt ngài, vậy ngài hãy lo cứu mạng mình.

Vương tử này liền chỉ cho vị sứ thần được giao trọng trách này thấy chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình, một tấm thảm thật đẹp và một cây kiếm: Có ba bảo vật tất cả. Rồi vương đệ bảo:

– Khanh phải nhận ra được vương nhi ta nhờ những tín vật này và phò vương nhi lên ngôi báu.

Cùng với những lời dặn dò này, vương tử vội trốn vào rừng. Tại đó, chàng dựng một am thất ở một nơi đẹp, vừa ý và sống như người tu khổ hạnh trên một bờ sông.

Lúc bấy giờ, trong vương quốc Madda ở kinh thành Sàgala, vua Madda vừa hạ sinh một công chúa. Về phần công chúa này, cũng như vương tử kia, các nhà tiên trí đoán rằng nàng sẽ phải làm nhà tu khổ hạnh, song con trai nàng lại sẽ thành một Chuyển luân vương. Các vị vua ở Diêm-phù-đế (Ấn Ðộ) nghe tin đồn ấy, liền đồng một lúc đến bao vây kinh thành.

Vua nghĩ thầm: “Nay ta gả con gái ta cho một quốc vương nào thì các vị vua kia sẽ nổi giận. Vậy ta phải cố gắng cứu mạng con gái ta”.

Vì thế, vua cùng hoàng hậu và công chúa cải trang trốn vào rừng, và sau khi dựng một am thất hơi xa bờ sông, phía trên thảo am của vương tử Kalinga, họ cùng sống tại đó như người tu khổ hạnh, ăn toàn những thứ cây trái lượm hái được.

Hai vị cha mẹ muốn con gái được an ổn, nên để nàng ở lại trong am, rồi đi ra hái trái rừng. Trong lúc hai vị đi vắng, nàng lượm đủ các loại hoa kết thành vòng hoa. Bấy giờ, trên bờ sông Hằng có một cây xoài nở hoa đẹp, tạo thành một cái thang thiên nhiên. Nàng trèo lên đó, đùa chơi và tìm cách thả vòng hoa xuống nước.

Một ngày kia, vương tử Kalinga vừa bước ra khỏi nước sau khi tắm thì vòng hoa nọ vướng lên tóc chàng.

Chàng nhìn hoa và bảo:

– Một nữ nhân nào đã kết hoa này, song đó không phải là một người đàn bà trưởng thành mà là một cô gái còn thơ dại. Ta phải kiếm nàng mới được.

Thế là chàng đâm ra si tình, đi lên phía thượng lưu sông Hằng, cho đến khi chàng nghe nàng ca hát bằng một giọng ngọt ngào trong lúc ngồi trên cây xoài. Chàng đến gần gốc cây, vừa thấy nàng liền bảo:

– Này giai nhân, nàng là loài gì thế?

– Thưa công tử, thiếp là người – Nàng đáp.

– Thế thì hãy xuống đi – Chàng bảo.

– Thưa công tử, không được, vì thuộc dòng dõi Sát-đế-ly.

– Thưa công nương, ta cũng vậy, xin nàng bước xuống.

– Thưa công tử, không được, thiếp không xuống đâu. Lời nói không làm nên một Sát-đế-ly; nếu quả thật ngài là một vị Sát-đế-ly, xin hãy kể cho thiếp nghe những điều bí mật của nghi lễ truyền thống kia.

Sau đó, hai người nói cho nhau nghe những điều bí mật truyền kỳ trong dòng họ. Rồi công chúa bước xuống và hai bên kết giao với nhau.

Khi cha mẹ nàng trở về, nàng kể cho hai vị nghe chuyện vương tử của vua Kalinga, vì sao chàng vào rừng với đầy đủ mọi chi tiết. Hai vị bằng lòng đem gả nàng cho chàng. Trong thời gian sống chung sắc cầm hòa hợp, công chúa thụ thai và sau mười tháng, hạ sinh một nam tử đầy đủ tướng mạo tốt lành, phước đức và đặt tên là Kalinga. Cậu trai lớn lên, học tập đủ mọi nghệ thuật tài năng từ thân sinh và tổ phụ chàng.

Về sau, cha chàng nhìn theo cách kết hợp của ngôi sao và biết được vương huynh đã băng hà. Vì thế, ông gọi con trai vào và bảo:

– Này con, con không nên phí cuộc đời trong rừng già buồn tẻ, vì vương huynh ta, Ðại vương Kalinga ấy đã qua đời. Vậy con phải về Dantapura và kế vị vương quyền của dòng họ ta.

Sau đó, người cha trao cho con các vật mang theo mình: chiếc nhẫn có tín hiệu, tấm thảm và thanh kiếm rồi bảo:

– Này con, trong kinh thành Dantapura ở phía kia có một vị đại thần vốn là bề tôi thân tín của cha. Con hãy đến nhà vị ấy, đi thẳng vào phòng riêng, đưa cho ông thấy ba vật này, rồi nói cho ông biết con là con của ta. Ông sẽ đưa con lên ngai vàng.

Chàng trai giã từ cha mẹ và ông bà, và nhờ thần lực công đức của chàng, chàng bay qua không gian, xuống nhà vị đại thần nọ, đi thẳng vào phòng riêng của vị ấy.

– Công tử là ai? Vị quan hỏi.

Chàng đáp:

– Ta là con trai của Tiểu vương Kalinga

Rồi chàng rút ba tín vật ấy ra. Vị quan liền báo tin cho cả hoàng cung, các triều thần liền trang hoàng kinh thành và giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu chàng. Sau đó vị Tế sư của triều đình tên là Kàlinga – Bhàvadvàja dạy chàng Mười Pháp mà một Chuyển luân Thánh vương phải thành tựu và chàng học tất cả mười phận sự ấy.

Thế rồi vào một ngày rằm, tức là ngày Trai giới, từ Cakkadaha xuất hiện cho vua Bánh xe báu (Bảo luân), từ dòng họ Uposatha xuất hiện Voi báu, từ giống quý tộc Valàha xuất hiện Ngựa báu, từ Veppulla xuất hiện Bảo châu, kế là Nữ vương báu cùng đám tùy tùng thị nữ và vương tử báu dần dần xuất hiện.

Sau đó vua thống trị toàn cõi địa cầu.

Một ngày kia, ngài được đám tùy tùng hộ tống suốt ba mươi sáu dặm đường, ngự trên bảo tượng toàn thắng, cao như đỉnh núi Kelàsa. Trong cảnh uy nghi lộng lẫy, ngài trở về thăm song thân chốn cũ. Nhưng khi muốn vượt qua vùng đất quanh cây đại Bồ-đề, bảo tọa vinh quang của chư Phật, nơi đã trở thành trung tâm điểm của vũ trụ, thì Voi báu không thể nào qua được: vua cứ thúc Voi mãi, song Voi vẫn không thể nào vượt qua.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Kha-linh Thánh đế, Chuyển luân vương,
    Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,
    Một thuở đến Bồ-đề đại thọ,
    Trên mình Voi báu đại oai thần.

Do đó, vị Tế sư của triều đình cùng du hành với vua thầm nghĩ: “Trên không gian chẳng có gì cản trở cả, tại sao đức vua không giục Voi qua được? Ta muốn đến xem sao”. Từ trên không hạ xuống, vị này chiêm ngưỡng bảo tọa vinh quang của chư Phật, và khu vực quanh cây đại Bồ-đề.

Thời ấy, tương truyền rằng trong khoảng chừng một dặm vuông ấy không bao giờ có một ngọn cỏ mọc, dù chỉ bằng một sợi lông nhỏ, mặt đất như thể cát mịn, bốn bề là thảo mộc, cát đằng và đại thọ chẳng khác nào chúa tể sơn lâm sừng sững như đang chiêm ngưỡng, đầu quay mặt về hướng bảo tọa Bồ-đề. Khi vị Bà-la-môn Tế sư quan sát chỗ này, lại suy nghĩ: “Ðây là nơi chư Phật đã đoạn tận mọi dục tham của trần thế nên không ai có thể vượt qua được, dù cho đó chính là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đi nữa”.

Và tiến về phía đức vua, vị Tế sư tâu với ngài các đặc tính của địa phận quanh cây Bồ-đề, cùng thỉnh cầu Thánh vương ngự xuống Voi.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Vị Tế sư tâu với Thánh vương,
    Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,
    Khi ngài chuyển vận xa luân báu,
    Ðảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường:
  2. “Ðây các thi nhân vẫn tán dương,
    Xin ngài ngự xuống, tấu Hùng vương,
    Nơi đây chư Phật – đà vô thượng
    Chánh Giác viên thành tỏa ánh quang.
  3. Tương truyền rằng ở chốn phàm trần,
    Ðây chính là linh địa thánh thần,
    Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ
    Ðứng quanh trong dáng điệu tôn sùng.
  4. Xuống đây, xin đảnh lễ trang nghiêm,
    Vì đến miền xa tận hải biên,
    Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,
    Nơi này là đất thánh thiêng liêng.
  5. Ðại vương đầy đủ mọi loài voi
    Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,
    Ngự giá đến đây, Voi vẫn muốn,
    Song không thể tiến bước gần nơi.
  6. Ngự trên mình Bảo tượng thuần nòi,
    Thánh ý tuy nghi, cứ thúc Voi,
    Song chẳng cách nào Voi bước nữa,
    Ðến đây, Voi phải đứng yên thôi”.
  7. Vua nghe lời nói vị tiên tri,
    Vừa phán truyền cho Bảo tượng đi,
    Vừa thúc gậy sâu vào Bảo tượng:
    “Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi”.
  8. Bị thúc, Voi kêu thét tựa kèn,
    Như còi lanh lảnh, hạc vang rền,
    Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực
    Ðè nặng sườn, không thể đứng lên.

Vì cứ bị đức vua thúc mãi, Voi không thể nào chịu được cơn đau đớn, nên phải chết ngay. Song đức vua không biết là Voi đã chết, cứ điềm nhiên ngự trên lưng Voi. Một lát sau, Tế sư Kalinga-Bhàradvàja nói:

– Tâu Thánh thượng, Vương tượng đã chết rồi, xin Thánh thượng ngự qua Voi khác.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

  1. Quốc sư lo sợ lúc nhìn Voi
    Ðã chết, lòng kinh động thốt lời:
    “Xin tìm voi khác, tâu Hoàng thượng,
    Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi”.

Nhờ công đức và thần lực của vị Thánh vương, một con Voi khác thuộc chủng loại Uposatha xuất hiện trước đức vua và đưa lưng ra mời. Vua ngự trên lưng nó. Lúc ấy thi thể vương tượng kia liền ngã xuống đất.

Bậc Ðại sư ngâm vần kệ để giải thích việc này:

  1. Vua hãi kinh nghe tấu việc này,
    Ngự lên Voi khác, bỗng liền ngay,
    Thi hài Bảo tượng kia nhào xuống,
    Lời thật tiên tri đã hiển bày.

Lập tức vua ngự xuống từ trên không gian, và chiêm ngưỡng vùng đất quanh cây Bồ-đề. Trước việc thần kỳ kia vừa thị hiện xong, đức vua tán thán vị tế sư Bhàradvàja qua vần kệ:

  1. Thế này, với vị Tế sư mình,
    Ðại đế Kha-linh bảo: “Thực tình
    Mọi việc khanh am tường thấu suốt,
    Hiền khanh thấy tất cả duyên sinh”.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn kia không muốn nhận lời tán thán trên, mà vẫn giữ nguyên vị trí khiêm tốn của mình, ông tán thán công đức chư Phật và ca tụng các Ngài hết lời.

Bậc Ðạo sư lại ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Quốc sư từ chối sự tuyên dương
    Và tấu như vầy với Thánh vương:
    ” Thần chỉ biết điềm vùng tướng triệu,
    Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.
  2. Phật-đà tri kiến đạt toàn chân,
    Ðiềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,
    Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,
    Thần là học giả chẳng uyên thâm.

Vua nghe nói về công đức của chư Phật, nên lòng đầy hoan hỷ, liền ban lệnh cho mọi người trần thế đem thật nhiều vòng hoa thơm đến cúng dường vùng đất quanh linh thọ Bồ-đề suốt bảy ngày đêm liền.

Bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ để giải thích việc này:

  1. Thánh thọ Bồ-đề, chúa cúng dường,
    Với bao âm nhạc thật du dương,
    Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,
    Ngài lại xây quanh một bức tường.
  2. Thế rồi Thánh đế ngự ra về,
    Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,
    Làm lễ cúng dường, vì Ðại đế
    Kha-linh sùng Thánh địa Bồ-đề.

Sau khi đã làm lễ cúng dường trọng thể Ðại thọ Bồ-tát như trên, đức vua thăm song thân, rồi rước hai vị về thành Dantapura sống cùng ngài. Tại đấy ngài chuyên bố thí và làm các phận sự khác, cho đến khi mạng chung ngài được tái sinh vào cõi Trời Ba mươi ba.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại trên, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda làm lễ cúng dường cây Bồ-đề, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua Kalinga, và Ta chính là vị quốc sư Kalinga – Bhàradvàja.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền thân Akitta)

Sak-ka, Chúa tể giữa quần sinh..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một đại thí chủ rất rộng lượng sống ở Xá-vệ.

Chuyện kể rằng người này mời bậc Ðạo sư đến nhà và suốt bảy ngày đã cúng dường rất nhiều thí vật cho Tăng chúng đi theo Ngài. Vào ngày cuối cùng lại cúng dường Thánh chúng đủ các vật dụng cần thiết, sau đó bậc Ðại sư nói lời tùy hỷ với ông:

– Này nam cư sĩ, công đức bố thí của ông thật là rộng lớn, ông đã thực hành một việc khó lắm thay. Bố thí là tục lệ của các bậc hiền trí ngày xưa, thí vật phải được phân phát dù người còn tại gia hay xuất gia, các bậc trí giả ngày xưa, ngay khi đã rời thế tục vào ở trong rừng, khi chỉ ăn lá Kara rảy nước mà không có thứ gia vị nào cả cũng vẫn đem cho đám khất thực đi qua đó để đáp ứng nhu cầu của các vị ấy và vẫn an trú trong hỷ lạc của bản thân mình.

Gia chủ kia đáp:

– Bạch Thế Tôn, việc cúng dường mọi vật dụng cần thiết ấy cho Tăng chúng thật rõ ràng dễ hiểu. Song lời dạy của Thế Tôn chưa được rõ. Xin Thế Tôn giải thích cho chúng con.

Rồi theo lời thỉnh cầu trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh trong một gia đình đại phú Bà-la-môn, có tài sản lên tới tám trăm triệu. Ngài được đặt tên là Akitti. Khi ngài vừa biết đi, thì một bé gái lại ra đời với tên Yavasati.

Lúc mười sáu tuổi, bậc Ðại sĩ đi vào thành Ba-la-nại học tập cho đến lúc thành đạt rồi ra về. Sau đó cha mẹ ngài qua đời. Khi ngài cử hành tang lễ cho song thân đã khuất xong, ngài xem xét lại kho tàng của gia tộc. Danh mục ghi rõ: “Các vị này, vị kia đã tích trữ những tài sản lớn như vậy rồi qua đời, kế đến là các vị khác cũng tích trữ nhiều như vậy..” Nghe chuyện này, ngài phiền muộn trong trí và nghĩ thầm: “Kho báu này ai cũng thấy cả, song những vị tích trữ tài sản thì không còn nữa. Các vị đã ra đi để lại kho báu đằng sau mình, nhưng khi ta từ trần, ta muốn đem theo bảo vật”. Vì vậy, ngài cho tìm em gái đến và bảo:

– Hiền muội, hãy trông nom kho báu này.

– Ý hiền huynh là thế nào?

Ngài đáp:

– Ta muốn làm người tu khổ hạnh.

Nàng đáp:

– Này hiền huynh, tiểu muội không muốn đội lên đầu những thứ mà hiền huynh đã nhổ ra khỏi miệng, tiểu muội chẳng muốn thứ gì cả, mà cũng muốn sống đời khổ hạnh thôi.

Rồi sau khi xin phép vua, ngài bảo đánh trống vang dội khắp kinh thành, bố cáo cho mọi người rõ:

– Toàn dân lắng nghe này: “Ai muốn có tiền bạc cứ đến nhà hiền nhân kia!”.

Suốt bảy ngày, ngài phân phát những kho tài sản lớn, tuy thế kho báu vẫn chưa hết, ngài lại nghĩ thầm: “Tứ đại trong thân ta đang tan rã, ta còn muốn cái trò phân phát tài sản này nữa sao? Thôi, ai muốn lấy cứ lấy đi”.

Thế là ngài từ giã ngôi nhà đầy châu báu, giữa các gia nhân thân quyến khóc lóc xung quanh, ngài cùng em gái ra đi. Và cái cổng thành Ba-la-nại nơi các ngài đi qua được gọi là cổng Akitta, còn bến đò các ngài bước xuống bến sông cũng được đặt tên là bến đò Akitta nữa.

Các ngài băng qua ba dặm đường, đến một nơi mát mẻ dễ chịu thì dựng lên một am lá và cùng em gái ngài sống như người tu khổ hạnh. Sau thời gian từ bỏ thế tục, nhiều người khác cũng làm như vậy, dân ở thôn quê, thị trấn, hoặc ở kinh thành, đầy đủ cả. Hội chúng thật đông đảo, các vị ấy nhận được nhiều vật cúng dường cùng sự tôn trọng sùng kính chẳng khác nào thời có một đức Phật xuất hiện ở đời. Lúc ấy bậc Ðại sĩ thầm nghĩ: “Ở đây thật nhiều vinh quang trọng vọng cùng với vô số thí vật và hội chúng đông đảo, song ta phải độc cư”.

Vì thế, vào một lúc không ai ngờ được và cũng không báo trước cho cô em gái, ngài ra đi một mình, dần dần đến tận vương quốc Damila ở bờ biển bắc Tích lan sống trên một hoa viên sát trên vùng Kàvìrapattana, ngài tu tập Thiền định và Thắng trí. Tại đó ngài cũng nhận được sự ngưỡng mộ và vô số thí vật của dân. Ðiều ấy không thích hợp với ngài, ngài liền từ bỏ hết và phi hành qua không gian rồi đến tận đảo của Rắn Rồng (Nàga) gần Bắc Tích Lan. Vào thời ấy, Kàradìpa được gọi là Ahidìpa hay đảo Rắn Rồng. Tại đó, ngài xây một ẩn am cạnh một cây Kàra lớn và an trú. Song việc ngài ở đó không ai hay biết cả.

Lúc bấy giờ, em gái ngài đi tìm anh, dần dần đến tận vương quốc Damila, vẫn không gặp ngài, nàng lại ở ngay chính nơi ngài đã ở, song nàng không thể phát khởi Thiền định.

Còn bậc Ðại sĩ sống thiểu dục đến độ ngài không đi đâu cả, mà cứ vào mùa có trái cây chín, ngài chỉ sống bằng trái cây đó, còn vào mùa lá trổ bông thì ngài ăn lá đó luộc với ít nước lã. Nhờ ngọn lửa công đức của ngài mà chiếc ngai báu bằng cẩm thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ nghĩ: “Ai đã khiến ta phải bước xuống khỏi chiếc ngai ta đang ngự?” và ngài nhận xét và thấy bậc hiền nhân này, ngài nghĩ thầm: “Tại cớ gì vị tu khổ hạnh đằng kia hộ trì côngđức? Có phải vị ấy muốn lên ngôi Thiên chủ chăng? Hay vì một duyên cớ nào khác? Ta muốn thử vị ấy xem. Vị ấy sống rất khổ cực, chỉ ăn lá Kàra luộc với nước thôi: Nếu vị đó ước muốn làm Thiên chủ, vị ấy sẽ nhường cho ta mớ lá cây luộc với nước của mình, còn nếu không thì vị ấy sẽ không đưa”. Sau đó, Thiên chủ giả dạng một Bà-la-môn, đến gặp Bồ-tát.

Bồ-tát đang ngồi ở cửa thảo am, sau khi luộc lá và đem xuống, ngài nghĩ: “Khi nào nguội ta sẽ ăn”. Vào lúc ấy, Sakka Thiên chủ đứng trước mặt ngài và xin bố thí. Khi Bồ-tát nhìn thấy Thiên chủ, lòng rất hoan hỷ: “Thật là một niềm hạnh phúc cho ta – Ngài nghĩ thầm – ta thấy một vị khất thực, hôm nay ta sẽ đạt được tâm nguyện và ta sẽ bố thí”.

Lúc món ăn đã sẵn sàng, ngài liền múc vào bát ngài và vừa tiến về phía Thiên chủ, vừa nói:

– Ðây là vật cúng dường của ta, ước mong rằng đây là phương tiện để ta đạt Chánh Giác tối thượng.

Rồi chẳng để lại chút gì cho mình, ngài đặt hết thức ăn vào bình bát của Thiên chủ. Vị Bà-la-môn này cầm lấy vừa đi một khoảng ngắn thì biến mất. Còn bậc Ðại sĩ, sau khi cúng dường, cũng không nấu thêm thứ gì nữa, mà cứ ngồi an tịnh trong niềm hỷ lạc. Hôm sau, ngài cũng luộc lá và ngồi trước cửa am như cũ. Thiên chủ Sakka lại đến giả dạng một Bà-la-môn và bậc Ðại sĩ cũng bố thí rồi tiếp tục an trú vào hỷ lạc. Vào ngày thứ ba, ngài lại bố thí như trước, và bảo:

– Ngài hãy xem phần phước lạc dành cho ta nhiều biết bao! Chỉ một ít lá Kàra đã mang lại côngđức lớn cho ta rồi.

Trong niềm hỷ lạc phát xuất tận đáy lòng như vậy, ngài thấy yếu người vì thiếu ăn đã ba ngày, ngài liền ra khỏi am đúng lúc ngọ và ngồi trước cửa, suy nghĩ về tặng vật ngài đã đem cúng dường.

Còn Sakka Thiên chủ nghĩ thầm: “Vị đạo sĩ Bà-la-môn này đã nhịn ăn đã ba ngày, yếu ớt thế kia song vẫn nhường cho ta và tìm an lạc trong việc bố thí. Trong tư tưởng vị này không còn ý định nào khác. Ta không hiểu vị ấy ao ước điều gì và tại sao lại bố thí như vậy, nên ta phải hỏi để hiểu vị ấy muốn gì và biết được nguyên nhân việc bố thí trên”.

Vì thế, Thiên chủ chờ đợi đến quá giờ ngọ, và trong vẻ huy hoàng oai nghi tột bực, ngài xuất hiện trước mặt bậc Ðại sĩ, sáng chói như mặt trời ban mai; vừa đứng trước bậc Ðại sĩ, Thiên chủ hỏi:

– Này Ðạo sĩ, tại sao ngài hành trì khổ hạnh, trong rừng này, xung quanh là biển mặn bao bọc, với những cơn gió nóng hừng hực đang hắt mạnh vào người?

*

Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để giải thích vấn đề này:

  1. Sak-ka, Chúa tể của quần sinh,
    Trông thấy A-ki đáng kính danh,
    Liền hỏi: “Tại sao, này Ðại sĩ,
    Trú đây trời hực nắng vàng hanh?”

*

Khi bậc Ðại sĩ nghe vậy, và thấy vị đó chính là Sakka, ngài đáp:

– Ta không ước ao đạt đến những cảnh giới trên kia, mà chỉ ao ước chứng đắc Chánh Giác tối thượng nên ta đã sống đời khổ hạnh ở đây.

Ngài ngâm vần kệ thứ hai để làm sáng tỏ điều này:

  1. Thân hoại, tái sinh, tử biệt trần,
    Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
    Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
    Ta vẫn trú đây được vạn an.

Nghe những lời này, Sakka Thiên chủ hoan hỷ trong lòng và thầm nghĩ: “Vị ấy không ham thích bất cứ sinh loại hữu tình nào và vì muốn chứng đắc Niết bàn nên vào an trú trong rừng. Ta muốn ban cho vị ấy một điều ước”. Thế là Thiên chủ mời ngài chọn một điều ước qua lời kệ thứ ba:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ tư nói lên điều ngài ước mong:

  1. Thiên chủ Sakka của chúng sinh,
    Ban cho ta hưởng một ân lành;
    Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
    Dù có dư, ta vẫn bất bình;
    Ta ước những điều tham dục ấy
    Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình.

Lúc ấy Sakka Thiên chủ vô cùng hoan hỷ, ban cho ngài thêm nhiều đặc ân khác nữa và bậc Ðại sĩ nhận lãnh, mỗi vị lần lượt ngâm một vần kệ như sau:

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Chúa tể muôn loài chính là Sak-ka,
    Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
    Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
    Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
    Ta ước sẽ không còn giống chúng.
    Ta mong nhược điểm ấy rời ta.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ ngự trên trần,
    Ban tặng cho ta một đặc ân:
    Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
    Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
    Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
    Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn!

Thiên chủ:

  1. Kẻ ấy làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Tại sao bầu bạn người vô trí
    Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta.

Bồ-tát:

  1. Hành động người ngu thật bạo tàn,
    Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
    Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
    Nổi giận khi nghe nói thật chân,
    Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
    Nên ta không muốn kẻ ngu gần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
  2. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Ta ước nghe nhìn người có trí,
    Ước mong vị ấy ở cùng mình.
    Ta mong đàm luận cùng người trí,
    Ðược kết giao cùng bậc trí minh.
  3. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
    Người trí cùng chung sống một nhà?
  4. Hành động tốt lành, bậc trí nhân
    Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
    Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
    Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
    Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
    Lành thay bậc trí sống chung cùng.
  5. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
    Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
    Mong chư Thánh giả du hành đến,
    Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình.
  2. Mong tặng nó không giảm sút dần,
    Ta không hối tiếc việc ta làm,
    Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
    Ta chọn ước kia để hưởng phần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ngài đã ban ta một phước lành:
    Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
    Ðiều này khao khát tự tim mình.

Thiên chủ:

  1. Song các nam nhân, các nữ nhân,
    Những người đang sống thật hiền lương,
    Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
    Việc này có tác hại gì chăng?

Bồ-tát:

  1. Dung mạo ngài muôn vẻ thiện toàn,
    Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
    Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
    Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!

– Thôi được rồi, thưa Tôn giả – Thiên chủ đáp – Ta quyết sẽ chẳng bao giờ viếng thăm ngài nữa.

Và vừa đảnh lễ ngài, vừa xin ngài thứ lỗi, Thiên chủ ra đi. Từ đó, bậc Ðại sĩ an trú tại nơi ấy suốt đời, tu tập Tứ Vô lượng tâm (từ,bi,hỷ,xả) và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) và Ta chính là Hiền giả Àkitti.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền thân Takkàriya)

Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Tỷ-kheo Kokàlika.

Trong một thời an cư về mùa mưa, hai vị Ðại đệ tử Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) muốn rời hội chúng và sống độc cư, nên từ giã bậc Ðạo sư, đi vào vương quốc, nơi có Tỷ-kheo Kokàlika trú ngụ. Các vị đến nhà Tỷ kheo Kokàlika và nói với ông như vầy:

– Này Hiền hữu Kokàlika, vì chúng ta thích sống với Hiền hữu và Hiền hữu cũng thích sống với chúng ta, nên chúng ta muốn ở lại đây ba tháng.

Vị kia hỏi:

– Các Tôn giả hoan hỷ khi an trú với tiểu đệ theo cách nào?

Hai vị đáp:

– Nếu Hiền hữu không nói với ai rằng hai Ðại đệ tử đang ở đây, thì chúng ta sẽ rất hoan hỷ, đó là niềm an lạc của chúng ta khi sống với Hiền hữu.

– Thế còn tiểu đệ được hoan hỷ như thế nào khi sống chung với các Tôn giả?

– Chúng ta sẽ thuyết Pháp cho Hiền hữu trong ba tháng tại nhà Hiền hữu, chúng ta sẽ giảng giáo lý cho Hiền hữu và việc đó là niềm hoan lạc của Hiền hữu khi sống với chúng ta.

– Xin các Tôn giả hiền huynh hãy an trú tại đây bao lâu các Hiền huynh muốn.

Rồi ông dành một nơi cư trú an lạc cho các ngài. Các ngài an trú tại đó trong quả vị của các Thiền chứng và không ai biết về việc các ngài an trú tại nơi ấy.

Sau khi hai vị đã trải qua mùa mưa như vậy, hai vị bảo ông:

– Này Hiền hữu, nay chúng ta đã ở với Hiền hữu xong, chúng ta muốn trở lại với bậc Ðạo sư.

Và hai vị từ giã lên đường. Ông chấp thuận, cùng với hai vị trên đường đi khất thực vào một làng đối diện nơi đã ở. Sau buổi cơm, các vị Tỷ-kheo Trưởng lão rời làng ấy. Còn Tỷ-kheo Kokàlika từ giã các vị xong, trở về nói với dân chúng:

– Này các cư sĩ, các ông thật giống loài thú hoang sơ. Ðây là hai vị Ðại đệ tử của đức Phật đã an cư suốt ba tháng trong một tinh xá đối diện nơi này, thế mà các ông không hay biết gì cả, nay các ngài đã đi rồi.

– Thưa Tôn giả, tại sao ngài không nói cho chúng tôi gì cả? Dân chúng hỏi.

Rồi họ đem bơ tươi, và thuốc men, y phục đến gần các vị Trưởng lão, kính lễ các vị và nói:

– Bạch các Tôn giả, xin các Tôn giả tha thứ cho chúng con. Chúng con không biết các ngài là Ðại đệ tử, chúng con chỉ mới biết điều ấy do lời của Tôn giả Tỷ-kheo Kokàlika. Xin các ngài từ bi đối với chúng con và nhận các thuốc men, y phục này.

Kokàlika cùng dân chúng đi theo các Trưởng lão vì ông suy nghĩ: “Các Tôn giả này sống rất đạm bạc và thiểu dục; các ngài sẽ không nhận các vật dụng này và rồi sẽ đem chúng cho ta”. Nhưng hai vị Trưởng lão không nhận các vật dụng ấy cho phần mình, cũng không cho Tỷ-kheo Kokàlika, lý do là các vật ấy được cúng dường theo lời xúi giục của một Tỷ-kheo.

Lúc ấy, các cư sĩ liền nói:

– Bạch các Tôn giả, nếu các ngài không nhận các món này, xin đến đây lần nữa để ban phước cho chúng con.

Hai Trưởng lão chấp thuận hứa lời xong, rồi đi về yết kiến bậc Ðạo sư.

Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Kokàlika tức giận vì hai Trưởng lão không nhận vật cúng dường cho phần mình mà cũng không đem cho vị này. Còn hai vị Trưởng lão, sau khi ở lại một thời gian ngắn với bậc Ðạo sư, liền chọn năm trăm Tỷ-kheo làm đoàn tùy tùng cho mỗi vị, rồi cùng cả ngàn Tỷ-kheo này du hóa khất thực đến tận xứ sở của Tỷ-kheo Kokàlika.

Các cư sĩ ra đường đón Tăng chúng và dẫn họ đến tinh xá trước kia, cùng bày tỏ lòng ngưỡng mộ hàng ngày đối với các vị.

Dân chúng cúng dường Tăng chúng cả kho lớn y phục và thuốc men. Các Tỷ-kheo đi khất thực cùng hai vị Trưởng lão phân phát y phục cho tất cả các Tỷ kheo đã đến đây, song không chia cho Kokàlika cái nào cả, và hai vị Trưởng lão cũng không cho ông chút gì. Kokàlika không nhận được y phục nên bắt đầu phỉ báng mạ lỵ hai vị Trưởng lão:

– Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thật tràn đầy ác dục, trước kia đã không nhận các lễ vật cúng dường, nhưng nay lại nhận hết. Chẳng có gì làm thỏa mãn hai vị này cả. Các vị không thương tưởng đến kẻ khác.

Nhưng hai vị Trưởng lão nhận thấy ông đang nuôi ác tâm đối với mình nên các vị cùng đám đồ chúng ra đi, các vị cũng không muốn trở lại dù dân chúng van nài các vị hãy ở lại thêm vài ngày nữa. Lúc ấy, một vị Tỷ-kheo trẻ hỏi:

– Hai vị Trưởng lão sẽ không ở lại đâu, này các cư sĩ. Vị Tỷ-kheo khó tính của các ông không muốn các ngài ở lại đây.

Sau đó, dân chúng đi đến gặp Tỷ-kheo Kokàlika và hỏi:

– Thưa Tôn giả, chúng con được nghe nói Tôn giả không muốn hai vị Trưởng lão ở lại đây. Xin hãy đi ngay, hoặc là khuyên giải các ngài và đưa các ngài trở lại đây hoặc là Tôn giả cũng đi tìm chỗ khác mà ở.

Vì sợ dân chúng, vị này đi thỉnh cầu các Trưởng lão. Các vị đáp:

– Này Hiền hữu, hãy đi về! Chúng ta không trở lại đâu.

Thế là ông không thể thuyết phục hai vị, phải trở về tinh xá. Sau đó, các cư sĩ hỏi ông các Trưởng lão có trở lại nữa không. Ông đáp:

– Ta không thể thuyết phục các ngài trở lại được.

– Tại sao không, thưa Tôn giả?

Và họ bắt đầu suy nghĩ chắc hẳn không có thiện Tỷ-kheo nào muốn ở đó nữa, vì người này sống theo tà hạnh; và họ phải tống xuất ông đi. Họ liền bảo:

– Thưa Tôn giả, xin đừng lại ở đây, chúng con chẳng cung cấp gì cho Tôn giả nữa đâu.

Bị hội chúng làm ô nhục như vậy, vị ấy cầm bình bát, đắp y và đi đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, ông nói:

– Bạch Thế Tôn, các Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tràn đầy ác dục, hai vị đang có ác dục chế ngự.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Kokàlika, đừng nói vậy; này Kokàlika, ông hãy có từ tâm đối với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, phải biết rằng đó là các thiện Tỷ-kheo.

Kokàlika nói:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn tin tưởng hai vị Ðại đệ tử của Thế Tôn, còn con thấy tận mắt hai vịđang có ác dục, hai vị có những việc riêng tư trong lòng, hai vị ấy là các ác nhân.

Người ấy nói như vậy ba lần (mặc dù bậc Ðạo sư đã ngăn cản), rồi đứng dậy ra đi. Ngay khi đang đi trên đường, khắp thân thể ông mọc lên các mụt nhọt bằng hạt cải, sau lớn dần bằng hạt cây vilva chín muồi, vỡ ra, máu chảy khắp người. Ông rên rỉ ngã xuống bên cổng ở tinh xá Kỳ Viên, đau đớn điên cuồng. Bỗng có tiếng kêu lớn vang dội đến cõi trời Phạm thiên:

– Kokàlika đã phỉ báng hai vị Ðại đệ tử.

Rồi một vị Phạm thiên tên là Tudu, biết được chuyện này, xuất hiện với ý định hòa giải các Tỷ-kheo, liền bảo trong lúc đứng vững trên không:

– Này Kokàlika, ông đã làm một việc ác, vậy hãy đi giảng hòa với hai vị Ðại đệ tử.

Người ấy hỏi:

– Hiền hữu là ai thế?

– Ta là Phạm thiên Tudu. Vị thần kia đáp.

Người này lại bảo:

– Ngài đã chẳng được đức Thế Tôn tuyên bố ngài là một vị Bất Lai đó sao? Chữ ấy có nghĩa là một vị không trở lại đời này nữa. Ngài sẽ trở thành một con quỷ trên đống phân đấy.

Ông lại mạ lỵ vị Ðại Phạm thiên như vậy. Vì không thể thuyết phục người ấy theo lời khuyên của mình, vị Phạm thiên đáp:

– Ông sẽ bị hành hạ theo khẩu nghiệp của ông.

Sau đó, vị Thiên thần ấy trở về cõi an lạc của ngài. Còn Kokàlika chết đi liền tái sinh vào địa ngục Hoa sen. Việc người này được tái sinh tại đó được vị Ðại Phạm thiên chủ đầy oai thần Sahampati (Ta-bà chủ) trình đức Như Lai và bậc Ðạo sư kể lại cho các Tỷ-kheo. Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bàn luận về ác tâm của các người ấy:

– Này Hiền hữu, Kokàlika đã phỉ báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên và vì lời nói phát xuất từ chính miệng kia mà vị ấy đã đọa xuống Ðịa ngục Liên Hoa.

Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi đây?

Tăng chúng trình Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính khẩu nghiệp và bởi chính do miệng mình nên phải đày đọa khổ sở, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vị Tế sư của vua có màu da ngăm ngăm đen và mất hết cả hàm răng. Bà vợ của ông thông gian với một vị Bà-la-môn khác. Vị sau này cũng giống như vị trước. Nhiều lần vị Tế sư cố tìm cách ngăn cản vợ mình, nhưng không thể được. Rồi ông suy nghĩ: “Ðấy là kẻ thù của ta, ta không thể chính tay giết được, mà ta phải lập mưu kế giết nó đi”.

Thế là ông đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, kinh thành của Ðại vương là kinh thành trọng yếu nhất trong toàn cõi Diêm-phù-đề, Ðại vương là vị vua cao trọng bậc nhất, nhưng dù Ðại vương là vị vua thủ lãnh, hoàng môn phía nam của Ðại vương lại có điềm xấu, nó được xây theo kiểu xui xẻo.

– Ðược rồi, này quốc sư, ta phải làm gì?

– Xin Ðại vương đem may mắn cho nó và chỉnh trang nó.

– Vậy phải làm gì đây?

– Ta phải hạ cổng cũ xuống, lấy loại gỗ mới có dấu hiệu may mắn, lập tế đàn cúng các vị thần canh giữ hoàng thành rồi xây hoàng môn theo cách kết hợp tốt lành của các vì sao.

– Thế khanh hãy làm như vậy.

Vào thời ấy, Bồ-tát là một trang nam tử tên là Takkàriya đang học tập với Tế sư này.

Bấy giờ, vị Tế sư ra lệnh hạ cổng thành cũ xuống làm cổng mới cho sẵn sàng, khi đã xong xuôi, ông vào tâu trình vua:

– Tâu Chúa thượng, cổng thành đã xong, ngày mai lại có sự kết hợp tốt lành của các tinh tú; vậy trước khi ngày mai trôi qua hết, ta phải làm tế lễ và dựng cổng thành mới.

– Ðược rồi, này quốc sư, phải cần tế lễ như thế nào?

– Tâu Chúa thượng, đại hoàng môn đang được các đại thần linh chiếm cứ và bảo vệ. Vậy phải giết một Bà-la-môn có da ngăm ngăm đen và không có răng, thuần chủng cả hai bên cha mẹ, lấy máu thịt vị đó đem ra tế lễ, thân thể đặt phía dưới, và cổng dựng lên trên đó. Vị ấy sẽ đem lại vận may cho Chúa thượng cùng cả kinh thành này.

– Ðược lắm, này quốc sư, hãy tìm một Bà-la-môn như vậy mà giết đi rồi dựng hoàng môn lên trênđó.

Vị Tế sư rất hoan hỷ. Ông bảo:

– Ngày mai ta sẽ trừ khử được kẻ thù của ta rồi!

Lòng đầy hăng hái, ông trở về nhà, nhưng không thể giữ yên cái lưỡi được, liền nói ngay với vợ:

– Này mụ già xấu xí kia, rồi mụ sẽ còn ai để hú hí nữa chứ? Ngày mai ta sẽ giết tình lang của mụ và đem tế lễ đấy!

– Tại sao ông muốn giết người vô tội?

– Ðức vua ra lệnh cho ta giết một người Bà-la-môn ngăm ngăm đen và dựng cổng thành lên người đó. Còn tình lang của mụ cũng ngăm ngăm đen nên ta định giết nó để tế lễ.

Bà vợ liền gởi cho tình quân một lá thư nhắn nhủ: “Chúng bảo đức vua muốn giết một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen để tế lễ; vậy nếu chàng muốn cứu lấy mạng mình xin hãy lo đào tẩu kịp thời, đem theo cả những người nào giống như chàng nữa”.

Người kia làm theo như vậy, tin đó lan khắp kinh thành, và mọi người nào có màu da đen đều tẩu thoát cả.

Vị tế sư không hề biết gì về việc kẻ thù đã chạy trốn, sáng hôm sau vào yết kiến vua thật sớm và tâu:

– Tâu Chúa thượng, trong chỗ kia có một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen, xin cho bắt nó lại.

Vua bảo vài người đến tìm kẻ đó, nhưng họ chẳng thấy ai cả, liền trở về thông báo cho vua rằng kẻ ấy đã trốn thoát rồi, vua phán:

– Vậy hãy tìm nơi khác.

Họ lục soát khắp kinh thành nhưng chẳng tìm được ai. Vua phán:

– Phải kiếm thật nhanh lên.

Họ đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngoại trừ vị quốc sư, chẳng còn ai khác nữa.

Vua phán:

– Tế sư không thể đem ra giết được.

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã phán bảo điều gì vậy? Theo lời tế sư này, nếu cổng thành không được dựng hôm nay, thì kinh thành sẽ gặp nguy hiểm. Khi vị tế sư giải thích việc này, ông ta để ngày này trôi qua, thì giờ tốt không trở lại nữa cho đến cuối năm. Kinh thành này không có cổng suốt một năm ròng là cơ hội ngàn vàng để cho kẻ thù chúng ta. Chúng ta phải giết một người nào đó, và làm tế lễ nhờ sự trợ lực của một vị Bà-la-môn hiền trí rồi dựng cổng thành.

– Nhưng có vị Bà-la-môn nào đủ tài trí như sư phụ ta chăng?

– Tâu Chúa thượng, có đồ đệ của vị ấy, một nam tử tên là Takkàriya, xin hãy phong vị ấy làm tế sư và cử hành lễ cát tường này.

Vua liền triệu vị nam tử ấy vào, ban cho chàng vinh hiển và phong chàng làm tế sư, rồi ra lệnh làm mọi sự như đã nói.

Vị nam tử ấy đi đến hoàng môn với một đám đông theo sau. Nhân danh hoàng đế, họ trói vị tế sư cũ và đem đến. Bậc Ðại sĩ bảo đào một cái hố, tại nơi hoàng môn sắp được dựng lên, che một cái lều trên đó, cùng với sư phụ bước vào lều. Vị tế sư ấy nhìn cái hố, thấy không lối nào thoát, liền bảo bậc Ðại sĩ:

– Mục đích của ta đã thành đạt, ta thật là một kẻ ngu si, ta đã không biết giữ mồm giữ miệng cho yên, mà lại hấp tấp nói với mụ đàn bà độc ác kia. Ta đã tự sát bằng chính binh khí của ta.

Rồi ông ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương
    Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
    Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
    Lời nói phi thời phải tiếc thương!

Sau đó vị nam tử đáp lời ông và ngâm vần kệ này:

  1. Người nói phi thời phải diệt vong
    Như vầy, than khóc với đau buồn,
    Xin thầy tự trách mình nay phải
    Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn.

Cùng với lời ấy, ngài nói thêm:

– Thưa sư phụ, không phải chỉ mình sư phụ, mà nhiều người khác nữa, đã phải chịu khổ đau vì không biết phải giữ lời nói cho kỹ.

Nói vậy xong, ngài kể một chuyện quá khứ để minh chứng điều đó.

*

Chuyện kỹ nữ Kàli

Chuyện kể rằng ngày xưa tại Ba-la-nại, có một cô kỹ nữ sang trọng tên là Kàli, nàng có một người anh tên là Tundila. Trong một ngày, Kàli có thể kiếm cả ngàn đồng tiền. Bấy giờ Tundila là một gã trác táng, nghiện rượu, mê cờ bạc, hễ nàng cho gã tiền và gã có được bao nhiêu tiền đều phung phí hết. Nàng cố sức ngăn cản gã nhưng không thể được.

Một hôm gã thua bài súc sắc, phải mất ngay cả áo quần đang mặc trong mình. Gã vừa mang quanh mình một tấm khố rách vừa đi đến nhà em gái. Nhưng nàng đã ra lệnh cho các tỳ nữ rằng nếu Tundila có đến thì bọn họ không được cho gã cái gì cả mà phải lôi cổ gã quẳng ra ngoài. Vì thế, họ đã làm đúng như vậy. Gã liền đứng lại bên thềm và kêu than.

Bấy giờ, có con trai một phú thương nọ, thường vẫn cho Kàli cả ngàn đồng tiền, hôm ấy tình cờ gặp gã, liền hỏi:

– Tại sao lại khóc lóc vậy, Tundila?

Gã đáp:

– Thưa công tử, tôi đã thua bài súc sắc, đến cầu xin em tôi, bọn nữ tỳ lại nắm lấy cổ tôi lôi ra ngoài.

– Ðược rồi, cứ ở lại đây, ta sẽ nói chuyện với em gái cậu.

Chàng vào nhà bảo:

– Anh của nàng đang đứng đợi kia, chỉ mặc khố rách che thân, tại sao nàng không cho anh áo quần mặc?

Nàng đáp:

– Ðúng vậy, thiếp chẳng muốn cho gì cả, nếu chàng thích anh ta thì chàng cho đi.

Bấy giờ, trong ngôi nhà mang tai tiếng xấu xa kia, có tục lệ như vầy: “Cứ mỗi một ngàn đồng tiền nhận được, thì năm trăm đồng được dùng cho bọn nữ nhân, năm trăm đồng để mua sắm xiêm y, dầu thơm và vòng hoa. Bọn khách làng chơi đến đây nhận áo quần mặc vào, ở lại đêm tại đó, rồi ngày hôm sau cởi áo quần ấy ra trả, mặc quần áo của mình và ra đi. Trong dịp ấy, con trai vị phú thương mặc áo quần mà bọn họ đưa cho chàng, và đem áo quần của chàng cho Tundila. Gã ấy mặc áo quần vào, vừa la hét vừa chạy đến tửu quán.

Nhưng nàng Kàli ra lệnh cho bọn nữ tỳ rằng khi chàng trai ra về ngày hôm sau, họ phải lấy lại áo quần. Vì vậy, khi chàng bước ra, bọn họ chạy đến từ khắp nơi như bọn cướp, lột hết áo quần trên thân của chàng đến trần như nhộng, rồi bảo:

– Này công tử, ra về đi!

Họ tống khứ chàng ta như vậy. Chàng ra đi trần truồng, bị mọi người chế diễu. Chàng ta hổ thẹn than khóc:

– Ðây chính là việc ta gây ra vì ta không giữ được mồm miệng!

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðại sĩ ngâm kệ thứ ba:

  1. Tại sao lại hỏi chuyện Kà-li
    Cư xử thế nào với Tuấn-di?
    Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
    Áo quần ta đã biến bay đi,
    Ta đành trần trụi, như tai vạ
    Xảy với thầy, sao thật quái kỳ!

*

Chuyện chim đuôi chĩa

Một người khác lại kể chuyện này: Do sự bất cẩn của người chăn dê, hai con dê đực đánh nhau trên đồng cỏ ở Ba-la-nại. Trong lúc đang hăng máu, có một chim đuôi chĩa nghĩ thầm: “Chúng sẽ vỡ đầu ra mà chết mất, ta phải ngăn cản chúng mới được!” Thế là nó cố gắng ngăn cản bằng cách kêu la:

– Chú ơi, đừng đánh nhau nữa!

Nó chẳng nghe chúng nói gì đáp lại. Ngay giữa trận đánh, nó nhảy lên lưng trước, rồi sau nhảy lên đầu, van xin chúng dừng lại nhưng chẳng được gì. Cuối cùng, nó kêu to:

– Thế thì cứ đánh nhau đi, nhưng giết tôi trước đã!

Và nó đứng chen vào giữa hai cái đầu dê. Chúng vẫn tiếp tục húc nhau văng ra xa. Con chim bị nghiền nát như thể bởi cái chày, và chịu hủy hoại do chính hành động của nó.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chim đuôi chĩa vội đến bên sườn
    Hai chú dê rừng lúc đả thương,
    Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
    Hai đầu dê nghiến nát như tương
    Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
    Số phận chim kỳ quái lạ thường!

*

Chuyện cây cọ dừa

Một chuyện khác nữa: Gần một cây cọ dừa kia, bọn chăn bò cất giấu nhiều của cải. Dân chúng Ba-la-nại thấy cây đó liền cho một người leo lên cây hái quả. Trong lúc gã đang ném quả xuống thì một con rắn hổ đen bò ra từ một tổ kiến, bắt đầu leo lên cây, bọn người đứng phía dưới cố xua đuổi nó bằng gậy, đá..v.v. nhưng không được, kêu la lớn gọi người kia:

– Con rắn đang bò lên cây!

Gã ấy kinh hoảng hét lớn. Những người đứng dưới lấy tấm vải thô cầm bốn góc, bảo gã kia ngã vào tấm vải. Gã gieo mình xuống, rơi vào chính lòng tấm vải giữa bốn người kia nhanh như gió, khiến bọn người ấy không giữ gã được phải đập đầu vào nhau mà chết.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Bốn người muốn cứu mạng anh chàng,
    Bốn góc cầm chung một tấm màn,
    Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
    Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng!

*

Chuyện con Dê cái

Ðám người khác lại kể chuyện này: Một bọn ăn trộm dê sống ở Ba-la-nại, một đêm kia bắt được một con dê cái, định làm một bữa chè chén trong rừng. Ðể dê khỏi kêu, chúng bịt mõm mó và cột nó vào một bụi tre. Hôm sau, khi chúng đến giết con dê, chúng quên mất con dao phay.

Chúng bảo nhau:

– Này, ta hãy giết dê rồi nấu. Hãy đem con dao phay ra đây!

Nhưng chẳng ai có dao.

– Nếu không có dao thì ta không thể nào ăn thịt nó được, dù ta có giết chết nó. Thôi thả nó ra. Việc này cũng do phước phần nào đó của con dê đây!

Vì thế, chúng thả dê ra. Bấy giờ, tình cờ có người thợ tre đến trước đó lấy một bó tre, gã để quên một con dao của người đan rổ, giấu dưới đám lá, định khi trở về sẽ lấy dùng. Nhưng con dê tưởng mình đã thoát thân, nên bắt đầu vui chơi nhảy nhót dưới bụi tre, lấy chân sau đánh đá làm sao mà con dao rớt ra! Ðám ăn trộm nghe tiếng dao rớt, chạy đến nơi thấy việc như vậy, vô cùng mừng rỡ, thế rồi chúng giết dê ăn thịt.

Như vậy để giải thích việc con dê đã tự giết mình bằng chính hành động của nó như thế nào, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Dê cái cột trong bụi trúc dày
    Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
    Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
    Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy!

Sau khi kể chuyện này, ngài giải thích:

– Song còn những kẻ dè dặt trong lời nói, biết giữ gìn ngôn ngữ, thường thoát khỏi số phận chết chóc đau thương.

Rồi ngài kể một chuyện thần tiên của loài Kinnara (Khẩn-na-la: các ca thần của Sakka Thiên chủ).

*

Chuyện Ðôi Ca thần

Chuyện kể rằng, một thợ săn sống ở Ba-la-nại, một bữa nọ vào vùng Tuyết Sơn bằng cách nào đó đã bắt được một cặp tiên núi, gồm một tiên nữ và lang quân của nàng, rồi đem về dâng vua. Vua chưa bao giờ thấy loài hữu tình này cả. Vua hỏi:

– Này thợ săn, chúng là loài gì?

– Tâu Chúa thượng, chúng có thể hát êm tai và nhảy múa rất đẹp mắt, không có con người nào có thể ca múa hay bằng chúng được.

Vua ban thưởng gã thợ săn ấy rất hậu hỉ, rồi ra lệnh cho đôi tiên ca múa. Song hai vị nghĩ: “Nếu chúng ta không diễn tả đầy đủ ý nghĩa bài ca, thì bài ca sẽ thất bại, hội chúng sẽ mạ lỵ và làm thương tổn chúng ta; và hơn nữa, người nào nói nhiều thường hay nói dối”. Vì thế, sợ phải dối trá này kia, hai vị không múa hát dù vua nài nỉ thế nào cũng mặc. Cuối cùng, vua nổi cơn thịnh nộ và bảo: – Hãy giết bọn này đem nấu và dâng cho ta dùng.

Vua ban lệnh này qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bọn này đây chẳng phải là tiên,
    Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
    Là thú do người kia dẫn đến
    Vì mong kiếm một túi đầy tiền
    Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
    Một đứa, rồi mai một đứa liền!

Lúc ấy tiên nữ nghĩ thầm: “Bây giờ vua nổi giận, chắc chắn ngài sẽ giết chúng ta. Vậy đây là lúc nên nói”, và lập tức nàng ngâm vần kệ:

  1. Mười vạn khúc ca biểu diễn lầm
    Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
    Hát tồi có tội, nên tiên chúng
    Chẳng dám làm, không bởi hận tâm.

Vua rất hoan hỷ vì tiên nữ, lập tức đáp vần kệ:

  1. Hãy để nàng đi, bởi nói rồi,
    Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
    Song bây hãy bắt chàng kia giết,
    Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai!

Trong lúc vị tiên kia suy nghĩ: “Nếu ta giữ yên mồm, chắc chắn vua sẽ giết ta, vậy đây là lúc phải nói”. Và chàng ngâm vần kệ nữa:

  1. Trâu bò trông cậy đám mây trời,
    Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
    Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
    Hiền thê này lại dựa vào tôi,
    Xin ngài đoán số phần chàng nọ
    Trước lúc chàng quay lại núi đồi!

Khi chàng đã nói lời này xong, chàng ngâm hai vần kệ nữa, để nói rõ cho vua rằng hai vị yên lặng không phải vì không muốn tuân lệnh vua, song vì hai vị nghĩ rằng nói là sai lầm:

  1. Khác người, khác cách, tấu Minh quân,
    Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
    Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
    Kẻ kia lại thấy đó sai lầm.
  2. Có người cho tất cả điên cuồng
    Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
    Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
    Ý người chẳng có luật thông thường.

Vua phán:

– Chàng ta nói đúng sự thật, đó quả là một vị tiên khôn ngoan.

Vì thế vua rất hoan hỷ, ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðôi vợ chồng tiên giữ lặng thinh,
    Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
    Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,

Vẫn biết lời hay tạo phước lành.

Sau đó, vua đặt đôi tiên núi vào chiếc lồng vàng, truyền đưa người thợ săn vào, bảo gã thả hai vị ra ở nơi trước kia gã đã bắt.

Bậc Ðại sĩ nói thêm:

– Này sư phụ, đôi tiên núi biết phòng hộ lời nói như trên, và nhờ nói đúng thời nên được thả tự do vì nói năng khéo léo; còn thầy do nói năng sai lạc mà phải chịu đại họa.

Rồi sau khi so sánh cho vị tế sư thấy rõ như thế, ngài an ủi ông:

– Xin sư phụ đừng sợ, con sẽ cứu mạng sư phụ.

– Còn có cách nào chăng? – Vị kia hỏi: – Làm thế nào con cứu ta được nữa?

Ngài đáp:

– Vì chưa đến đúng lúc các hành tinh gặp gỡ.

Ngài để cho ngày ấy trôi qua, vào canh giữa đêm (canh ba), liền đem đến đó một con dê đã chết và nói:

– Xin thầy muốn đi đâu thì đi mà sinh sống.

Rồi ngài thả cho ông đi ngay, chẳng hề có ai hay biết gì cả. Còn ngài làm tế lễ với thịt dê ấy, xong dựng cổng thành trên đó.

*

Khi bậc Ðại sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính lời nói của mình, mà ngày xưa cũng thế nữa.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Kokàlika là người tế sư da ngăm ngăm đen, còn Ta là hiền giả Takkàriya.

-ooOoo-

  1. Chuyện lộc vương (Tiền thân Ruru)

Thần tâu Hoàng thượng biết tin nai..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Có người bảo vị ấy:

– Bậc Ðạo sư đem lại thật nhiều lợi ích cho hiền hữu, này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa. Hiền hữu đã thọ Ðại giới từ đức Như Lai, Hiền hữu đã học với ngài Tam Tạng Kinh điển, Hiền hữu đã nhận được nhiều lợi dưỡng và danh vọng.

Khi những điều như vậy được nói, người ta thường nghe thuật lại một cách đáng tin cậy là vị ấy sẽ trả lời:

– Không đâu hiền hữu, bậc Ðạo sư chẳng làm gì lợi lạc cho ta dù chỉ bằng một cọng cỏ. Ta đã thọ Ðại giới của chính ta, ta tự học Tam Tạng kinh điển, ta nhận được lợi dưỡng và danh vọng do từ bản thân ta chứ không nhờ ai cả.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về việc này:

– Ðề-bà-đạt-đa thật là vong ân bội nghĩa, này Hiền hữu, và lại quên cả thân tình.

Bậc Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi đó. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay không phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa, mà trước kia kẻ ấy đã vô ơn. Thuở xưa, nó đã được Ta cứu mạng, nhưng nó không biết công đức to lớn của Ta.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một vị đại phú thương có tài sản tám trăm triệu, chỉ sinh được một con trai, đặt tên là Mahà-dhanaka hay Ðại phú ông.

Nhưng ông không dạy cho con việc gì cả, ông bảo:

– Con trai ta sẽ thấy việc học làm mệt mỏi tấm thân mà thôi.

Ngoài việc múa ca, ăn uống, tiệc tùng cậu trai chẳng biết việc gì cả. Khi cậu khôn lớn, cha mẹ cậu cưới cho cậu một cô gái xứng đôi với cậu, rồi cả hai vị qua đời. Sau khi song thân mất đi, cậu bị đám người chơi bời, phóng đãng, rượu chè, cờ bạc vây quanh nên đã tiêu hết tài sản một cách hoang phí. Lúc đó cậu phải vay tiền rồi không trả lại nổi, bị chủ nợ thúc đòi. Cuối cùng cậu nghĩ: “Ðời ta còn nghĩa lý gì với ta nữa? Ta đang bị biến đổi thành một con người khác rồi, thà chết sướng hơn”. Sau đó cậu bảo đám chủ nợ.

– Hãy đem các giấy nợ đến đây, ta có cả một gia bảo chôn ở bờ sông Hằng, các ông sẽ được phần đó.

Họ cùng đi với cậu. Cậu làm như thể chỉ chỗ đây đó là nơi chôn gia sản (song lúc đó cậu có ý định nhảy xuống sông trầm mình) và cuối cùng cậu ta nhảy xuống sông Hằng. Trong lúc nước cuốn xoáy cậu đi ra, cậu kêu to lên đầy kinh hoảng.

Lúc bấy giờ, bậc Ðại sĩ sinh làm một con Nai chúa và sau khi rời đàn, hiện đang trú ẩn tại một khúc sông, chỉ riêng mình Nai trong khóm cây Sà-la chen lẫn đám xoài trổ hoa rất đẹp. Lớp da trên mình Nai có màu vàng óng ả láng mượt, bàn chân trước và bàn chân sau đỏ như thể nhuộm son, cái đuôi giống như cái đuôi bò rừng, cặp sừng như hình xoắn ốc bằng bạc, đôi mắt Nai tựa hồ đôi hạt minh châu lóng lánh, khi Nai quay mồm về hướng nào thì trông chẳng khác quả cầu bằng vải đỏ. Vào khoảng nửa đêm, Nai nghe tiếng kêu thê thảm ấy, liền nghĩ thầm: “Ta nghe tiếng người kêu. Trong lúc ta đang sống đây, nó chẳng phải chết! Ta sẽ cứu mạng nó”.

Vừa rời khỏi chỗ ẩn nấp trong bụi cây, ngài bước xuống bờ sông và gọi to bằng giọng nói an ủi:

– Này người kia, đừng sợ, ta sẽ cứu anh sống.

Rồi Nai rẽ dòng nước, mang cậu lên bờ đến tận nơi nai trú ẩn. Suốt hai ba ngày liền, Nai săn sóc và cho cậu ăn trái cây rừng. Sau đó, Nai bảo cậu:

– Này người kia, ta sẽ mang anh ra khỏi rừng và đặt anh trên đường cái đến Ba-la-nại, anh sẽ về bình an. Song ta yêu cầu anh đừng bị lòng tham tiền bạc lôi kéo mà báo cho vua, hay một người quyền thế nào đó biết là trong chỗ kia một con Nai vàng óng cần phải bắt đấy.

Người kia hứa giữ lời và bậc Ðại sĩ, sau khi được hứa rồi, liền để cậu trên lưng và đưa ra đường cái hướng về thành Ba-la-nại rồi trở về đường cũ.

Vào ngày cậu ta đi về thành Ba-la-nại, bà hoàng hậu mệnh danh Khemà (Thái Hòa) nằm mộng về sáng thấy một con Nai màu hoàng kim thuyết pháp cho bà, nên bà suy nghĩ: “Nếu không có một Nai thần như thế này thì chắc hẳn ta đã không nằm mộng thấy ngài. Hẳn nhiên phải có một vị như vậy, nên ta muốn thông báo việc này với đức vua”.

Sau đó, bà đến yết kiến vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, thần thiếp đang mong mỏi được nghe bài thuyết Pháp của một con Nai hoàng kim. Nếu làm được việc ấy, thiếp mới sống, nếu không, thiếp chẳng thiết sống nữa.

Vua an ủi bà và bảo:

– Nếu có một con vật như thế sống trong cõi trần gian này thì ái khanh sẽ toại nguyện.

Rồi vua triệu các Bà-la-môn vào và hỏi:

– Có loài vật nào như loài Nai hoàng kim chăng?

– Tâu Chúa thượng, có.

Vua liền đặt một túi tiền mười ngàn đồng đựng bên trong một cái hộp bằng vàng lên lưng một con voi đã được trang điểm thật lộng lẫy: “Bất kỳ ai được tin về một con Nai hoàng kim thì vua sẽ chấp thuận trao cho người đó túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng này cùng chiếc hộp bằng vàng và cả con voi ấy nữa hoặc một con khác tốt đẹp hơn”. Vua ra lệnh khắc một vần kệ trên một phiến vàng, giao cho một viên quan trong triều và bảo vị ấy nhân danh vua hát vần kệ ấy lên giữa dân chúng toàn thành. Sau đó, vua ngâm vần kệ đầu trong chuyện Tiền thân này:

  1. Ai mang tin báo trẫm về Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài?
    Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?

Viên triều thần mang phiến vàng ấy đi, công bố khắp kinh thành. Vừa lúc ấy, con trai của vị phú thương đi vào Ba-la-nại, khi nghe lời công bố ấy, cậu đến gần viên quan và nói:

– Tiểu sinh có thể đưa tin về một con nai như vậy, các ngài hãy dẫn tiểu sinh vào yết kiến đức vua.

Viên quan liền xuống voi, dẫn cậu vào yết kiến vua và tâu:

– Tâu Chúa thượng, người này có thể đưa tin tức trình Chúa thượng về con Nai kia.

Vua phán:

– Có đúng như vậy chăng, người kia?

Cậu đáp:

– Tâu Ðại vương, quả đúng như vậy, xin Ðại vương cho tiểu thần vinh dự đó.

Và cậu ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thần tâu Hoàng thượng biết tin Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài,
    Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!

Vua rất hoan hỷ khi nghe những lời này của tên phản bạn:

– Này mau lên! – Vua phán: – Phải tìm con Nai này ở đâu thế?

Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, ở chỗ như vầy.

Và gã chỉ rõ đường đi. Cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vua ra lệnh tên phản bội dẫn ngài đến nơi ấy, rồi gã bảo:

– Xin ra lệnh cho đoàn quân sĩ dừng lại.

Khi quân sĩ đã được lệnh dừng, gã chỉ tay nói tiếp:

– Nơi có con Nai vàng ánh ở chốn đằng xa xa kia kìa.

Và gã ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Bụi cây xoài ở phía đàng xa,
    Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
    Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
    Nai này có thể được tìm ra.

Khi vua nghe những lời này, ngài bảo các cận thần:

– Ðừng để Nai chạy thoát, mà phải lập tức bủa vây quanh bụi cây này, còn binh sĩ cầm binh khí trong tay.

Họ làm theo lệnh ấy và đồng thanh la lớn. Vua cùng một số người khác đứng riêng ra, song gã đó cũng không đứng xa mấy. Bậc Ðại sĩ nghe tiếng kêu ấy, nghĩ thầm: “Ðây là tiếng thét của mộtđoàn người đông đảo, vậy ta phải đề phòng họ mới được”.

Ngài đứng lên và khi nhìn cả một đoàn người, ngài nhận thấy nơi vua đứng. “Nơi nào vua đứng”, ngài nghĩ thầm, “ta sẽ được bình an, vậy ta phải đến đó”. Rồi ngài chạy về phía vua. Khi vua thấy ngài chạy đến, liền bảo:

– Một con vật mạnh như voi có thể quật mọi thứ trên đường đi của nó. Ta muốn giương cung lên dọa con nai này. Nếu nó chạy, ta sẽ bắn cho nó yếu đi rồi ta mới bắt nó được.

Sau đó vua giương cung lên ngay trước mặt Bồ-tát.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ:

  1. Nai tiến lên: cung đã được giương,
    Mũi tên nằm ở sợi dây trương
    Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
    Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương:
  2. Ðại vương, Chúa tể của vương xa,
    Xin đứng yên và chớ bắn ta,
    Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
    Nơi này, Nai sẽ được tìm ra?

Vua say mê giọng ngọt như mật của ngài, liền thả cung đứng yên chiêm ngưỡng ngài. Lúc ấy bậc Ðại sĩ bước lên chỗ vua, vừa nói chuyện vui vẻ với vua và đứng một bên. Cả đám tùy tùng cũng hạ binh khí xuống, bước lên vây quanh vua. Vào lúc ấy, bậc Ðại sĩ hỏi vua với giọng êm ái như tiếng chuông vàng rung nhè nhẹ:

– Ai đem tin đến cho ngài rằng nơi đây sẽ tìm được Nai vàng?

Vừa lúc ấy, con người gian ác kia bước lại gần và đứng nghe lỏm. Vua chỉ gã và nói:

– Ðó là người báo tin cho trẫm.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
    Con người đang đứng ở đằng xa,
    Mang tin, nó đã cho ta biết
    Rằng ở đây Nai được thấy mà.

Nghe vậy, bậc Ðại sĩ trách mắng người bạn phản bội kia, và ngâm vần kệ thứ bảy nói với vua:

– 7. Nhiều người ở cõi thế gian này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
“Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!”.

Khi vua nghe lời kệ này, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Muốn trách người có thể hỏi Nai?
    Là chim, là thú hoặc là ai?
    Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
    Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người!

Ðến đây, bậc Ðại sĩ đáp lại:

– Tâu Ðại vương, ta không trách một thú vật hay chim chóc nào cả, mà ta trách một người.

Ðể giải thích việc này, ngài ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ta cứu gã kia, đã một lần
    Khi gần như gã phải chìm dần
    Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
    Vì đó, nay đành phải khổ thân;
    Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
    Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.

Khi vua nghe vậy liền nổi giận lôi đình với gã kia. Vua phán:

– Sao? Ngươi không nhìn nhận công đức của ngài sau một việc cứu vớt đầy nhân từ như vậy ư? Ta muốn bắn chết gã kia ngay.

Vua liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này
    Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
    Ác nhân này đã đầy tâm phản
    Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!

Lúc ấy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Ta không muốn nó chết vì ta”, nên ngài ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Người ngu đáng thẹn, tấu Minh quân,
    Song việc giết người, bậc thiện nhân,
    Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
    Và ban cho gã thưởng toàn phần
    Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
    Phục vụ Quân vương những lúc cần.

Vua hoan hỷ khi nghe lời này nên ngâm vần kệ tiếp để tán thán ngài:

  1. Nai này quả thật có lòng nhân,
    Không trả hận sân với hận sân,
    Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
    Làm tròn lời hứa đã từng ban
    Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
    Xin chúc ngài luôn được vạn an!

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, người ta có thể miệng nói một đường mà làm một nẻo.

Và ngài ngâm hai vần kệ để giải thích điều đó:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
    Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình”.
    Tuy thế, tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận lại dần sinh.

Khi vua nghe lời này, ngài đáp:

– Này Lộc vương! xin đừng nghĩ rằng ta thuộc loại người như vậy. Vì ta quyết sẽ không chối từđặc ân mà ta đã ban cho ngài, dù ta có mất cả quốc độ vì chuyện đó. Hãy tin tưởng vào ta.

Rồi vua cho ngài chọn điều ước.

Bậc Ðại sĩ nhận đặc ân này và ước mong rằng tất cả các loài vật từ chính ngài trở đi đều được bình an thoát khỏi mọi tai họa. Vua thuận cho ngài điều ước ấy, rồi đem ngài về thành Ba-la-nại và sau khi trang hoàng cả kinh thành lộng lẫy, lại tô điểm luôn cả bậc Ðại sĩ nữa, vua mời ngài thuyết Pháp cho bà chánh hậu, sau đó là vua và triều đình nghe bằng thứ tiếng của loài người ngọt ngào như mật. Ngài khuyến giáo vua hành trì Thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân) và khích lệ hội chúng đông đảo ấy xong, liền trở về chốn núi rừng, nơi ngài sống chung với bầy nai.

Vua ra lệnh đánh trống khắp kinh thành cùng lời loan báo:

– Hoàng thượng bảo vệ mọi loài thú vật.

Từ đó về sau, không ai dám giơ tay giết hại thú vật hay chim muông cả.

Nhưng nhiều đàn nai phá hoại mùa màng của người và không ai đủ sức xua đuổi chúng đi. Một đám đông tụ tập trước sân chầu, kêu than với vua.

Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Dân thành thị theo với tiện dân,
    Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
    “Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
    Chúa thượng, việc này phải cản ngăn”.

Nghe vậy, vua ngâm đôi vần kệ:

  1. Dân chúng dù mong muốn hoặc không,
    Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
    Trẫm không thể hại đàn nai được,
    Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
  2. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
    Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
    Lời ước ta đà ban Lộc chúa
    Ta không hề chối bỏ đâu mà.

Dân chúng nghe lời vua phán bảo, thấy mình không thể nói gì được nữa, đành ra về. Lời vua phán lan ra khắp nơi, bậc Ðại sĩ nghe được tin ấy, liền tập hợp cả đàn nai lại, và ra lệnh cho chúng:

– Từ nay về sau, các con không được phá hoại mùa màng của loài người nữa.

Ngài đã gởi thông báo cho dân chúng hay rằng mỗi người phải dựng một tấm bảng hiệu lên vùngđất của mình.

Dân chúng làm theo, và nhờ dấu hiệu ấy, cho đến nay, loài nai không phá hoại mùa màng nữa.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-bạt-đạt-đa vong ân bội nghĩa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là con trai nhà phú thương, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền thân Sarabha-Miga)

Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên để giải thích đầy đủ một câu hỏi do Ngài nêu ra một cách tổng quát cho vị Tướng quân Chánh pháp (Sàriputta).

Vào thời ấy, bậc Ðạo sư nêu vắn tắt câu hỏi với Trưởng lão ấy. Ðây là câu chuyện đầy đủ chi tiết về nguồn gốc của một số chư Thiên. Khi Tôn giả Pindola-Bhàradvàja dùng thần thông để lấy được cái bình bát bằng gỗ Chiên-đàn trước sự hiện diện của vị Ðại phú thương ở thành Ràjagaha (Vương Xá), bậc Ðạo sư cấm các Tỷ-kheo sử dụng thần thông lực.

Lúc ấy, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội suy nghĩ: “Sa-môn Gotama đã cấm sử dụng thần thông lực. Nay chính vị ấy cũng sẽ không sử dụng thần thông lực nữa”. Ðám đệ tử của các vị ly khai Giáo hội lo lắng, nói với họ:

– Tại sao các Tôn giả không dùng thần thông lực lấy cái bát kia?

Họ đáp:

– Này Hiền hữu, việc này không khó gì đối với chúng ta. Song chúng ta nghĩ: Ai lại muốn thị hiện thần thông cao quý vi diệu của mình trước người thế tục chỉ vì cái bình bát bằng gỗ nhỏ mọn kia chứ? Do thế, chúng ta không lấy nó xuống. Các Sa-môn dòng họ Thích-ca đã lấy nó xuống và thị hiện thần thông chỉ vì tham lam ngu xuẩn mà thôi. Ðừng tưởng biến hóa thần thông là việc khó khăn gì với chúng ta đâu: giả sử ta đừng kể đến các đệ tử của Sa-môn Gotama, nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ biến hóa thần thông với chính Sa-môn Gotama nữa kia. Nếu Sa-môn Gotama thị hiện một phép thần thông, thì chúng ta sẽ thị hiện một phép khác kỳ diệu gấp hai lần.

Tăng chúng nghe chuyện này liền thưa với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội nói họ muốn thị hiện thần thông lực.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Cứ để họ làm đi, Ta cũng sẽ làm việc ấy.

Vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) nghe vậy, đi đến hỏi đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Ngài định thị hiện thần thông lực chăng?

– Thưa Ðại vương, phải.

– Bạch Thế Tôn, chẳng phải là có lệnh cấm về vấn đề này rồi sao?

– Thưa Ðại vương, lệnh ấy dành cho các đệ tử của ta, chớ không có lệnh nào có thể ngăn cản chư Phật cả. Cũng như hoa quả trong vườn ngự uyển là của cấm đối với kẻ khác chứ không hề áp dụng luật này đối với Ðại vương.

– Bạch Thế Tôn, vậy Ngài sẽ thị hiện phép thần thông ở nơi đâu?

– Tại Xá-vệ, dưới một cây xoài có “cục u”.

– Vậy trẫm sẽ làm gì lúc đó?

– Thưa Ðại vương, chẳng cần làm gì cả.

Ngày kế đó, sau khi điểm tâm xong, bậc Ðại sư đi khất thực.

– Bậc Ðạo sư đi đâu thế? Dân chúng hỏi.

Các Tỷ-kheo đáp lại:

– Ở cổng thành Xá-vệ, dưới một gốc cây xoài có cục u, Ngài sẽ thị hiện một phép Thần thông Song hành (Yamaka Patihariya: các tia sáng xanh và đỏ phát ra từ thân Ngài) để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội.

Ðám người ấy nói:

– Phép thần thông này sẽ là tuyệt tác, nên chúng ta muốn đi xem.

Sau khi rời nhà, dân chúng đi theo bậc Ðạo sư, và vài kẻ ly khai Giáo hội cũng đi theo Ngài cùng với đám đệ tử của họ.

Họ nói:

– Chúng ta sẽ thị hiện một phép thần thông ở nơi mà Sa-môn Gotama sắp thị hiện phép thần thông của mình.

Dần dần, bậc Ðạo sư đi đến Xá-vệ. Vua hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, có đúng là Ngài sắp thị hiện thần thông lực như chúng đồn chăng?

– Quả đúng vậy. Ngài đáp.

– Khi nào? Vua hỏi.

– Ngày thứ bảy kể từ đây, vào đúng rằm tháng sáu trăng tròn.

– Bạch Thế Tôn, thế trẫm có cần dựng lên một ngôi đình chăng?

– Thưa Ðại vương, cứ an tâm, ở ngay nơi mà Ta sắp thị hiện thần thông. Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ sẽ dựng lên một ngôi đình bằng châu ngọc có chu vi mười hai dặm.

– Bạch Thế Tôn, trẫm có cần loan báo việc này khắp kinh thành chăng?

– Ðại vương cứ loan báo.

Vua liền đặt người thông tin Chánh pháp này trên một con voi được trang hoàng thật lộng lẫy, đi công bố như sau:

– Hãy nghe tin này! Bậc Ðạo sư sắp thị hiện bằng thần thông để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội, trước cổng thành Xá-vệ, dưới gốc cây xoài-có-cục-u trong bảy ngày nữa kể từ ngày hôm nay!

Cứ mỗi ngày họ lại báo tin này. Khi đám người ly khai nghe tin rằng phép lạ sẽ được thị hiện dưới một gốc cây xoài-có-cục-u, họ liền ra lệnh chặt hết mọi cây xoài gần thành Xá-vệ, rồi đền tiền bạc cho các chủ vườn xoài.

Vào đêm trăng tròn, người thông tin Chánh pháp ấy công bố:

– Hôm nay vào buổi sáng, phép thần kỳ sẽ xuất hiện.

Nhờ oai lực của chư Thiên, người người khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), dường như đều ra đứng ở cửa và nghe tin loan báo ấy. Bất cứ người nào trong lòng có ý muốn đi xem, đều thấy mình đến tại Xá-vệ ấy: dân chúng chiếm khoảng mười hai dặm.

Từ sáng sớm, bậc Ðạo sư đi khất thực. Viên quan giữ vườn ngự uyển, tên Ganda hay “Cục U”, sắp đem đi dâng vua một trái xoài chín trông thật đẹp, lớn bằng cái giạ đựng lúa, vừa độ chín muồi, thì ông thấy bậc Ðạo sư tại cổng thành, liền bảo:

– Trái xoài này thật xứng đáng với bậc Ðạo sư.

Rồi ông dâng xoài lên Ngài. Bậc Ðạo sư cầm lấy ngồi xuống một bên cổng, dùng trái xoài. Khi đã thọ thực xong, Ngài bảo:

– Này Ànanda, đưa cho người giữ vườn hột xoài này để trồng ngay chỗ này, nó sẽ thành cây xoài có cục u.

Tôn giả tuân lệnh. Người giữ vườn đào một lỗ dưới đất, trồng hột xoài ấy. Trong chốc lát, hạt xoài nứt ra, rễ đâm ra và nhú lên một mầm đỏ cao bằng cái chày, ngay khi đám đông đang trố mắt nhìn, nó lớn dần thành một cây xoài cao cả trăm cubit (1 cubit = 45cm) với thân cây cao năm mươi cubit, các cành lá cũng cao năm mươi cubit, cùng lúc hoa nở rộ, trái chín dần, cây vẫnđứng choáng rợp cả bầu trời có đàn ong vây quanh cành sai nặng trĩu quả vàng óng. Khi có làn gió thổi, trái ngọt rơi xuống, các Tỷ-kheo đến lượm lấy xoài, ăn xong ra về. Vào buổi chiều, Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) suy xét, nhận thấy mình có bổn phận dựng lên một ngôi đình gồm bảy báu vật, chu vi rộng mười hai dặm che kín mọi nơi bằng hoa sen xanh. Như vậy, chư Thiên của mười ngàn thế giới tụ tập lại đây.

Sau khi đã thị hiện phép thần thông vô cùng kỳ diệu trước các đệ tử của Ngài để đánh bại đám người ly khai Giáo hội, bậc Ðạo sư làm phát khởi lòng tin trong các hội chúng xong, Ngài đứng lên, ngự trên bảo tọa dành cho đức Phật và thuyết Pháp. Hàng trăm triệu chúng sinh uống được nguồn nước trường sinh; sau đó Ngài nhận định để biết rõ chư Phật quá khứ đi về đâu sau khi đã thực hiện một phép thần thông, và nhận thấy chính là về cõi trời Ba mươi ba, Ngài liền rời khỏi bảo tọa, chân phải Ngài đặt lên đỉnh Yugandhara, chân trái Ngài bước qua đỉnh Sineru (Tu-di), Ngài bắt đầu an cư vào mùa mưa dưới cây Ðại San hô, an tọa trên chiếc ngai hoàng thạch, và suốt thời gian ba tháng, Ngài thuyết Thắng pháp (Abhidhamma) siêu phàm cho chư Thiên.

Dân chúng không biết bậc Ðạo sư đi đâu, họ nhìn nhau bảo:

– Thôi ta về nhà và an trú tại nơi đó, suốt mùa mưa.

Khi mùa an cư trai giới gần chấm dứt, ngày đại lễ Tự Tứ cận kề, Ðại Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) đi thông báo với đức Thế Tôn.

Ngài hỏi:

– Sàriputta (Xá-lợi-phất) nay ở đâu?

– Bạch Thế Tôn, sau khi phép thần thông làm cho Tôn giả hoan hỷ, vị ấy đã ở lại cùng năm trăm vị Tỷ-kheo trong kinh thành Samkassa, và vẫn còn an trú tại đó.

– Này Moggallàna, vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, ta sẽ xuống hạ giới bằng cổng thành Samkassa. Vậy kẻ nào muốn chiêm ngưỡng Như Lai hãy tụ tập tại thành Samkassa.

Trưởng lão này đồng ý đi báo cho dân chúng hay: Tôn giả mang toàn thể hội chúng từ Xá-vệ đến Samkassa cách xa nhau cả ba mươi dặm chỉ trong chớp mắt.

Khi mùa an cư trai giới qua rồi, đại lễ Tự tứ đã được cử hành xong, bậc Ðạo sư bảo Sakka Thiên chủ rằng Ngài sắp trở về cõi nhân thế. Sau đó, Thiên chủ cho triệu Thần xây dựng Vissakamma vào và bảo:

– Hãy làm một cầu thang để đấng Thập Lực bước xuống cõi trần.

Vị này đặt cầu thang trên đỉnh Sineru, chân nằm trên cổng thành Samkassa; ở giữa, vị ấy làm ba bậc thang liền nhau, một bậc bằng ngọc, một bậc bằng bạc, và một bậc bằng vàng, còn lan can và mái làm bằng bảy báu vật.

Sau khi bậc Ðạo sư thị hiện thần thông để cứu độ cõi thế gian, Ngài bước xuống bậc thang chính giữa làm bằng ngọc. Thiên chủ Sakka cầm chiếc bình bát và chiếc y, Suỳama cầm cái quạt bằng đuôi trâu rừng (Yak), Phạm thiên chủ mang chiếc lọng và chư Thiên trong mười ngàn thế giớiđồng chiêm bái Ngài với các vòng hoa trời và các hương liệu.

Khi bậc Ðạo sư đã đứng ở chân cầu thang, vị đệ nhất trưởng lão Sàriputta đảnh lễ Ngài, sau đó là toàn thể hội chúng. Ở giữa hội chúng này, bậc Ðạo sư suy nghĩ: “Moggallàna đã chứng tỏ đầy đủ thần thông lực, Upàli là người tinh thông Giới luật của bậc Thánh, song đặc tính đại trí tuệ của Sàriputta lại chưa được dịp tỏ bày. Trừ một mình ta, chẳng ai đạt trí tuệ đầy đủ trọn vẹn như vậy, nên ta muốn tỏ bày năng lực trí tuệ của vị này cho hội chúng biết rõ”.

Trước tiên Ngài đặt câu hỏi thông thường cho đám người phàm phu không biết gì cả. Cùng cách ấy, Ngài lần lượt đặt câu hỏi vừa tầm hiểu biết của những vị Nhất Lai, Bất Lai và các vị A-la-hán, các Thánh đệ tử, trong từng trường hợp; những vị nào dưới cấp bậc ấy lần lượt không trả lời được, chỉ những vị ở trên cấp bậc ấy mới có thể trả lời. Sau đó, Ngài đặt câu hỏi trong khả năng hiểu biết của Tôn giả Sàriputta thì chỉ Trưởng lão này trả lời được, còn các vị khác không thể. Dân chúng hỏi nhau:

– Vị Trưởng lão trả lời bậc Ðạo sư là ai thế?

Họ được bảo đó là vị Tướng quân Chánh pháp tên gọi Sàriputta.

– Ôi! Trí tuệ của ngài thật cao cả thay! Họ bảo nhau.

Từ đó về sau, đặc tính đại trí tuệ của Trưởng lão này vang dội khắp loài người và chư Thiên.

Lúc ấy bậc Ðạo sư nói với vị này:

Người này thử thách phải đi qua,
Kẻ khác đạt rồi mục đích xa,
Tư cách khác nhau đều hiển lộ,
Vì ông biết rõ hết kia mà.

Như vậy, sau khi hỏi một câu thuộc phạm vi hiểu biết của một vị Phật, Ngài thêm:

– Ðây là vấn đề được đặt ra tổng quát sơ lược, còn đâu là ý nghĩa của vấn đề trong mọi phương diện?

Vị Trưởng lão xem xét vấn đề. Vị ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư hỏi về đường lối tu tập thích hợp cho Tăng chúng tinh tấn tăng trưởng, cả những người mới đạt được những quả vị thấp, lẫn những bậc Thánh A-la-hán đó chăng?” Về vấn đề tổng quát, Tôn giả này không có điều gì nghi hoặc. Nhưng rồi Tôn giả suy xét: “Ðường lối tu tập thích hợp có thể được diễn tả bằng nhiều cách nói theo ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình, khởi đầu là như vậy, song bây giờ làm sao ta có đáp đúng ý nghĩa của bậc Ðạo sư?”. Tôn giả hoài nghi về ý nghĩa ấy.

Bậc Ðạo sư nghĩ thầm: “Sàriputta không hoài nghi gì về vấn đề tổng quát, song còn nghi hoặc về khía cạnh đặc biệt gì của vấn đề mà Ta đang xem xét. Nếu Ta không đưa ra lời gợi ý hướng dẫn thì ông ấy không thể nào giải đáp được. Vậy ta phải gợi ý cho ông ấy”. Rồi Ngài đưa lời gợi ý bằng cách hỏi:

– Này Sàriputta, ông có chấp nhận điều này là đúng chăng (Ngài nói một vấn đề nào đó).

Tôn giả Sàriputta chấp nhận vấn đề ấy.

Gợi ý như vậy xong, Ngài biết Tôn giả Sàriputta đã nắm vững ý nghĩa của Ngài, và sẽ giải đáp đầy đủ bắt đầu từ ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình. Sau đó, vấn đề hiện ra rõ ràng trước mắt vị Trưởng lão như có cả trăm ngàn lời gợi ý, ồ không, cả ngàn lời nữa, và theo lời hướng dẫn củađức Phật, Tôn giả giải đáp vấn đề kia thuộc về tri kiến Phật.

Bậc Ðạo sư thuyết Pháp cho cả hội chúng khắp cả mười hai dặm: ba trăm triệu vị hữu tình uống được nguồn nước trường sinh.

Khi hội chúng ra về, bậc Ðạo sư lại du hành khất thực, dần dần đến Xá-vệ. Ngày hôm sau, khi đã khất thực tại Xá-vệ xong, Ngài trở về và dạy bảo các Tỷ-kheo giữ phận sự của mình rồi bước vào Hương phòng. Về buổi tối, các Tỷ-kheo bàn luận đến đức tính cao cả của Trưởng lão Sàriputta, trong lúc Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tôn giả Sàriputta thật là bậc đại trí tuệ, Tôn giả có trí tuệ quảng bác, trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ tinh xảo, trí tuệ linh lợi. Bậc Ðạo sư đặt câu hỏi tổng quát, Tôn giả đã trả lời thật đầy đủ sâu rộng.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì trong lúc ngồi đó, các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu vị ấy trả lời rộng rãi một vấn đề được nêu tổng quát, mà ngày xưa cũng đã làm như vậy.

Và Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con Nai sống trong rừng. Bấy giờ, vua thích săn bắn, và vua lại là một người đầy uy lực, ngài cho rằng không có ai xứng danh con người cả.

Một ngày kia, lúc ngài đi săn, ngài bảo đám cận thần:

– Hễ ai để thoát một con nai vì mình thì sẽ bị trừng phạt như vầy như vầy..

Bọn họ suy nghĩ: “Người ta có thể đứng trong nhà mà không tìm thấy vựa lúa. Khi một con nai bị vây bắt bằng cái móc hay gậy cong, ta phải lùa nó đến nơi đức vua đứng”.

Bọn họ liền giao ước với nhau để thực hiện điều này, và sắp đặt vua đứng ở cuối đường. Sau đó, họ vây quanh một hang lớn và bắt đầu lấy dùi cui gậy gộc đập lên mặt đất. Con vật đầu tiên bị vây bắt chính là Nai vàng. Ba lần Nai nhìn quanh bụi cây tìm cơ hội trốn thoát. Khắp nơi, Nai thấy người ta đứng chật ních chen tay, cung kề cung, chỉ có nơi vua đứng là Nai thấy may ra còn có dịp. Với đôi mắt chiếu sáng lòa, Nai vụt đến phía vua làm chói mắt vua như thể tung cát bụi vào đôi mắt ấy. Lập tức vua thấy Nai, bắn tên ngay và hụt mất.

Ta phải biết rằng loài nai rất thông minh tránh được các mũi tên. Khi các mũi tên vụt thẳng vào chúng, chúng đứng yên để tên bay đi, nếu tên vụt tới phía sau, nai sẽ vụt chạy nhanh hơn; nếu tên bay xuống từ phía trên chúng cong lưng lại, nếu từ phía suờn, nai nghiêng mình một tí; nếu tên nhắm vào bụng, nai lăn một vòng; khi tên đã lướt qua rồi thì Nai vụt nhanh như bay gió cuốn. Vì vậy, khi vua thấy Nai lăn qua, tưởng Nai đã bị thương, liền kêu lên một tiếng “ô này!”.

Nai vùng đứng dậy, vụt nhanh như gió, phá được vòng vây của đám người kia. Các triều thần ở cả hai phía nhìn thấy con nai chạy thoát, liền tụ tập lại với nhau và hỏi:

– Nai tiến về chỗ của ai thế?

– Chỗ của Chúa thượng.

– Song Chúa thượng đã la lớn: Ta bắn được nai rồi kia mà! Vậy Chúa thượng bắn được cái gì? Tôi dám chắc với quí vị, Chúa thượng bắn hụt rồi! Chúa thượng bắn mặt đất đấy!

Như vậy, hội chúng chế nhạo vua không ngớt. Vua nghĩ thầm: “Bọn này đang chế nhạo ta, chúng không biết tay ta”. Rồi khi nai nịt thắt lưng, vua đi bộ, cầm kiếm trong tay, vừa đi thật nhanh vừa la to:

– Ta sẽ đi bắt Nai!

Vua nhìn sát theo Nai và đuổi Nai chừng ba dặm. Nai tiến sâu vào rừng, vua cũng tiến theo. Lúc bấy giờ trên đường Nai đi, có một cái hố thật lớn với một cây đã mục nát, sâu chừng sáu mươi cubit, đám cỏ dại mọc che phía trên. Nai ngửi được mùi nước, thấy đó là cái hố, nên nghiêng mình qua một bên tránh đường. Song vua cứ đi thẳng lên nên ngã vào hố. Nai không còn nghe tiếng chân vua nữa, liền quay lại. Thấy không có ai, Nai biết là vua hẳn đã rơi xuống hố. Vì thế, Nai đến nhìn vào, thấy vua trong tình cảnh nguy khốn, vùng vẫy trong nước sâu. Song Nai khôngđể lòng oán hận đối với việc ác mà vua đã làm, còn thương hại nghĩ thầm: “Không được để vua này chết trước mắt ta, ta sẽ cứu vua qua khỏi cơn hoạn nạn này”.

Vừa đứng trên miệng hố, Nai vừa kêu lớn:

– Này Ðại vương đừng sợ, vì ta sẽ cứu thoát ngài khỏi cảnh hiểm nghèo này.

Rồi dùng hết sức lực, sốt sắng thiết tha như thể cứu lấy đứa con yêu quý của mình, Nai đỡ vua lên dốc đá, chính vua kia đã đuổi theo Nai để giết hại đó, Nai kéo vua ra khỏi hố sâu sáu mươi cubit, và nói lời an ủi vua rồi đặt vua lên chính lưng mình, mang vua ra khỏi rừng, để vua xuống không xa đám quân sĩ mấy. Sau đó, Nai thuyết giáo cho vua và an trú vua vào Ngũ giới. Tuy nhiên, vua không thể rời bậc Ðại sĩ được, mà bảo:

– Tâu Lộc vương Chúa thượng, xin hãy cùng ta đến Ba-la-nại, vì ta muốn nhường ngôi cho ngài tại Ba-la-nại, một kinh thành trải rộng kháp mười hai dặm để ngài ngự trị toàn quốc độ ấy.

Song ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, ta là thú vật, ta không muốn chiếm vương quốc nào cả. Nếu ngài có lòng thương mến ta, xin hãy giữ Ngũ giới mà ta đã dạy ngài, rồi ngài dạy cho đám quần thần của ngài cũng giữ giới nữa.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về rừng. Còn vua đến gặp lại quân sĩ, và trong khi hồi tưởng những đức tính cao thượng của Nai kia, mắt vua đẫm lệ. Vừa được đám binh sĩ hộ tống, vua ngự khắp kinh thành trong hồi trống ban lệnh vua vang rền, truyền rao lời bố cáo này:

– Từ nay về sau, dân chúng toàn thành hãy giữ Ngũ giới.

Song vua không nói với ai về lòng nhân từ mà bậc Ðại sĩ đã ban cho ngài. Sau khi dùng xong các món cao lương mỹ vị về buổi chiều tối, vua an nghỉ trên vương sàn lộng lẫy và sáng sớm hôm sau, vua nhớ lại những đức tính cao thượng của bậc Ðại sĩ, ngài liền trở dậy và ngồi chéo chân trên vương tọa, tâm tràn đầy hân hoan, ngài cất tiếng ca lên nguyện vọng của ngài qua sáu vần kệ:

  1. Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
    Chính ta nay thành đạt đích hằng mong.
  2. Ta thấy rõ, người ơi, là bậc trí,
    Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
    Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ.
  3. Vượt trùng dương, ta thấy rõ, bây giờ,
    Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
    Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền.
  4. Ta thấy nay, người hỡi, gắng sức lên,
    Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
    Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
    Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương.
  5. Bậc trí nhân dù tràn ngập đau thương,
    Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
    Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
    Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
    Song lên đường cho đến lúc chết đi.
  6. Việc xảy ra, ta đều không ngờ tới,
    Việc ta tính lại thường hay thất bại,
    Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
    Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời.

Trong lúc vua đang ca khúc hát này, mặt trời cũng vừa lên. Còn vị tế sư của ngài cũng dậy sớm vào vấn an sức khỏe của ngài. Lúc đang đứng ở cửa, vị này nghe tiếng ca ấy, nghĩ thầm: “Hôm qua đức vua đi săn. Chắc ngài đã hụt mất con Nai và khi bị quần thần chế nhạo, ngài phán rằng ngài sẽ đích thân đuổi bắt con mồi và giết đi. Sau đó, hẳn ngài săn đuổi theo Nai, vì bị lòng kiêu mạn của một chiến sĩ thúc đẩy, nên bị rơi vào cái hố sâu sáu mươi cubit. Rồi Nai có từ tâm chắc hẳn đã kéo ngài lên mà không hề có chút ý nghĩ gì đến tội ác của đức vua đối với mình. Chắc vì thế nên đức vua hát lên khúc tụng ca này đây”.

Như vậy, vị Bà-la-môn này nghe hết mọi lời ca của khúc hát kia, và những việc gì đã xảy ra giữa vua với Nai đều rõ ràng như một khuôn mặt phản chiếu trong chiếc gương được lau chùi thật kỹ. Ông lấy đầu ngón tay gõ nhẹ lên cửa. Vua hỏi:

– Ai đó?

– Tâu Chúa thượng, chính hạ thần là tế sư đây.

– Này Sư trưởng, cứ vào đi.

Vua bảo rồi mở cửa. Vị ấy bước vào, tung hô vạn tuế đức vua, và đứng sang một bên. Sau đó, ông thưa:

– Tâu Ðại vương, hạ thần biết những việc đã xảy ra với Ðại vương ở trong rừng. Trong lúc đuổi theo con Nai, Ðại vương rớt vào hố và con Nai dựa vào sườn đá bên hố mà kéo Ðại vương lên. Vì vậy, Ðại vương nhớ lại đặc tính cao cả của Nai và hát một bài tụng ca.

Rồi ông ngâm hai vần kệ:

  1. Bên sườn non nọ có con Nai,
    Trước đó là con thịt của ngài,
    Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
    Vì ly tham hận hết trong đời.
  2. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử thần,
    Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
    Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
    Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân.

“Ô kìa!” Vua suy nghĩ khi nghe lời trên: “Người này không cùng đi săn với ta, tuy thế, lại biết hết mọi sự. Làm sao lại biết được thế? Ta muốn hỏi vị ấy”. Và vua ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðạo sĩ, hôm kia có mặt chăng?
    Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
    Tấm màn tham dục ngài đã vén,
    Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng!

Song vị Bà-la-môn đáp:

– Hạ thần không phải là một vị Phật toàn tri đâu, hạ thần chỉ nghe lóm khúc tụng ca của Ðại vương vừa hát đó thôi, mà không bỏ sót ý nghĩa, nên mọi việc trở nên rõ ràng trước mắt hạ thần.

Ðể giải thích điều này, ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Tâu Chúa công! Việc ấy, thần chẳng nghe,
    Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
    Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
    Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu.

Vua rất hoan hỷ nên ban thưởng ông một tặng phẩm quí giá.

Từ đó về sau, vua chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự, dân chúng cũng đem hết lòng làm thiện sự, nên khi mạng chung được sinh lên cùng Thiên chúng thật đông đảo.

Lúc bấy giờ, vua đi vào thượng uyển cùng với vị tế sư để bắn bia. Thời ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đang suy gẫm xem cả đám tiên đồng ngọc nữ kia mới từ đâu đến mà ngài thấy thật đông đảo chung quanh ngài như thế. Khi xét kỹ, ngài chợt hiểu toàn câu chuyện: Vua đã được Nai cứu thoát khỏi cái hố như thế nào, vua đã được an trú vào giới đức, và nhờ uy lực của vua ra sao mà dân chúng đã làm nhiều thiện sự nên Thiên giới trở thành đông đúc như thế, và nay vua lại vào ngự uyển để bắn một cái bia.

Vì thế, Thiên chủ cũng đến nơi đó, với giọng sư tử hống, ngài tuyên thuyết tính cao thượng của Nai, và bảo cho biết chính ngài là Sakka Thiên chủ, rồi đứng vững trên không mà thuyết Pháp nêu rõ công đức của lòng từ bi và Ngũ giới, xong ngài trở về. Bấy giờ, vua dự định bắn bia, giương chiếc cung và lắp mũi tên vào dây. Ngay lúc ấy, Sakka Thiên chủ dùng thần lực hóa hiện ra con Nai đứng giữa vua và tấm bia, vua thấy vậy không bắn tên nữa. Lúc ấy, Thiên chủ nhập vào thân của vị tế sư ngâm kệ này cho vua nghe:

  1. Tên ngài giết lắm vật oai hùng,
    Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
    Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
    Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương!

Vua đáp lại qua vần kệ:

  1. Tế sư, trẫm thấu suốt hơn ngài:
    Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
    Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
    Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai.

Sau đó, Sakka Thiên chủ ngâm đôi vần kệ:

  1. Chẳng phải là Nai, tấu Ðại vương,
    Mà đây là một Tu-la-thần,
    Ngài là chúa tể nơi trần thế,
    Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng!
  2. Nếu ngài do dự, tấu Anh quân,
    Khi giết Nai vì chính bạn thân,
    Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
    Cùng vợ con ngài xuống cõi âm.

Nghe thế vua liền ngâm hai vần kệ:

  1. Cứ vậy Diêm vương với tử hà,
    Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
    Cùng thân bằng nữa, ta không thể
    Tự giết Nai bằng tay của ta.
  2. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi hùng,
    Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
    Sao ta muốn vị ban ân chết,
    Sau việc thi ân ấy đã mang?

Lúc ấy, Thiên chủ Sakka xuất ra khỏi thân của vị tế sư, mang lấy đúng hình dáng của ngài và hiệnđứng vững trên không, ngâm hai vần kệ nêu rõ đức tính cao thượng của vua:

  1. Thiện hữu muôn năm ở cõi trần!
    Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
    Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
    Ngài chính In-dra giữa các thần.
  2. Thoát dục, tâm mình mãi trú an,
    Khi nhiều người lạ đến kêu van,
    Hãy cho chúng những gì cần thiết,
    Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
    Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
    Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.

Nói vậy xong, Thiên chủ tiếp tục như sau:

– Ta đến đây để thử ngài, này Ðại vương, và ngài đã không đồng ý với ta. Ta xin ngài hãy gắng tinh cần mãi.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về cõi của mình.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Sàriputta hiểu đầy đủ những điều được nói tổng quát, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị tế sư và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

Chương XIV

Tạp phẩm

  1. Chuyện cánh đồng lúa (Tiền thân Sàlikedàra)

Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Lúc ấy, bậc Ðạo sư cho gọi Tỷ-kheo này đến và hỏi:

– Này Tỷ kheo, Ta nghe nói ông cấp dưỡng người thế tục, có đúng vậy chăng?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

– Họ là ai thế?

– Bạch Thế Tôn, chính song thân của con.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tốt lành thay! Các trí nhân ngày xưa, ngay khi còn mang thân thú vật hạ liệt, dù chỉ sinh làm loài Anh vũ, nhưng khi cha mẹ già yếu, cũng đã đem cha mẹ vào tổ và nuôi nấng bằng chính thức ăn mà chúng ngậm về trong mỏ mình.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vị vua mệnh danh là Ðại vương Magadha (Ma-kiệt-đà) trị vì tại Ràjagaha (Vương Xá). Thời ấy, có một làng Bà-la-môn, tên là Sàlindiya ở phía đông bắc kinh thành này. Trong vùng đông bắc này là địa phận thuộc về nước Ma-kiệt-đà. Có một Bà-la-môn sống ở Salindiya, tên là Kosiyagotta, chiếm giữ điền sản cả ngàn mẫu đất để trồng lúa. Khi vụ mùa đến, ông làm một hàng rào vững chắc, giao đất cho các gia nhân, có người được năm mươi mẫu, người khác sáu mươi mẫu, và cứ vậy, vị địa chủ chia khoảng năm trăm mẫu điền sản cho đám gia nhân.

Còn năm trăm mẫu kia, ông chủ giao cho một người làm thuê lấy công, người ấy dựng túp lều và ở đó suốt đêm ngày. Lúc bấy giờ, về phía đông bắc vùng đồng ruộng này là một khu rừng cây bông vải rộng lớn, mọc trên một ngọn đồi bằng phẳng, trong rừng này có một đàn chim Anh vũ (két) rất đông.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sinh vào đàn chim Anh vũ này, làm vương tử của chúa Anh vũ. Ngài lớn lên tốt đẹp và khỏe mạnh, thân lớn bằng cái trục bánh xe. Bấy giờ, chúa chim đã già, bảo ngài:

– Nay ta không thể nào bay ra đồng được nữa, con hãy chăm sóc cả đàn chim này.

Và phong cho ngài chức chim chúa. Từ hôm sau, ngài không chịu để cha mẹ đi kiếm mồi nữa, mà ngài cùng cả đàn bay về vùng Tuyết Sơn, và sau khi ăn lúa no nê từ đám ruộng mọc hoang tại đó, ngài trở về mang thức ăn đầy đủ để nuôi cha mẹ.

Một ngày kia, đàn chim Anh vũ hỏi ngài một chuyện. Chúng nói:

– Trước đây, vào lúc này lúa đã chín trong nông trại Ma-kiệt-đà, bây giờ lúa có được trồng nữa chăng?

Ngài đáp:

– Cứ đi xem.

Rồi ngài bảo hai chim Anh vũ đi tìm hiểu. Ðôi chim Anh vũ bay đi, và hạ cánh xuống đồng bằng Ma-kiệt-đà ở phần đất được người làm mướn canh giữ, chúng ăn lúa rồi mang một cọng lúa về rừng, thả xuống trước đôi chân của bậc Ðại sĩ và nói:

– Lúa này mọc tại đó.

Hôm sau, ngài bay đến nông trại đó và hạ xuống cùng với cả đàn chim. Người làm công ấy cứ chạy đằng này đến chạy đằng kia, cố xua đuổi đàn chim, song không thể nào đuổi chúng được. Cả đàn Anh vũ ăn lúa xong, ra đi với những mỏ trống không, nhưng chúa Anh vũ thu lượm một số lúa mang về cho cha mẹ.

Hôm sau, bầy Anh vũ lại đến đó ăn lúa lần nữa, và hôm sau nữa cũng vậy. Lúc ấy người kia bắtđầu suy nghĩ: “Nếu những con vật này cứ tiếp tục ăn thêm vài ngày nữa, thì ta chẳng còn chút gì. Vị Bà-la-môn kia sẽ định giá cả cho cả đám lúa này và sẽ phạt tiền ta. Ta phải đi báo cho ông ấy biết”. Vừa cầm lấy một nắm lúa và một món quà kèm theo, gã đi đến gặp vị Bà-la-môn kia, kính chào vị ấy và đứng sang một bên. Ông chủ bảo:

– Nào, anh bạn, có được mùa lúa chăng?

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, được mùa lắm.

Gã đáp và ngâm hai vần kệ:

  1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay,
    Song tôi xin nói để ngài hay
    Ðàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
    Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.
  2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
    Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
    Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
    Ðể sẵn mai sau những lúc cần.

Khi vị Bà-la-môn nghe chuyện này lòng phát sinh mối tình thương cảm đối với chim Anh vũ chúa. Ông hỏi:

– Này chú, thế chú có biết cách đặt bẫy chăng?

– Thưa Tôn ông, tôi có biết.

Ông chủ ấy liền nói với gã qua vần kệ này:

  1. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
    Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
    Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
    Rồi lấy chim về gặp lão đây.

Người giữ ruộng rất vui mừng vì ông chủ không định giá tiền về đám lúa kia, và không ai nhắc đến nợ nần cả. Gã đi ngay và làm một cái bẫy bằng lông đuôi ngựa. Sau đó gã tìm hiểu xem lúc nào đàn chim sắp đáp xuống ngày hôm ấy, rồi gã thấy được nơi chúa Anh vũ đậu. Hôm sau từ sáng sớm gã làm một cái lồng to cỡ bằng cái bình nước và đặt bẫy rồi ngồi trong lều đợi đàn chim đến.

Chim chúa đến giữa đàn và chim không tỏ chút gì tham ăn, vừa bước xuống đúng nơi đã đậu ngày hôm qua, thì chân đặt ngay vào chiếc thòng lọng. Khi chim thấy chân bị siết chặt, liền nghĩ thầm: “Nếu bây giờ ta thốt lên tiếng chim của con chim mắc bẫy, thì đàn chim thân thuộc của ta sẽ kinh hoàng và chạy trốn mà chưa ăn gì được. Vậy ta phải chịu đựng cho đến khi chúng ăn xong”.

Cuối cùng, khi chim chúa thấy chúng đã no nê, mới lo sợ cho tính mạng mình mà thốt lên ba lần tiếng kêu của con chim bị nạn. Cả đàn chim bay trốn mất. Lúc ấy, chúa chim Anh vũ bảo:

– Cả đàn chim bà con quyến thuộc của ta đây, chẳng con nào quay lại nhìn ta nữa! Ta đã phạm tội gì vậy?

Và chim cảm hứng ngâm vần kệ quở trách chúng:

  1. Bầy chim ăn uống thật no say,
    Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
    Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
    Ta đà gây tội lỗi gì đây?

Người giữ ruộng chợt nghe tiếng kêu của chim chúa và âm thanh của cả đàn chim kia bay qua không gian. “Cái gì đó?” Gã nghĩ thầm. Gã đứng dậy ra khỏi lều và đi về phía cái bẫy, gã thấy chim chúa ở đó.

“Ðúng là con chim mà ta muốn đặt bẫy đã bị bắt”. Gã kêu lên mừng rỡ vô cùng, gã lấy con chim ra khỏi bẫy, buộc đôi chân vào nhau và đi về phía làng Salindiya, gã giao chim cho vị Bà-la-môn. Vị này với tình cảm đậm đà dành cho bậc Ðại sĩ, ôm ngài trong đôi tay, đặt ngài trên đùi mình và nói chuyện với ngài qua hai vần kệ sau:

  1. Bụng chim lớn vượt các chim kia:
    Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
    Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
    Trước khi giương cánh rộng bay về.
    6. Chim có một kho phải đổ vào?

Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào?

Nghe lời này, Anh vũ chúa đáp lời, ngâm vần kệ thứ tám bằng giọng người ngọt ngào như mật:

  1. Ta chẳng ghét ngài, Ko-si-ya,
    Ta không hề có vựa kho nhà,
    Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
    Và cũng cho vay mượn nữa mà,
    Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
    Ðây là câu giải đáp phần ta.

Tiếp theo vị Bà-la-môn hỏi chim chúa:

  1. Món nào chim lại muốn cho vay?
    Gì đó là công phải trả đây?
    Cho biết kho nào đang tích trữ,
    Rồi ta sẽ thả tự do bay.

Chim Anh vũ chúa vừa đáp lời Bà-la-môn yêu cầu, vừa giải thích ý định mình qua bốn vần kệ:

  1. Lũ chim non nớt ở nhà ta,
    Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
    Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
    Nay ta cho chúng mượn vay mà.
  2. Mẹ cha già yếu cả song thân,
    Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
    Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
    Ðem vê dâng trả các ân nhân.
  3. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
    Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
    Ta cho bọn chúng vì từ mẫn:
    Ðây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn.
  4. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
    Ðấy lại là công phải trả đầy,
    Nơi nọ là kho đang tích trữ,
    Giờ ta phân giải hết lời này.

Vị Bà-la-môn rất hoan hỷ khi nghe bài thuyết giáo hợp đạo lý này của bậc Ðại sĩ, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
    Làm bao công đức chính chim này!
    Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
    Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.
  2. Ăn cho vừa ý thật no nê,
    Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
    Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
    Ta yêu hình bóng bạn quay về.

Cùng với những lời này, ông nhìn bậc Ðại sĩ với lòng trìu mến như thể nhìn đứa con yêu quý nhất của mình; rồi thả dây khỏi chân chim, ông xoa lên đôi chân ấy một loại dầu quý đã lọc kỹ cả trăm lần, và đặt chim lên một bảo tọa rất sang trọng, đãi chim ăn món bắp ngọt trên một cái đĩa vàng và uống nước đường.

Sau đó chúa Anh vũ vừa khuyên nhủ vị Bà-la-môn tinh cần, vừa ngâm kệ này:

  1. Trong nhà ngài đấy, Ko-si-ya,
    Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
    Xin hãy cúng dường cho những vị
    Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
    Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
    Khi các ngài kia đã xế tà.

Lúc ấy vị Bà-la-môn vô cùng hân hoan trong lòng, cảm hứng ngân nga nỗi lạc thú lâng lâng của mình qua vần kệ này:

  1. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây
    Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
    Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
    Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
    Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
    Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!

Kế đó, bậc Ðại sĩ không chịu nhận cả ngàn mẫu ruộng mà vị Bà-la-môn tặng ngài, nhưng chỉ nhận tám mẫu thôi. Vị ấy cho xây tường đá làm ranh giới để dành riêng điền sản cho ngài, rồi lạiđưa tay lên đảnh lễ ngài rất cung kính và nói:

– Xin Chúa công thượng lộ bình an và mau về khuyên dỗ song thân đang than khóc.

Xong ông để ngài bay đi. Ngài rất đẹp ý, ngậm một cọng lúa đem về cho cha mẹ rồi vừa thả cây lúa trước song thân vừa bảo:

– Nào dậy đi thôi, cha mẹ thân yêu của con.

Hai vị nghe lời ngài liền vùng dậy, mắt nhòa lệ thảm. Sau đó, cả đàn Anh vũ kia lục tục kéo đến hỏi thăm:

– Tâu Chúa thượng, ngài làm sao thoát thân được?

Ngài kể cho chúng nghe toàn câu chuyện từ đầu đến cuối. Còn gia chủ Kosiya nghe lời khuyên nhủ của chim Anh vũ chúa, đem phân phát nhiều của cải, bố thí cúng dường các vị chân nhân, các ẩn sĩ khổ hạnh, cùng các Bà-la-môn nữa.

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo sư ngâm để giải thích việc này:

  1. Ko-si này với đại hân hoan
    Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
    Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giá,
    Bản thân vị ấy thật hiền lương.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, phụng dưỡng mẹ cha mình là một mỹ tục cổ truyền của các bậc trí nhân và thiện nhân.

Sau đó, Ngài thuyết giảng các Sự Thật và nhận diện Tiền thân. Bấy giờ, vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đó đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu:

– Vào thời ấy, các đệ tử Phật là đàn Anh vũ, phụ hoàng, mẫu hậu ngày nay là cha mẹ chim chúa, Channa (Xa-nặc) là người giữ ruộng, Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là chim chúa Anh vũ kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện đôi ca thần Canda (Tiền thân Canda Kinnara)

Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Bồ-đề Lâm gần Kapilapura, về thân mẫu của Ràhula (La-hầu-la) khi bà còn ở trong cung.

Tiền thân này phải được kể bắt đầu từ thời quá khứ xa xưa của Tiền thân đức Phật. Song câu chuyện về các thời kỳ này, bắt đầu từ tiếng Sư tử hống của Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) tại Latthivana (Rừng Mía gần Trúc Lâm), đã được kể trước kia trong số 1. Tiền thân Apannaka. Bắt đầu từ đó, ta sẽ đọc trong số 547. Tiền thân Vessantara phần tiếp theo chuyện cho đến khi Ngài trở về Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).

Ðang lúc Ngài ngồi trong cung phụ vương, suốt buổi ăn, bậc Ðạo sư kể Tiền thân Mahàdhammapàla (số 447) và sau khi buổi ăn đã xong, Ngài nói:

– Ta muốn tán thán những đức tính cao quý của mẹ Ràhula (La-hầu-la) ngay ở nội thất bà bằng cách kể Tiền thân Canda-Kinnara này.

Rồi vừa trao bình bát cho vua cha, Ngài cùng hai vị Ðại đệ tử bước qua cung thất của mẫu thân La-hầu-la. Thời ấy, có bốn mươi ngàn cung nữ giỏi ca múa hay đến bầu bạn với bà, trong đó có một ngàn chín mươi nàng là con gái dòng Sát-đế-ly. Khi bà nghe báo tin đức Như Lai đến viếng, bà ra lệnh tất cả đám cung nữ này đắp y vàng và hội chúng tuân lệnh.

Bậc Ðạo sư bước vào, ngồi xuống chỗ đã được dành sẵn cho Ngài. Lúc ấy, cả hội chúng nữ nhân đều kêu lên một tiếng và than khóc rền rỉ. Sau khi để mặc dòng lệ tuôn tràn, bà mẹ của La-hầu-la cố dẹp nỗi sầu riêng, đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo sư và ngồi xuống với vẻ vô cùng tôn kính dành cho một vị vua. Lúc ấy, phụ vương Ngài bắt đầu kể đức hạnh của bà:

– Bạch Thế Tôn, xin hãy nghe đây. Khi nàng hay tin Thế Tôn đã đắp y vàng, nàng cũng đắp y vàng, Thế Tôn bỏ hết các vòng hoa và đồ trang sức, nàng cũng bỏ hết mọi thứ và chỉ nằm ngồi dưới đất. Khi Thế Tôn đã xuất gia, nàng liền trở thành cô phụ và từ chối mọi tặng vật mà các vương tử khác gửi đến nàng. Lòng nàng bao giờ cũng trung thành với Thế Tôn.

Như thế, phụ vương của Ngài đã kể hết đức hạnh của nàng trong nhiều cách, bậc Ðạo sư liền bảo:

– Thưa Phụ vương, thật không lạ gì ngày nay trong đời cuối cùng của Như Lai, công chúa này đã yêu thương, gìn giữ lòng trung thành đối Như Lai và chỉ muốn được một mình Như Lai dìu dắt mà thôi. Quả vậy, ngay cả khi được sinh làm loài phi nhân, bà cũng giữ dạ thủy chung với phu quân mình mà thôi.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua cha, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh trong vùng Tuyết Sơn làm một vị Tiên Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần) tên là Canda hay Nguyệt Lang, vợ ngài là Candà hay Nguyệt Nga. Cả hai vị sống cùng nhau trên một hòn núi bạc tên là Canda-pabbata hay Nguyệt Quang.

Thời ấy, vua Ba-la-nại giao phó việc triều chính cho các quan đại thần, một mình vua khoác hai chiếc hoàng bào, trang bị năm thứ vũ khí và tiến về vùng Tuyết Sơn nọ.

Trong lúc đang thưởng thức món sơn hào, vua chợt nhớ nơi có con suối nhỏ, nên bắt đầu leo lên đồi. Thời bấy giờ, đôi tiên sống trên đỉnh Nguyệt Sơn thường ở trong núi vào mùa mưa, và chỉ xuống núi vào mùa nắng. Vừa lúc ấy, tiên nam Canda cùng vợ hạ sơn và đi quanh quẩn. Ðôi tiên tầm nước hoa, ăn phấn hoa, mặc xiêm y bên trong lẫn bên ngoài đều bằng thứ lụa sa dệt từ bông hoa, vừa lắc lư trong đám cây cát đằng (dây leo), vừa vui đùa ca hát bằng một giọng ngọt ngào như mật.

Vị tiên nam tiến dần đến con suối này và tại một chỗ dừng chân bên suối, chàng bước xuống cùng vợ rắc hoa khắp mặt suối vừa vui đùa dưới nước. Khi cả hai vị đã mặc lại xiêm y bằng hoa xong, trên một khoảng cát trắng, sáng láng một tấm bạc, hai vị trải hoa làm sàng tọa và nằm xuống. Vừa lượm được một khúc cây trúc, vị tiên nam bắt đầu thổi sáo, thỉnh thoảng ca hát ngọt ngào như mật rót vào tai, trong lúc tiên nữ uốn lượn đôi tay mềm mại, vừa nhảy vừa hát ca gần đó.

Nhà vua nghe tiếng hát, liền đi rón rén để đừng ai nghe lọt bước chân, vừa đến gần ngắm nghía đôi tiên từ một nơi nấp kín đáo. Vua bỗng nhiên sinh ra si tình tiên nữ và nghĩ thầm: “Ta muốn bắn chàng kia và sống ở đây với vợ chàng”. Sau đó vua liền nhắm bắn trọng thương vị tiên nam Canda. Chàng đau đớn thốt lên bốn vần kệ:

  1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn,
    Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
    Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
    Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng!
  2. Ta đang chìm ngập với đau thương,
    Lòng dạ ta đang đốt cháy bừng,
    Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
    Mà tim ta cảm xúc khôn lường.
  3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
    Héo hon như suối cạn khô dần,
    Lòng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
    Vì nỗi buồn đau của chính nàng.
  4. Dòng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
    Như mưa chân núi chảy vào hồ,
    Bởi vì lòng dạ đầy thương cảm,
    Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga!

Bậc Ðại sĩ than khóc như vậy qua bốn vần kệ trong khi quằn quại trên sàn tọa bằng hoa, rồi bất tỉnh quay mặt đi. Nhà vua vẫn đứng ở nơi đã nấp. Còn tiên nữ không biết bậc Ðại sĩ vừa bị thương, ngay khi ngài than khóc như thế, nàng cũng không hay biết, vì nàng đang say sưa với niềm hoan lạc của mình. Nhưng khi thấy ngài quay đi và nằm bất động, nàng bắt đầu tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với vị phu quân. Vội đến gần quan sát chồng, nàng thấy máu đang chảy ra từ miệng vết thương, nên không thể nào chịu đựng nổi cơn đau đớn khủng khiếp trước tình cảnh phu quân yêu quý của mình, nàng kêu gào thất thanh.

“Vị tiên nam ắt hẳn đã chết”, vua thầm nghĩ và bước ra lộ diện. Khi tiên nữ Candà thấy vua, nàng nghĩ thầm: “Ðây hẳn là kẻ cướp đã giết chồng yêu quý của ta”, và nàng run rẩy chạy trốn. Khi đãđứng trên đỉnh đồi, nàng kết tội vua quyết liệt qua năm vần kệ:

  1. Ôi khổ thân ta, chúa bạo tàn!
    Nhà ngươi đã bắn trọng thương chàng,
    Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
    Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn.
  2. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong thái hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,
    Khi thấy chàng yêu đã chết đây.
  3. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong vương hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,

Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

  1. Mong thái hậu nay khóc phụ hoàng,
    Và sau lại phải khóc hoàng nam,
    Kẻ vì tham dục đang làm ác
    Cho chính chồng ta thật uổng oan.
  2. Ước mong vương hậu phải chờ trông
    Tình cảnh mất con lẫn mất chồng,
    Là kẻ vì tham, làm việc ác
    Cho chàng vô tội, chính phu quân.

Sau khi nàng kêu gào than khóc như vậy qua năm vần kệ trên, nhà vua vừa đứng trên đỉnh núi vừa cất tiếng an ủi nàng qua một vần kệ khác.

  1. Thôi đừng than khóc, chớ sầu thương,
    Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
    Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
    Nàng làm hoàng hậu của quân vương!

– Ngươi vừa nói gì thế?

Tiên nữ Candà thét lên khi nghe lời này, và nàng cất giọng sư tử hống hùng hồn đáp lời:

  1. Không, ta đành kết liễu cuộc đời!
    Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
    Ngươi giết chồng ta nào có tội,
    Tất cả vì tham ái ta thôi!

Khi nghe lời này, lòng say mê của vua đối với nàng đều tan hết, sau đó, vua liền ngâm một vần kệ khác nữa:

  1. Sống cho thỏa nguyện, hỡi tiên nương,
    Thôi hãy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
    Ta biết có nhiều loài thú vật
    Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang.

Cùng với những lời này, vua bình thản bỏ đi. Ngay khi Candà biết vua đi rồi, nàng bước đến ôm lấy bậc Ðại sĩ đem tận đỉnh đồi và đặt ngài nằm trên một chỗ đất bằng phẳng tại đó; vừa kê đầu ngài lên lòng nàng, nàng vừa than thở qua mười hai vần kệ sau:

  1. Ðây giữa vùng đồi núi, đỉnh cao,
    Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì bóng chàng nay thiếp thấy đâu?
  2. Thú rừng lang bạt khắp nơi nơi,
    Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng vắng bóng trên đời?
  3. Dã thú tung hoành, hoa ngát hương
    Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  4. Trong veo, nhiều suối chảy ven đồi,
    Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng bỏ thiếp đơn côi?
  5. Xanh thẳm là đối núi Tuyết San,
    Khi nhìn, đồi núi đẹp vô vàn,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  6. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm ánh vàng,
    Nhìn xem đồi núi đẹp huy hoàng,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng chàng?
  7. Ðồi núi Tuyết Sơn đỏ rực lên,
    Núi đồi tuyệt diệu lúc nhìn xem!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng tiên?
  8. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút trời cao,
    Ðồi núi nhìn xem đẹp biết bao!
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay thiếp chẳng thấy chàng đâu?
  9. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh trắng ngần,
    Nhìn xem đồi núi đẹp muôn phần!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn trông thấy Nguyệt quân?
  10. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu vồng,
    Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì không còn được thấy lang quân?
  11. Ðồi Hương thân thiết với yêu ma,
    Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
    Thiếp phải làm gì, chàng nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng Can-da?
  12. Thần tiên yêu mến ngọn đồi Hương,
    Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng chàng thương?

Nàng cứ than thở mãi như vậy, rồi khi cầm tay bậc Ðại Sĩ đặt lên ngực nàng, nàng thấy tay ngài còn ấm. Nàng nghĩ thầm: “Can-da còn sống đây, ta quyết khiêu khích các thần linh cho đến khi chàng được sống lại!” Rồi nàng lớn tiếng quở trách các thần:

– Chẳng có vị thần nào cai trị cõi trần hay sao? Các ngài đi ngao du ở đâu cả rồi? Chắc hẳn các ngài chết hết rồi nên chẳng còn ai cứu mạng chồng yêu quý của ta đây!”.

Vì uy lực nỗi khổ đau thống thiết của nàng, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Khi xét kỹ, ngài thấy rõ nguyên nhân, liền giả dạng một vị Bà-la-môn đến gần nàng, cầm bình nước thần dược rảy lên mình bậc Ðại Sĩ. Trong chốc lát, thuốc độc mất công hiệu, sắc mặt ngài trở lại tươi tỉnh, ngài cũng không còn biết gì đến chỗ bị thương nữa. Bậc Ðại Sĩ đứng dậy hoàn toàn hồi phục.

Khi Candà thấy vị phu quân muôn vàn yêu quí của mình đã hoàn toàn bình an, nàng hân hoan quì xuống chân của Ðế Thích Thiên chủ và tán thán ngài qua vần kệ:

  1. La-môn, Thánh giả đáng tôn vinh!
    Cho phận thiếp đây kém phước lành
    Ðược thấy phu quân đầy ái kính,
    Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh!

Sau đó, Ðế Thích Thiên chủ khuyên nhủ:

– Từ rày về sau, hai vị đừng xuống khỏi đỉnh Nguyệt Sơn ra giữa đường đi của loài người nữa, mà cứ ở chốn đây thôi.

Ngài lặp lại câu này hai lần rồi trở về cõi của ngài. Còn Candà hỏi chồng nàng:

– Này phu quân, sao ta lại ở chốn đầy nguy hiểm này? Ta hãy mau về đỉnh Nguyệt Sơn.

Rồi nàng ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ta hãy lui về đỉnh Nguyệt San,
    Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
    Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
    Mãi mãi chốn kia, gió nhẹ nhàng
    Thầm thì len qua ngàn cổ thụ,
    Mải mê trò chuyện, phút bình an.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa cũng thế, Công chúa luôn luôn tận tụy và giữ lòng trung thành với Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật-đà) là vua, mẹ của La-hầu-la (Ràhulamàtà) là tiên nữ Candà và Ta chính là vị tiên nam.

-ooOoo-

  1. Chuyện chúa chim ưng (Tiền thân Mahà-Ukkusa)

Dân chúng đang nhen lửa đảo này…

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về Mitta-gandhaka, một cư sĩ.

Tương truyền, người này là con cháu một dòng họ đã suy tàn ở Sàvatti (Xá-vệ), phải nhờ một người bạn đi cầu hôn một thiếu nữ sang trọng. Nhà kia hỏi:

– Thế cậu ấy có bạn bè thân thích nào để có thể giải quyết công việc cần lo liệu chăng?

Nhà trai đáp:

– Không, chẳng có ai cả.

Bên kia bảo:

– Thế thì trước tiên phải kiếm bạn đã.

Người ấy nghe lời khuyên này đi bầu bạn với bốn người giữ cổng thành. Sau đó chàng dần dần kết bạn với những người giữ thành, những nhà thiên văn, nhiều người quí tộc trong triều; ngay cả vị tướng lãnh và phó vương. Nhờ giao thiệp với đám người này, chàng trở thành bạn thân thiết của vua, rồi sau đó là đạo hữu của tám mươi vị Trưởng lão, và nhờ Trưởng lão Ànanda, chàng đến yết kiến chính đức Như Lai. Lúc ấy bậc Ðạo Sư an trú cả gia đình chàng vào Tam quy và Ngũ giới, vua lại phong cho một chức vụ cao và chàng được biệt danh “Mitta-gandhaka” hay “Người kết giao nhiều bằng hữu”.

Vua còn ban cho chàng một dinh cơ lớn rồi ra lệnh cử hành hôn lễ cho chàng, nên tất cả mọi người từ vua chúa trở xuống đều mang tặng vật đến nhà. Lúc ấy, vợ chàng nhận được một tặng vật của vua ban, rồi tặng vật của vị Ðại tướng quân, tặng vật của vị Phó vương, cứ thế dân chúng toàn thành đều đến nhà nàng. Vào ngày thứ bảy, đôi tân hôn ấy tổ chức đại lễ để mời đấng Thập Lực, nhiều phẩm vật cúng dường cao sang được đem dâng đức Phật và Tăng chúng lên đến năm trăm vị Tỷ-kheo. Cuối buổi lễ, đôi tân hôn nhận lời tùy hỷ công đức từ đức Phật và được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Trong Chánh pháp đường, hội chúng nói đến chuyện này:

– Này các Hiền giả, cư sĩ Mitta-gandhaka theo lời vợ khuyên nhủ, và nhờ nàng, đã trở thành bạn của mọi người, được vinh quang tột bực từ vua ban, và sau khi thành thân hữu của bậc Ðạo Sư, đôi vợ chồng đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Các vị thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, người này nhận được vinh quang nhờ nữ nhân kia. Ngày xưa, khi còn là súc sinh, nhờ lời khuyên của nàng, nên vị ấy đã kết bạn rất nhiều và thoát khỏi sự lo âu về tính mạng bầy con trẻ.

Nói vậy xong. Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một số người ở vùng biên địa thường cư trú tại nơi nào họ có thể tìm kiếm thực phẩm nhiều nhất, như sống trong rừng và bắn giết những loài thú vật đông đúc tại đó để lấy thịt cho họ và gia đình họ. Không xa làng của họ là một cái hồ rộng, về phía nam bờ hồ đó có một chim Ưng trống, phía tây là một chim Ưng mái; phía bắc là một Sư Tử, chúa của mọi loài dã thú, phía đông là một chim Ưng biển (Ðại bàng), chúa loài chim, và ở giữa là một con Rùa sống trên một hòn đảo nhỏ.

Chim Ưng trống đến hỏi chim Ưng mái làm vợ. Chim mái bảo:

– Chàng có bạn bè nào không?

– Thưa cô nương, không. Chim trống đáp.

– Ta cần phải có vài chim bạn bảo vệ ta chống lại mọi hiểm nguy hay chuyện rắc rối có thể xảy ra, vậy chàng phải đi kiếm vài chim bạn.

– Ta phải làm bạn với ai đây?

– Ô kìa, với Ðại bàng chúa sống trên bờ phía đông chứ còn ai nữa, rồi với Sư Tử ở phía bắc và Rùa ở giữa hồ này.

Chàng theo lời khuyên của nàng và làm như vậy. Sau đó đôi chim sống với nhau trong một cái tổ do chúng xây lấy; cũng cần nói thêm rằng trên một đảo nhỏ trong hồ này có một cây Kadampa mọc, bốn phía là nước bao quanh. Sau đó chúng sinh được hai chim trống.

Một ngày kia, khi lông cánh đôi chim non còn non nớt, có vài người trai làng đi săn mồi khắp rừng suốt ngày mà chẳng kiếm được gì cả. Vì không muốn trở về làng tay không, họ đi xuống hồ bắt rùa cá, họ lên đảo, nằm dưới bóng cây Kadamba và đang lúc bị ruồi, muỗi, bọ chích đốt thật khổ sở, họ nhóm lửa lên đuổi muỗi mòng bằng cách chà sát củi khô vào nhau, và hun khói. Khói đùn lên làm khó chịu bầy chim, khiến đôi chim non kêu lên chim chiếp.

– Kìa có tiếng chim! Ðám dân làng bảo nhau.

– Nào đốt lửa nhanh lên! Ta không thể nằm nhịn đói ở đây; mà trước khi nằm ngủ, ta phải ăn một bữa thịt chim rừng chứ!

Họ nhóm lửa làm cho ngọn lửa cao dần. Song chim mẹ nghe tiếng động ấy, nghĩ thầm: “Những người này muốn ăn con ta. Ta phải kiếm bạn để cứu nhà ta khỏi hiểm họa này. Ta muốn bảo chim trống đi đến chúa chim Ưng kia”. Rồi chim mái bảo:

– Này chàng, hãy đi báo cho chim Ưng chúa biết mối nguy hiểm đang đe dọa các con ta.

Và nó ngâm vần kệ này:

  1. Dân chúng đang nhen lửa đảo này,
    Ðể ăn bầy trẻ chốc liền đây,
    Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
    Nguy hiểm con ta cấp báo ngay.

Chim trống liền bay hết tốc lực đến chỗ kia và kêu lên để báo hiệu cho nó đến. Khi được phép, nó đến gần Ðại bàng chúa, và kính chào. Chim Ưng chúa bảo:

– Tại sao bạn đến?

Chim trống liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chim chúa là ngài, hỡi chúa công!
    Nay ta tìm chốn chúa an thân,
    Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
    Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng!

– Ðừng sợ – Chim Ðại bàng bảo chim Ưng trống.

Vừa an ủi, nó vừa ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ðúng lúc hay không, bậc trí nhân
    Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
    Vì chim Ưng hỡi, ta hành động,
    Bạn thiện giúp nhau những lúc cần.

Sau đó, chim Đại bàng chúa hỏi tiếp:

– Này bạn, thế dân làng đã trèo lên cây chưa?

– Họ chưa trèo lên, họ chỉ mới chất củi lên để đốt lửa.

– Vậy bạn nên trở về mau và an ủi hiền thê của bạn rồi nói ta đến ngay.

Chim Ưng làm theo lời. Chim Đại bàng chúa cũng đi, và từ một nơi gần cây Kadamba, nhìn đám người ấy leo lên, và đậu trên một ngọn cây. Ngay khi một người trèo lên đến gần tổ chim, chim Ðại bàng chúa liền nhào xuống hồ, dùng đôi cánh và mỏ rảy nước lên đám lửa đang cháy khiến chúng tắt hết. Ðám người ấy trèo xuống, nhóm ngọn lửa khác để nấu bầy chim, rồi khi chúng trèo lên, chim Ðại bàng chúa lại dập ngọn lửa lần nữa. Cứ thế, khi lửa được nhóm lên là chim dập tắtđi, cho đến nửa đêm. Chim Đại bàng chúa đã kiệt sức: lớp da dưới bụng trầy ra xơ xác dần, đôi mắt rướm máu. Thấy thế, chim mái bảo chim trống:

– Này phu quân, Ðại bàng chúa đã mệt lả rồi, hãy đi đến báo cho bạn Rùa, để chim Đại bàng chúađược nghỉ ngơi.

Khi nghe vậy, chim Ưng trống đến gần chim Ðại bàng chúa, ngâm kệ bảo bạn:

  1. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc cần,
    Ngài làm vì xót bạn gian nan,
    Bình an con trẻ, ngài còn sống,
    Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn.

Khi nghe lời này, chim Ðại bàng chúa cất cao giọng sư tử hống ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Khi ta canh giữ ở cây này
    Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
    Ta mất mạng mình vì chúng bạn,
    Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
    Thế nên, bạn hãy làm vì bạn
    Dù chính đời mình kết liễu ngay.

*

Còn vần kệ thứ sáu này do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài, khi Ngài tán thán công đức của chim Đại bàng chúa:

  1. Vương điễu noãn sinh lượn cõi không
    Ðã làm một việc khổ vô cùng,
    Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
    Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an.

*

Sau đó, chim Ưng trống nói:

– Xin hiền hữu chúa chim Ðại bàng hãy nghỉ ngơi chốc lát.

Rồi nó bay đi đến con Rùa, đánh thức Rùa dậy.

– Này bạn, đến có việc gì vậy? Rùa hỏi.

– Có mối hiểm nguy như vậy xảy ra với chúng tôi, và chim Ðại bàng chúa đã chịu khổ nhọc hết sức từ canh một, nay gần kiệt lực, cho nên tôi phải đến gặp bạn.

Cùng với những lời này, nó ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Cho dầu những kẻ bị sa chân
    Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
    Cũng có cơ vươn mình tiến được,
    Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
    Các con ta gặp khi nguy khốn,
    Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
    Hỡi bạn ngâm mình trong đáy nước,
    Giúp nhà tôi, hãy vội lên đàng!

Khi nghe vậy, Rùa ngâm vần kệ khác:

  1. Thiện nhân đối với một thân bằng
    Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
    Vì bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
    Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần.

Chú Rùa con, nằm không xa đó, nghe tiếng cha nói, liền suy nghĩ: “Ta không muốn cha ta phải nhọc sức, mà ta sẽ lãnh phần của cha ta”. Vì vậy, chú ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Xin cha an dưỡng, hỡi cha thân,
    Việc của cha, con sẽ lãnh phần.
    Con phụng sự cha là tốt nhất,
    Con đi cứu cả tổ chim bằng.

Rùa cha đáp lời con qua vần kệ:

  1. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa con,
    Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
    Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
    Vì cha, người thầy lớn khôn ngoan.

Cùng với những lời này, Rùa bảo chim Ưng bay về và thêm:

– Này bạn ơi, đừng sợ. Nhưng bạn cứ đi trước rồi ta sẽ theo sau lập tức.

Rùa lặn xuống nước, lượm một ít bùn, đến đảo dập tắt ngọn lửa và nằm im. Lúc ấy, đám dân làng kêu lên:

– Này, tại sao phải nhọc công về bầy chim Ưng con thế kia? Ta hãy lật con Rùa đáng ghét này lên mà giết nó cũng vừa đủ cho cả bọn ta mà.

Vì thế, họ hái ít cây leo, bện thành sợi dây, nhưng khi họ đã buộc chặt dây ở chỗ nầy chỗ kia rồi, và xé cả áo quần để dùng vào việc này, họ lại không thể lật con Rùa lên được. Con Rùa cứ lôi họ đi theo nó rồi nhào xuống nước sâu. Bọn người ấy nôn nóng bắt Rùa đến độ cũng nhào xuống theo, lội bì bõm, bắn nước lên tung tóe và uống nước đầy bụng. Họ bảo nhau:

– Này cứ xem đi, chim Ưng chúa cứ làm tắt ngọn lửa của ta đến nửa đêm, nay thì con Rùa làm ta rớt xuống nước và uống nước nhiều, thật quá khổ sở. Thôi, ta cố nhen ngọn lửa khác, rồi đến sáng mai sẽ ăn được bầy chim Ưng con.

Sau đó, họ lại bắt đầu nhóm lửa. Chim Ưng mái nghe tiếng ồn áo của bọn người này, liền bảo:

– Này chàng, sớm muộn gì, bọn người này cũng xé xác các con ta rồi mới chịu đi. Vậy chàng hãyđến báo cho bạn Sư tử biết chuyện.

Lập tức, chàng chim Ưng đến gặp Sư tử, Sư tử này hỏi tại sao chim Ưng đến giờ bất thường như vậy. Chim Ưng liền kể cho Sư tử nghe mọi việc từ đầu và ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Oai hùng bậc nhất của muôn loài,
    Loài thú vật kia lẫn mọi người,
    Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
    Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
    Ngài là chúa tể muôn loài đó,
    Vì thế nên tôi phải đến nơi.

Nghe nói vậy, Sư tử ngâm vần kệ nữa:

  1. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn Ưng!
    Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
    Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
    Cần gắng công che chở bạn thân.

Nói vậy xong, Sư tử bảo chim Ưng ra về, còn dặn thêm:

– Thôi, bây giờ hãy về đi và an ủi các con dại.

Rồi Sư tử tiến lên, đập tung tóe nước hồ trong suốt. Khi bọn dân làng thấy Sư tử đến gần, họ sợ chết khiếp cả, liền kêu lên:

– Chim Ðại bàng chúa thổi tắt củi lửa của ta, con Rùa làm ta mất quần áo đang mặc, song giờ đây ta tàn đời rồi! Con Sư tử này sẽ giết chết chúng ta lập tức.

Họ liền chạy tứ tán. Khi Sư tử đến gốc cây, chẳng còn thấy gì nữa. Sau đó chim Ưng chúa, chim Ưng trống, con Rùa đều tiến lên vây quanh Sư tử. Sư tử bảo cho chúng biết ích lợi của tình bằng hữu và nói:

– Từ rày về sau, hãy cẩn thận đừng để tan vỡ mối tình bằng hữu thân ái.

Với lời khuyên này, Sư tử ra đi. Rồi bọn kia cũng về chốn ở của riêng mình.

Chim Ưng mái nhìn con tự nghĩ: “Nhờ tình bằng hữu mà các con ta được trả lại cho ta”. Và trong lúc chim mái vui mừng, nó vừa nói với chim trống, vừa ngâm vần kệ nêu rõ hiệu lực của tình bằng hữu:

  1. Rõ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
    Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
    Tên bắn trên quân bào bất lợi,
    Ta mừng, an ổn các con ta.
  2. Nhờ công giúp của bạn chân tình,
    Chim bạn đến mong góp sức mình,
    Ðối đáp, chim non kêu ríu rít
    Làm say lòng mẹ với âm thanh.
  3. Người khôn nhờ bạn giúp bàn tay,
    Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
    Ta với chồng con cùng đứng vững
    Vì thân bằng hữu mến thương lây.
  4. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
    Những vị tình thân hữu vẹn toàn,
    Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
    Là người hưng thịnh, lắm thân bằng.
  5. Này Ưng, cần phải kiếm thân bằng
    Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
    Nay hãy xem: nhờ tình thắm thiết
    Ta và gia quyến thảy bình an.
  6. Chim Ưng tìm được bậc anh hùng
    Ðể đóng vai chim bạn thiết thân,
    Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
    Chim kia cũng hạnh phúc trong lòng.

Như vậy, chim mái nêu rõ đặc tính của tình bằng hữu qua sáu vần kệ. Từ đó đám bạn hữu sống với nhau suốt đời không làm đứt đoạn sợi dây thân ái, rồi lúc mạng chung, chúng đều đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên người này được hạnh phúc nhờ vợ mình, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, đôi vợ chồng này là đôi chim Ưng, Ràhula (La-hầu-la) là Rùa con, Moggallàna(Mục-kiền-liên) là Rùa cha, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim Ưng chúa và ta chính là Sư tử kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Uddalaka (Tiền thân Uddalaka)

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người gian dối.

Người này, mặc dù đã đặt cuộc đời mình vào Giáo pháp đưa đến giải thoát, trong lúc muốn kiếm lợi dưỡng cần dùng để sống, đã hành động lừa đảo cả ba mặt. Tăng chúng đều rõ ra những ác hạnh của người này trong lúc bàn luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, người đó sau khi đã đặt hết cuộc đời mình vào Chánh pháp của đức Phật đưa tới giải thoát, lại sống lừa dối kẻ khác!

Bậc Ðạo Sư bước vào, và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, kẻ ấy trước kia cũng đã lừa dối rồi.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thưở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-Tát là một vị Tế sư rất thông thái. Một ngày kia, ngài vào vườn hoa để giải trí, chợt thấy một cô gái có sắc đẹp lẳng lơ, đâm say mê nàng và đem nàng về nhà mình chung sống.

Khi thấy mình thọ thai, nàng liền bảo ngài:

– Thưa Ðại quan, thiếp đã có thai, khi sinh con, thiếp muốn đặt tên cho nó theo danh tánh của tổ phụ nó.

Song ngài suy nghĩ: “Chẳng bao giờ tên họ của một dòng quý tộc lại đặt cho đứa con hoang của một nô tỳ”. Vì thế, ngài bảo:

– Này ái nương, cây này tên là Uddala (quế), nàng có thể đặt tên con là Uddalaka vì nó thọ thai ở gốc cây này.

Sau đó, ngài cho nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng và bảo:

– Nếu nó là con gái, hãy dùng chiếc nhẫn này mà nuôi dưỡng nó cho lớn khôn, còn nếu là con trai thì hãy đem đến cho ta lúc nó trưởng thành.

Ðến kỳ hạn, nàng sinh hạ một con trai và đặt tên là Uddalaka. Khi chàng trai lớn lên, chàng hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, cha con là ai thế?

– Là vị Tế sư đấy con ạ.

– Nếu vậy, con sẽ học các kinh thánh.

Thế là khi nhận được chiếc nhẫn từ tay mẹ và số học phí dành cho thầy giáo, chàng lên đường đi đến Takkasilà, và học ở đó với một giáo sư lừng danh thế giới.

Trong thời gian học tập, chàng thấy một đám người tu khổ hạnh. Chàng suy nghĩ: “Ðám người kia chắc chắn phải có kiến thức vẹn toàn. vậy ta muốn học hỏi ở họ”. Vì thế, chàng từ giã thế tục, và vì chàng ước mong được kiến thức, nên làm việc phục dịch các vị này, chỉ yêu cầu các vị ấy dạy lại cho chàng mọi kiến thức thông thái của họ. Thế rồi các vị ấy dạy cho chàng mọi điều hiểu biết, song giữa đám năm trăm người ấy chẳng có ai vượt chàng về kiến thức cả, chàng là người thông thái nhất.

Sau đó, đám người ấy tụ tập lại và bầu chàng làm thầy. Chàng bảo họ:

– Thưa các Tôn giả, các ngài sống suốt đời ở trong rừng ăn toàn hoa quả, củ rừng, tại sao các ngài không đi đến chỗ của người thế tục?

– Thưa Tôn giả, người đời muốn cúng dường chúng ta, nhưng lại muốn chúng ta trả ơn bằng cách thuyết Pháp, họ hay hỏi ta nhiều chuyện lắm. Vì sợ điều này nên chúng ta không muốn đến giữa người đời.

Chàng đáp:

– Thưa các Tôn giả, nếu các ngài có ta cùng đi, thì cứ để một vị Chuyển luân vương cật vấn, một mình ta sẽ giải đáp ổn thỏa, chớ sợ gì cả.

Thế là chàng cùng hội chúng đi du hành khất thực để sống và cuối cùng đến Ba-la-nại, trú ngụ trong vườn ngự uyển. Hôm sau, cùng với cả đám ấy chàng khất thực ở một làng trước cổng thành. Dân chúng bố thí rất nhiều. Ngày hôm sau nữa, các nhà tu khổ hạnh đi qua kinh thành, dân chúng lại bố thí rất nhiều. Vị khổ hạnh Uddalaka nói lời tùy hỷ công đức rồi giải đáp các lời chất vấn. Dân chúng rất hoan hỷ và lại cúng dường phong phú cho hội chúng mọi thứ cần dùng.

Toàn kinh thành vang dậy tin đồn:

– Một vị giáo sư thông thái mới đến, một vị Thánh nhân khổ hạnh.

Và vua nghe được tin đó. Nhà vua hỏi:

– Các vị ấy đang ở đâu?

Dân chúng tâu:

– Trong ngự uyển.

Nhà vua bảo:

– Tốt lắm, hôm nay ta sẽ đi thăm các vị ấy.

Một người đi báo với Uddalaka:

– Ðức vua sẽ đến viếng các Tôn giả hôm nay.

Chàng gọi hội chúng lại và bảo:

– Này các Tôn giả, đức vua sắp đến, hãy chiếm cho được ân vua trong một ngày cũng đủ cho cả đời người.

– Vậy ta phải làm gì, thưa Sư trưởng?

Chàng đáp:

– Một vài vị phải chịu khổ hình treo người lủng lẳng, vài vị ngồi xổm dưới dất, vài vị nữa nằm trên giường chông, vài vị khác chịu khổ hạnh với năm ngọn lửa, thêm vài vị ngâm mình xuống nước và vài vị tụng Thánh kinh ở chỗ này chỗ nọ.

Các vị ấy làm y lời.

Chính chàng cùng độ mười vị hiền giả ngồi trên một chỗ đã soạn sẵn có lót gối dựa, bàn luận với nhau, có một quyển sách đẹp cân xứng nằm trên một cái giá mực sang trọng bên cạnh chàng, và thính chúng vây quanh.

Lúc ấy, vua và vị Tế sư cùng với đám tùy tùng đông đảo bước vào ngự uyển, và vua khi thấy tất cả hội chúng ở đây đang chuyên chú trong dáng điệu khổ hạnh như vậy, vua rất hoan hỷ, nghĩ thầm: “Các vị này đều giải thoát khỏi nỗi lo âu về các cõi dữ ở đời sau rồi”. Khi đến gần Uddalaka, vua ân cần đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Rồi với lòng hân hoan, vua bắt đầu nói chuyện với vị Tế sư và ngâm vần kệ đầu:

  1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
    Miệng thì thầm lời thánh đạo bình an,
    Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
    Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

Nghe vậy, vị Tế sư nghĩ:

– Ðức vua hoan hỷ ở một chỗ đáng lẽ không nên hoan hỷ, vậy ta không được giữ yên lặng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
    Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
    Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

Khi Uddalaka nghe những lời này, liền nghĩ thầm:

“Vua hài lòng về những vị khổ hạnh này, song vị Tế sư lại đụng ngay vào mõm con bò khi chạy quá nhanh, làm rơi đồ dơ vào dĩa cơm đã dọn sẵn, ta phải nói chuyện với vị ấy mới được”. Vì thế, chàng đáp lời ngài qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
    Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
    Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân.

Vị tế sư nghe vậy, liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
    Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
    Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
    Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.

Bấy giờ, Uddalaka suy nghĩ: “Gây gỗ với vị này sẽ không bao giờ ích lợi đâu. Nếu ta bảo ngài: ta chính là con trai của ngài, ngài phải thương yêu ta. Vậy ta phải quyết cho ngài biết ta là con của ngài”. Thế rồi chàng ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
    Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
    Mẹ cha là bản thân con đó,
    Con Ud-da-la chính búp non
    Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
    Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.

– Thế con chính là Uddalaka đấy ư? Ngài hỏi. Chàng đáp:

– Thưa, chính phải.

Sau đó, ngài hỏi:

– Trước kia, ta đã cho mẹ con một vật làm tin, nay nó đâu rồi?

Chàng đáp:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính nó đây!

Rồi chàng trao chiếc nhẫn cho ngài. Ngài nhận ra chiếc nhẫn ấy rồi bảo:

– Con là một Bà-la-môn hẳn nhiên rồi, song có biết phận sự của một Bà-la-môn chăng?

Ngài hỏi về các phận sự này qua vần kệ thứ sáu:

  1. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
    Vị ấy làm sao được thiện toàn?
    Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?

Uddalaka giải thích việc ấy qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
    Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
    Phận sự làm xong, người tán tụng,
    La-môn như vậy được an lòng.

Vị tế sư lắng nghe chàng kể các phận sự của một vị Bà-la-môn như vậy, xong ngài ngâm vần kệ thứ tám để phê bình chuyện ấy như sau:

  1. Rảy nước không làm sạch Ðạo nhân,
    Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
    Cũng không an ổn và thân ái,
    Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn.

Nghe thế, Uddalaka lại hỏi:

– Nếu việc này không làm thành một Bà-la-môn, thế thì việc gì?

Và chàng ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn
    Vị ấy làm sao được thiện toàn,
    Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?

Vị Tế sư đáp lời qua vần kệ khác:

  1. Người không của cải, chẳng nương đồng,
    Không có họ hàng, chẳng ước mong,
    Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
    Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
    Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
    Giữ phận chánh chân, được tán đồng.

Sau đó, Uddalaka lại ngâm kệ nữa:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
    Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?

Khi đó, vị Bà-la-môn kia ngâm vần kệ nêu rõ ràng không có ai cao, ai thấp khi đã đạt Thánh quả:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân.

Song Uddalaka phê bình điểm này bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người này đức hạnh
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
    Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
    Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?

Ðến đây, vị Tế sư ngâm đôi vần kệ nữa, cùng với một ví dụ:

  1. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
    Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
    Ðỉnh tròn, rực rỡ đầy màu sắc,
    Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.
  2. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
    Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
    Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
    Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.

Bấy giờ, Uddalaka không còn nói gì được nữa, nên chàng ngồi yên lặng. Lúc ấy, vị Tế sư Bà-la-môn nói với vua:

– Tâu Ðại vương, tất cả bọn này đều là phường dối trá, toàn cõi Diêm-phù sẽ bị suy tàn vì nạn lừađảo kia. Xin Ðại vương hãy khuyến dụ Uddalaka từ bỏ việc hành trì khổ hạnh của nó và làm Tế sư theo gót hạ thần, lại cho phép đám người này khỏi phải tu tập khổ hạnh, rồi cho chúng đủ gươm, giáo, mộc để làm tùy tùng của Ðại vương.

Vua chấp nhận, làm theo lời ngài dạy và tất cả bọn ấy đều đến phụng sự vua.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên, mà kẻ này trước kia cũng đã làm một tên lừa đảo.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Tỷ-kheo gian dối này là Uddalaka, Ànanda là vua và Ta chính là vị Tế sư.

-ooOoo-

  1. Chuyện củ sen (Tiền thân Bhisa)

Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Trường hợp này cũng sẽ xuất hiện trong số 531, Tiền thân Kusa. Ở đây, một lần nữa, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có đúng là ông đã thối thất chăng?

– Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Vì cớ gì?

– Bạch Thế Tôn, vì ác dục.

– Tại sao, này Tỷ-kheo, ông lại thối thất, sau khi đã hành trì đạo lý này trước khi đưa đến Giải thoát, và tất cả chỉ vì ác dục? Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, những bậc trí nhân khởi đầu cuộc sống tu hành, ngay cả những vị ngoại đạo cũng đã phát hạnh nguyện và đoạn trừ ngay các tưởng khởi lên có liên hệ các dục hoặc sức cám dỗ của dục.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai của một đại danh gia Bà-la-môn có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Gia đình đặt tên ngài là Mahà-Kancana hay Ðại chúa tể Hoàng kim. Vào lúc ngài mới biết đi chập chững, một bé trai khác lại sinh ra đời trong nhà vị Bà-la-môn ấy và được đặt tên là Upa-kancana hay Tiểu chúa tể Hoàng kim. Cứ như vậy, bảy nam nhi liên tiếp ra đời và cuối cùng là một quý nữ, được đặt tên là Kancana-devi hay Công nương Hoàng kim.

Khi Mahà-Kancana lớn lên, ngài đi học tập tại Takkasilà đầy đủ mọi môn học thuật rồi ngài trở về nhà. Lúc ấy, song thân ngài muốn lập cho ngài một gia thất riêng. Hai vị bảo:

– Cha mẹ sẽ tìm cho con một thiếu nữ nhà lành để kết bạn xứng đáng với con, rồi con sẽ yên bề gia thất.

Song ngài đáp:

– Thưa cha mẹ, con không muốn lập gia đình. Ðối với con, ba cõi sinh hữu đều như lửa đốt, bị trói buộc xiềng xích như ngục tù, đáng ghê tởm tựa đống phân. Con chẳng hề có ý nghĩ gì về việc đó, dù chỉ là trong giấc mộng. Cha mẹ có các con trai kia, xin bảo chúng làm chủ gia đình và để cho con yên thân.

Dù hai vị van nài ngài nhiều lần, nhờ bạn hữu của ngài đến năn nỉ ngài tận miệng, ngài cũng chẳng muốn gì về việc ấy cả. Sau đó, bạn bè hỏi ngài:

– Này hiền hữu, thế bạn muốn gì mà bạn chẳng thiết tha đến việc tận hưởng tình yêu và lạc thú?

Ngài bảo họ ngài đã từ bỏ thế tục. Khi song thân hiểu việc này, hai vị đề nghị việc kia với các con trai thứ, nhưng chẳng ai chịu nghe cả, ngay cả nương tử Kancana cũng không. Dần dà cha mẹ qua đời. Trí giả Mahà-kancana làm lễ an táng song thân xong, với kho tàng tám trăm triệu ấy, ngài phân phát hào phóng cho tất cả đám hành khất và du sĩ, rồi ngài đem sáu em trai cùng em gái, một gia nhân và một nữ tỳ cùng một người bạn đường, ngài làm đại sự xuất gia và sống ẩn dật trong dãy Tuyết Sơn.

Tại đó, trên một vùng đất vừa ý gần một hồ sen, các vị xây một khu am thất ẩn cư tu hành và ăn toàn trái cây, củ rừng. Khi họ vào rừng, chỉ đi từng người một, nếu có vị nào thấy trái cây hay lá rau gì liền gọi các vị kia và tại đó, vừa bảo nhau những điều gì nghe thấy được, các vị vừa thu lượm các thức ăn sẵn có, chẳng khác gì cái chợ nhỏ trong làng. Song bậc Sư trưởng, vị khổ hạnh Mahà- kancana lại nghĩ thầm:”Ta đã bỏ qua cả gia sản tám trăm triệu và sống đời tu hành, rồi để ham đi quanh quẩn kiếm trái rừng, thật chẳng hợp lý. Từ nay, ta muốn một mình ta đi lượm trái rừng thôi”. Sau đó, trở về nhà, buổi tối, ngài tập họp mọi người lại và nói cho họ biết ý định của ngài:

– Các em cứ ở đây, và tu tập đời ẩn sĩ, để ta đi hái quả cho các em.

Nghe vậy, Upa-kancana và các người kia ngắt lời:

– Chúng tiểu đệ đã theo hiền huynh đi tu hành, vậy chính hiền huynh phải ở nhà và tu tập đời ẩn sĩ, và hiền muội cũng ở nhà nữa, cùng với nữ tỳ. Tám người chúng em thay phiên nhau đi hái quả, còn ba người ở nhà khỏi làm việc ấy.

Ngài đồng ý.

Từ đó, tám người này thay phiên nhau đem trái cây về từng người một: Các người kia nhận được phần chia trong số kiếm được và mang đi về am thất của mình, rồi ở trong lều tranh riêng của mỗi người. Như vậy, các vị ấy không gặp gỡ nhau nếu không có duyên cớ. Người nào đến phiên mang thức ăn vào để ở một khu đất có rào thì đặt trên một phiến đá phẳng, chia ra mười một phần rồi đánh cồng lên, rồi lấy phần mình đi về nhà mình. Khi nghe tiếng cồng, các vị kia đến, không chen lấn nhau mà theo đúng lễ nghi trật tự, nhận phần mình đã được chia từ các thức kiếm được, rồi trở về nhà mình mới ngồi ăn, và sau đó lại tiếp tục hành thiền, tu tập khổ hạnh.

Sau một thời gian, họ lượm các củ sen để ăn và sống tại đó, tự hành xác với lửa nóng như thiêu như đốt và các loại cực hình khác, nên các giác quan đều tê liệt cả, trong khi họ cố hết sức để nhập định.

Vì công hạnh sáng chói của họ, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ rung động lên. Ngài bảo:

– Các vị này chỉ thoát khỏi tham dục thôi, hay họ là các vị hiền nhân rồi? Họ có phải hiền nhân chăng? Nay ta muốn tìm hiểu xem sao.

Thế là nhờ thần lực của mình, suốt ba ngày, Thiên chủ làm cho phần thực phẩm của bậc Ðạo Sư biến mất.

Ngày đầu tiên, khi không thấy phần mình, ngài nghĩ: “Có lẽ phần của ta đã bị quên mất”. Vào ngày thứ hai: “Chắc hẳn ta có lỗi lầm nào. Chính là vì muốn nhắc nhở ta về điều này một cách cung kính mà người đó không chia phần cho ta”. Vào ngày thứ ba: “Tại sao họ lại không chia phần cho ta như thế được? Nếu ta có gì lỗi lầm thì ta phải hòa giải phần mình trước”.

Vì thế, buổi tối, ngài đánh cồng lên. Tất cả đều đến và hỏi ai đã đánh cồng.

– Này các hiền đệ, chính ta đánh.

– Thưa Tôn giả, tại sao vậy?

– Này các hiền đệ, trong ba ngày qua, ai đem thức ăn vào?

Một người đứng dậy nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy vẫn đứng yên rất cung kính.

– Khi hiền đệ chia phần, có để dành phần cho ta chăng?

– Có chứ, thưa Tôn sư, đó là phần của vị Sư trưởng.

– Còn ai mang về thực phẩm hôm qua?

Một người khác đứng lên và nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy kính cẩn đứng chờ.

– Thế hiền đệ có nhớ phần ta chăng?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

– Thế hôm nay ai đem thực phẩm về?

Một người nữa đứng dậy và kính cẩn đứng chờ.

– Hiền đệ có nhớ chia phần cho ta không?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

Ngài liền bảo:

– Này các hiền đệ, hôm nay là ngày thứ ba ta không có phần ăn. Ngày đầu tiên ta không thấy phần mình, ta nghĩ người nào chia phần đã quên ta. Ngày thứ hai, ta nghĩ chắc ta đã phạm lỗi lầm gì. Song hôm nay, ta quyết định rằng nếu có lỗi lầm gì, ta sẽ hòa giải và vì thế ta đánh cồng triệu tập các tiểu đệ. Các hiền đệ bảo đã để các phần củ sen cho ta mà ta chẳng có được chút gì cả. Ta phải tìm hiểu xem ai đã lấy trộm và ăn hết phần đó. Khi ta đã từ bỏ cuộc đời và mọi tham dục ở đời rồi thì lấy trộm là chuyện không đúng đắn, dù chỉ là một củ sen.

Khi các vị kia nghe thấy lời ấy, họ đồng kêu to:

– Ôi, thật là một việc ác.

Và tất cả các vị đều lo lắng vô cùng.

Lúc bấy giờ, vị Thần trú trên cây gần am thất ấy, đó là cây cổ thụ lớn nhất rừng, bước ra ngồi giữa các vị. Cũng vậy, có một con Voi, không thể nào chịu nổi sự huấn luyện mà không đau đớn, nên phá chiếc cọc ở nơi nó bị trói vào, rồi chạy trốn vào rừng. Thỉnh thoảng, Voi thường đi đến kính lễ đám hiền giả này, nên bây giờ nó cũng đến đứng một bên. Có một con Khỉ đã được huấn luyện để làm trò với bầy Rắn, cũng chạy trốn thoát khỏi tay người luyện rắn vào trong rừng; nó ở tại vùng am thất ấy, nên hôm nay nó cũng đến kính lễ các hiền giả và đứng sang một bên. Thiên chủ Ðế Thích quyết tâm thử các vị ẩn sĩ này nên cũng tàng hình đứng cạnh hội chúng.

Lúc ấy, vị em thứ hai của Bồ-tát, ẩn sĩ Upa-kancana, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngài rồi cúi chào khắp hội chúng và nói như sau:

– Bạch Tôn sư, không kể đến các người kia, tiểu đệ xin được phép thanh minh cho mình khỏi tội này chăng?

– Này hiền đệ, được lắm.

Vị ấy đứng lên giữa các hiền nhân và nói:

– Nếu đệ đã ăn các củ sen của Tôn huynh, đệ sẽ thành một người như vầy như vầy.

Và vị ấy trang nghiêm phát nguyện qua vần kệ đầu:

  1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
    Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
    Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
    Kẻ ăn phần trộm của La-môn!

Nghe thế, các vị tu khổ hạnh kia đều đặt tay lên hai tai và kêu to:

– Không, không thưa Tôn giả, lời thề nguyền ấy quả thật nặng nề lắm!

Và Bồ-tát cũng nói:

– Này hiền đệ, lời nguyền của em nặng lắm đấy! Em không ăn phần đó, thôi, ngồi xuống nệm rơm đi.

Vị ấy, sau khi thề nguyện xong, liền ngồi xuống.

Người em thứ ba đứng lên đảnh lễ bậc Ðại Sĩ và ngâm vần kệ thứ hai để thanh minh cho mình:

  1. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
    Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
    Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Khi vị ấy ngồi xuống, các vị kia lần lượt ngâm vần kệ. Vị thứ tư:

  1. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
    Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
    Nó không hiểu tháng năm dần mất,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Vị thứ năm:

  1. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
    Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
    Thế gian bốn cõi đều phần nó,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!
  2. Mong nó trở thành một Ðạo nhân,
    Mà không chế ngự được tham sân,
    Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
    Ðược hiển vinh nhờ các đế vương
    Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Vị thứ sáu:

  1. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
    Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
    Mong nó được muôn người bái phục,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Vị thứ bảy:

  1. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
    Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
    Khi chết, dục tham không chế ngự,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
  2. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
    Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
    Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Tiểu muội:

  1. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
    Chúa tể thế gian chọn má hồng,
    Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Nô tỳ:

  1. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
    Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
    Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
    Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
    Người đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Thần cây:

  1. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
    Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
    Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðại nhân!

Con Voi:

  1. Mong nó bị người bắt lấy thân,
    Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
    Mang về thành, bị người vây đánh
    Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
    Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Con Khỉ:

  1. Vòng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
    Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
    Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
    Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!

Khi cả hội cùng thề nguyện xong qua mười ba vần kệ này, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Có lẽ chúng tưởng chính ta nói dối rằng không có phần ăn để đó, trong khi nó vẫn có”, vì thế, ngài cũng thề nguyền phần mình qua vần kệ thứ mười bốn:

  1. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
    Mà nếu không mất mát, vậy thời
    Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
    Và mang kết quả việc kia hoài,
    Ước mong cái chết đầy phàm tục
    Số phận dành cho nó cuối đời,
    Ðiều ấy cũng dành cho quí vị,
    Nếu bây giờ quí vị nghi tôi!

Khi các bậc hiền nhân đã thề nguyền như thế xong, Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: “Ðừng sợ gì cả. Ta đã làm cho các củ sen kia biến mất để thử các người này và nay các vị ấy thề nguyền cả, lại đều ghê tởm hành động ấy như thể một cục đờm phải nhổ. Nay ta muốn hỏi các vị tại sao lại ghê tởm dục tham như vậy”. Thiên chủ đặt câu hỏi này để chất vấn Bồ-tát trong vần kệ tiếp, sau khi Thiên chủ đã hiện nguyên hình:

  1. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần
    Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng
    Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
    Như vậy, vì sao các Thánh nhân
    Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
    Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?

Ðể trả lời câu hỏi này, bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tham dục là tai họa chết người,
    Là dây xiềng xích trói trên đời,
    Ở trong ác dục, ta tìm thấy
    Ðau khổ và kinh hãi cả thôi.
    Khi bị dục tham nào cám dỗ,
    Vua thường phạm tội, đắm say hoài!
  2. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
    Gây tội, khi tan rã nhục thân,
    Vì biết khổ đau trong ác dục,
    Bậc hiền chê trách, chẳng đồng lòng.

Khi Ðế Thích Thiên chủ nghe bậc Ðạo Sư giải thích xong, lòng đầy xúc động nên ngài ngâm vần kệ này:

  1. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
    Ta đặt bên hồ các thức ăn,
    Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
    Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!

Nghe thế, Bồ-tát liền ngâm kệ nữa:

  1. Chúng ta không múa rối vui chơi,
    Làm các trò tiêu khiển với ngài,
    Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
    Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
    Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
    Bậc trí bày trò giải trí thôi?

Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai mươi để làm lành với ngài:

  1. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
    Chính ngài là một vị cha thân,
    Chở che cho trẫm đà sai phạm,
    Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm;
    Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
    Bậc hiền lại phát khởi lòng sân!

Bậc Ðạo Sĩ liền tha thứ cho Thiên chủ Ðế Thích và về phần ngài, để hòa giải với các Thánh nhân kia, ngài ngâm vần kệ nữa:

  1. An lạc một đêm với Thánh nhân,
    Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
    Chư Hiền, hãy đẹp lòng khi thấy
    Thực phẩm mất, nay được phục hoàn.

Ðế Thích Thiên chủ liền đảnh lễ hội chúng hiền nhân rồi trở về thiên giới. Còn các vị ấy đã làm cho phát khởi Thiền định và các Thắng trí trong tâm, nên về sau được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy, các bậc trí ngày xưa đã phát hạnh nguyện và từ bỏ ác dục.

Nói xong, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và ngài ngâm ba vần kệ này để nhận diện Tiền thân:

  1. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
    Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
    Cùng với A-nan-đà thuở ấy
    Thất Hiền Huynh Ðệ chốn kia mà.
  2. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
    Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
    Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
    Cit-ta Gia chủ, chính gia nô.
  3. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
    Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
    Ðế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
    Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.

Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4) Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền thân Suruci)

Thiếp là chánh hậu chúa Ru-ci…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú gần Xá-vệ trong tòa nhà của Lộc mẫu, về việc bà nữ cư sĩ đệ nhất Visàkhà này đã được Ngài ban Tám điều Nguyện ước như thế nào.

Một buổi nọ, bà ấy nghe thuyết Pháp ở Kỳ Viên xong, rồi trở về nhà, sau khi mời đức Phật và chúng đệ tử của Ngài đến nhà vào ngày hôm sau.

Nhưng khuya hôm ấy một cơn cuồng phong dữ dội hoành hành cả bốn châu thiên hạ, đức Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo như sau:

– Khi mưa rơi ở Kỳ Viên, này các Tỷ-kheo, thì mưa cũng rơi khắp bốn châu thế giới. Các ông hãy thấm nhuần ơn mưa móc đến tận thịt da: vì đây là cơn đại cuồng phong cuối cùng của Ta thổi khắp thế giới.

Rồi cùng với các Tỷ-kheo thân mình đã thấm ướt nước mưa, Ngài dùng thần lực biến mất khỏi Kỳ Viên và xuất hiện trong gian phòng khách của tòa nhà bà Visàkhà. Bà kêu lên:

– Thật hi hữu thay! Thật linh diệu thay là thần thông lực của đức Như Lai thị hiện! Nước ngập lụt đến tận đầu gối, nước ngập lụt đến tận thắt lưng, mà chẳng có bàn chân hay chiếc y của một Tỷ-kheo nào bị ướt cả!

Trong nỗi hân hoan tràn trề ấy, bà cùng đám tín nữ phục vụ đức Phật và Tăng chúng. Sau buổi thọ thực, bà thưa với đức Phật:

– Thật tình con ước ao nhận được nhiều thỉnh nguyện từ đức Thế Tôn.

– Này Visàkhà, các đức Như Lai có vô lượng ân lành.

– Song những điều thỉnh nguyện này xin được ban cho chúng con, những điều này không lỗi lầm!

– Này Visàkhà, cứ nói đi!

– Con ước ao rằng suốt đời con được quyền dâng áo khoác về mùa mưa cho Tăng chúng, thực phẩm cho các vị khách đến thăm nhà, thực phẩm cho Tăng chúng du hóa đường xa, thực phẩm cho các vị bị bệnh, thực phẩm cho những vị Tỷ-kheo phục vụ các bệnh nhân, thuốc men cho các bệnh nhân, thường xuyên cúng dường cháo gạo và suốt đời cúng dường y phục cho các Tỷ-kheo ni khi đi tắm.

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Này Visàkhà, bà dự định làm công đức gì khi bà thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này?

Bà liền thưa với ngài những lợi lạc mà bà mong có được, và Ngài đáp:

– Lành thay, lành thay, này Visàkhà, thật tốt lành thay là điều lợi lạc mà bà mong sẽ được khi thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này.

Rồi ngài bảo:

– Này Visàkhà, Ta cho bà Tám đặc ân này đó.

Sau khi ban cho bà tám Thỉnh Nguyện ấy xong và nói lời tùy hỷ công đức, Ngài ra về.

Một hôm, khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Ðông Viên, Tăng chúng bắt đầu bàn luận việc này trong Chánh Pháp đường:

– Này hiền hữu, nữ thí chủ Visàkhà, dù là nữ nhân, đã được chính đấng Thập Lực ban cho tám Thỉnh nguyện.Công đức của bà ấy thật cao cả thay!

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên nữ nhân này nhận được những Thỉnh nguyện từ Ta, vì bà ấy xưa kia cũng đã nhận được như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời, có vị vua Suruci trị vì tại Mithilà. Vua này có một vương tử đặt tên là Suruci Kumàra, hay vương tử Huy Hoàng. Khi chàng lớn lên, chàng quyết định đi du học tại Takkasilà, vì thế chàng đến đó và ngồi nghỉ ở một sảnh đường tại cổng thành. Bấy giờ vương tử của vua Ba-la-nại tên là vương tử Brahmadatta cùng đi đến đó, và ngồi nghỉ trên cùng một chiếc ghế dài mà vương từ Suruci đã ngồi. Hai người trò chuyện và kết bạn với nhau, rối cả hai cùng đi đến vị giáo thọ kia. Hai chàng trả học phí và học tập, chẳng bao lâu, việc học đã hoàn tất.

Rồi hai chàng từ giã thầy dạy và cùng nhau lên đường. Sau khi đi một đoạn ngắn, họ dừng lại ở một nơi có ngã rẽ, cả hai ôm nhau từ biệt, và để giữ mãi tình bạn thấm thiết, hai vị giao ước với nhau:

– Nếu ta có con trai và bạn có con gái hoặc bạn có con trai và ta có con gái thì chúng ta sẽ kết đôi cho chúng.

Khi hai vị lên ngôi, vua Suruci sinh hạ một vương tử và cũng đặt tên vương tử là Suruci. Còn vua Brahmadatta sinh con gái đặt tên là Sumedha hay công chúa Thiện Trí.

Vào đúng thời lớn khôn, vương tử Suruci đi đến Takkasilà để học tập và khi việc học hoàn tất, lại trở về. Sau đó vua cha muốn phong vương cho con mình bằng lễ quán đảnh, và nghĩ thầm: “Bạn ta là vua Ba-la-nại đã sinh con gái, ta nghe nói vậy. Nay ta muốn cưới nàng ấy làm vương hậu cho con ta”. Vì mục đích trên, vua phái đám sứ thần đem các sính lễ rất sang trọng ra đi.

Song trước khi sứ bộ đến nơi, vua Ba-la-nại hỏi bà chánh hậu điều này:

– Này ái hậu, điều gì là nỗi khổ đau nhất đối với một nữ nhân?

– Muôn tâu, đó là việc tranh chấp với các thê thiếp khác của chồng mình.

– Vậy thì, này ái hậu, để tránh cho con gái duy nhất của ta là công chúa Sumedha khỏi nỗi khổđau ấy, ta sẽ chẳng gả con cho một ai, ngoại trừ người nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không có thê thiếp khác.

Vì vậy khi các sứ thần đến, và nêu danh hiệu công chúa để cầu hôn, vua bảo họ:

– Này các hiền hữu, quả thực ta đã hứa gả con gái ta cho con của vị vua thân bằng của ta ngày xưa. Song chúng ta không muốn thả con gái vào giữa một đám nữ nhân. Vì vậy chúng ta muốn gả con gái cho vị vua nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không thêm ai khác.

Các sứ giả đem thông điệp ấy về tâu với vua. Nhưng vua này phật ý, bảo:

– Nước ta là một đại vương quốc với kinh thành Mi-thi-là chiếm bảy dặm, toàn thể đất nước gồm cả ba trăm dặm. Một vị đại vương như vậy phải có cả mười sáu ngàn cung phi là ít nhất.

Còn vương tử Suruci vừa nghe danh tiếng dung sắc tuyệt mỹ của công chúa Sumedha liền đâm ra si tình công chúa dù chỉ là nghe đồn thôi, nên chàng nhờ thưa lại song thân là:

– Con quyết sẽ cưới một mình nàng chứ không thêm ai khác nữa. Con có cần gì cả đám nữ nhân kia chứ? Xin đi cưới nàng về ngay.

Hai vị không cản trở ước vọng của chàng, liền gửi sính lễ sang trọng cùng một đám sứ thần đông đảo đi rước nàng về cung. Thế là nàng được phong làm vương hậu và cả hai người đều được tôn lên ngôi bằng lễ quán đảnh (rảy nước lên đầu).

Chàng trở thành quốc vương Suruci, cai trị rất đúng pháp và sống rất hạnh phúc với hoàng hậu. Song dù nàng đã về sống ở nhà chồng đến mười ngàn năm, nàng chẳng hề sinh hạ con trai hay con gái gì cả.

Sau đó, dân chúng tụ tập lại trước sân chầu với những lời trách móc. Vua hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dân chúng tâu:

– Chúng thần chẳng thấy lỗi lầm nào ngoại trừ việc này: Ðó là Chúa thượng không có con trai để nối dõi. Chúa thượng chỉ có một chánh hậu, tuy nhiên một quốc vương phải có ít nhất là mười sáu ngàn cung tần. Xin Chúa thượng hãy tuyển một đám phi tần mỹ nữ, rồi một thứ phi xứng đáng sẽ hạ sinh cho Chúa thượng một hoàng nam.

– Này, các hiền hữu nói điều gì thế? Ta đã hứa không cưới ai khác ngoài hoàng hậu và theo những điều kiện thỏa thuận trên mà ta đã chiếm được nàng làm vợ. Ta không thể nuốt lời được, ta không cần cả một đám nữ nhân đâu.

Như thế vua từ chối lời thỉnh cầu của dân nên họ ra về. Song Sumedha nghe được câu chuyện. Bà nghĩ thầm: “Ðức vua từ chối việc tuyển chọn cung phi vì lòng trung tín của ngài, được rồi, ta sẽ tìm thê thiếp khác cho ngài”. Bà vừa đóng vai người mẹ, cùng vai người vợ đối với vua, nên bà tự nguyện tuyển một mgàn công nương thuộc dòng Sát-đế-ly, một ngàn tiểu thư của các con quan trong triều, một ngàn thiếu nữ nhà lành, một ngàn vũ nữ đủ loại, tổng cộng bốn ngàn, rồi đem dâng vua.

Các nàng ấy sống trong cung suốt mười ngàn năm cũng chẳng hề sinh con cái gì cả. Cứ theo cách ấy, ba lần nữa, bà dâng vua bốn ngàn cung nữ, song họ chẳng sinh được con cái gì. như vậy bà đã dâng vua cả mười sáu ngàn cung tần mỹ nữ. Bốn mươi ngàn năm trôi qua, nghĩa là năm mươi ngàn năm tất cả, tính luôn mười ngàn năm vua đã chỉ sống với một mình hoàng hậu thôi. Sau đó, dân chúng lại tụ tập với những lời trách móc; vua hỏi:

– Cái gì đây nữa?

– Tâu Chúa thượng, xin ngài ra lệnh cho các cung phi cầu tự.

Từ đó, để cầu tự, các nàng cúng bái đủ các loại thần linh và thề nguyền khấn khứa đủ mọi cách, tuy thế, vẫn không có vương tử nào xuất hiện. Rồi vua ra lệnh cho bà Sumedha cũng phải cầu tự, hoàng hậu thỏa thuận.

Vào dịp lễ Trai giới ngày mười lăm (rằm) trong tháng, hoàng hậu giữ hạnh nguyện Bát quan Trai giới và ngồi trầm tư về các công đức trong một cung thất lộng lẫy trên một sàng tọa êm ái. các cung nữ khác đều ở trong ngự uyển, cầu nguyện sẽ cúng tế đủ loại dê bò. Vì công đức sáng chói của hoàng hậu Sumedha nên cung điện của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động.

Ðế Thích Thiên chủ suy xét và hiểu rằng bà Sumedha đang cầu tự. “Ðược rồi, bà sẽ được một hoáng nam. Song ta không thể ban cho bà một hoàng nam này hay một hoàng nam nọ một cách thiếu quan tâm, mà ta muốn đi tìm một vị nào xứng đáng”. Rồi ngài thấy một Thiên tử còn trẻ tên là Nalakàra, Người Ðan giỏ.

Chàng có đầy đủ đức độ thiện hạnh, trong một đời trước đó sống ở Ba-la-nại, thì chuyện này xảy ra cho chàng. Vào mùa gieo hạt, khi chàng ra đồng, chàng gặp một vị Ðộc Giác Phật. Chàng bảo các tá điền gieo hạt, cúng dường một bữa ăn rồi dẫn vị ấy trở lại bờ sông Hằng. Chàng cùng con trai dựng túp lều, trụ bằng thân cây sung và đan kết lau sậy làm vách tường, gắn cửa vào và dọn một lối đi. Chàng mời vị Ðộc Giác Phật ở đó suốt ba tháng và khi hết mùa mưa, hai cha con chàng đắp lên Ngài ba chiếc y rồi để Ngài ra đi. Cùng cách ấy, hai cha con thiết đãi đồ ẩm thực bảy vị Ðộc Giác Phật trong túp lều ấy rồi cúng dường mỗi vị ba chiếc y, xong để các vị ai đi đường nấy.

Vì vậy, dân chúng vẫn kể chuyện hai cha con làm nghề đan giỏ, tìm các cây liễu trên bờ sông Hằng (để lấy gỗ đan giỏ) và hễ khi nào thấy một vị Ðộc Giác Phật thì họ cúng dường như trướcđã nói. Lúc mạng chung, họ được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba, và cứ an trú sáu tầng trời cõi Dục liên tục tới lui theo vòng luân hồi sinh tử, tận hưởng vinh quang tột đỉnh giữa chư Thiên.

Hai vị ấy sau khi mạng chung ở cõi này lại ước mong được lên các thiên giới cao hơn. Ðế Thích Thiên chủ nhận thức rằng một trong hai vị Thiên tử này sẽ thành đức Như Lai, nên Thiên chủ đến cửa cung của hai vị, đảnh lễ vị ấy khi vị ấy đứng lên chào đón Thiên chủ và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài nên sinh vào thế giới loài người.

Song vị Thiên tử bảo:

– Tâu Ðại vương, thế giới loài người đầy hận thù đáng kinh tởm, những người ở đó làm thiện sự và bố thí, cũng đều ước mong được lên thiên giới. Vậy thần xuống đó làm gì chứ?

– Thưa Tôn giả, ngài sẽ được hưởng trọn vẹn mọi lạc thú có thể hưởng được trong nhân giới; ngài sẽ ngự trong một cung điện làm toàn bằng bảo ngọc cao hai mươi lăm dặm. Xin ngài đồng ý cho.

Vị Thiên tử liền chấp thuận. Khi Ðế Thích Thiên chủ đã được vị ấy hứa lời rồi, liền giả dạng một hiền nhân giáng xuống ngự viên, xuất lộ nguyên hình vừa bay lượn trên đầu các cung phi này, vừa ca hát:

– Ta sẽ ban diễm phúc cho ai được một nam tử đây? Ai mong được diễm phúc có một nam tử đây?

– Thưa ngài, xin cho con, xin cho con!

Hàng ngàn cánh tay giơ lên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta sẽ ban các nam tử cho những người đức độ: vậy về công đức các nàng làm được những gì? Cuộc đời các nàng, lối sống các nàng ra sao?

Họ đều hạ tay xuống và thưa:

– Nếu ngài muốn thưởng công cho người đức hạnh thì xin ngài đi tìm chành hậu Sumedha.

Ngài liền bay qua không gian và dừng lại ở cửa sổ cung thất của bà. Khi đó đám cung nữ đến trình với bà:

– Tâu lệnh bà, một vị Thiên chủ đã bay qua không gian và đứng ngay tại cửa sổ cung thất lệnh bà để ban cho lệnh bà diễm phúc được một vương tử!

Bà liền đến đó đón ngài vô cùng trọng thể. Vừa mở cửa sổ ra, bà vừa hỏi:

– Tâu Thiên chủ, tiện thiếp trộm nghe rằng ngài sẽ ban diễm phúc cho một nữ nhân đức hạnh được một nam tử, có đúng vậy chăng?

– Ðúng vậy, ta sẽ làm như thế.

– Vậy xin ngài làm ơn ban cho tiện thiếp diễm phúc ấy.

– Hãy cho ta biết Chánh hậu đã tạo được công đức gì, rồi nếu chánh hậu làm đẹp ý ta, ta sẽ ban cho diễm phúc ấy.

Bà liền ngâm mười lăm vần kệ này nêu rõ công đức của mình:

  1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
    Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
    Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
    Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.
  2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
    Là chính kinh thành của quốc gia,
    Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,
    Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
    Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
    Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.
  3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
    Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
    Trong lúc các ngài còn tại thế,
    Vẫn thường dạy thiếp Ðạo hiền nhân.
  5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
    Quyết lòng hành động chánh chân hoài,
    Ân cần tận tụy hầu hai vị,
    Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.
  6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
    Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
    Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
    Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân.
  8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
    Với mọi cung phi, thắm thiết tình,
    Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,
    Khác nào đối với bản thân mình.
  9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
    Tất cả nơi đây ở hợp quần,
    Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
    Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.
  11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
    Hễ thấy người nào đến khẩn van,
    Thiếp đãi uống ăn đều khắp cả,
    Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.
  13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cấu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
    Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
    Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,
    Bước theo Thánh đạo của hiền nhân.
  15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

Quả thật, dù cả trăm, cả ngàn câu kệ cũng không đủ lời tán thán mọi công đức của bà; tuy thế, Ðế Thích Thiên chủ cứ để cho bà tự tán thán trong mười lăm vần kệ này. Ngài cũng không ngắt ngang câu chuyện, mặc dù ngài còn nhiều việc phải làm ở nơi khác. Sau đó ngài bảo:

– Công đức của Chánh hậu thật là kỳ diệu và sung mãn tràn trề thay!

Rồi ngài ngâm hai vần kệ ca ngợi bà:

  1. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
    Công đức này cao trọng thập toàn
    Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
    Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.
  2. Một hoàng nam chính thống cao sang,
    Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
    Ðại đế Vi-đề-ha chánh trực,
    Sắp ra đời đó chính con nàng.

Khi bà nghe những lời này, bà vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ để hỏi Thiên chủ:

  1. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
    Hình ngài lơ lửng ở trên không,
    Nói bằng một giọng đầy thân ái,
    Lám thiếp cảm rung tận cõi lòng.
  2. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,
    Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
    Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
    Cho biết là ai đó giáng trần?

Thiên chủ đáp lời bà qua sáu vần kệ:

  1. “Thiên nhãn Sak-ka” nàng thấy đây,
    Vì Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
    Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
    Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay.
  2. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,
    Tại đây được thấy giữa trần gian,
    Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
    Với mẹ chồng, như phận sự nàng.
  3. Khi chư Thiên biết một hồng nhan,
    Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
    Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
    Thiên chúng đích thân đến với nàng.
  4. Giữ đời đức hạnh, hỡi Nương nương,
    Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
    Công chúa xuất thân, đà đạt được
    Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.
  5. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng
    Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
    Công chúa, về sau trên thượng giới
    Tái sinh nàng được hóa Thiên thần.
  6. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
    Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,
    Nay lúc ta cần về thượng giới,
    Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.

– Ta còn việc phải làm trên tiên giới-Ngài bảo-Vậy ta đi đây, còn nàng hãy chuyên tâm tinh cần.

Cùng với lời khuyên nhủ này, ngài ra về.

Tảng sáng hôm ấy, Thiên thần Nalakàra được nhập mẫu thai của hoàng hậu. Khi bà biết chuyện ấy, bà liền tâu với vua. Vua làm đủ mọi việc cần thiết cho một thai phụ. Sau mười tháng, bà sinh hạ một vương tử, hai vị đặt tên là Mahà-panàda. Toàn dân của hai quốc độ đều đến kêu lên:

– Tâu Chúa thượng, chúng hạ thần xin mang tiền mua sữa tới tặng hoàng thái tử.

Rồi mỗi người thả một đồng vàng vào trong sân chầu thành một đống tiền lớn. Vua không muốn nhận tiền này, nhưng dân chúng không chịu lấy lại, và tâu với vua khi họ ra về:

– Tâu Chúa thượng, số tiền này để dành cấp dưỡng vương tử khi ngài lớn lên.

Vương nhi lớn lên giữa cảnh huy hoàng và khi chàng đến tuổi trưởng thành, không quá mười sáu, chàng đã kiện toàn tất cả mọi môn học thuật. Vua nghĩ đến tuổi trưởng thành của chàng, bảo hoàng hậu:

– Này ái hậu, khi đến thời làm lễ quán đảnh cho hoàng nhi, ta hãy xây cho con ta một cung điện tuyệt đẹp vào dịp đó.

Bà thỏa thuận hoàn toàn. Vua liền cho triệu các người có tài đoán biết nơi chốn an lành để xây cung điện và họ bảo:

– Này các hiền hữu, hãy tìm một kiến trúc sư thượng thủ và xây cho ta một cung điện không xa cung ta. Cung này dành cho hoàng tử mà chúng ta sắp phong vương để kế vị ta đó.

Họ tâu việc ấy tốt lành thay và bắt đầu đi vào khảo sát mặt đất.

Lúc áy, chiếc ngai của Ðế Thích Thiên chủ nóng rực lên. Nhận thấy điều này, Thiên chủ lập tức triệu Vissakamma-vị Thiên thần chuyên xây dựng đến và bảo:

– Này Hiền giả Vissakamma, hãy xây cho thái thái tử Mahà-panàda một cung điện dài rộng nửa dặm và cao hai mươi lăm đặm, toàn bằng bảo ngọc.

Vissakamma liền giả dạng thợ hồ đi đến gần đám thợ kia bảo:

– Hãy đi ăn sáng xong rồi trở về đây.

Sau khi họ đi khuất cả rồi, vị ấy lấy cây gậy đập xuống đất, lập tức một cung điện hiện ra cao bảy tầng đúng kích thước như trên.

Bấy giờ triều đình cử hành liên tiếp ba đại lễ cho Thái tử Mahà-panàda: Lễ khánh thành cung điện, lễ giương chiếc lọng hoàng gia trên đầu chàng (lễ phong vương) và lễ thành hôn cho chàng. Trong thời gian hành lễ, toàn dân cả hai xứ tụ tập lại tổ chức hội hè yến tiệc suốt bảy năm mà vua cũng không giải tán quần chúng: xiêm y, đồ trang sức, đồ ẩm thực và mọi thứ khác hoàng gia đều cung cấp đầy đủ cả.

Sau bảy năm ấy, dân chúng bắt đầu càu nhàu than phiền và vua Suruci hỏi tại sao, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, trong lúc chúng hạ thần mãi vui chơi hội hè đình đám thì bảy năm đã trôi qua. Thế khi nào thì lễ hội này mới chấm dứt?

Vua đáp:

– Này các hiền hữu, suốt thời gian qua, vương nhi chưa hề một lần nào cười cả. Vậy khi nào vương nhi cười thì ta sẽ giải tán.

Sau đó dân chúng đi đánh trống và tập hợp các người làm trò múa rối nhào lộn lại với nhau. Hàng ngàn người diễn trò kéo đến và chia nhau thành bảy ban ca múa, nhưng họ không thể nào làm vương tử cười được. Rõ ràng chàng là một người đã từng xem múa hát của các vũ thần chốn thiên đình rồi thì không thể nào ham thích được các vũ công hạ giới như thế này.

Sau đó hai tên hề múa rối lanh lợi xuất hiện, đó là Bhandu Kanna và Pandu Kanna tức Tai Cụt và Tai Vàng. Chúng tâu:

– Chúng tiểu thần sẽ làm cho hoàng tử cười.

Bhandu Kanna liền hóa phép ra một cây xoài vĩ đại, mà gã gọi là “Vô song địch”, mọc lên trước cửa cung, sau đó gã ném ra một cuộn dây làm cho nó mắc vào một cành xoài rồi gã trèo lên cây xoài Vô song địch ấy.

Thời bấy giờ người ta bảo cây xoài Vô địch ấy là của Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Bọn nô lệ của thần Vessavana bắt lấy gã, như thường lệ, chặt ra từng khúc và thả xuống đất. Bọn người làm trò ảo thuật kia ghép các khúc đó lại và tưới nước lên. Gã đó liền choàng mớ xiêm y cả bên trong lẫn bên ngoài đều kết bằng hoa rồi đứng dậy bắt đầu ca múa như cũ. Ngay cái cảnh tượng kỳ dị này cũng không làm vương tử cười được.

Sau đó Pandu Kanna chất dầu củi đốt lửa lên trước sân chầu và nhảy vào lửa với đồng bọn múa rối ấy. Khi lửa tan hết, người ta tưới nước vào đó, Pandu Kanna cùng cả bọn lại vùng dậy ca múa với đủ xiêm y từ trong ra ngoài kết bằng hoa! Khi dân chúng thấy họ không thể làm cho vương tử cười được thì họ bực tức lắm.

Ðế Thích Thiên chủ nhận thấy việc này, liền phái xuống một vũ công trên trời, bảo vị ấy làm cho vương tử Mahà-panàda cười. Thế rồi vị ấy đứng lơ lửng giữa không gian trên sân chầu, và biểu diễn một điệu múa gọi là Vũ khúc Bán thân: chỉ một tay, một chân, một mắt, một răng nhảy múa rung rinh, lắc lư qua lại, còn mọi phần kia vẫn trơ như đá!

Khi Mahà-panàda thấy thế thì chàng hơi nhếch mép cười một chút thôi! Còn đám dân chúng đều cười rộ lên từng tràng dài, và không thể nào kềm chế chân tay được nữa, nên họ cứ lăn quay long lóc khắp cả sân rống. Thế là kết thúc hội hè! Phần còn lại:

Ðại đế Pa-nà, chúa đại hùng

Với cung bằng ngọc quý, vàng ròng…

Ðã được giải thích trong Thế Tôn Mahà Panàda (số 264, tập II, Chương III)

Vua Mahà Panàda chuyên tâm làm thiện sự và bố thí nên lúc mạng chung được sinh lên Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, Visàkhà đã nhận được điều ước Ta ban thuở trước kia.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, Bhaddaji là Mahà Panàda, Visàkhà là hoàng hậu Sumedha, Ànanda là Vissakamma và Ta chính là Ðế Thích Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị hành trì trai giới (Tiền thân Pancùposatha)

Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về năm trăm cư sĩ giữ hạnh Bồ-tát giới.

Thời đó người ta nói là bậc Ðạo Sư ngồi trên bảo tọa dành cho đức Phật trong Chánh pháp đường, giữa tứ chúng, nhìn quanh hội chúng với từ tâm, Ngài thấy rằng hôm nay bài thuyết giảng sẽ quay về đề tài chuyện các nam cư sĩ. Sau đó Ngài hỏi hội chúng:

– Các nam cư sĩ có giữ hạnh trai giới (Bồ-tát) chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Họ đáp.

– Lành thay, việc hành trì ngày trai giới là tập tục của các trí nhân tự thuở xưa: Ta bảo là các bậc trí tự ngàn xưa đã hành trì trai giới để nhiếp phục các tham dục.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một khu rừng lớn ngăn chia vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) với hai vương quốc giáp giới nó. Bồ-tát sinh ra ở Ma-kiệt-đà trong một gia đình Bà-la-môn sang trọng. Khi ngài lớn lên, ngài từ bỏ các tham dục và đi vào rừng kia dựng lên một ẩn am và sống tại đó. Bấy giờ không xa nơi am thất ấy có một con Bồ câu rừng sống cùng chim mái, trong một tổ kiến kia có con Rắn, trong bụi rậm nọ có con Chó rừng làm hang ổ và trong một bụi rậm khác lại có con Gấu. Cả bốn con vật này thường đến viếng vị hiền nhân và nghe ngài thuyết Pháp.

Một ngày kia, Bồ câu cùng vợ rời tổ đi kiếm thức ăn. Chim mái bay sau, và khi nó đang bay, một con chim ưng thình lình chụp bắt lấy nó và tha đi. Nghe tiếng kêu thét của chim mái, chim trống quay lại nhìn và thấy chim ưng đang tha vợ nó đi! Chim ưng giết chết chim mái ngay khi nó đang kêu cứu và xé xác ăn ngay. Bấy giờ lòng chim trống nóng như lửa đốt vì thương tiếc chim mái phải bị chia lìa đột ngột với nó như vậy. Rồi chim suy nghĩ: “Ái dục này xâu xé lòng ta đau đớn quá sức chịu đựng; ta không còn muốn đi tìm mồi cho đến khi nào ta thấy được cách nhiếp phục nỗi đau”. Thế là chim bỏ ngang việc kiếm ăn, bay đến tận nhà tu khổ hạnh kia, quyết tâm giữ hạnh nguyện nhiếp phục tham ái và nằm xuống một bên.

Con rắn cũng nghĩ rằng nó muốn kiếm ăn, nên bò ra khỏi lỗ và kiếm được chút gì đó trên lối nó bò đi gần một làng ở biên địa. Vừa lúc ấy, một con bò đực của người lý trưởng, một con vật tuyệt đẹp toàn màu trắng, sau khi gặm cỏ xong, quỳ mọp xuống gần một tổ kiến, lấy sừng hất tung đất lên để đùa chơi. Con Rắn kinh hoảng khi nghe tiếng móng bò sột soạt, phóng đến ẩn mình trong một tổ kiến. Con bò tình cờ giẫm lên Rắn, làm con Rắn tức giận cắn con bò và con bò chết tại chỗ. Khi dân làng khám phá ra con bò đã chết, họ đều vừa chạy vừa khóc than, đem cúng vòng hoa cho bò rất trọng thể rồi mới chôn nó xuống mồ và trở về nhà. Khi dân chúng đã đi hết, con Rắn bò ra và suy nghĩ: “Vì giận dữ, ta đã đoạt mạng sống của con vật này và đã gây bao đau buồn cho nhiều người. Ta chẳng còn muốn đi kiếm mồi bao giờ nữa, cho đến khi ta học được cách nhiếp phục sân hận”. Vì thế nó quay đi về thảo am sĩ kia, và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục sân hận, nó nằm xuống một bên.

Con Chó rừng cũng đi kiếm mồi và thấy một con voi đã chết. Nó vui mừng quá:

– Thức ăn nhiều lắm đây rồi!

Nó kêu lên và đi cắn một miếng vào thân voi, chẳng khác nào cắn vào một thân cây. Nó thấy chẳng thích thú gì cả nên cắn vào chiếc vòi cứ như thể là cắn vào hòn đá.

Nó thử cắn cái bụng – cũng như là cái thúng vậy, nên nó nhào vào đuôi voi – giống như cái bát sắt. Rồi nó chồm lên đít voi và ô kìa! Chiếc mông mềm như chiếc bánh sữa! Nó thích thú quá nên cứ ăn sâu vào trong. Rồi ở đó ăn mãi khi đói, còn khi khát thì uống máu voi. Khi nằm xuống nó trải phần trong ruột và ngực voi ra như cái giường để ngã lưng, nó suy nghĩ: “Ở đấy ta đã tìm được thức ăn uống và giường nằm rồi, vậy còn đi đâu làm gì nữa”.

Thế là nó ở lỳ đó, lòng rất thỏa mãn, trong cái bụng voi và chẳng hề chui ra ngoài lần nào cả. Dần dần xác voi khô cứng dưới sức nắng gió, cái chỗ hở phía sau mông voi khép kín lại. Con chó rừng quằn quại bên trong mất dần máu thịt, thân thể võ vàng, song không tìm được cách thoát ra ngoài.

Rồi một ngày kia, có cơn bão rớt thình lình, cái lỗ hở ấy thấm nước và mềm ra bắt đầu hé miệng. Khi thấy khe hở, Chó rừng kêu lên:

– Lâu nay ta đã bị hành hạ quá nhiều, giờ đây ta phải thoát ra bằng lỗ này.

Rối nó đi ra lỗ đó bằng cái đầu trước tiên. Bấy giờ cái lỗ còn hẹp mà nó ra mau quá nên thân thể bầm dập và lông lá rụng xuống đất. Khi ra ngoài được rồi, nó trần trụi như khúc thân dừa, không còn một sợi lông nào nữa! Nó suy nghĩ: “À, vì tham ăn mà ta ta chịu nông nỗi cực khổ này. Ta chẳng bao giờ muốn đi ra kiếm mồi nữa cho đến khi ta học được cách chế ngự dục tham trong ta”.

Sau đo, nó đi đến ẩn am kia, quyết giữ hạnh nguyện chế ngự dục tham và nằm xuống một bên.

Phần con Gấu ra khỏi rừng và vì lòng tham ăn thúc đẩy nó đi về phía làng biên địa của quốc độ Malla.

– Con Gấu đây này!

Toàn dân làng la to lên, họ bước ra trang bị đầy cung , gậy, giáo và nhiều thứ khác nữa, vây quanh bụi cây mà Gấu đang nằm. Nó thấy mình bị cả đám người vây quanh thì vụt chạy trốn đi. Vừa chạy vừa bị đám người ấy đánh cho một trận nhừ tử bằng cung gậy, về đến hang, nó bị dập đầu và chảy máu. Nó nghĩ thầm: ‘ À, chính vì lòng tham ăn thái quá đã gây cho ta mọi tai họa này. Thôi ta chẳng bao giờ muốn đi kiếm mồi cho đến khi học được cách nhiếp phục lòng tham ấy”. Vì thế nó đi đến thảo am, quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục tính tham lam, và nằm xuống một bên.

Còn vị tu khổ hạnh này không thể phát khởi Thiền định được vì ngài vốn vẫn tràn đầy kiêu mạn về dòng dõi quý tộc của ngài. Một vị Ðộc Giác Phật, nhận thấy ngài đang bị ngã mạn chi phối, tuy vậy, vị này biết rõ ngài không phải là người tầm thường. Vị ấy suy nghĩ: “Người này sẽ thành bậc Chánh Giác, và ngay trong hiện kiếp này người ấy sẽ đạt Tối thắng trí. Ta muốn giúp người ấy nhiếp phục ngã mạn và khiến người ấy tụ tập các Thiền chứng”.

Vì vậy trong khi ngài đang ngồi trong thảo am, vị Ðộc Giác Phật kia từ vùng thượng Tuyết Sơn đi xuống và an tọa trên một phiến đá của nhà tu khổ hạnh. Vị này bước ra thấy vị Phật ngồi trên sàn tọa của mình thì do lòng đầy kiêu mạn, ngài không tự chủ được nữa ngài bước lên búng ngón tay vào mặt vị kia và kêu to:

– Ðồ vô tích sự xấu xa kia, thật đáng nguyền rủa, quân giả dối trọc đầu, tại sao ngươi dám ngồi trên tọa sàng của ta?

Vị kia đáp:

– Bạch Thánh giả, tại sao ngài đầy lòng kiêu mạn thế kia? Ta đã đạt trí tuệ của một Ðộc Giác Phật, nên ta bảo cho ngài biết rằng ngay trong chính hiện kiếp này, ngài sẽ được hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã đủ cơ duyên thành Phật! Khi ngài đã thành tựu Thập hạnh Ba-la-mật và sau một thời gian dài bằng thời kỳ đó trôi qua, ngài sẽ thành bậc Chánh giác, danh hiệu là Siddhatha.

Sau đó vị ấy mới cho ngài biết về danh tánh, dòng họ, gia tộc, các đệ tử, vân vân…và thêm:

– Vậy thì bây giờ tại sao ngài quá kiêu mạn và sân hận như vậy? Việc ấy không xứng đáng với ngài.

Ðó là lời khuyên của vị Ðộc Giác Phật. Nghe những lời này, nhà khổ hạnh chẳng nói gì nữa, cũng chẳng đảnh lễ vị kia, chẳng hỏi xem nơi đâu, bao giờ, và bằng cách nào mình sẽ thành Phật. Sau đó vị khách lại bảo:

– Ngài hãy học cách đánh giá dòng dõi của ngài và thần lực của ta qua việc này, nếu làm được thì hãy bay lên không như ta đây.

Nói vậy xong, vị này bay lên không hất tung bụi bám trên đôi chân mình vào cuốn tóc trên đầu nhà khổ hạnh, rồi lại trở về vùng thượng Tuyết Sơn.

Khi vị ấy đi rồi, lòng nhà khổ hạnh tràn ngập đau buồn. Ngài bảo:

– Ðó là một bậc Thánh, với tấm thân nặng như thế kia mà có thể bay qua không gian như một hạt bông bị gió cuốn! Một vị Ðộc giác Phật như vậy, mà ta chẳng hề hôn chân Ngài, vì ta đây kiêu mạn về dòng dõi của ta, nên cũng không hỏi Ngài xem bao giờ ta sẽ thành Phật. Cái dòng dõi này có làm gì được cho ta đã chứ? Trong thế giới này, cuộc sống thuần thiện chính là một cách thể hiện uy lực, còn lòng kiêu mạn của ta chỉ đưa ta đến địa ngục thôi. Vậy ta sẽ chẳng bao giờ đi kiếm trái rừng nữa, cho đến khi nào ta học được cách nhiếp phục lòng kiêu mạn của ta”.

Sau đó ngài vào thảo am và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục lòng kiêu mạn. Khi tĩnh tọa trên tấm đệm rơm. bậc trí giả quý tộc kia nhiếp phục được lòng kiêu mạn rồi làm phát khởi tâm Thiềnđịnh, tụ tập các Thắng trí và các Thiền chứng xong, liền bước ra ngồi trên phiến đá cuối mái hiên.

Lúc bấy giờ, chim Bồ câu và các con vật kia đứng lên đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên, bậc Ðạo Sư bảo Bồ câu:

– Các ngày kia chim chẳng hề đến đây vào giờ này, mà chim đi kiếm mồi. Vậy hôm nay chim giữ Trai giới đó chăng?

– Thưa Tôn giả, chính vậy.

Ngài hỏi:

– Tại sao thế?

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi,
    Nay Bồ câu chẳng muốn tìm mồi,
    Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
    Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài?

Bồ câu đáp lời qua hai vần kệ:

  1. Xin đầy tham đắm, cặp uyên ương
    Ðùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
    Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
    Chia lìa duyên kiếp đã tan hoang!
  2. Con biết niềm mất mát phủ phàng,
    Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
    Con nhìn mọi vật, lòng đau đớn;
    Vì thế con tìm đến náu nương
    Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
    Chẳng bao giờ trở lại lòng con.

Khi Bồ câu đã tán thán hành động của mình liên quan đến hạnh nguyện ấy, bậc Ðạo Sư lại hỏi câu đó với con Rắn và lần lượt các con vật kia. Mỗi con trong bọn chúng đều nêu lên sự việc như đã xảy ra:

Bồ-tát:

  1. Vật ở cây, bò sát cuộn mình,
    Ðầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
    Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
    Sao đói khát cam chịu cố tình?

Con Rắn:

  1. Con bò thôn trưởng thật oai hùng,
    Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
    Bò gầm lên, con hờn cắn nó,
    Ðau đớn, bò chết ngã lăn đùng!
  2. Dân làng mọi kẻ đổ ra đường,
    Than khóc vì trông thấy tận tường,
    Vì vậy con nương nhờ giới hạnh,
    Thề sân hận chẳng trở về con.

Bồ-tát:

  1. Xác chết, thức ăn quý sẵn đầy,
    Nằm trong nghĩa địa rã tan thây,
    Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
    Sao lại thề tuân giới hạnh này?

Chó rừng:

  1. Tìm được voi và thích thịt ngon,
    Con vào bụng nó ở lỳ luôn
    Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
    Làm héo khô khe hở chó chun!
  2. Tôn giả, con vàng võ, ốm gầy,
    Vì không lối thoát, phải nằm đây,
    Rồi cơn bão nọ bùng vang dội
    Làm ướt, mềm đi ngã hậu này.
  3. Ðể thoát ra, con chẳng chậm đâu
    Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
    Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
    Con nguyện tham tâm tránh chạy mau.

Bồ tát:

  1. Ngài có thói xưa vẫn kiếm mồi
    Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
    Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
    Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi?

Con Gấu:

  1. Bỏ nhà vì quá đói trong lòng,
    Con đến Mal-la, chạy vội vàng
    Dân chúng trong làng đều đổ đến,
    Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn.
  2. Mình con vấy máu, vỡ tan đầu,
    Con chạy về nơi trú ẩn mau,
    Vì vậy con nguyền theo giới hạnh,
    Dục tham chẳng kéo đến ngày sau.

Như vậy cả bốn con vật đều tán thán hành động của chúng trong việc quyết tâm giữ hạnh Trai giới, xong vừa đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo Sư, chúng vừa hỏi ngài câu này:

– Thưa Tôn giả, các ngày trước ngài ra đi kiếm trái rừng vào giờ này. Tại sao hôm nay ngài khôngđi, mà lại hành trì Trai giới?

Chúng liền ngâm vần kệ này:

  1. Ðiều ấy, ngài mong muốn giải bày,
    Mọi điều con biết, đã thưa thầy,
    Song nay đến lượt mình, xin hỏi:
    Tôn giả sao theo hạnh nguyện này?

Bồ tát:

  1. Một vì Ðộc Giác Phật qua đây
    Chốc lát trong am, đã giải bày
    Mọi việc vãng lai, danh tiếng, hiệu,
    Gia đình và đạo lộ sau này.
  2. Ta không quỳ, bởi quá kiêu căng
    Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
    Vì thế, ta nương vào giới hạnh,
    Ðể kiêu căng ấy chẳng đeo gần.

Bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư giải thích việc hành trì hạnh nguyện của mình. Sau đó ngài thuyết giáo cho chúng, bảo chúng ra đi và ngài bước vào thảo am. Các con vật kia trở về chốn ở của mình. Bậc Ðạo Sư không hề gián đoạn tâm Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên. Còn các con vật ấy tuân hành lời thuyết giáo của ngài nên đã lên cộng trú đông đảo với Thiên chúng.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các cư sĩ, giữ hạnh nguyện Trai giới là một tập tục của các bậc trí ngày xưa, và nay các ông phải biết hành trì.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật) là chim Bồ câu, Kassapa (Ca-diếp) là con Gấu, Mục-kiền-liên là Chó rừng, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là con Rắn, và Ta chính là nhà tu khổ hạnh kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora)

Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Bậc Ðạo Sư bảo vị Tỷ-kheo này:

– Có đúng như Ta nghe nói là ông đã thối thất chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

Ngài liền nói:

– Này Tỷ-kheo, chẳng lẽ lòng tham muốn dục lạc này lại không đánh bại một người như ông sao? Trận cuồng phong hoành hành khắp núi Sineru (Tu-di) cũng chẳng nao núng trước một ngọn lá khô đâu. Ngày xưa tham dục này đã đánh bại các bậc thanh tịnh, là những vị đã lánh xa bảy ngàn năm khỏi mọi tham dục khởi lên trong tâm mình.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào bụng một con Công mái ở một vùng biên địa. Khi thai kỳ đã mãn, Công mẹ sinh trứng ở một nơi nó kiếm mồi và bỏ đi xa. Lúc bấy giờ trứng chim công khỏe mạnh chẳng bị tai nạn gì nếu không có những mối hiểm nguy từ loài rắn hay các loài bọ tai hại tương tự như thế.

Vì vậy cái trứng Công này có màu vàng óng như chồi cây Kanikara; khi nó đã đủ thuần thục thì tự nó nứt ra, và một con Công xuất hiện có màu vàng óng ánh, với con mắt như trái Gunja, chiếc mỏ màu san hô, và ba sọc đỏ chạy quanh cổ xuống đến giữa lưng. Khi chim lớn lên, thân mình to bằng chiếc xe đẩy của người bán hàng, trông thật đẹp mắt, nên cả đàn Công màu đen tụ tập lại chung quanh bầu chim Công này làm chim đầu đàn.

Một hôm chim Công đang uống nước trong hồ, nhìn thấy vẻ đẹp của mình liền suy nghĩ: “Ta đẹp nhất trong đám công. Nếu ta ở chung với chúng giữa mọi nẻo đường đời, ta sẽ gặp nguy hiểm. Ta muốn đi xa đến vùng Tuyết Sơn, và ở đó một mình tại một nơi vừa ý”. Thế là về đêm, khi cả đàn công lui về nơi trú ẩn riêng biệt kín đáo, Công ra đi mà không ai biết, về phía khu vực Tuyết Sơn, sau khi băng qua ba rặng núi, Công vào ẩn thân tại rặng thứ tư. Ðây là khu rừng mà Công khám phá ra một hồ thiên nhiên rộng bát ngát phủ đầy hoa sen, không xa một cây đa cạnh một ngọn đồi, Công chúa đậu trên cành cây này. Trong lòng ngọn đồi này có một hang động kỳ thú, và vì muốn ở đó nên Công chúa đậu trên một vùng đất phẳng ngay trước miệng hang.

Lúc bấy giờ không ai có thể trèo đến chốn này được dù từ dưới lên hay trên xuống, cho nên nó tránh khỏi mọi nỗi lo sợ về chim muông, mèo rừng, rắn rít hay loài người. “Ðây là một nơi thích thú dành cho ta!” Công suy nghĩ. Hôm ấy Công ở đó và sáng hôm sau bước ra khỏi hang, Công đậu trên đỉnh đồi hướng về phía đông. Khi Công thấy mặt trời lên, Công tự vệ mình trong ngày sắp đến bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã hiện ra, đấng Toàn tri.

Sau đó Công đi kiếm mồi. Buổi chiều, Công lại trở về đậu trên đỉnh đồi hướng về phía Tây., và khi nhìn thấy mặt trời biến mất dạng, Công tự vệ mình trước màn đêm sắp buông xuống bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã lặn kia, đấng Toàn tri.

Bằng cách ấy cuộc đời Công cứ trôi qua (Xem lại Tiền thân số 159 tập II: Mora Jàtaka).

Song một hôm có người thợ săn ở trong rừng bất chợt thấy Công đang đậu trên đỉnh đồi ấy và trở về nhà. Khi lão sắp chết, lão bảo với con trai về chuyện ấy:

– Này con, trong rặng núi thứ tư của dãy kia, trong rừng có một con Công màu vàng ánh. Nếu nhà vua muốn có một con Công như vậy, thì con biết nơi kiếm nó rồi đấy.

Một ngày kia chánh hậu của vua Ba-la-nại tên là Khema, (Thái Hòa) nằm mộng về tảng sáng, và giấc mộng diễn ra như thế này: “Một con Công màu vàng óng đang thuyết Pháp và bà chăm chú nghe rất hoan hỷ. Khi Công đã thuyết Pháp xong liền bay lên ra đi, bà vội kêu to: “Kìa chúa Côngđang chạy thoát, hãy bắt Công lại ngay!” Và trong khi bà thốt lên các lời này, bà liền thức dậy. Khi tỉnh lại, bà biết đó chỉ là giấc mộng, và suy nghĩ: “Nếu ta trình đức vua đó là cơn mộng, thì ngài sẽ chẳng quan tâm đến, song nếu ta bảo đó là niềm mong ước của một thai phụ thì ngài sẽ lưu ý ngay”.

Thế là bà liền giả bộ làm như thể bà đang khao khát một thứ gì đó theo cách thông thường của một thai phụ, và nằm xuống. Nhà vua đến viếng bà và hỏi bà đau bệnh gì. Bà đáp:

– Thần thiếp đang có một niềm khát vọng.

– Ái khanh ao ước điều gì thế?

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp ước ao nghe lời thuyết Pháp của một con chim Công màu vàng ánh.

– Song, này ái khanh, ta tìm đâu ra được một con chim như vậy?

– Như vậy thì, tâu chúa thượng, thần thiếp sẽ chết mất.

– Này ái khanh, đừng lo buồn chuyện ấy, nếu nơi nào có con chim như vậy thì nó sẽ được bắt về cho ái khanh.

Nhà vua an ủi bà như vậy rồi đi ra ngoài ngồi xuống hỏi các triều thần:

– Này các khanh, chánh hậu ao ước nghe bài thuyết giảng của một con chim Công vàng ánh. Vậy có loại Công vàng ánh ấy chăng?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn biết chuyện đó.

Nhà vua hỏi các Bà-la-môn. Họ đáp như vậy:

– Tâu Ðại vương, theo những vần kệ nói về điềm lành của chúng thần, thì trong loài thủy tộc có cá rùa, cua, trong các loài thú rừng thì có hươu, nai, thiên nga, công, trĩ…các loài đó cùng loài người,đều có thể sinh ra với sắc vàng ánh.

Sau đó nhà vua triệu tập tất cả thợ săn trong quốc độ lại và hỏi họ có bao giờ từng thấy con Công váng ánh chưa. Bọn họ đều trả lời không, trừ người thanh niên đã được cha mách bảo cề chuyện ông ta đã thấy. Gã đáp:

– Chính hạ thần chưa thấy, song thân phụ hạ thần đã bảo cho thần biết một nơi có thể tìm ra một chúa Công vàng ánh.

Nhà vua liền bảo:

– Này hiền hữu, đây là chuyện sống chết của trẫm và chánh hậu; vậy hãy cố bắt lấy Công ấy đem về đây.

Nhà vua cho gã thật nhiều tiền bạc và bảo gã ra đi.

Gã ấy đem tiền về cho vợ con rồi đi đến nơi kia gã thấy bậc Ðạo Sư, gã đặt bẫy bắt ngài. Mỗi ngày gã tự nhủ thầm là chắc chắn sẽ bắt được chim Công; tuy nhiên gã chết đi mà chẳng bắt được Công ấy. Rồi chánh hậu cũng từ trần mà không thỏa tâm nguyện. Nhà vua nổi trận lôi đình và ngài phán:

– Ái hậu của trẫm đã qua đời vì chim Công này.

Rồi nhà vua truyền lệnh chép câu chuyện ấy vào một phiến bằng vàng kể rằng trong rặng thứ tư của khu vực Tuyết Sơn có con chim Công vàng sống ra sao, hễ ai ăn được thịt nó sẽ trường xuân bất tử. Nhà vua đặt phiến vàng ấy trong kho báu và sau đó qua đời.

Kế vị vua ấy, một vua khác lên ngôi, đọc lời lẽ câu chuyện ghi trên phiến vàng nên ước mongđược trường xuân bất tử, liền cho người thợ săn đi bắt chim Công; song nhà vua ấy cũng chết trước khi mãn nguyện giống như vua kia.

Cùng cách ấy, sáu vị vua kế tiếp qua đời và sáu người thiện xạ chết đi mà không được kết quả gì ở khu vực Tuyết Sơn cả. Song người thợ săn thứ bảy, được nhà vua thứ bảy phái đi, không thể nào bắt được chim suốt bảy năm liền mặc dù mỗi ngày gã đều mong đợi chuyện ấy, nên bắt đầu suy nghĩ không biết tại sao lại không thể bắt được đôi chân chim sa vào bẫy.

Vì thế gã ngắm nghía chim, thấy chim cầu nguyện để được phù hộ mỗi buổi sáng tối đều đặn, và gã lý luận về trường hợp này như sau: “Không có con chim Công nào khác ở vùng này, rõ ràngđây đúng là chim Công sống đời thanh tịnh. Chính uy lực đời sống thanh tịnh của chim ấy cùng uy lực của thần chú hộ mệnh đã khiến cho đôi chân chim không bao giờ sa vào bẫy của ta được”. Khi kết luận như vậy rồi, gã đi đến vùng biên địa bắt một con công mái, mà gã luyện cho nó hót tiếng gáy mỗi khi gã búng tay, và xòe cánh múa mỗi khi gã vỗ tay.

Gã đem chim mái trở về, rồi đặt bẫy trước khi Bồ-tát đọc thần chú hộ mệnh, gã búng tay và làm cho công mái gáy. Công trống nghe tiếng gáy ấy lập tức ác dục đã ngủ yên suốt bảy ngàn năm, bỗng vùng dậy như con rắn hổ mang giương mào lên khi bị đánh. Bị ác dục làm cho mê muội, chim Công không thể nào đọc thần chú hộ mệnh nữa, mà vội vàng bay về phía chim mái, từ trên không chim hạ cánh xuống đặt đặt đôi chân ngay vào bẫy: chiếc bẫy kia suốt bảy ngàn năm chẳng đủ uy lực bắt chim, nay đã kẹp chặt lấy chân chim thần.

Khi người thợ săn thấy chim nằm tòn teng ở cuối sợi dây, gã nghĩ thầm: “Sáu người thợ săn trước đã không thể bắt được chim Công chúa này và trong bảy năm liền ta cũng không bắt được nó. Nhưng hôm nay, ngay khi chim đâm si tình chim mái, thì nó không đọc thần chú được, nên sa vào bẫy và bị bắt, nó đang nằm tòn teng với cái đầu lộn ngược kia kìa. Ôi sinh vật mà ta đã làm hại kia thật là đức hạnh! Nếu ta giao một linh vật như vậy cho một người khác chỉ vì bị mua chuộc tiền bạc thì thật là không xứng đáng: Danh vọng của vua chúa có nghĩa gì đối với ta đã chứ? Ta muốn thả chim ấy bay đi”.

Nhưng rồi gã lại nghĩ: “Ðó là một thần điểu kỳ dị phi thường, nếu ta đến gần nó, nó sẽ tưởng ta đến để giết nó, nó sẽ lo sợ cho tính mạng của mình mà vùng vẫy, thì có thể gãy chân hay cánh. vậy ta không muốn đến gần nó, mà chỉ đứng ẩn mình và cắt đứt cái thòng lọng bằng một mũi tên bắn ra. Sau đó chim muốn đi đâu tùy ý”. Thế là gã đứng ẩn mình, giương cung lên, lắp một mũi tên vào dây và kéo ra sau.

Bấy giờ chim Công trống suy nghĩ: “Người thợ săn này đã làm ta mê mệt vì ái dục, và khi thấy ta bị sa bẫy rồi lại không còn quan tâm đến ta nữa. Gã ấy ở đâu kìa?” Chim Công cứ nhìn hướng này hướng nọ, và thấy người kia đứng với cây cung sẵn sàng bắn. “Chắc chắn gã muốn giết ta rồi rađi”. Chúa Công suy nghĩ và sợ chết nên ngâm vần kệ đầu xin tha mạng:

  1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng,
    Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
    Van bạn đem ta về chúa thượng,
    Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang.

Nghe vậy, người thợ săn suy nghĩ: “Ðại khổng tước này tưởng ta sắp bắn nó bằng mũi tên đây. Ta phải trấn an nó mới được”. Vì mục đích ấy, gã ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên cung, ta chẳng ráp tên này
    Ðể bắn chim, Công chúa, ở đây
    Ta muốn cắt dây thòng lọng ấy
    Ðể chim tùy ý, hãy xa bay!

Nghe lời này, chim Công chúa đáp qua hai vần kệ:

  1. Bảy năm theo đuổi, thợ săn này,
    Ðói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
    Bạn muốn gì, nay ta mắc bẫy,
    Vì sao muốn thả để ta bay?
  2. Hiển nhiên mọi vật được an lành,
    Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
    Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
    Muốn ta được thả để bay nhanh!

Thọ săn tiếp theo:

  1. Khi người từ bỏ sát quần sinh,
    Nhờ nó, muôn loài thoát hãi kinh,
    Phước đức nào đời sau sẽ đến,
    Việc này, Khổng tước đáp cho mình.

Công chúa:

  1. Nhờ nó muôn loài thoát hãi kinh
    Khi người thề chẳng sát quần sinh,
    Ðời này nó được nhiều ca ngợi,
    Thiên giới, đời sau hưởng phước lành.

Thợ săn:

  1. Nhiều người nói chẳng có Thiên thần,
    Cực lạc, đời này có thể mang;
    Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
    Vì nhiều bậc Thánh đã cho rằng:
    Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
    Vì thế tôi thường đánh bẫy săn
    Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
    Lời kia xứng đáng để tin chăng?

Lúc ấy bậc Ðạo Sư quyết định giảng cho người này biết quả thực có đời sau, nên trong lúc ngài đang nằm lủng lẳng ở cuối sợi dây, đầu lộn ngược xuống đất, ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðôi vầng nhật nguyệt rõ ràng ràng
    Ði khắp trời cao tỏa sáng quang;
    Người gọi là gì nơi hạ giới,
    Thuộc về cõi khác hoặc trần gian?

Người thợ săn ngâm vần kệ đáp lại:

  1. Rõ ràng nhật nguyệt thấy đôi vầng
    Ði khắp trời cao, tỏa ánh quang;
    Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
    Mà về cõi khác: miệng người trần.

Lúc ấy bậc Ðạo Sư bảo gã:

  1. Vậy chúng đều sai lạc cả bầy,
    Những người gian dối nói như vầy!
    Chẳng vì duyên cớ gì đi nữa
    Lại bảo chỉ riêng thế giới này
    Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
    Còn xem bố thí việc ngu thay!

Trong khi bậc Ðạo Sư nói, người thợ săn suy nghĩ rồi ngâm hai vần kệ:

  1. Ðiều này ngài nói quả là chân,
    Sao có người kia lại bảo rằng:
    “Bố thí không mang về kết quả?
    Rằng đây, ngay ở cõi phàm trần.
    Người ta gặt quả lành hay dữ,
    Bố thí là công việc độn đần?”
  2. Cách nào nên sống, phải làm gì?
    Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
    Công chúa, xin ngài cho lão biết,
    Pháp môn khổ hạnh phải hành trì,
    Cầu mong lão được chim Công chúa
    Cứu khỏi chim vào địa ngục kia!

Khi nghe vậy, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Nếu ta giải đáp vấn đề này cho gã, thì cả thế giới này đối với gã thành ra trống rỗng và hư vọng. Lần này ta sẽ nói cho gã biết bản chất của các Thánh giả Bà-la-môn chân chính”. Với ý định trên, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Người truyền khổ hạnh ở trần gian,
    Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
    Sáng sớm đi ra đường khất thực,
    Không đi chiều tối: chính hiền nhân.
  2. Ðúng thời thăm các thiện nhân vầy,
    Bạn sẽ vui lòng, dẫu hỏi ai
    Giải vấn đề, vì chư vị biết
    Cõi trên kia với cõi đời náy.

Khi nói như vậy ngài muốn cho kẻ kia phải biết kinh sợ cảnh giới địa ngục. Còn người ấy đã đạt đến tri kiến viên mãn của một vị Ðộc Giác Phật, vì người ấy đã sống đến độ tri kiến sắp thành thục, như búp hoa sen tròn đầy sung mãn đợi chờ các tia nắng chiếu vào. Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Ðộc Giác phật. Tri kiến trên của vị này cùng với việc giải thoát bậc Ðạo Sư khỏi cái bẫy kia xảy ra cùng một lúc. Vị Ðộc giác Phật, sau khi đã đoạn diệt mọi dục tham của mình, đang đứng trên bờ sinh tử cuối cùng, liền thốt lên cảm thán nguyện trong vần kệ này:

  1. Như rắn lột quăng lớp vỏ tàn,
    Lá khô cây trút lúc xanh dần,
    Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
    Mãi mãi xa lìa nghiệp thợ săn.

Sau khi thốt lên ý nguyện cao cả của mình, vị ấy suy nghĩ: “Ta vừa được giải thoát khỏi các dây trói buộc của ác dục; song ở nhà ta còn rất nhiều chim đang bị giam cầm, vậy làm thế nào ta giải thoát cho chúng đây?” Vì thế vị ấy hỏi bậc Ðạo Sư:

– Tâu Khổng tước Ðại vương, ta còn giam cầm nhiều chim tại nhà, làm sao ta giải thoát cho chúng được?

Lúc bấy giờ Bồ-tát là bậc toàn tri, có tri kiến tinh thông mọi đường lối và phương tiện hơn cả một vị Ðộc Giác Phật, nên ngài bảo:

– Khi ngài đã phá vỡ sức chi phối của tham dục và thâm nhập tri kiến của một vị Ðộc Giác Phật, nhờ lẽ đó ngài hãy tuyên thệ điều Chân lý, thì trong toàn cõi Diêm phù-đề sẽ không còn sinh vật nào bị giam cầm nữa cả.

Sau đó, vị kia vừa đi vào bằng cánh cửa mà Bồ-tát mở ra như vậy, vừa ngâm vần kệ này tuyên thệ một hành động Chân lý:

  1. Tất cả chim nào ta đã giam
    Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
    Nay ta trả cuộc đời cho chúng
    Về tổ, bầy chim được thoát nạn.

Lúc ấy, nhờ hành động Thề nguyền Chân lý kia, dù đã muộn, tất cả bầy chim cũng được thoát cảnh giam cầm, ríu rít líu lo bay về tổ của mình. Cùng lúc ấy, khắp cõi Diêm-phù-đề tất cả mọi sinh vật đã bị bắt đều được thả tự do, không còn con vật nào sót lại trong cảnh giam cầm cả, dù chỉ là con mèo.

Vị Ðộc Giác Phật ấy giơ tay lên vừa xoa trán mình, lập tức các dấu vết của dòng họ cũ biến mất và dấu hiệu của bậc tu hành xuất hiện vào chỗ ấy. Lúc bấy giờ, vị này trông giống như một Trưởng Lão Tỳ kheo đã sáu mươi tuổi, đắp y đầy đủ, mang tám vật cần thiết (bình bát, ba y, đai lưng, dao cạo, cây kim và cái lọc nước), cung kính đảnh lễ chim Công chúa, và đi diễu quanh ngài, thân hướng về phía hữu, rồi bay vụt lên không gian đến tận một hang động trên đỉnh núi Nanda. Chúa chim Công cũng bay ra khỏi cái bẫy, kiếm mồi và trở về chốn ở của mình.

*

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo Sư ngâm kể chuyện suốt trong bảy năm trời người thợ săn quanh quẩn với chiếc bẫy trong tay và sau đó được giải thoát khỏi khổ đau nhờ chim Công chúa như thế nào:

  1. Thợ săn xuyên suốt khắp rừng cây
    Tìm kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
    Ðã giải thoát đau cho Khổng tước
    Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta là chim Công chúa kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện lợn rừng của thợ mộc (Tiền thân Taccha-Sùkara)

Lang thang tìm kiếm khắp xa gần…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai Trưởng lão.

Người ta đồn rằng khi vua Mah Kosala (Ðai vương xứ Kiều-tát-la) gả con gái cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa), ngài đã chia phần nàng một ngôi làng ở Kàsi để nàng lấy tiền mua dầu thơm tắm gội. Sau khi vua Ajàtasattu (A-xà-thế) sát hại vua cha (Tần-bà-sa), thì vua Pasennadi (Ba-tư-nặc), con của vua Mahà-Kosala phá hủy ngôi làng ấy. Trong các trận chiến xảy ra giữa hai nước về chuyện này, ban đầu chiến thắng thuộc về Ajàtasattu (A-xà-thế). Còn vua Kosala thua trận liền hỏi các vị quân sư:

– Ta lập mưu gì để bắt A-xà-thế được chăng?

Các vị ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, Tăng chúng có đại tài về thần chú. Hãy phái sứ giả đến hỏi ý kiến của Tăng chúng tại tinh xá.

Vua đồng ý việc này. Vì thế vua truyền quân hầu tới, bảo họ đi đến đó, ẩn mình ở nơi kín, để nghe lóm câu chuyện giữa Tăng chúng.

Bấy giờ tại Kỳ Viên có một số đại thần của nhiều vua chúa, đã từ giã thế tục xuất gia. Hai người trong đám ấy là hai Trưởng lão, sống trong môt thảo am ở bên ngoài tinh xá, một vị tên là Trưởng lão Dhanuggaha-tissa, vị kia là Trưởng lão Mantidatta. Hai vị đã ngủ suốt đêm, và thức dậy khi vầng đông vừa hé.

Trưởng lão Dhanuggaha-tissa bảo, trong khi nhóm lửa:

– Thưa Hiền giả Tỷ-kheo Datta.

– Thưa vâng, Hiền giả bảo gì?

– Hiền giả đang ngủ chăng?

– Thưa không, tôi không ngủ. Ta phải làm gì bây giờ?

– Này, vua Kosala thật là một kẻ ngu ngốc bẩm sinh, vua ấy chỉ biết một chuyện là ăn cả đống thức ăn tạp nhạp.

– Thưa Hiền giả muốn nói gì thế?

– Vua ấy đã để cho vua Ajàtasattu đánh bại, mà Ajàtasattu có hơn gì con giun trong bụng vua ấy đã chứ?

– Vậy thì vua ấy phải làm gì đâ?

-Này Trưởng lão Datta, Hiền giả phải biết có ba cách bày binh bố trận: bày binh hình Chiếc xe, bày binh hình Bánh xe, và bày binh hình Hoa sen. Chính là cách bày binh hình Chiếc xe ấy, vua kia phải sử dụng để bắt Ajàtasattu. Vua ấy phải bố trí các dũng sĩ hai bên cạnh mình trên đỉnh đồi, rồi dàn đạo binh chính yếu ra trước mặt trận: một khi vua kia lọt vào giữa rồi và vừa nhảy ra vừa hét lớn, thì họ bắt ngay vua kia như cá nằm trong giỏ. Ðó là cách bắt Ajàtasattu đấy.

Cả đám sứ giả này nghe hết mọi chuyện đó và trở về tâu trình với vua mình, vua lập tức đem một đạo quân lớn ra, bắt được Ajàtasattu làm tù binh và trói lại bằng các dây xích xiềng. Sau khi trừng phạt như vậy vài ngày, vua này thả vua kia ra, khuyên không nên làm chuyện như trước nữa, và để an ủi vua Ajàtasattu , vua lại đem chính con gái mình là công chúa Vajirà gả cho vua Ajàtasattu rồi tiễn đưa về nước rất trọng thể.

Giữa Tăng chúng có lời bàn tán chuyện này rất nhiều:

– Ajàtasattu đã bị vua Kosala bắt sống theo lời chỉ dẫn của Trưởng lão Dhanuggaha-tissa.

Tăng chúng cũng đàm luận việc này tại Chánh pháp đường và khi bậc Ðạo Sư đi vào, Ngài hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng trình với ngài. Sau đó ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu Dhanuggaha-tissa biểu lộ tài nghệ về chiến lược đâu.

Và ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một người thợ mộc sống trong ngôi làng gần cổng thành Ba-la-nại, đi vào rừngđốn củi. Ông tìm được một con Lợn rừng đực rớt xuống hố, liền đem về nhà nuôi nấng và đặt tên là Lợn rừng của Thợ mộc. Con Lợn rừng trở thành tên đầy tớ của ông. Nó nhổ bật cây cối lên bằng chiếc mõm và đem về nhà cho ông, nó buộc cái dây đo đạc quanh mũi nó và kéo lê đi, rồi tìm thấy cái rìu, cái đục, cái vồ ngậm trong miệng.

Khi Lợn rừng khôn lớn, nó thành một con vật lực lưỡng dị thường, người thợ mộc thương yêu nó như con ruột mình, và sợ có ai làm hại nó, nên thả nó vào rùng. Con Lợn rừng suy nghĩ: “Ta không thể sống một mình bơ vơ trong rừng này. Nếu ta kiếm bà con và ở với chúng chẳng hay lắm sao?” Vì thế nó tìm bầy lợn khắp rừng cây, cho đến khi gặp được cả đàn, nó rất vui mừng, liền ngâm ba vần kệ:

  1. Lang thang tìm kiếm khắp xa gần
    Ðồi núi chung quanh, các khóm rừng,
    Thơ thẩn ta đi tìm quyến thuộc,
    Kìa! Ta tìm thấy đám thân bằng!
  2. Ðây, củ quả rừng phong phú sao
    Với kho thực phẩm thật đồi dào!
    Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
    Sống ở đây đời đẹp biết bao!
  3. Ta sống đây toàn quyến thuộc thân,
    Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
    Cũng không lo lắng và kinh hãi,
    Dù chuyện gì do phía địch quân.

Bầy Lợn rừng kia nghe vần kệ này liền đáp lời qua vần kệ thứ tư:

  1. Cừu địch là đây! Ở chốn nào,
    Xin tìm đường lối ẩn thân vào,
    Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
    Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao!

Hỏi:

  1. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
    Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
    Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
    Dù là chưa giết trọn luôn bầy.

Ðáp:

  1. Ðó chính là vua của thú rừng!
    Với răng để cắn, sọc đen vằn,
    Ấy là mãnh thú oai hùng quá,
    Thường giết lợn uu tú nhất đàn!

Hỏi:

  1. Thân thể ta tàn hết lực chăng?
    Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
    Nếu ta chung sức thì nhờ vậy
    Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn!

Ðáp:

  1. Lời nói này nghe tuyệt diệu thay!
    Tượng công, ta thích nói như vầy,
    Ðừng cho chú lợn nào đi trốn,
    Hoặc bị giết sau trận đấu này.

Bấy giờ Lợn rừng của Thợ mộc đã làm cho cả đàn lợn đồng tâm nhất trí, liền nói:

– Khi nào Cọp sẽ đến?

– Hôm nay nó đã đến sớm và bắt mất một con lợn rồi, ngày mai nó lại sẽ đến sớm đấy.

Lợn rừng rất thiện chiến và biết lợi thế để tấn công, vì vậy có thể đạt được chiến thắng. Lợn rừng nhìn quanh tìm một nơi, bảo cả đám ăn uống khi đêm chưa đến, rồi tảng sáng hôm sau nó giải thích cho cả đàn nghe cách giàn binh gồm ba kiểu: đội hình theo Chiếc xe,v.v…

Sau đó, nó giàn binh hình Hoa sen theo cách trên. Ở giữa nó đặt bầy lợn con đang còn bú, chung quanh là mẹ chúng, kế đó là bầy lợn cái không sinh sản, kế nữa là một vòng gồm các lợn mới lớn mập mạp, tiếp đến là bầy Lợn có răng nanh mới nhú, tiếp nữa là bầy lợn có răng nanh đã lớn, cón đám lợn rừng đực già cả ở ngoài cùng. Rồi nó bố trí những tiểu đội chừng mười, hai mươi, ba mươi quân rải rác đây đó. Nó lại bảo chúng đào cho chính nó một cái hố và một hố cho con Cọp rơi vào có hình rổ sàng: giữa hai hố đó có để một dãi đất nhỏ cho nó đứng. Sau đó nó cùng đám lợn đực thiện chiến hùng dũng đi khắp nơi khích lệ cả đàn.

Trong khi nó bận rộn như thế thì mặt trời mọc. Con Cọp vừa ra khỏi vùng thảo am của một nhà khổ hạnh giả danh và xuất hiện trên đỉnh đồi. Bầy lợn rừng kêu to:

– Thưa Chúa công, kẻ thù của ta đã đến.

Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ, hễ nó làm gì, các bạn cứ làm lại hệt như thế.

Con Cọp rùng mình thật mạnh, làm như thể sắp đi, rồi tiểu tiện, bầy lợn cũng làm theo như thế. Con Cọp nhìn bầy lợn rừng và gầm một tiếng thật lớn, bọn chúng cũng làm y như vậy. Nhìn tháiđộ của chúng, con Cọp nghĩ thầm: “Chúng có vẻ thay đổi, hôm nay chúng đối diện ta như một đám kẻ thù trong hàng ngũ chỉnh tề, chắc có một tên thiện chiến nào đó đã tập hợp chúng lại đây; ta không nên đến gần chúng hôm nay”. Vì sợ chết, Cọp cụp đuôi chạy vội về nhà tu hành giả mạo kia và vị này, khi thấy con Cọp đi về tay không, liền ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Cọp thề bỏ giết mọi loài chăng?
    Cọp đã cho muôn vật vạn toàn,
    Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
    Ðàn heo đã gặp, lại xin ăn?

Nghe thế, Cọp ngâm ba vần kệ đáp lời:

  1. Răng của ta không cắn được rồi,
    Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
    Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
    Vì thế ta phiêu bạt lẻ loi.
  2. Xưa, chúng ngược xuôi, bại tẩu nhanh,
    Tìm hang tháo chạy, phách hồn kinh,
    Nhưng nay chúng rống, vòng vây chặt,
    Vô địch, đấu tranh giáp mặt mình!
  3. Bây giờ chúng thỏa thuận đồng tâm,
    Chúng đã bầu lên một tướng quân,
    Chúng hại thân này khi hiệp lực,
    Nên ta thấy chúng, cũng không cần!

Nghe lời này, nhà tu khổ hạnh giả hiệu đáp lời qua vần kệ sau:

  1. Diều hâu đơn độc giết đàn chim,
    Chiến thắng La thần bởi Ðế thiên,
    Khi mãnh hổ nhìn bầy dã thú,
    Lựa con đẹp nhất, giết êm liền!

Sau đó Cọp ngâm kệ:

  1. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa sơn lâm,
    Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
    Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
    Họ hàng hiệp lực để tranh hùng!

Nghe vậy, vị tu hành giả hiệu lại ngâm hai vần kệ để thúc giục nó:

  1. Con chim bé bỏng phủ đầy lông,
    Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
    Tụ tập trên cao thành đám lớn,
    Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không.
  2. Một mình đáp xuống, chú diều hâu,
    Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
    Tàn sát chúng ngay như ý muốn,
    Ðó là cách Hổ phải theo mau!

Nói xong, ông còn khuyến khích Cọp thêm:

– Này Cọp chúa, ngài chưa biết oai lực của ngài đâu. Chỉ một tiếng gầm, một bước phóng mình thôi, là ta dám chắc không sống sót đến hai con lợn nữa đấy!

Con Cọp làm theo đúng như vậy.

*

Bạc đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Với con mắt ác độc thèm ăn,
    Cọp tưởng lời này quả thật chân,
    Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
    Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng!

Vậy là con Cọp quay trở lại và đứng một lát trên đồi. Bầy lợn rừng báo cho Lợn rừng của Thợ mộc biết rằng con cọp lại đến, Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ!

Lợn trấn an chúng và đến đứng bên bờ giữa hai cái hố. Cọp phóng nhanh về phía chú Lợn rừng. Song lợn rừng lăn quay vào hố đầu tiên. Cọp không kiềm hãm được sức phóng của nó, cũng ngã gọn vào trong cái hố có hình như cái sàn quạt lúa. Lập tức lợn rừng nhảy lên đâm sâu răng nanh vào sườn Cọp thấu tận tim nó ra, nhét nó vào hố bên kia, và kêu to:

– Ðó, cứ ăn thịt tên khốn kiếp đi!

Con lợn nào đến trước được ăn thịt cọp thỏa thê, những con đến sau cứ đi quanh mà hỏi:

– Này, thịt Cọp mùi vị ra sao đó?

Lợn rừng của Thợ mộc nhảy ra khỏi hố nhìn quanh cả bọn và hỏi:

– Nào, các bạn chẳng thích thịt đó sao?

Song bọn kia đáp:

– Tâu Chúa công, Chúa công đã trừ được Cọp, đó mới là một tên, tuy thế còn một tên nữa nguy hiểm gấp mười lần Cọp ấy!

– Xin nói rõ đó là ai thế?

– Một vị tu khổ hạnh giả hiệu thường ăn thịt mà Cọp kia vẫn đem đến.

– Vậy thì ta sẽ đi bắt nó mau lên!

Thế là cả bọn cùng ra cùng đi.

Bấy giờ vị khổ hạnh giả hiệu kia đang trông ngóng ra con đường, chờ mong Cọp đến từng phút. Song vị ấy có thấy gì ngoài bầy lợn rừng đâu!- “Chúng đã giết Cọp rồi, chắc thế, và nay chúng lại đến giết ta!” Vị ấy vội chạy trốn và leo lên một cây sung dại. Bầy lợn rừng báo cho chủ tướng:

– Nó đã leo lên cây rồi!

– Ðược lắm, chúng ta sẽ bắt nó tức thì!

Lợn rừng bảo bầy lợn con ủi đất ra khỏi rễ cây, và bầy lợn cái hút thật nhiều nước trong mõm đem về, cho đến khi đứng trơ trụi tận gốc rễ. Sau đó, lợn rừng bảo bọn kia lui ra rồi chú quỳ xuống lấy răng nanh đâm vào rễ cây, chú cắt ngang cả rễ như cái rìu vậy, cây liền ngã xuống song người kia chẳng bao giờ đặt chân xuống đất được, vì đã bị chúng xé tan từng mảnh mà ăn thịt trên đường về.

Vừa chứng kiến việc kỳ diệu hy hữu này, vị Thần cây vừa ngâm kệ:

  1. Bạn bè hiệp lực tựa cây rừng
    Ðó thật là quang cảnh đáng mừng,
    Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
    Giết ngay Cọp chúa trọn thành công.

*

Và bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa nói về cách cả hai con người và vật này bị tiêu diệt như thế nào:

  1. Bầy lợn thế là đã diệt tan
    Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
    Rồi gầm thét, chúng la vang dội
    Trong nỗi lòng vui sướng ngập tràn.

Lần nữa, lợn rừng lại hỏi:

– Thế các bạn còn kẻ thù nào nữa chăng?

– Tâu Chúa công, không.

Sau đó chúng đề nghị làm lễ phong vương quán đãnh cho lợn rừng. Chúng liền đi tìm nước. Khi thấy vỏ ốc mà vị ẩn sĩ giả hiệu ấy dùng để uống, đó là chiếc vỏ sò rất quý với hướng xoắn ốc về phía hữu, chúng liền đổ đầy nước vào vỏ sò, và làm lễ phong vương cho lợn rừng của người Thợ mộc ngay dưới gốc cây sung ấy và tại đó, nước dùng làm lễ quán đảnh được rảy lên đầu lợn rừng. Một ả Lợn cái son trẻ được chúng bầu làm vương phi. Từ đó xuất hiện một phong tục còn thịnh hành mãi cho đến nay, là khi làm lễ tấn phong cho một vị vua, quân thần đặt vua lên ngự trên một chiếc ngai bằng gỗ sung và rảy nước lên một cái vỏ ốc có đường xoắn hướng về phía hữu, đó là một vật rất hiếm và đắt giá, chỉ dùng cho lễ phong vương.

*

Bậc Ðạo Sư cũng giải thích việc này bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Bầy heo ở dưới gốc sung rừng
    Ðổ nước thánh đầy để tấn phong
    Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
    Ðồng hô: “Chúa tể của thần dân!”

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không đâu, này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Trưởng lão Dhanuggaha-tissa chứng tỏ mình có tài tinh thông chiến lược, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là vị khổ hạnh giả danh, Dhanuggatta-tissa là Lợn rừng của thợ mộc và Ta chính là thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị đại thương nhân (Tiền thân Mahà-Vànija)

Từ nhiều quốc độ, các thuơng nhân…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám thương nhân sống ở Xá-vệ.

Tương truyền rằng những người này lúc đi buôn bán xa, đã đem lễ vật cúng dường bậc Ðạo Sư và an trú vào Tam quy cùng Ngũ giới. Họ nói:

– Bạch Thế Tôn, nếu chúng con trở về bình an, chúng con sẽ hôn chân đảnh lễ Thế Tôn.

Họ lên đường cùng với năm trăm cỗ xe chất đầy hàng hóa, chẳng bao lâu vào rừng hoang dã, họ chẳng thấy đường nào đi nữa. Bị lạc đường, không nước uống thức ăn, họ băng qua rừng cho đến khi thấy một cây đa khổng lồ có loài rắn ẩn náu, họ liền thả dây cương xe ngựa ra và ngồi xuốngđó. Nhìn lên đám lá, họ thấy chúng sáng loáng như thể thấm nước, còn cành cây như mọng đầy nước làm cho cả bọn suy nghĩ: “Dường như nước đang chảy trong thân cây này. Ta hãy cắt lấy một nhánh trở về hướng Ðông xem sao? Chắc là có nước để uống”.

Một người trèo lên cây chặt một cành, từ đó một dòng nước chảy ra sền sệt như nước trong thân cây thốt nốt, họ lấy nước rửa mặt và uống. Kế đó họ chặt một cành ở hướng nam, từ đó xuất hiện đủ loại cao lương mỹ vị, họ liền ăn uống. Rồi họ chặt một cành ở hướng Tây này, liền hiện ra một đám nữ nhân xinh đẹp trang sức lộng lẫy, họ vui chơi hưởng lạc với đám nữ nhân kia. Cuối cùng họ chặt một nhánh ở hướng Bắc: từ đó rớt tung tóe bảy báu vật, họ lượm lấy chất đầy năm trăm xe ngựa và trở về Xá-vệ.

Tại đó, họ cho người bảo vệ tài vật rất cẩn thận. Rồi tay mang vòng hoa, hương liệu đủ loại, họ đi đên Kỳ Viên đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cúng dường Ngài xong, liền ngồi xuống một bên. Ngày hôm ấy, họ nghe thuyết Pháp và hôm sau họ đem dâng lễ vật rất hào phóng, mà lại khước từ công đức kia. Họ thưa:

– Bạch Thế Tôn, công đức của lễ vật này chúng con xin nhường lại hồi hướng về vị Thần cây đã ban cho chúng con tất cả tài vật đó.

Khi cơm nước xong, bậc Ðạo Sư hỏi:

Các ông muốn hồi hướng công đức này cho Thần cây nào?

Các thương nhân trình đức Như Lai việc bọn họ đã được cây đa cho kho báu như thế nào , bậc Ðạo Sư bảo:

– Các ông đã nhận được kho báu vật ấy vì cách sống tiết độ của các ông và các ông không buông mình cho dục lạc chi phối; song ngày xưa, có những người không tiết dục, và bị dục tham chi phối, nên chúng mất cả tài sản lẫn tính mạng.

Rồi theo lời thỉnh cầu của bọn kia, Ngài kể cho họ nghe một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, gần bên thành Ba-la-nại cũng có chính khu rừng hoang này cùng cây đa này. Một đám thương nhân đi lạc đường và chợt thấy cây đa ấy.

Với Trí tuệ Viên mãn của ngài, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua các vần kệ sau:

  1. Từ nhiều quốc độ, các thương nhân
    Ðến họp cùng nhau cả một đoàn,
    Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
    Lên đường tìm kiếm một kho tàng.
  2. Ðoàn lữ hành kia thiếu thức ăn
    Ðến rừng khô cháy nắng oi nồng,
    Chợt nhìn thấy gốc đa hùng vĩ,
    Với bóng cây che mát dịu lòng.
  3. Thế rồi dưới tán là cây che,
    Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
    Lý luận như vầy vì ám độn,
    Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê:
  4. “Cây này đầy ẩm ướt bên trong
    Từ đó hình như nước có dòng,
    Ta hãy chặt từ cây một nhánh,
    Cành nào đã mọc hướng về Ðông”.
  5. Cành kia được chặt, nước tuôn dòng,
    Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
    Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
    Uống cho đến lúc thỏa thuê lòng.
  6. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn
    Vì sự ngu si đã cản ngăn,
    Chúng bảo: “Phía Nam còn một nhánh,
    Chúng ta hãy đến cắt nhanh chân”.
  7. Cành này vừa chặt xuống liền mang
    Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
    Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
    Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn.
  8. Bọn thương nhân uống uống ăn ăn,
    Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
    Rồi bảo với lòng đầy ám độn
    Và vì trí tuệ quá nghèo nàn:
  9. “Mau lên các bạn phú thương này,
    Ta hãy cắt cành lá phía Tây”,
    Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
    Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay!
  10. Kìa! Xiêm y có đủ muôn màu,
    Lủng lẳng vòng vàng với bảo châu,
    Trong số cả trăm người mỗi một,
    Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao!
  11. Cùng đứng bên nhau cả bọn này
    Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
    Ðám thương nhân thảy đều vào giữa,
    Ðùa giỡn bày trò thích thú thay!
  12. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn,
    Vì sự ngu si đã cản ngăn
    Chúng bảo: “Bắc phương còn một nhánh
    Chúng ta hãy chặt xuống lìa thân”.
  13. Khi cành hướng Bắc chặt vừa xong,
    Vàng bỗng tuôn ra cả một dòng,
    Bạc chảy đầy tay và thảm quý,
    Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng.
  14. Trang phục Ba-la-nại mượt mà,
    Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
    Thương nhân lúc ấy liền hành sự
    Cuộn hết thành bao lớp lụa là.
  15. Cũng vì ngu muội với si mê,
    Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
    “Ta hãy chặt cây từ gốc rễ,
    Chắc càng thâu của cải tràn trề”.
  16. Kìa vội đứng lên, vị trưởng đoàn
    Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
    “Cây đa làm hại gì chư vị,
    Mong ước trời cho hưởng phước phần!
  17. Cành hướng Ðông cho nước chảy tràn,
    Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
    Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
    Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
    Cây đó hại gì cho quý vị,
    Cầu chư vị hưởng phước trời ban!
  18. Cây này cho bóng mát an nhàn,
    Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
    Không được phá tan cành đổ hết,
    Hành vi bừa bãi thực hung tàn!”
  19. Song ngài chỉ một, chúng từng bầy,
    Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
    Chúng nện những dao rìu sắc bén
    Vào phần gốc để đốn thân cây.

Lúc ấy, Linh xà vương thấy bọn chúng đến gần gốc để đốn ngã cây, liền nghĩ thầm: “Ta đã cho bọn này nước để uống khi khát, lại cho thức ăn thần tiên, bạc chất đầy năm trăm xe, mà giờ đây chúng bảo nhau hãy chặt cây đến tận gốc rễ. Chúng thật tham lam vô độ, và trừ vị trưởng đoàn ra, chúng đều phải chết!” Thế là Rắn chúa tập hợp quân đội Rắn ngay:

– Ta truyền thật nhiều quân sĩ hãy mang giáp bào và đứng ra dàn trận, thật nhiều xạ thủ hãy mang cung, kiếm và mộc che thân sẵn sàng chiến đấu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Rắn mặc giáp bào đủ bách quân,
    Ðứng lên cùng giữ vững sa trường,
    Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
    Trang bị mộc khiên với kiếm thần.

*

Vần kệ sau đây do Rắn chúa ngâm:

  1. Bắn hạ bọn kia, trói chặt mau,
    Chẳng tha mạng sống một tên nào,
    Ðốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
    Như thế hoàn thành việc đã giao.

Bầy Rắn thần làm đúng như vậy. Sau đó chúng chất đầy các tấm thảm từ cành phương Bắc và mọi vật kia lên năm trăm chiếc xe, rồi di chuyển đoàn xe và vị trưởng đoàn lữ hành về Ba-la-nại, cất hết hàng hóa vào nhà ngài và trở về nơi trú ngụ của loài Rắn.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chứng kiến việc này, Ngài ngâm vần kệ khuyên giáo:

  1. Vậy trí nhân nên thấy thiện hành,
    Chẳng bao giờ để bản tâm thành
    Tôi đòi nô lệ lòng tham dục,
    Phá vỡ mục tiêu đối thủ mình.
  2. Bậc trí khi xem việc ác làm
    Khổ đau bắt rễ tự lòng tham,
    Ðoạn trừ tham dục và dây trói,
    Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa các thương nhân bị dục tham trấn áp, nên đã bị hủy diệt tàn khốc, vậy các ông đừng chìu theo lửa dục.

Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, các thương nhân kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Linh-Xà vương, và Ta là vị Trưởng đoàn lữ hành.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại vương Sàdhìna (Tiền thân Sàdhìna)

Việc lạ trên trần đã được xem…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám nam cư sĩ giữ hạnh nguyện Trai giới.

Nhân dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này, các cư sĩ, các trí nhân ngày xưa, nhờ công đức hành trì hạnh nguyện Trai giới mà đã thân hành lên cõi trời và an trú ở đó thật lâu dài.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vua Sàdhìna ở thành Mithilà, cai trị rất đúng pháp. Tại bốn cổng thành, giữa kinh thành cùng cửa cung thất, ngài đều ra lệnh xây sáu bố thí đường, và công đức bố thí của ngài làm chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Mỗi ngày, ngài bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền: ngài giữ Ngũ giới, hành trì hạnh nguyện các ngày Bồ-tát, còn dân trong kinh thành cũng theo lời khuyến cáo của ngài bố thí và làm thiện sự, nên lúc mạng chung đều tái sinh cõi Thiên.

Các vị Thiên tử khi ngồi tụ họp tại Thiện Pháp đường của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, đồng tán thán đời sống đạo hạnh và công đức của vua Sàdhìna. Lời đồn đại về vua này khiến các Thiên thần khác ao ước được gặp mặt ngài. Ðế Thích Thiên chủ biết được tâm tư của các vị liền nói:

– Các hiền hữu ước ao diện kiến vua Sàdhìna phải chăng?

Các vị đồng thanh đáp phải, Thiên chủ ra lệnh cho thần Màtali:

– Khanh hãy đến điện Vejayanta (Tối thắng) của trẫm, thắng ngựa vào thiên xa và đi đón vua Sàdhìna lên đây.

Vị kia tuân lệnh và đi thắng ngựa vào thiên xa để xuống vương quốc Videha.

Ðó là một ngày trăng tròn. Vào lúc dân chúng dùng cơm chiều xong, đang ngồi nhàn nhã trước cửa nhà, thần Màtali lái thiên xa song hành bên cạnh vầng trăng đỏ. Dân chúng đồng reo lớn:

– Xem kìa, có hai mặt trăng trên trời!

Nhưng khi họ thấy thiên xa vượt qua mặt trăng và tiến về phía hạ giới, họ lại kêu lên:

– Không phải mặt trăng, mà là chiếc xe, hình như có vị Thiên tử nào đó. Ngài đang đem chiếc thiên xa này với cả đoàn ngựa thuần chủng, những linh vật ở trong trí tưởng tượng , vậy xe đến đón ai đây? Há không phải là để đón đức vua của ta sao? Phải lắm, đức vua của ta thật là một minh quân chân chánh!

Trong nỗi vua mừng tột độ, họ chắp tay cung kính vái chào và đứng lên ngâm vần kệ đầu:

  1. Việc lạ trên trần đã được xem
    Làm cho dựng đứng tóc người lên:
    Vì mời Ðại đế Vi-đề quốc,
    Phái xuống thiên xa tự cõi thiên.

Thiên sứ Màtali lái thiên xa xuống dần, trong lúc dân chúng chiêm bái với vòng hoa và hương liệu, vị thần này lái ba vòng kinh thành hướng về phía hữu. Sau đó vị ấy tiến đến cung môn, dừng xe lại và đứng yên trước cửa sổ phía tây, tỏ ý muốn đi lên. Lúc bấy giờ là ngày vua đích thân quan sát các bố thí đường, và đã ra lệnh cho đám cận thần phân chia ra sao. Khi xong việc, ngài phát nguyện ngày Trai giới, và cả ngày cứ trôi qua như vậy. Ngay lúc ấy, ngài đang ngồi trên một chiếc ngai lộng lẫy, hướng ra cửa sổ phía đông, với đám triều thần vây quanh, ngài thuyết giảng về lẽ chân chánh và công bình. Chính vào thời điểm này, Màtali đến mời đức vua lên ngự thiên xa, và khi đã xong xuôi, thần cùng ra đi với ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm các vần kệ sau đây để giải thích vấn đề này:

  1. Thiên sứ Mà-ta-li đại cường,
    Vị thần điều ngự ấy vừa mang
    Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
    Ngay tại kinh thành triệu quốc vương:
  2. “Xin tấu Ðại vương, bậc Thánh quân,
    Ngự trên xa giá để theo thần,
    In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
    Chư vị giờ này đang hội họp
    Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân”.
  3. Ðại đế Sà-dhì ngước mắt lên,
    Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
    Thần xa được cả ngàn thiên mã
    Ðồng kéo ngài lên đến cõi thiên.
  4. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
    Thượng khách lên chơi, vội đón mừng:
    “Ðại đế!” đồng hô lời chúc tụng,
    “Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
    Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
    An tọa xin mời đấng thánh nhân!”
  5. Sak-ka chào đón chúa Vi-đề
    Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
    Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
    Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi:
  6. “Giữa các đế vương ở cõi trần
    Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
    Ðại vương an trú cùng Thiên chúng,
    Ðược phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
    Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
    Trên trời Ðao lợi, cảnh thiên đàng!”

Ðế Thích Thiên chủ ban tặng ngài một nửa kinh thành của chư Thiên rộng mười ngàn dặm, nửa số hai mươi lăm triệu Thiên nữ và nửa Cung điện Vejayanta. Ngài ở đó hưởng thọ cực lạc trong suốt bảy trăm năm theo ước tính của loài người.

Rồi khi phước đức của ngài đã tận, theo cách ấy ở thiên giới, nỗi bất mãn khởi lên trong lòng, ngài liền ngâm kệ nói lời này với Ðế Thích Thiên chủ:

  1. Ta hưởng, từ khi đến ngọc đường,
    Ðàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
    Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
    Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
    Hay chính là vì lòng ám độn,
    Làm ta sợ hãi, tấu Thiên hoàng?

Lúc ấy Thiên chủ Ðế Thích đáp lời ngài:

  1. Ðời ngài chưa hết, chẳng lâm chung,
    Ngài chẳng cuồng si, hỡi Ðại nhân,
    Song thiện nghiệp ngài nay đã tận,
    Giờ công đức trước hưởng xong phần.
  2. Song cứ ở đây, hỡi Ðại vương!
    Bởi quyền tối thượng của ta ban:
    Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới trú an.

Tuy nhiên bậc Ðạo Sư chối từ và đáp lại Thiên chủ:

  1. Như lúc thiên xa đã giáng trần,
    Hoặc khi phước lộc được dành phần,
    Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
    Do bởi bàn tay khác thưởng ân.
  2. Ta chẳng cầu mong nhận phước phần
    Do bàn tay kẻ khác thi ân,
    Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
    Thiện sự riêng ta đứng vững chân.
  3. Ta sẽ ra đi tạo việc lành,
    Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
    Tuân theo giới hạnh và tu tập,
    Ðiều phục thân tâm, quyết thực hành,
    Người biết làm vầy là hạnh phúc,
    Chẳng ăn năn hối tiếc phần mình.

Nghe thế, Ðế Thích Thiên chủ liền ra lệnh cho Màtali:

– Này hiền khanh, hãy đi đưa vua Sadhìna về lại Mithilà và đặt đức vua xuống vườn ngự uyển.

Vị Thiên thần tuân lệnh.

Ðức vua đến nơi, bước đi thơ thẩn trong vườn ngự; người giữ vườn trông thấy ngài, và sau khi hỏi ngài là ai, liền mang tin ấy về tâu trình với đương kim hoàng đế Nàrada. Khi vua này biết tin tiênđế trở về trần, liền ra lệnh cho người giữ vườn:

– Ngươi cứ đi trước và sắp đặt hai chiếc ngai, một dành cho tiên đế và một dành cho trẫm.

Người ấy tuân lệnh. Sau đó đức vua Sadhìna hỏi:

– Ngươi soạn hai chiếc ngai vàng cho ai đây?

– Muôn tâu, một chiếc dành cho Hoàng thượng và một chiếc dành cho đức vua của chúng thần.

Lúc ấy Đại đế Sàdhìna bảo:

– Còn ai khác dám ngồi trước mặt ta chứ?

Rồi ngài ngự lên một chiếc ngai và đặt hai chân lên chiếc kia! Vua Nàrada đến gần, sau khi đảnh lễ dưới chân ngài, liền ngồi xuống một bên. Bấy giờ theo truyền thuyết, vua này là vị vua thứ bảy trong dòng dõi chính thống của ngài, và thời ấy, tuổi thọ của con người chỉ là một trăm năm. Còn bậc Đại sĩ đã trường thọ như thế là do công đức thiện nghiệp của ngài. Ngài cầm lấy tay vua Nàrada dạo bước quanh vườn ngự và ngâm ba vần kệ này:

  1. Lãnh thổ là đây, tổ quốc ta
    Máng tròn dẫn nước suối băng qua
    Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
    Khe nhỏ, lạch ngòi vẫn chảy ra
  2. Các hồ diễm lệ lắng nghe vang
    Khi đám hồng nga réo gọi đàn
    Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
    Cây hình đá biến mọc lan tràn
    Song người yêu cánh cùng ta trước,
    Nay ở đâu, lòng ta muốn hỏi han?
  3. Đây là điền thổ ruộng cùng nương,
    Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
    Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
    Tưởng chừng sa mạc quá thê lương!

Nghe vậy vua Nàrada đáp:

– Tâu Hoàng tổ phụ, từ khi tổ phụ thăng thiên giới đến nay đã bẩy trăm năm trôi qua, giờ đây hoàng tôn là cháu bẩy đời của tổ phụ, các vị quan cận thần của tổ phụ đều đã hóa ra người thiên cổ. Nhưng đây chính là vương quốc của tổ phụ, hoàng tôn xin tổ phụ nhận lại đất nước.

Đức vua đáp:

– Này Hoàng tôn Nàrada, ta không đến đây để rồi lên làm vua nữa đâu, mà ta đến đây để làm thiện sự và ta sẽ làm thiện sự thôi.

Rồi ngài ngâm kệ như sau:

  1. Ta đã nhìn cung điện cõi trời
    Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
    Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi
    Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi.
  2. Ta hưởng bao hoan lạc tuyệt trần,
    Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
    Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
    Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng.
  3. Ta ngắm xong và đã tái hồi
    Để thi hành thiện sự mà thôi
    Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
    Ta chẳng màng gì đến chiếc ngôi.
  4. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
    Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
    Đường đó giờ đây ta tiến bước
    Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.

Bậc đại sĩ đã nói như vậy với Trí tuệ Tối thắng của ngài và làm cô đọng tất cả ý nghĩ qua các vần kệ trên. Sau đó vua Nàrada, một lần nữa lại thưa với ngài:

– Xin Hoàng tổ phụ nhận lấy quyền cai trị vương quốc.

Và ngài đáp:

– Này Hoàng tôn yêu quý, ta không thiết gì vương vị đâu, song ta lại muốn phân phát trong vòng bẩy ngày tất cả tài vật cần được bố thí trong bảy năm qua.

Vua Nàrada lãnh ý, và làm như ngài yêu cầu, truyền chuẩn bị vô số của cải để phân phát rộng rãi.Đức tiên đế bố thí trong bẩy ngày xong xuôi, vào ngày thứ bảy ngài băng hà và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

*

Khi bậc Đạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Việc hành trì hạnh nguyện ngày Trai giới là bổn phận cần phải giữ gìn.

Và Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, một số nam cư sĩ đắc Sơ quả Dự Lưu, một số khác đắc Nhị quả Nhất Lai. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy, Ànanda là vua Nàrada, Anuruñha (A Na Luật) là Sakha (Đế Thích) Thiên chủ và Ta chính là vua Sàdhina.

-ooOoo-

  1. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn ( Tiền thân Dasa-Bràhmana)

Đại Đế Yud-dhi thật chánh chân …..

Chuyện này Bậc Đại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một lễ vật cúng dường tối thượng.

Truyện này đã được giải thích trong số 424. Tiền thân Aditta của Chương VII. Ta biết rằng nhà vua trong lúc thực hiện việc cúng dường này đã quan sát kỹ lưỡng năm trăm vị Tỳ kheo với đức Phật là vị thượng thủ và đã dâng lễ vật lên các bậc Thánh cao trọng nhất trong Tăng chúng.

Sau đó Tăng chúng ngồi trong Chánh pháp đường và nói về công đức của vua ấy như sau:

– Này Hiền hữu Tỳ kheo, vị vua này trong lúc dâng lễ vật tối thượng đã cúng dường các vị đủ đạo cao đức trọng.

Bậc Đạo Sư bước vào và hỏi các vị bàn luận gì trong lúc ngồi tại đây, các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, thật không kỳ diệu gì ngày nay vua Kosala đã là đệ tử của một Đạo Sư như ta, lại cúng dường có phân biệt rõ ràng. Ngay các bậc hiền trí xưa kia, trước khi đức Phật xuất hiện ở đời, cũng đã cúng dường có phân biệt.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện qúa khứ.

*

Một thuở nọ trong quốc vương Kuru và kinh thành Indapatta, có vua Koravya cai trị, thuộc dòng dõi Yuddhitthila. Còn quốc sư về thế sự cũng như thánh sự của vua là vị đại thần mệnh danh Vidhùra (bậc Hiền Trí). Vua thực hành đại bố thí làm chấn động khắp cõi Diêm phù đề (Ấn Độ), nhưng trong số những người thọ hưởng các thí vật này không có ai là người giữ đúng Ngũ giới, tất cả bọn chúng đều là độc ác trên phương diện làm người, nên việc bố thí của vua không làm tâm ngài thỏa mãn. Ngài suy nghĩ:” Kết quả của việc cúng dường có phân biệt thật là vĩ đại thay”. Và với lòng ước ao cúng dường các bậc có đức độ cao cả, ngài quyết định hỏi ý kiến bậc hiền nhân Vidhùra. Vì thế khi quốc sư Vidhùra vào chầu vua, ngài mời vị này ngồi xuống và đưa vấn đề ra hỏi vị này.

*

Để trả lời việc này, bậc Đạo Sư ngâm vần kệ đầu. Phần sau là phần vấn đáp giữa nhà vua và Vidhùra:

1- Chúa thượng Yu-dhi thật chánh chân
Một hôm hỏi ý bậc hiền nhân:
“Vi-dhù, tìm các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn.

2- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn.

Trí giả Vidhùra nói:

3- Thật khó tìm Hiền thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.

4- Giữa đời mười loại Bà la môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn:

5- Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.

6-Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

7- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

8- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí Giả Vidhùra nói:

9- Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang

10-Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

11- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

12- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

13- Với bình nước uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
” Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường”.

14- Họ quấy rầy các thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

15- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

16- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

17- Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.

18- Là bọn tiều phu! Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

19- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

20- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

21- Am-lạc, Vil-va, đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,
Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ còn kia, họ bán hàng.

22- Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

23- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

24- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

25- Những người làm ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng.

26- Giống bọn con lai đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

27- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

28- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

29- Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.

30- Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

31- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

32- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

33- Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành.

34- Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

35- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

36- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

37- Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang.

38- Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

39- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

40-Chư vị đoạn tham dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Trí giả Vi-dhù nói:

41- Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn.

42- Thợ cạo khác gì? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Như vậy sau khi miêu tả các loại Bà la môn chỉ mang hư danh mà thôi, bậc Trí giả nói tiếp để miêu tả các vị Bà la môn theo đúng ý nghĩa cao cả nhất trong hai vần kệ:

45-Song các La môn , Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.

46- Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?

Khi vua nghe các lời này, liền hỏi:

– Này hiền hữu Vidhùra, các vị Bà la môn này xứng đáng cúng dường tối thượng ở đời, hiện nay các vị đang ở đâu?

– Tâu Đại vương, ở trên dãy Tuyết sơn xa xôi kia, trong hang núi Nanda.

– Vậy thì, này bậc trí giả, hãy dùng uy lực của ngài, mang các vị Bà la môn ấy đến ngay đây cho trẫm.

Rồi trong nỗi hân hoan tột độ, vua ngâm vần kệ này:

47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa? Hãy lên đường!

Bậc Đại sĩ chấp thuận làm theo lời vua yêu cầu, và nói thêm:

– Bây giờ, tâu Đại vương, hãy truyền lệnh cho đánh trống khắp kinh thành, loan báo rằng toàn thành phải trang hoàng rực rỡ, toàn dân phải bố thí, và hành trì ngày Trai giới, nguyện giữ mình đức độ, và chính Đại vương cùng cả triều đình cùng phát nguyện giữ ngày Trai giới.

Còn chính ngài ngay từ tảng sáng, sau khi điểm tâm xong, liền phát nguyện giữ ngày Trai giới,đến chiều, ngài bảo đem đến một giỏ hoa lài. Rồi cùng vua, đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất và khi ngài vừa nhớ lại những công đức của các vị Độc Giác Phật, ngài vừa khấn vái lời này:

– Kính thỉnh năm trăm đức Độc Giác Phật đang trú trong vùng Bắc Tuyết Sơn, hang núi Nanda, ngày mai xin các Ngài hạ cố hưởng thọ thực phẩm của triều dình.

Ngài thả tám nắm tay đầy hoa lên không gian, lập tức các hoa này rơi trên năm trăm vị Độc Giác Phật, vào đúng nơi các ngài đang an trú. Các ngài ấy suy xét và thấy ngay sự việc kia, liền nhận lời mời và bảo nhau:

– Này các Tôn Giả, chúng ta được vị hiền nhân Vidhùra mời đến, vị này không phải người phàm tục đâu, ngài có hạt giống Phật trong mình, nên ngay trong kiếp này, ngài sẽ thành Phật. Chúng ta hãy tỏ lòng kính mến đặc biệt với ngài.

Bậc Đại sĩ hiểu các Ngài đã chấp thuận lời mời, bằng chứng là các hoa kia không bay trở lại. Sau đó, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, ngày mai các vị Độc Giác Phật sẽ đến, vậy hãy lo cung thỉnh các vị trọng thể và dâng lễ cúng dường.

Ngày hôm sau đức vua đón tiếp các Ngài vô cùng trọng thể, sửa soạn các bảo tọa để các Ngài ngồi trên một cái bệ uy nghi cao cả.

Các vị Độc Giác Phật ở Hồ Anotatta, đợi cho đến lúc cảm thấy đói bụng, liền du hành qua không gian và giáng hạ, ngay sân chầu của hoàng cung. Vua cùng Bồ Tát đầy lòng thành tín, đón lấy các bình bát từ tay các Ngài và thỉnh chư vị đi lên chiếc bệ đài hoa kia, mời an tọa, rảy nước cúng dường lên tay chư vị, rồi phục vụ các Ngài các thực phẩm thượng hạng đủ loại cứng và loại mềm. Sau buổi thọ thực, vua lại mời các Ngài đến ngày hôm sau và cứ thế trong bẩy ngày liền, dâng cúng các Ngài nhiều lễ vật, và vào ngày thứ bẩy vua cúng dường đủ mọi vật thiết. Lúc ấy chư vị nói lời tùy hỷ với vua xong, liền bay qua không gian trở về nơi trú ngụ cũ, còn các vật cúng dường cũng đều bay theo các Ngài.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỳ Kheo, thật chẳng kỳ lạ gì việc vua Kosala nay là đệ tử của Ta đã cúng dường Ta lễ vật tối thượng, vì các bậc trí nhân ngày xưa ở thời chưa có đức Phật, cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, và bậc Trí giả Vidhùra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện cúng thực phẩm đúng cấp bậc (Tiền thân Bhikkhà-Parampara)

Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao…..

Chuyện này Bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị điền chủ.

Người ấy là một tín đồ mộ đạo, thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Như Lai và Tăng chúng. Một hôm ông suy nghĩ như sau: “Ta thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Phật là ngôi báu và Tăng chúng là một ngôi báu nữa, bằng cách cúng dường thực phẩm thượng vị và y phục. Nay ta muốn tỏ lòng cung kính trọng thể Pháp Bảo: Song làm cách nào để cúng dường ngôi báu ấy?”

Vì vậy ông đem nhiều vòng hoa thơm và hương liệu, đi về phía Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Đạo Sư và hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, ước nguyện của con là cúng dường Pháp Bảo, vậy làm sao một người có thể thực hiện việc ấy?

Bậc Đạo Sư đáp:

– Nếu tâm nguyện của ông là cúng dường trọng thể ngôi Pháp Bảo thì ông hãy cúng dường trọng thể cho Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp (Dhamma-Bhandàgàrika):

– Lành thay! Ông đáp và xin hứa sẽ thực hiện việc ấy.

Ông đi mời Tôn giả Ànanda đến viếng nhà mình, rồi hôm sau rước Tôn giả về nhà với lễ nghi vô cùng huy hoàng trọng thể. Ông mời Tôn giả ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy và cúng dường Tôn giả vòng hoa thơm cùng hương liệu rồi thiết đãi đủ loại cao lương mỹ vị, lại dâng loại vải vóc rất sang trọng vừa đủ cho ba y. Tôn giả liền suy nghĩ:”Vinh dự này dành cho Pháp Bảo; nó không thích hợp với ta, mà thích hợp với vị Tướng quân Chánh pháp (Dhamma-Senàpati)”.

Thế là đặt thực phẩm vào bình bát và cầm vải vóc, Tôn giả đem đến tinh xá, tặng lễ vật cho Tôn giả Sàriputta. Tôn giả này cũng nghĩ như vậy: “Vinh dự này dành cho ngôi Pháp Bảo, nó không thích hợp với ta, mà nó chỉ thích hợp duy nhất với bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đấng Pháp vương “. Và Tôn giả dâng nó lên đấng Thập lực. Bậc Đạo Sư thấy không còn ai trên Ngài nữa, nên thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải vóc để làm ba y.

Sau đó Tăng chúng bàn luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Này các hiền giả Tỳ kheo, thế là vị điền chủ kia muốn tỏ lòng cung kính trọng vọng đối với Chánh pháp nên cúng dường Tôn giả Ànanda là vị Thủ Kho Chánh pháp. Tôn giả này nghĩ mình chưa xứng đáng với lễ vật ấy nên trao lại vị Tướng quân Chánh pháp. Tôn giả này cũng nghĩ mình không xứng đáng nên dâng lên đức Như Lai. Còn đức Như Lai, thấy không còn ai trên Ngài, biết rằng Ngài xứng đáng với lễ vật ấy ở vị trí đấng Pháp vương, nên Ngài đã thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải để làm ba y kia. Như vậy thực phẩm cúng dường đã tìm được chủ nhân nhờ đi đến đúng người có quyền thọ hưởng.

Bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi ở đây. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm cúng dường đến đúng vào phần của người xứng đáng bằng những cấp bậc tiến lên tuần tự, mà ngày xưa, trước thời đức Phật cũng thế.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, vua Brahmadatta trị vì rất chân chánh tại Ba La Nại, sau khi đã đoạn trừ các ác nghiệp và hành trì Thập vương pháp. Vì thế, tòa án xử kiện của vua trở nên trống rỗng, vua muốn tìm kiếm cho ra lỗi lầm của mình, cứ hỏi han mọi người, bắt đầu với những người ở chung quanh ngài, nhưng không nơi nào, dù trong các hậu cung, trong kinh thành hay các thôn làng lân cận, ngài tìm được nguời nói một lỗi gì cho ngài cả. Sau đó, ngài quyết định đi thăm dò dân chúng vùng quê. Vì thế, sau khi giao quyền trị nước cho các triều thần, ngài đem vị Tế sư đi theo ngài. Hai vị cải trang du hành xuyên qua quốc độ Kàsi; tuy thế, ngài cũng không thấy ai nói về ngài vì một lỗi gì cả.

Cuối cùng , ngài đến một làng ở biên địa, ngồi ở một sảnh đường không có cổng vào. Thời đó, một vị điền chủ của làng ấy là một phú ông giầu có đến tám trăm triệu đồng tiền, đi cùng một đám tùy tùng đông đảo đến một bến tắm, thấy vua ngồi trong sảnh đường kia với thân tướng cao sang và sắc da vàng óng. Ông sinh lòng yêu mến ngài, liền đi vào sảnh đường và bảo:

– Hãy ngồi đây một lát.

Sau đó ông về nhà, bảo soạn sẵn đủ loại thực phẩm thượng vị, rồi trở lại với đám tùy tùng đông đảo mang theo các bình bát đựng thức ăn.

Cùng lúc ấy, một vị tu khổ hạnh từ vùng Tuyết Sơn đi xuống cũng ngồi xuống đó, vị này đã chứng được năm Thắng trí. Và một vị Độc Giác Phật, cũng từ hang núi Nanda hạ sơn đến ngồi đó. Vị điền chủ kia đưa nước cho vua rửa tay rồi dọn một đĩa thức ăn thượng hạng đủ loại gia vị thơm ngon và đặt trước mặt vua. Ngài nhận và trao cho vị Tế sư Bà la môn, vị Tế sư cầm lên trao cho nhà tu khổ hạnh. Nhà tu khổ hạnh bước đến gần vị Độc Giác Phật, tay trái cầm bình đựng thức ăn, tay phải cầm bình nước, trước tiên rót nước cúng dường (như chuyện trước), rồi đặt thức ăn vào bát vị này. Vị ấy liền ăn ngay, không mời ai cùng chia phần với mình hay xin phép gì cả.

Khi bữa xong, vị điền chủ suy nghĩ: “Ta dâng thức ăn lên đức vua, ngài trao cho vị Tế sư, vị Tế sư trao cho vị tu khổ hạnh, vị tu khổ hạnh lại trao cho vị Độc Giác Phật, và vị Độc Giác Phật đã thọ thực ngay mà không xin phép ai nữa. Việc cúng dường này có ý nghĩa gì chăng? Tại sao vị cuối cùng thọ thực và không cần xin phép ai hay nhờ ai cho phép? Ta sẽ hỏi lần lượt các vị này”.

Rồi vị ấy lần lượt đến gần mỗi người, đảnh lễ xong liền nói câu ấy và được các vị trả lời:

Phú ông hỏi:

1- Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quá thật thanh tao.

2- Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.

3- Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?

Đức vua đáp:

4- Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật tình.

Phú ông hỏi:

5- Dù vua cũng trọng Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?

6- Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Tế sư đáp:

7- Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn.

8- Vói người khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.

Phú ông hỏi:

9- Nay ta xin hỏi bậc hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.

10- Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?

Vị khổ hạnh đáp:

11- Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô dòn.

12- Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.

13- Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng.

Phú ông hỏi:

14- Xin hỏi, ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.

15- Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Độc Giác Phật đáp

16- Không nấu, cũng không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.

17- Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.

18- Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.

Khi nghe những lời này, vị điền chủ vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ cuối cùng:

19- Thật là ta được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy.

20- Đế vương với các Bà la môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các trí nhân tìm cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát lòng tham.

Khi vị Độc Giác Phật thuyết giáo cho vị kia xong, liền trở về cõi của Ngài và vị tu khổ hạnh cũng thế. Còn nhà vua, sau vài ngày ở lại với vị điền chủ, cũng trở về Ba la nại.

*

Khi bậc Đạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm đến tay người xứng đáng, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, người điền chủ đã tôn trọng cúng dường Pháp là người điền chủ trong chuyện này, Ànanda (A -nan) là vua, Sariputta (Xá lợi phất) là Tế sư và Ta chính là vị tu khổ hạnh trên vùng Tuyết Sơn.

-ooOoo-

Chương XV

Phẩm Hai Mươi Bài Kệ

497- Chuyện bậc Hiền trí Màtanga (Tiền thân Màtanga)

Lão từ đâu đến, đắp y dơ…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về vua Udena.

Vào thời ấy, Tôn giả Pindola Bhàradvàja phi hành từ Kỳ Viên qua không gian, thường đến tránh cơn nóng ban ngày trong vườn ngự uyển của vua Udena nước Kosambi. Chuyện kể rằng Tôn giả này trong một đời trước đã làm vua, và thọ hưởng một thời gian dài cảnh vinh quang phú quý trong chính vườn ngự uyển kia cùng đám hầu cận. Nay nhờ công đức thiện nghiệp ông đã tạo được, nên ông thường đến tọa Thiền tại đây, tránh cơn nóng ban ngày và hưởng được cực lạc do chứng đắc Thánh quả.

Một hôm ông vào chỗ đó ngồi dưới một cây Sala đang trổ hoa sung mãn, thì vua Udena đi vào vườn với một đoàn tùy tùng đông đảo. Suốt bảy ngày trước vua uống rượu say nên muốn vào ngự viên giải trí. Vua nằm trên vương sàng trong cánh tay của một nàng cung nữ và được dỗ dành cho chóng ngủ thiếp đi. Sau đó đám nữ nhạc ngồi ca hát quanh vua đặt nhạc khí xuống, vừa đi quanh quẩn trong vườn ngự uyển vừa nhặt hoa trái. Dần dần họ thấy vị Trưởng lão ấy nên bước lên,đảnh lễ vị ấy và ngồi xuống. Vị Trưởng lão ngồi tại chỗ đó thuyết pháp cho họ nghe. Nàng cung nữ kia đổi cánh tay để thức vua dậy, vua hỏi:

– Bầy tiện tỳ kia đi đâu cả rồi?

Nàng đáp:

– Chúng đang ngồi vòng quanh một nhà tu khổ hạnh.

Vua nổi cơn thịnh nộ, đi đến gặp vị Trưởng lão và mạ lỵ phỉ báng:

– Đi ngay, ta muốn kẻ kia phải bị bầy kiến xé xác ra!

Thế là trong cơn thịnh nộ, vua truyền đem một thúng kiến đỏ đến rải tung trên thân thể vị Trưởng lão. Song vị này đã bay lên không gian, và thuyết giáo cho vua xong, trở về Kỳ Viên hạ xuống trước cổng Hương phòng. Đức Như Lai hỏi:

– Ông từ đâu đến?

Tôn giả ấy kể lại sự việc trên. Ngài bảo:

– Này Bhàradvàja, đây không phải là lần đầu tiên vua Udena nổi sân hận và lăng mạ một kẻ tu hành, mà trước kia cũng đã như thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba La Nại; bậc Đại sĩ sinh làm con trai của một người Chiên đà la (Candàla: hạ đẳng tiện dân) ở ngoại thành, họ đặt tên ngài là chú voi Màtanga. Sau đó ngài thông đạt trí tuệ, danh tiếng lan truyền khắp nơi là bậc Hiền trí Màtanga.

Lúc bấy giờ có một nàng tên Dittha- Mangalikà (Người thấy các Điềm lành), con gái của một vị thương nhân thành Ba La Nại, cứ một hoặc hai tháng một lần, thường vào ngự viên vui đùa cùng đám bạn đồng hành đông đảo.

Một ngày kia, bậc Đại sĩ đi vào thành, liền gặp Dittha-Mangalikà, ngài bước sang một bên vàđứng im phăng phắc. Từ sau búc màn, Dittha trông thấy ngài và hỏi:

– Ai đó?

– Thưa cô nương, một kẻ Chiên đà la.

– Hừ, nàng đáp,- ta đã thấy nhằm một vật mang điềm xui xẻo.

Rồi nàng rửa mắt bằng nước hoa và quay đi. Đám người đi với nàng la lớn:

– Này tên bần cùng hèn hạ kia, mày đã làm chúng ta mất phần cơm rượu miễn phí hôm nay.

Trong cơn giận dữ, họ lấy tay chân đấm đá bậc Hiền trí Màtanga, khiến cho ngài bất tỉnh rồi bỏđi. Sau một lát ngài hồi tỉnh và nghĩ thầm: “Đám người đi theo Dittha-Mangalika đã vô cớ đánhđập ta, một kẻ vô tội. Ta quyết sẽ không nhúc nhích cho đến khi ta chiếm được nàng, chẳng chịuđi trước một chút nào cả”.

Với quyềt định này, ngài bước đi đến trước cửa nhà cha nàng. Khi đám gia nhân hỏi tại sao ngài nằm đó, ngài đáp:

– Ta chỉ muốn được nàng Dittha-Mangalikà mà thôi.

Một ngày trôi qua, rồi hai, ba, tư, năm, sáu, quyết định của chư Phật thường thường không sao lay chuyển được; vì thế vào ngày thứ bẩy họ phải đem cô gái ra trao cho ngài. Sau đó nàng bảo:

– Nào đứng lên chàng ơi, ta cùng đi về nhà chàng đi!

Song ngài đáp:

– Cô nương ôi, ta vừa bị bọn người nhà nàng đánh đập nên thân, nay ta yếu lắm, nàng hãy cõng ta trên lưng và mang đi.

Nàng làm theo lời ấy ngay trước mặt mọi người dân trong thành và nàng cứ tiến dần từ thành đô đi đến vùng tiện dân Chiên đà la cư trú.

Ở đó trong vài ngày, bậc Đại Sĩ giữ nàng lại mà không chút nào xâm phạm các luật lệ của giai cấp. Rồi ngài suy nghĩ: “Chỉ bằng cách từ bỏ thế tục, chứ không còn cách nào khác, ta mới có thể cho cô nương này thấy cảnh vinh hiển tột bậc và cho nàng hưởng những lễ vật cao sang nhất”. Vì thế ngài bảo nàng:

– Này nương tử, nếu ta không vào rừng kiếm ăn thì chúng ta không thể sống được. Vậy ta muốn vào rừng, nàng hãy đợi cho đến khi ta về; song đừng có lo âu gì cả.

Ngài ra lệnh cho gia nhân không được sao nhãng đối với nàng, rồi đi vào rừng, sống cuộc đời người tu hành, rất nhiệt tâm tinh tấn; vì vậy trong bẩy ngày, ngài tu tập và thành tựu Tám thiền chứng và Năm thắng trí. Sau đó ngài suy nghĩ: “Nay ta đã có thể bảo vệ Dittha-Mangalikà được rồi”.

Nhờ thần thông lực, ngài trở về và hạ xuống cổng làng Chiên đà la, từ đó đi vào nhà Dittha Mangalikà. Khi nghe tin ngài trở về, nàng bước ra và òa lên khóc bảo:

– Tại sao chàng bỏ thiếp và đi tu khổ hạnh?

Ngài đáp:

– Này nương tử, đừng lo gì cả. Nay ta có thể làm cho nàng vinh quang hơn trước kia nữa! Vậy nàng có chịu nói lên giữa mọi người đúng lời này: Phu quân ta không phải là Màtanga, mà là một đấng Đại Phạm thiên chăng?

– Thưa phu quân được, thiếp xin nói điều ấy.

– Tốt lành thay, khi dân chúng hỏi: Chồng nàng đâu? Nàng trả lời: Chàng đã đi lên Phạm Thiên giới. Nếu họ lại hỏi: Thế khi nào chàng về? Nàng phải đáp: Trong bảy ngày nữa, chàng sẽ về, xuyên qua mặt trăng tròn đầy của đêm rằm.

Cùng với những lời này, ngài đi vào vùng Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, Dittha Mangalikà nói nhữngđiều nàng đã được căn dặn khắp nơi ở Ba la nại giữa quần chúng đông đảo. Dân chúng tin ngay lời ấy , bảo nhau:

– Ngài là đấng Đại Phạm thiên, nên đã không đến thăm viếng Dittha, nhưng mọi việc sẽ như vầy như vầy.

Vào đêm trăng rằm, trong lúc vầng trăng đang di chuyển nửa vời, Bồ Tát hóa thành một vị Phạm thiên ở giữa luồng ánh sáng tràn ngập vương quốc Kàsi và kinh thành Ba la nại đến mười hai dặm, băng ngang qua mặt trăng và giáng trần. Ngài đi vòng quanh kinh thành Ba la nại ba lần, được dân chúng đông đảo tỏ lòng sùng bái bằng các vòng hoa thơm và hương liệu khác rồi quay mặt về hướng ngôi làng Chiên đà la.

Những người ngưỡng mộ Phạm Thiên tụ tập cùng nhau đi về phía làng Chiên đà la ấy. Họ bao phủ căn nhà của Dittha Mangalikà bằng màu vải trắng tinh, lau sàn nhà bằng bốn loại hương thơm, rải hoa khắp nơi, đốt trầm hương, trương một tấm vải làm mái che, đặt một bảo tọa rực rỡ, thắp đèn dầu thơm, rắc lớp cát mịn như phiến bạc rồi treo đèn kết hoa và cờ xí rợp trời.

Trước gian nhà được trang hoàng lộng lẫy thế kia, bậc Đại Sĩ bước vào và ngồi một lát trên bảo tọa. Lúc ấy Dittha-Mangalìka đang có kinh kỳ. Ngài lấy ngón tay trỏ rờ vào rốn nàng và nàng thụ thai. Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nàng:

– Này hiền thê, nàng đã thụ thai, nàng sẽ sinh ra một con trai, nàng và con trai nàng sẽ được phú quý tột bậc, nước rửa chân nàng sẽ được vua chúa dùng làm lễ quán đảnh (lễ rảy nước thánh phong vương) cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ), nước nàng tắm sẽ là thứ tiên dược trường sinh bất tử, người nào rảy nước đó lên đầu sẽ thoát khỏi mọi thứ bệnh tật và không gặp điềm xui xẻo, những kẻ nào được đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ nàng, sẽ dâng lên một ngàn đồng tiền vàng. Những kẻ nào được đứng gần đủ để có thể nghe nàng nói và kính lễ nàng sẽ dâng lên một trăm đồng; kẻ nào được đứng để trông thấy nàng và kính lễ nàng sẽ dâng một đồng rupee. Vậy nàng hãy tỉnh giác giữ mình cẩn thận!

Cùng với lời khuyến giáo này, trước mặt một đám đông, ngài đứng dậy và lại đi vào mặt trăng.

Những người sùng bái Phạm thiên tụ tập nhau lại và đứng đó suốt đêm, sáng hôm sau họ mời nàng lên chiếc kiệu bằng vàng và đội lên đầu nàng , rước nàng vào kinh đô. Một đám đông dân chúng chạy đến phía nàng kêu lớn:

-Kìa! Hoàng hậu của đấng Phạm thiên!

Rồi cúng bái nàng với các hoa thơm và nhiều thứ nữa, những kẻ nào được phép đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ đều dâng lên một túi tiền một ngàn đồng, người nào đứng gần nàng và kính lễ thì dâng một trăm, người nào đứng đủ nhìn thấy được nàng và kính lễ thì dâng một rupee. Cứ vậy họ tiến dần khắp thành Ba la nại, rộng mười hai dặm và thu được tổng số một trăm tám chục triệu đồng.

Sau khi đi xung quanh thành như vậy, họ rước nàng vào nội thành, dựng lên một ngôi đình lớn vây màn chung quanh, mời nàng yên nghỉ tại đó giữa cảnh huy hoàng vinh quang như thế. Tới ngôi đình, họ bắt đầu xây bảy cổng vào thật lớn và dựng một cung điện bảy tầng, họ đã tạo được nhiều công đức mới dành phần họ vậy.

Cũng trong ngôi đình ấy Dittha-Mangalikà sinh hạ con trai. Vào ngày đặt tên hài nhi, các Bà la môn tụ họp nhau và đặt tên nó là Mandavya Kumàra hay Vương tử của Ngôi Đình, vì nó được sinh ra tại đó. Độ mười tháng, lâu đài kia đã được xây xong, từ đó nàng vào ở trong lâu đài vô cùng vinh hiển và Vương tử Mandavya lớn lên giữa cảnh huy hoàng tột bực.

Khi hài nhi được bẩy tuổi, những bậc thầy danh tiếng nhất khắp toàn cõi Diêm phù đề (Ấn Độ) tụ tập lại và dạy cậu ba tập Vệ Đà. Từ mười sáu tuổi cậu trai đã cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn, và mười sáu ngàn Ba la môn được cúng dường liên tục ; tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận, các vật cúng dường được phân phát cho các vị Bà la môn.

Bấy giờ vào một ngày Đại hội, dân chúng chuẩn bị một số lớn cháo gạo, rồi mười sáu ngàn Bà la môn ngồi tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận kia, và dùng món cháo ấy cùng với món bơ tươi màu vàng óng ánh, nước đường pha mật ong đặc, và chính vị vương tử trang điểm ngọc châu sáng rực rỡ mang đôi hài vàng dưới chân, cầm chiếc gậy vàng ròng trong tay, vừa đi quanh vừa chỉ dẫn:

– Này bơ đây, mật ong đây.

Vào lúc ấy bậc hiền trí Màtanga đang ngồi trong thảo am ở vùng Tuyết Sơn, và hướng tầm tứ vào việc xem xét những gì xảy ra cho con trai của nàng Dittha-Mangalikà. Khi nhận thấy cậu con trai đang đi lạc tà đạo, ngài suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ đi giáo hóa cho cậu bé kia và dạy cho nó biết cúng dường như thế nào để lễ vật bố thí ấy sẽ mang lại kết quả lớn”.

Ngài liền bay qua không gian đến hồ Anotatta, rửa mặt mũi và súc miệng rồi khi đứng tại địa phận Manosila (thuộc vùng Tuyết Sơn) ngài khoác đôi tấm y vàng vào quấn thắt lưng quanh người, rồi đắp phấn tảo y (áo may bằng giẻ rách) ra ngoài, cầm bình bát đất, phi hành qua không gian đến cổng thứ tư ấy, nơi đó ngài hạ xuống ngay cạnh Bố thí đường, và đứng một bên. Đang lúc Mandavya nhìn quanh quẩn, chợt thấy ngài liền kêu to:

– Lão từ đâu đến, hỡi kẻ khổ hạnh kia, lão là kẻ hạ liệt bị bỏ rơi vô thừa nhận, một thứ yêu quỷ chứ không phải là người đó chăng?

Rồi cậu ngâm vần kệ đầu:

1- Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!

Bậc Đại Sĩ lắng nghe, rồi với lòng từ mẫn, ngài đáp lời cậu qua vần kệ thứ hai:

2- Vương tử! Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.

Tiếp theo Mandavya ngâm vần kệ thứ ba:

3- Phần các La môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!

Vì nghe thế bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ:

4- Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh đạo này đây, xin bố thí,
Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.

Sau đó Mandavya đáp kệ:

5- Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La môn quý tộc, thông kinh thánh:
Là đất lành phong phú ruộng đồng.

Rồi bậc Đại Sĩ lại ngâm hai vần kệ:

6- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

7- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

Bậc Đại Sĩ cứ ngâm đi ngâm lại những lời kệ ấy mãi, song cậu trai nổi giận và kêu lớn:

– Lão này nói quàng xiêng quá nhiều rồi; những người gác cổng đi dâu cả mà không tống cổ lão ra?

Rồi cậu ngâm kệ:

8- Này Bran-da! Hỡi U-paj-jhà!
Ta bảo, đâu rồi Up-ti-ya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.

Bọn gia nhân nghe tiếng cậu gọi, liền chạy đến ngay kính lễ cậu rồi hỏi:

– Tâu Chúa công, chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Thế các người không thấy tên hạ liệt tồi tàn này sao?

– Tâu Vương tử không, chúng tiểu nô không biết lão đã tới đây lúc nào cả, chắc chắn lão là tên lừa bịp xảo trá rồi !

– Nào, vậy sao các người còn đứng đó?

– Tâu Chúa công, vậy chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Sao ư? Phải vả vào mồm lão! Bẻ hàm lão ra, lấy roi gậy đánh cho nát lưng, trừng phạt lão đi, tóm lấy cả tên khốn kiếp này, quăng lão xuống, tống lão ra khỏi đây ngay!

Song trước khi bọn chúng đến gần ngài, bậc Đại Sĩ đã bay lên không, vừa đứng vững ở đó vừa ngâm kệ:

9- Phỉ báng Hiền nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?

Sau khi thốt những lời này xong, bậc Đại Sĩ vụt lên cao trong khi cậu trai và đám Bà la môn ngơ ngác nhìn theo.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích việc này:

10- Nói vậy, Màtanga trí nhân,
Bậc phò chánh đạo, lý thuần chân,
Rồi ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.

*

Ngài quay mặt về hướng Đông, hạ xuống một đường phố với ý định làm cho dấu chân ngài được nhìn thấy, nên ngài khất thực gần Đông môn. Lúc ấy, sau khi đã nhận được một số thực phẩm đủ loại, ngài ngồi xuống một sảnh đường và bắt đầu ăn.

Song các thần linh trong kinh thành chợt đến, thấy rằng vua này đã nói năng như vậy làm phiền nhiễu vị Hiền nhân của các vị, là điều không thể dung thứ được, nên vị thần cao niên nhất trong bọn chụp lấy cổ Mandavya và vặn tréo, các quỷ kia lại chụp lấy cổ các Bà la môn ấy và vặn luôn. Song vì thương cảm Bồ Tát, các vị ấy không giết Mandavya, các vị bảo:

– Đó là con trai của ngài.

Và các vị chỉ hành hạ cậu ta thôi. Đầu của Mandavya bị vặn tréo ra đằng sau vai, tay chân cậu cứng đờ, mắt trợn trừng như thể chết rồi, cậu nằm rũ liệt tại đó. Các Bà la môn kia quay cuồng vật vã, mồm chảy nước miếng tràn ra. Dân chúng đến báo tin cho bà Dittha-Mangalikà:

– Tâu lệnh bà, có chuyện chẳng lành xẩy ra cho vương tử!

Bà vội chạy đến thấy cậu trai liền kêu lớn:

– Ôi sao lại thế này?

Rồi bà ngâm kệ:

11- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Khi ấy những người đứng ngoài xem liền ngâm kệ nói cho bà biết chuyện kia.

12- Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.

Nghe vậy bà suy nghĩ. “Chắc chắn đó là bậc Hiền nhân Màtanga, không ai khác có thần lực như vậy. Song một người thủy chung và đầy thiện ý đối với mọi loài, chẳng bao giờ lại bỏ đi để cho những kẻ này phải chịu sự hành hạ thế kia. Nay không biết ngài đã đi hướng nào?” Bà hỏi câu này qua vần kệ sau:

13- Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.

Các chàng trai kia đáp lời bà theo cách này:

14- Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp mặt thay, ngài sùng Chánh đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.

Khi họ đáp như thế bà liền bảo:

– Ta quyết sẽ đi tìm phu quân ta.

Rồi bà ra lệnh đem theo bà nhiều bình vàng và chén vàng, rồi được một đám tỳ nữ vây quanh, bà ra đi, tìm thấy nơi có dấu chân của ngài đã in xuống đất, bà cứ theo dấu chân này cho đến khi bà gặp ngài đang ngồi trên một chỗ kia và ăn cơm. Đi đến gần ngài, bà đảnh lễ rồi đứng im. Khi thấy bà, ngài đặt miếng cơm vào bát. Dittha-Mangalikà rót nước lên tay ngài từ chiếc bình vàng, ngài lập tức rửa tay và súc miệng. Sau đó bà hỏi:

– Ai đã làm việc tàn ác này cho con trai của thiếp?

Và bà ngâm kệ:

15- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Các vần kệ sau đây là lời đối đáp xen kẽ nhau giữa hai vị:

Bậc trí:

16- Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.

Bà hoàng:

17- Chính các thần linh tạo việc trên,
Hiền nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.

Bậc trí:

18- Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh điển,
Vì đầy vọng tưởng , ngập kiêu căng.

Bà hoàng:

19- Con người có thế, hỡi hiền nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,
Bậc hiền không để khởi hờn căm.

Bậc Đại Si được bà xoa dịu bằng lời lẽ như vậy, liền đáp:

– Được, ta sẽ cho nàng thứ tiên dược trường sinh bất tử để đuổi bọn quỷ ma ấy đi xa.

Rồi ngài ngâm kệ:

20- Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Man-da khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.

Khi bà nghe những lời này của bậc Đại Sĩ liền đưa chiếc bình bát vàng ra và nói:

– Xin phu quân hãy cho thiếp thuốc tiên bất tử ấy.

Bậc Đại Sĩ đổ vào đó một ít cháo còn lại và bảo:

– Hãy đổ một nửa cháo này vào mồm con nàng, còn lại thì trộn với nước rồi đổ vào mồm các Bà la môn kia, chúng sẽ được bình phục cả.

Rồi ngài đứng lên đi về phía vùng Tuyết Sơn.

Bà mang bình ấy trên đầu và kêu:

– Ta đã được thuốc tiên bất tử rồi!

Khi đến nhà, trước hết bà đổ một ít vào miệng con trai bà.

Quỷ thần liền chạy trốn, vua đứng dậy, phủi bụi bặm rồi hỏi:

– Cái gì đây mẹ?

– Con đã biết rõ những việc con làm rồi, nay hãy nhìn tình cảnh khốn khổ của đám người khất thực nhà ta kia kìa!

Khi cậu nhìn thấy bọn ấy, lòng cậu đầy ân hận. Rồi mẹ cậu bảo:

– Này Mandavya yêu quý, con thực là kẻ ngu si không biết bố thí cách nào để của bố thí ấy mang lại kết quả tốt. Bọn này không xứng đáng với lòng hào phóng của con đâu, chỉ những vị nào như bậc Hiền nhân Mantaga là xứng đáng thôi. Từ nay về sau đừng đem cái gì cho những ác nhân như bọn này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những người đức hạnh.

Rồi bà ngâm kệ:

21- Man-da, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!

22- Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!

23- Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí hiền nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.

– Vậy từ nay về sau con đừng bố thí cho hạng người ác như thế này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những kẻ nào ở trên đời này đạt Tám Thiền chứng, là những nhà tu khổ hạnh, các Sa môn, Bà la môn chân chính đã chứng Năm Thắng trí, các vị Độc Giác Phật. Này con, để mẹ đưa loại thuốc tiên bất tử này cho bọn gia nhân của ta đây và làm chúng bình phục.

Nói vậy xong, bà lấy miếng cháo thừa ấy đổ vào một bình nước và rẩy lên miệng mười sáu ngàn Bà la môn kia. Mọi người đều đứng dậy và phủi hết bụi bặm.

Sau đó, vì các Bà la môn này đã phải nếm thức ăn thừa của một kẻ Chiên đà la, nên bị các Bà la môn khác tống xuất ra khỏi giai cấp ấy. Đầy ô nhục, bọn họ rời thành Bà la nại và đi về vương quốc Mejjha, tại đây họ ở chung với vua xứ đó. Còn Mandavya vẫn ở chốn cũ.

Vào thời đó có một Bà la môn tên là Jàtimanta, là một kẻ tu hành, ở gần kinh thành Vettavati trên bờ sông có cùng tên ấy, ông là kẻ rất kiêu mạn về dòng dõi của mình. Bậc Đại Sĩ liền đến đó, quyết đập tan lòng kiêu mạn của người kia, ngài dựng am trú ngụ gần đó, sống ở phía thượng nguồn con sông.

Một hôm sau khi xỉa răng xong, ngài thả cái tăm xuống dòng nước; cố ý để cho nó vướng vào búi tóc của Jàtimanta, vì vậy, trong khi kẻ ấy đang tắm trong dòng nước sông, cái tăm ấy vướng vào búi tóc ông.

– Đồ súc sinh!

Ông nói, trong khi thấy cái tăm:

– Nó từ đâu đến đây với cái đồ phá hoại này. Ta phải tìm xem.

Ông liền đi ngược dòng, khi thấy bậc Đại Sĩ liền hỏi:

– Ông thuộc giai cấp nào?

– Ta là một Chiên đà la.

– Có phải ông đã thả cây tăm xuống sông chăng?

– Chính phải?

– Đồ súc sinh, quân tồi tàn hạ đẳng! Đồ mắc dịch, không được ở đây! Mà phải đi xuống chỗ hạ lưu kia.

Song khi ngài xuống ở vùng hạ lưu, cái tăm ngài thả trôi ngược dòng nước, vẫn vướng vào tóc Jàtimanta. Ông mắng:

– Quân đáng nguyền rủa! Nếu ngươi ở đây trong bảy ngày nữa , đầu ngươi sẽ tan thành bảy mảnh.

Bậc Đại Sĩ suy nghĩ:” Nếu ta buông mình theo cơn thịnh nộ với gã này, thì ta không giữ được công đức, song ta sẽ tìm cách phá tan lòng kiêu mạn của gã”.

Vào ngày thứ bảy, ngài ngăn cản mặt trời mọc, cả trần gian đều tối tăm nên dân chúng kéo đến vị tu khổ hạnh Jàtimanta và hỏi:

– Thưa Tôn giả, có phải chính ngài ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Gã đáp:

– Việc đó không phải do ta làm, mà có một lão Chiên đà la sống gần bờ sông, chắc lão ấy làm đấy.

Sau đó dân chúng đến gặp bậc Đại Sĩ và hỏi lại:

– Thưa Tôn giả, có phải chính Tôn giả ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Ngài đáp:

– Này các hiền hữu, chính phải!

– Tại sao thế? Họ hỏi.

– Vị tu khổ hạnh được các hiền hữu quý mến đã phỉ báng ta, một người vô tội, vậy khi nào vị đó đến quỳ dưới chân ta để xin thương xót, thì ta mới để cho mặt trời mọc lên.

Dân chúng đi kéo lê kẻ ấy rồi thả ông xuống trước chân bậc Đại Sĩ và cố sức vỗ về ngài vừa nói:

– Thưa Tôn giả, xin cho mặt trời mọc.

Song ngài đáp:

– Ta không thể để mặt trời mọc được vì nếu ta làm như thế, đầu kẻ này sẽ vỡ thành bảy mảnh.

Họ hỏi:

– Thưa Tôn giả, vậy chúng tôi phải làm gì?

– Hãy đem cho ta một cục đất!

Họ đem lại một cục đất.

– Nào, hãy đặt cục đất lên đầu kẻ khổ hạnh này, rồi kéo gã xuống nước.

Sau khi sắp đặt mọi việc này xong, ngài để cho mặt trời mọc lên. Vừa khi mặt trời được di chuyển tự do, cục đất nứt thành bảy mảnh, còn kẻ tu khổ hạnh nhảy tùm xuống nước.

Sau khi đã hàng phục gã như vậy, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Mười sáu ngàn Bà la môn kia hiện ở đâu?” Ngài nhận ra bọn ấy đang ở với vua Mejjha, và cũng quyết định đi hàng phục họ, nên dùng thần lực, ngài hạ xuống vùng ngoại thành, cầm bình bát trong tay, đi khất thực. Khi các Bà la môn thấyđược ngài, họ bảo nhau:

– Chỉ để lão ở đây 2 ngày thôi là lão sẽ làm ta mất nơi nương tựa!

Bọn ấy vội vàng chạy đến yết kiến vua và kêu to:

– Tâu đại vương, có một lão khoác lác đại bịp đến đây, xin hãy bỏ tù lão!

Vua rất sẵn sàng. Còn bậc Đại Sĩ với bát thức ăn đủ loại đang ngồi ăn bên bức thành trên một chiếc ghế dài. Tại đó trong khi ngài đang bận ăn uống, đám thị vệ của vua tìm đến, lấy kiếm đánh ngài rồi giết đi. Sau khi mạng chung, ngài tái sanh lên cõi Phạm Thiên.

Chuyện kể rằng, trong kiếp này Bồ tát là một ” người luyện thú mongoose” (một giống chồn ở Ấn Độ) và ngài phải chịu chết vì công việc hạ tiện này. Các vị thần nổi giận liền trút xuống toàn vương quốc Mejjha một trận lửa tro nóng rực quét sạch nước ấy ra khỏi các nước kia.

Vì thế có lời lưu truyền:

  1. Người ta kể chuyện cả non sông
    Của xứ Mejjha phải diệt vong,
    Nước kia bị xóa tan bờ cõi
    Vì giết Mà-tan, bậc lẫy lừng.

*

Khi bậc Đạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên vua Udena phỉ báng các vị tu khổ hạnh, mà xưa kia cũng thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua Udena là Mandavya và Ta chính là bậc Hiền trí Màtanga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền thân Citta-Sambhùta)

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang quả…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai người bạn đồng tu của Tôn giả Mahà Kassapa (Đại Ca Diếp) sống rất hòa hợp với nhau.

Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, đã phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bình; ngay cả khi khất thực, hai vị cũng cùng đi ra và cùng trở về với nhau, hai vị không hề chịu rời nhau.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang ngồi tán thán tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận chuyện gì khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài… Ngài đáp:

Này các Tỳ kheo, tình bạn này chỉ trong một đời sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc trí nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền suốt qua cả ba bốn đời sống.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Avanti, tại kinh thành Ujjeni, có vị đại vương trị vì mệnh danh là vua Avanti. Thuở ấy một làng Candàla (Chiên đà la: vô loại, hạ đẳng) ở ngoại thành Ujjeni là nơi bậcĐại Sĩ ra đời. Một người khác sinh làm con trai của bà dì Ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhùta.

Khi hai cậu bé lớn lên và đã học được nghề quét bằng chổi trong dòng họ Chiên đà la rồi, liền nghĩ rằng hai cậu sẽ đi trình diễn nghề này tại cổng thành. Vì thế một cậu biểu diễn tại Bắc môn, một cậu tại Đông môn. Bấy giờ trong kinh thành này có hai phụ nữ giỏi nghề xem tướng, một cô là con gái một thương nhân, và cô kia là con một tế sư. Hai cô gái ấy đi vui chơi trong công viên, sau khi bảo gia nhân đem theo thực phẩm đủ loại cứng, loại mềm, vòng hoa hương liệu, thì ngẫu nhiên một cô đi ra cổng Bắc, và một cô ra cổng phía Đông. Khi thấy hai thanh niên Chiên đà la đang biểu diễn tay nghề, hai cô hỏi:

– Chúng là ai đây?

Rồi hai cô được cho biết đó là hai kẻ Chiên đà la. Hai cô bảo:

– Thấy điềm này xui xẻo lắm.

Và sau khi rửa mắt bằng nước hương thơm, cả hai đều đi về. Sau đó, đám dân chúng la lớn:

– Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bay đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!

Chúng đánh đập hai anh em cùng họ ấy một trận nhừ tử, làm cả hai đau đớn ê chề. Khi hai người tỉnh dậy liền đi tìm nhau và kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình, rồi lại kêu gào và cố nghĩ cách xem phải làm gì đây. Cả hai suy nghĩ: “Tất cả việc khốn nạn này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Ta sẽ chẳng bao giời làm kẻ Chiên đà la nữa, mà ta phải dấu tung tích dòng họ để rồi đi tới Takkasilà, giả dạng các nam tử Bà la môn và học tập tại đó”.

Sau khi quyết dịnh như vậy, cả hai đến chỗ đó, theo đòi học tập với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Thiên hạ đồn vang khắp cõi Diêm phù đề (Ấn độ) rằng có hai nam tử Chiên đà la đang làm thư sinh và giấu diếm tung tích gia tộc mình. Bậc Trí nhân Citta học tập thành công, song chàng Sambhùta thì không được như thế.

Một ngày kia có người dân làng mời vị giáo sư ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn. Bấy giờ do ngẫu nhiên mưa suốt đêm ấy làm ngập lụt mọi hang hốc trên đường đi. Sáng sớm hôm sau, vị thầy giáo gọi Trí giả Citta vào và bảo:

– Này con , hôm nay thầy không đi được, vậy con đi cùng các nam tử kia, rồi làm lễ chúc phước lành và khi con ăn thực phẩm của mình xong, hãy mang về những món để dành cho thầy.

Do đó, ngài đem các thanh niên Bà la môn khác cùng lên đường. Trong khi các thanh niên tắm rửa và súc miệng, dân chúng dọn món cháo gạo đã chuẩn bị sẵn sàng để mời khách quý và bảo:

– Để cho nó nguội đi.

Trước khi cháo nguội, đám thanh niên đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường, rồi đặt các bát cháo trước mặt họ. Trí óc Sambhùta có hơi trì độn, nên tưởng cháo đã nguội, liền múc một hớp bỏ vào miệng, song nó làm chàng nóng bỏng như cục sắt nóng đỏ. Trong lúc đau đớn, chàng quên mất vai trò của mình, liền liếc qua bậc Hiền trí Citta và nói bằng ngôn ngữ của dân Chiên đà la:

– Cháo nóng quá phải chăng?

Chàng kia quên mất bản thân mình, nên đáp lại theo ngôn ngữ của họ:

– Nhổ ra , nhổ ra mau!

Nghe thế, đám thanh niên nhìn nhau bảo:

– Loại ngôn ngữ gì thế này?

Lúc ấy bậc Trí giả Citta nói lời chúc lành cho tất cả.

Khi các chàng trai kia về nhà, họ tụ tập thành tụm năm túm ba và ngồi bàn luận về những từ ngữ đã được dùng kia. Khi nhận ra đó là ngôn ngữ của bọn Chiên đà la, họ kêu to:

– Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Chúng bay đã lừa dối cả bọn ta lâu nay, cứ giả dạng làm Bà la môn!

Rồi họ đánh đập hai vị ấy. Có một người tốt bụng xua đuổi họ ra và nói:

– Đi ngay! Vết nhục nằm trong huyết thống kia. Phải đi ngay! Đến đâu đó mà làm ẩn sĩ khổ hạnh!

Rồi các thanh niên Bà la môn trình với thầy giáo rằng, đấy là hai kẻ Chiên đà la giả dạng.

Hai chàng đi vào rừng sống đời sống khổ hạnh tại đó, sau một thời gian chết đi, tái sanh làm hai chú Nai con bên bờ sông Nerañjarà (Ni liên thuyền). Từ lúc sinh ra, chúng luôn luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn chợt thấy chúng dưới một gốc cây đang ngồi nhai lại, âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao tới, giết trọn luôn cả hai bằng nhát lao ấy.

Sau đó chúng tái sanh làm con của chim Ưng biển trên bờ Nerbudda (Niết bút). Cũng tại đó, chúng lớn lên sau khi ăn xong lại ôm ấp đầu sát đầu, mỏ kề mỏ. Một kẻ bẫy chim trông thấy, bắt cả hai và giết đi.

Sau đó bậc Trí giả tái sanh tại Kosambi, làm con vị tế sư, còn bậc Trí Sambhùta tái sanh làm vương tử của vua Uttarapañcala. Ngay từ ngày được đặt tên, hai hài nhi ấy đã có khả năng nhớ lại các đời trước của mình. Song Sambhùta không thể nào nhớ hết tất cả mà không bị gián đoạn, và cậu chỉ nhớ đời thứ tư hoặc đời Chiên đà la thôi, còn Citta lại nhớ đủ cả bốn đời theo thứ tự.

Khi Citta được 16 tuổi, chàng xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, tu tập làm phát khởi thắng trí do thiền định và an trú trong hỷ lạc Thiền định. Còn bậc trí giả Sambhùta, sau khi phụ vương băng hà, liền được phong chiếc lọng trắng trên đầu vào ngày phong vương kia, giữa quần thần đông đảo, ngài làm một bài ca tức vị, rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn.

Khi quần thần nghe xong, đám cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau:

– Đây là khúc đăng quang của đức Chúa thượng chúng ta!

Và dần dà với thời gian, dân chúng đều ca khúc hát ấy vì đó là Thánh đạo ca được vua yêu thích. Bậc Trí giả Citta đang an trú ở vùng Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhùta của ngài đã được giương chiếc lọng che ấy chưa. Khi nhận thấy việc đã xong, ngài suy nghĩ:” Ta chẳng bao giờ đủ sức giáo hóa một vị Tân vương còn trẻ, song khi nào em ta già rồi, ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm ẩn sĩ khổ hạnh”.

Suốt năm mươi năm ngài không hề đi thăm viếng, và trong thời gian ấy, vua có đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lực của ngài, Trí giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển đáp xuống, ngồi trên bảo tọa nghi lễ như một bức tượng bằng vàng.

Vừa lúc ấy, một chàng trai kiếm củi, vừa làm việc vừa hát khúc đạo ca ấy. Bậc Trí giả Citta gọi chàng trai lại gần, chàng tiến đến đảnh lễ cung kính rồi đứng chờ. Trí giả Citta bảo chàng:

– Từ sáng đến giờ, cậu chỉ hát mãi khúc đạo ca ấy, thế cậu không biết khúc nào nữa chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ, con biết nhiều khúc ca lắm, song đây là những lời ca được đức vua yêu chuộng, vì thế con không hát khúc nào khác.

– Thế không có ai biết hát một điệp khúc đáp lại khúc ca của đức vua chăng?

– Thưa Tôn giả, con biết hát nếu con được dạy khúc ca ấy.

– Thế thì được, hễ khi nào đức vua hát hai khúc trên, thì cậu hát khúc này làm khúc thứ ba đấy.

Rồi ngài ngâm một khúc và bảo:

– Bây giờ cậu hãy đi hát khúc này trước đức vua, ngài sẽ hài lòng và quý trọng cậu lắm.

Chàng trai vội vàng chạy về tìm mẹ, bảo mẹ mặc cho chàng y phục thật tề chỉnh rồi đến cửa cung vua, nhờ người tâu lên rằng có một chàng trai xin được yết kiến để hát một khúc ca đáp lời đức vua. Vua bảo:

– Cho nó vào.

Khi chàng trai tiến lên, đảnh lễ ngài xong, vua phán:

– Chúng tâu rằng cậu muốn hát một khúc đáp lời trẫm có phải chăng?

Chàng trai đáp:

– Tâu Chúa thượng, đúng vậy, xin ngài triệu tập quần thần để cùng nghe.

Ngay khi triều đình tụ họp xong, chàng tâu:

– Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng ca khúc hát của ngài trước, rồi thần sẽ xin hát lời đối lại.

Vua liền ngâm đôi vần kệ:

1- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả sinh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Sam-bhù, ta thấy, lớn lên thành
Hùng cường, vĩ đại và như thế
Công đức ngài đem đến quả lành

2- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả mang,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Cit-ta ai biết, có vinh quang
Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu
Có được an vui lợi lạc chăng?

Khúc đạo ca trên vua chấm dứt, chàng trai liền đáp vần thứ ba:

3-Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả
Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,
Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,
Xin ngắm Cit-ta tại cổng thành,
Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy
Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nghe lời này vua lại ngâm vần kệ thứ tư:

4- Vậy có phải chăng chính Cit-ta,
Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa
Từ ngài, hay một người nào khác?
Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh ca!
Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng
Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

Tiếp theo chàng trai ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hạ thần nào có phải Cit-ta,
Song chuyện ấy thần được biết qua,
Chính một hiền nhân vừa dạy bảo:
“Đi ngâm lời hát đối dâng vua,
Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,
Tay của ngài ân nghĩa đậm đà”.

Nghe lời này, vua suy nghĩ: “Chắc hẳn đó là hiền huynh Citta của ta rồi, ta muốn đi tìm ngài ngay”. Thế là vua ra lệnh cho quần thần qua hai vần kệ sau:

6- Các vương xa hãy thắng yên cương,
Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,
Đem buộc cân đai vào bảo tượng,
Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

7- Quần thần hãy đánh trống liên hoan,
Bảo thổi tù và ốc dậy vang,
Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất
Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng
Hôm nay tìm thảo am cô tịch,
Yết kiến hiền nhân trước tọa sàng.

Vua nói vậy xong, liền ngự lên vương xa lộng lẫy và vội vàng đến ngay cổng ngự viên. Tại đó ngài dừng xa giá và đến gần Hiền giả Citta, đảnh lễ rất cung kính rồi ngồi xuống một bên, lòng tràn ngập hân hoan, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

8- Thật quý thay là Thánh khúc xưa,
Trẫm từng ca hát thật say sưa,
Trong khi dân chúng đông dồn dập,
Quần tụ chung quanh chật cả nhà;
Nay đến đây xin chào Thánh giả,
Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

Từ lúc tái ngộ Hiền giả Citta, vua hoan hỷ ra lệnh làm mọi sự cần thiết và truyền chuẩn bị bảo tọa dành cho vị hiền huynh, rồi ngài ngâm vần kệ thứ chín:

9- Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,
Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,
Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,
Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.

Sau lời mời ngọt ngào này, vua ngâm vần kệ khác để tặng bạn hiền một nửa giang san của mình:

10- Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,
Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,
Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,
Ôi, ta muốn tỏ với hiền nhân
Lòng ta yêu quý ngài tha thiết,
Xin hãy cùng ta ngự trị dân.

Khi nghe những lời này, bậc Trí giả Citta thuyết giáo cho vua qua sáu vần kệ:

11- Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,
Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,
Ta mong điều ngự thân tu tập,
Con, của không lôi cuốn trí mình.

12- Trăm năm tròn cuộc sống người đời,
Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,
Khi đến hạn kỳ, người héo úa,
Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

13- Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,
Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?
Nhiều con, nghĩa lý gì? Nên biết,
Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.

14- Ta biết, vì đây chính thật chân,
Ta không qua khỏi tử ma thần,
Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,
Khi bạn đến thời phải mạng vong?

15- Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,
Hạ liệt Chiên đà nhất thế nhân,
Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,
Hai ta cùng có một tiền thân:

16- Tại A-van, bạn trẻ Chiên đà,
Là cặp Nai vàng bến nước xưa,
Đôi chú chim Ưng bờ Niết bút,
Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.

Sau khi đã nói rõ các tiền thân hạ liệt của mình trong quá khứ như vậy, tại đây trong đời hiện tại này, ngài tuyên thuyết tính Vô thường của mọi pháp hữu hình và ngâm bốn vần kệ làm phát khởi tinh tấn lực.

17- Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Pañcala, thực hiện,
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác,
Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

18- Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,
Già cả không nơi chốn trú thân;
Này hỡi Pañcala, thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.

19- Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,
Người già không chốn để nương thân,
Pañcala hỡi, xin thành tựu
Những việc ta khuyên nhủ Đại vương:
Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,
Nhiễm ô toàn ác dục tham sân..

20- Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,
Bệnh, lão làm suy thế lực dần,
Ta chẳng làm sao ra thoát được;
Pañcala thực hiện lời răn:
Tránh xa tất cả hành không thiện
Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.

Vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại Sĩ khuyến giáo, liền đáp lời qua ba vần kệ:

21- Lời kia, Tôn giả, quá toàn chân,
Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,
Song dục tham ta đều khó bỏ,
Với người như trẫm, chúng vô cùng.

22- Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,
Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,
Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,
Nên không theo nổi Đạo Thầy tu!

23- Như mẹ như cha dạy bảo con,
Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,
Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,
Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nhà vua:

24- Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,
Các dục tham đây cũng thế thường:
Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,
Trị sao dân chúng thấy công bằng

25- Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,
Mời người khổ hạnh, Bà la môn,
Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,
Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

26- Đem thức ăn uống để đãi đằng
Bà la môn, Thánh giả, Hiền nhân,
Tâm đầy thành tín, ai ban phát,
Và trị dân tài đức hết lòng,
Người ấy sẽ đi lên thượng giới,
Lỗi lầm không có, lúc vong thân.

27- Song nếu vây quanh bởi má hồng,
Dục tham, ngài thấy, quá say nồng,
Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,
Và hát hò lên giữa đám đông.

28- “Dưới trời không mái để che thân,
Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,
Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,
Mà nay làm một vị vương quân.

Đó là lời khuyến giáo của bậc Đại Sĩ. Rồi ngài lại bảo:

– Ta đã khuyên nhủ Đại vương rồi. Bây giờ Đại vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại vương, song ta sẽ tiếp tục theo đúng nghiệp quả của chính ta làm.

Sau đó ngài bay vụt lên không, phủi bụi bặm trên đôi chân ngài, giã từ vua trong dáng điệu khinh thường, rồi đi về vùng Tuyết Sơn.

Còn phần vua trông thấy cảnh này, lòng vô cùng xúc động, liền giao quốc độ cho thái tử, triệu tập quân sĩ thẳng hướng tiến về vùng Tuyết Sơn. Khi bậc Đại Sĩ nghe vua đến, liền bước ra cùng đám hiền nhân đồ đệ của ngài đón tiếp vua, và truyền giới cho vua sống đời Phạm Hạnh rồi dạy vua phương tiện làm phát khởi Thiền định. Vua tu tập chứng đắc Thắng trí do Thiền định, vì vậy cả hai vị đều cùng được sinh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba bốn đời sống.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là trí giả Sambhùta và Ta chính là Trí giả Citta.

-ooOoo-

499- Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền thân Sivi)

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân….

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về lễ vật cúng dường tối thượng.

Trường hợp này đã được kể đầy đủ trong Chương VIII ở số 424. Tiền thân Savìra. Song tại đây vào ngày thứ bẩy, vua dâng đủ tất cả vật cúng dường và thỉnh cầu lời tùy hỷ; tuy nhiên, bậc Đạo Sư ra đi mà không tán thán công đức của vua. Sau buổi điểm tâm, vua đi đến tịnh xá và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, vì cớ gì Thế Tôn không đáp lời tùy hỷ hôm ấy?

Bậc Đạo Sư nói:

– Thưa Đại vương, hội chúng kia không thanh tịnh.

Ngài lại tiếp tục thuyết Pháp, ngâm vần kệ bắt đầu bằng câu:” Người hạ tiện sẽ không lên Thiên giới (Pháp cú 177)”.

Vua đầy hoan hỷ bày tỏ lòng tôn kính đối với đức Như Lai bằng cách dâng chiếc thượng y của xứ Sivi trị giá một ngàn đồng tiền; sau đó vua trở về thành.

Ngày hôm sau trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, vua Kosala đã cúng dường lễ vật tối thượng, và chưa hài lòng với việc ấy, nên sau khi đấng Thập Lực thuyết giáo cho vua ấy, vua liền dâng chiếc y của xứ Sivi trị giá cả một ngàn đồng tiền vàng! Quả thật vua không hề thỏa mãn với việc cúng dường!

Bậc Đạo Sư bước vào, và hỏi các vị đang bàn việc gì khi ngồi đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, bố thí ngoại tài quả thật là điều có thể thỏa đáng được, song các bậc trí nhân ngày xưa đã bố thí cho đến khi khắp cả Diêm phù đề đều vang danh lừng lẫy, mỗi ngày bố thí cả sáu trăm ngàn đồng tiền, vẫn chưa thỏa mãn với việc bố thí ngoại tài, và nhớ lại câu phương ngôn: “Hãy đem cho cái gì ta yêu quý nhất và từ tâm sẽ sinh khởi”, cho nên các vị ấy đã móc đôi mắt mình ra tặng những kẻ nào đòi xin chúng.

Cùng với những lời này; Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi đại đế Sivi cai trị tại kinh thành Aritthapura trong quốc độ Sivi. Bậc Đại Sĩ sinh ra làm vương tử. Triều thần đặt tên ngài là Vương tử Sivi. Khi ngài lớn lên, ngài đi đến Takkasikà học tập tại đó, xong trở về chứng tỏ tài năng kiến thức của ngài trước vua cha nên được phong làm phó vương.

Lúc phụ vương băng hà, ngài lên ngôi vua và từ bỏ các ác đạo, ngài hành trì Thập vương pháp và trị dân rất chân chánh. Ngài truyền xây sáu bố thí đường tại bốn cổng thành, giữa kinh thành và ngay cửa cung của ngài. Ngài bố thí rất hào phóng mỗi ngày sáu trăm ngàn đồng tiền vào các ngày mồng tám, mười bốn và ngày rằm, ngài chẳng hề quên thăm viếng các bố thí đường để xem xét bố thí được thực hành ra sao.

Vào một ngày trăng tròn kia , chiếc lọng hoàng gia đã được giương lên từ sáng sớm và ngài ngự trên ngai vàng suy ngẫm về các thí vật ngài đã ban phát. Ngài tự nghĩ: “Trong tất cả các tài vật bên ngoài, chẳng có món gì ta không đem cho hết, song cách bố thí này chưa làm ta hài lòng. Ta muốn bố thí vật gì thuộc về bản thân ta. Ðược rồi hôm nay ta đến bố thí đường phát nguyện rằng nếu có người nào không xin một vật gì đó ngoài thân ta, lại nói rõ tên một phần thân thể ta, nếu người ấy muốn nói đến chính quả tim ta, ta sẽ quyết lấy dao xẻ phăng lồng ngực ta và chẳng khác nào ta nhổ lên một cộng sen từ hồ nước phẳng lặng, ta sẽ móc lấy quả tim ta đang chảy máu từng cục đem cho người ấy.

Nếu người ấy muốn xin thịt ta, ta sẽ xẻ thịt ra từ thân thể và cho nó, như thế ta dùng cái dao mà khắc chạm tấm thân này. Người đó cứ nói đến máu của ta, ta sẽ lấy máu ta nhỏ từng giọt vào miệng người đó, hoặc đổ đầy một chén rồi đem cho, hoặc nữa, giả sử có ai bảo: “Hạ thần không làm nổi việc nhà, xin hãy đến làm gia nô tại nhà hạ thần”, ta nhận mình là nô lệ và ta sẽ làm hết các việc nô dịch. Hoặc giả có ai đó xin đôi mắt ta, ta sẽ móc mắt ra cho nó như người ta lấy lõi của cây dừa nước”. Ngài nghĩ thầm như vậy:

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân,
Dẫu là đôi mắt, chẳng hề ban,
Giờ đây ta sẽ đem ban bố,
Lòng chẳng hãi kinh, thật vững vàng.

Thế rồi ngài tắm mình với mười sáu bình nước hoa thơm và trang sức cực kỳ lộng lẫy và sau một buổi cơm đầy cao lương mỹ vị, ngài ngự lên một con voi được tô điểm cân đai rất rực rỡ đưa ngài đến đại bố thí đường.

Khi Sakka ( Ðế Thích) Thiên chủ nhận thấy quyết tâm của ngài liền suy nghĩ: “Vua Sivi đã cương quyết đem đôi mắt ngài bố thí cho kẻ nào ngẫu nhiên đến xin ngài. Thế ngài có đủ hùng lực để thực hiện việc đó hay chăng?

Thiên chủ quyết định đi thử thách ngài, nên giả dạng một Bà la môn già mù mắt, Thiên chủ đứng trên một chỗ cao, khi đức vua bước vào bố thí đường, Thiên chủ đưa tay ra, kêu lớn:

– Vạn tuế Ðại vương!

Lúc ấy vua lái vương tượng về phía Thiên chủ, phán bảo:

– Này Bà la môn ông nói gì vậy?

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, trên cõi thế gian này không nơi nào không vang dậy phương danh về từ tâm hào phóng bố thí của Ðại Vương. Nay lão đã mù lòa, còn Ðại vương có đủ hai mắt.

Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để xin một con mắt;

1- Chẳng có mắt, nên chính lão già,
Ðến xin con mắt, tự phương xa,
Lão cầu Chúa thượng ban con mắt
Một mắt cùng nhau mỗi chúng ta.

Khi bậc Ðại Sĩ nghe lời này, ngài suy nghĩ:” Chính đó là chuyện mà ta suy nghĩ ở hậu cung trước khi ta đến đây kia! Ồ cơ duyên đến mới tuyệt diệu làm sao chứ! Tâm nguyện của ta hôm nay sẽ được thành tựu, ta sẽ bố thí một tài vật mà chưa một người thế tục nào từng ban phát”, và ngài ngâm vần kệ thứ hai:

2- Ai đã dạy ông bước đến đây,
Ðể xin một mắt , lão ăn mày?
Ðây phần thân thể người cao trọng,
Chúng bảo xa lìa khó lắm thay!

Các vần kệ sau là do hai vị ngâm để đối đáp với nhau:

Lão Bà la môn:

3- Su-ja Phu tướng, chính nơi đây,
Người gọi Ma-gha cũng hiệu này,
Ngài dạy lão về đây yết kiến,
Van nài cho được một mắt ngay.

4- Thí tài tối trọng đại, mong cầu
Chúa thượng ban già một bảo châu,
Xin chớ chối từ già một mắt,
Thí tài tối trọng, đứng hàng đầu,
Như lời thế tục thường hay nói:
“Thật khó cho người dứt bỏ sao!”

Vua Sivi:

5- Ước nguyện làm ông đến tận đây
Trong lòng ông khởi ước như vầy,
Cầu mong nguyện ước kia thành tựu,
Ðạo sĩ, cầm đôi mắt trẫm này!

6- Ông chỉ xin ta một mắt thôi,
Nhìn xem! Ta bố thí tròn đôi!
Hãy đi với nhãn quang hoàn hảo
Trước mắt nhìn theo của mọi người,
Vậy ước nguyện ông mong thực hiện
Giờ đây hẳn đã đạt thành rồi!

Ðức vua đã nói nhiều như thế. Song nghĩ rằng nếu ngài tự móc mắt của mình ra mà tặng ngay tạiđó, vào lúc ấy, thì không thích hợp, nên ngài đem vị Ba la môn cùng vào nội cung với ngài, và khi ngự lên ngai vàng, ngài truyền lệnh triệu một vị phẫu thuật sư tên là Sivaka vào chầu. Rồi ngài phán:

– Khanh hãy lấy mắt trẫm ra.

Lúc bấy giờ cả kinh thành vang dậy nguồn tin rằng đức vua muốn cắt đôi mắt ngài ra để bố thí cho một lão Bà la môn. Sau đó vị đại tướng quân cùng với các viên quan khác và mọi người thân thuộc của vua, từ trong kinh thành lẫn hậu cung đều tề tựu cùng nhau và ngâm ba vần kệ để xin vua từ bỏ ý định trên:

7- Xin đừng cho mắt, tấu Minh quân!
Chúa thượng ôi, đừng bỏ chúng thần!
Bố thí san hồ, tiền, bảo ngọc,
Và nhiều vật khác quý vô ngần.

8- Cho bầy tuấn mã đủ yên cương,
Bảo kéo đoàn xa giá xuống đường,
Chúa thượng truyền xua đoàn bảo tượng
Cân đai tuyệt mỹ rặt toàn vàng.

9- Các vật này xin Chúa thượng ban,
Chúng thần mong hộ chúa bình an,
Toàn dân trung tín cùng xa pháp,
Tề tựu quanh vương vị xếp hàng.

Vua lập tức đáp lời, ngâm ba vần kệ:

10- Tâm kẻ muốn ban bố, phát nguyền,
Về sau lại thấy chẳng trung kiên,
Cổ mình tự đặt vào thòng lọng
Che dấu nằm sâu dưới đất liền.

11- Tâm nào đã thệ nguyện thi ân,
Sau lại thấy lòng chẳng thuỷ chung,
Thật lỗi lầm hơn là tội ác,
Phải đày đọa ngục Dạ ma cung.

12- Ðừng cho gì nếu chẳng ai xin,
Cũng chớ cho ai thứ chẳng thèm,
Vậy vật này đây hành khất muốn
Cầu xin, trẫm bố thí ngay liền.

Lúc ấy triều thần vừa hỏi:

– Vậy Chúa thượng ước nguyện điều gì khi bố thí cặp mắt của Chúa thượng?

Họ vừa ngâm vần kệ:

13- Thọ mạng, sắc, quyền lực, lạc hoan,
Ðâu là phần thưởng, tấu Minh quân?
Lực nào thúc dục Ngài hành động,
Chúa thượng Sivi của quốc dân,
Sao lợi gì cho đời kế vậy,
Ngài đành bỏ cặp mắt mình vàng?

Vua đáp hội chúng qua vần kệ:

14- Như vậy, trong khi muốn cúng dường,
Ðích ta chẳng nhắm đạt vinh quang,
Nhiều con, nhiều của, nhiều vương quốc,
Ðể nắm quyền cai trị thế gian.
Ðây chính là con đường Thánh thiện,
Từ xưa của các bậc Hiền nhân;
Tâm ta nồng nhiệt hằng mong ước
Ðem mọi thí tài để phát ban.

Trước lời lẽ của bậc Ðại sĩ, quần thần không đáp được nữa, vì thế bậc Ðại sĩ ngâm kệ bảo Sivaka, vị phẫu thuật sư:

15- Bạn hiền, chí thiết, Sivaka,
Xin hãy làm theo lệnh của ta,
Bạn có đầy tài năng kỹ xảo,
Xin đem liền cặp mắt ta ra,
Vì đây là chính điều tâm nguyện,
Và tặng vào tay khất sĩ già.

Song Sivaka đáp:

– Tâu Chúa thượng , xin Chúa thượng suy nghĩ lại. Ðem cho cặp mắt không phải là chuyện tầm thường đâu!

– Này Sivaka, trẫm đã suy xét kỹ rồi. Xin đừng trì hoãn hay nói chuyện gì nhiều trước mặt trẫm nữa.

Lúc ấy Sivaka suy nghĩ: “Một phẫu thuật sư như ta lại lấy lưỡi dao đâm thủng cặp mắt một bậc quân vương thật chẳng hợp lý tí nào”. Vì vậy vị ấy giã một ít cây thuốc, chà xát một đóa sen xanh với thứ bột ấy rồi xoa khắp lên mắt phải của vua; con mắt liền đảo lộn tròng, hết sức đau đớn.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ kỹ, hạ thần có thể làm cho mắt bình phục được ngay.

– Này hiền hữu, cứ làm tiếp đi, xin đừng trì hoãn nữa.

Vị ấy lại xát thứ bột kia vào mắt và xoa bóp cho thuốc thấm: con mắt bật ra khỏi lỗ, nỗi đau đớn lại càng khốc liệt hơn trước nữa.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lại, ha thần vẫn có khả năng phục hồi con mắt ngài như cũ.

– Khanh hãy làm việc nhanh lên!

Lần thứ ba, vị phẫu thuật sư xoa một thứ bột mạnh hơn nữa và xát vào; nhờ công hiệu của thuốc này, con mắt đảo lộn và lăn ra ngoài lỗ mắt, dính lủng lẳng ở đầu sợi dây gân.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lần nữa, nay hạ thần vẫn có thể phục hồi con mắt lại như trước.

– Thôi nhanh lên.

Nỗi đau đớn đến tột độ, máu chảy từng giọt, hoàng bào của vua vấy toàn máu đỏ. Ðám cung tần cùng triều thần quỳ xuống kêu van:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng hy sinh đôi mắt của Chúa thượng.

Cả đám người kêu gào thắm thiết. Vua cố chịu đựng đau đớn và bảo:

– Này hiền hữu, hãy nhanh lên.

– Xin vâng, tâu Chúa thượng.

Phẫu thuật sư đáp, tay trái cầm lấy tròng mắt, tay phải cầm dao cắt đứt sợi gân và đặt con mắt vào bậc Ðại Sĩ.

Ngài nhìn con mắt phải ấy bằng mắt trái vừa cố chịu đau vừa phán:

– Này Bà la môn hãy đến đây.

Khi vị Bà la môn đến gần, ngài nói tiếp:

– Nhãn quang Chánh giác còn thân thiết hơn nhãn quang này cả trăm lần, à không, cả ngàn lần kia. Ðấy, các người đã hiểu lý do trẫm hành động như vậy.

Rồi ngài trao mắt cho vị Bà la môn, lão liền đưa tay ra đón lấy mắt đặt ngay vào chỗ mắt mình. Nhờ thần lực của vị ấy, con mắt dính chặt vào đó chẳng khác nào đóa sen xanh nở ra.

Khi bậc Ðại Sĩ dùng mắt trái nhìn thấy con mắt kia trên mặt của vị Bà la môn, ngài kêu lớn:

– Ôi tốt lành thay là việc bố thí con mắt này của ta.

Rồi nỗi hân hoan sinh khởi trong tâm ngài làm rung động toàn thân ngay giây phút ấy, ngài lại bố thí luôn con mắt kia. Ðế Thích Thiên chủ cũng đặt con mắt này vào lỗ mắt của mình và từ cung vua, Thiên chủ ra đi, sau đó rời kinh thành trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người nhìn theo, rồi trở về Thiên giới.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm một vần kệ rưỡi:

16- Si vi chúa tể giục Si va
Hoàn tất tâm nguyện của đức vua,
Trao tặng Bà la môn tài thí vật,
Y sư lấy cặp mắt ngài ra,
Bà la môn có liền đôi mắt,
Chúa thượng giờ đây phải tối lòa.

*

Chẳng bao lâu, đôi mắt vua bắt đầu mọc lại, trong lúc chúng xuất hiện từ từ, và trước khi lên đến đỉnh cao của hai lỗ mắt, một cục thịt lớn dần bên trong lỗ như thể trái cầu bằng lông thú, tựa hồđôi mắt trên hình đứa trẻ nhồi bông, song nỗi đau đớn đã chấm dứt. Bậc Ðại Sĩ an nghỉ trong cung thất ít ngày.

Sau đó ngài suy nghĩ:” Một kẻ mù lòa còn dính líu gì đến việc trị nước nữa. Ta muốn giao quốc độ cho các triều thần, rồi vào ngự viên thành kẻ khổ hạnh, sống đời thanh tịnh”.

Ngài liền triệu tập quần thần, nói cho hội chúng nghe những việc ngài dự định làm. Ngài phán:

– Một người sẽ ở bên ta để rửa mặt, chăm sóc ta làm những gì cần thiết và phải buộc một sợi dâyđể dắt ta đi về nơi ẩn dật.

Sau đó ngài truyền gọi viên quan lái xe của ngài đến và ra lệnh cho người ấy chuẩn bị vương xa. Song triều thần không muốn ngài ra đi bằng xe ngựa, họ đưa ngài lên đường trong chiếc kiệu bằng vàng và đặt ngài xuống bên cạnh bờ hồ, đứng vây quanh ngài, canh phòng cẩn thận xong lại ra về. Còn vua ngồi trong kiệu suy nghĩ đến việc bố thí của mình.

Lúc ấy chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ xem xét và nhận thấy lý do kia: “Ta sẽ ban thưởng vua một điều ước”, ngài suy nghĩ, “và làm đôi mắt của vua bình phục trở lại”.

Vì thế Thiên chủ đến chỗ ấy. Khi không còn cách xa bậc Ðại Sĩ mấy, Thiên chủ cất bước đi đi lại lại quanh đó.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ sau:

17- Vài ngày qua cặp mắt vừa lành,
Bình phục dần nên lại hiện hình,
Ðại đế Sivi nuôi quốc độ
Triệu quan điều ngự của riêng mình;

18- “Ngự quan, chuẩn bị chiếc vương xa,
Rồi đến đây trình báo với ta,
Ta muốn vào khu rừng, thượng uyển,
Ðầy hồ sen súng mọc chen hoa”.

19- Quan đặt vua vào chiếc kiệu hoa,
Và đây, dừng kiệu ở bên bờ,
Su-ja Phu tướng, ngài Thiên chủ,
Xuất hiện, chính là Ðại Sakka.

– Ai đó?

Bậc Đại Sĩ kêu lên khi ngài nghe tiếng bước chân kia. Ðế Thích Thiên chủ liền ngâm vần kệ:

20- Chính ta là Thượng đế Sakka,
Ta đến đây tham kiến nhà vua,
Hãy chọn hồng ân, này Thánh chúa,
Điều gì ngài ước, nói cùng ta.

Vua đáp lời qua vần kệ khác:

21-Sinh lực, kho vô tận, bảo châu,
Ta đều bỏ lại hết đằng sau,
Thiên hoàng, ta chẳng mong gì nữa
Trừ chết, vì ta có mắt đâu!

Sau đó Thiên chủ hỏi:

– Này Ðại vương Sivi, ngài cầu mong cái chết vì ngài muốn chết hay vì ngài mù lòa?

– Tâu Thiên chủ, vìỉ ta mù lòa.

– Này Ðại vương, tài vật bố thí tự nó không phải là hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa, mà nó phải được bố thí với một cái nhìn hướng về đời sau. Tuy thế, vẫn còn có duyen cớ liên quan đến cuộc đời hiện tại này. Trước đây, người kia xin ngài chỉ một mắt, ngài lại cho cả hai, vậy ngài hãy phát nguyện nói lời Chân thật về việc đó.

Rồi Thiên chủ ngâm kệ:

22- Chúa tể của loài lưỡng túc nhân,
Hãy nguyền nói đúng lẽ toàn chân,
Nếu ngài tuyên bố lời chân thật,
Ðôi mắt ngài nay sẽ phục hoàn.

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Thiên chủ, nếu ngài muốn ban cho trẫm con mắt thì xin đừng cố tìm phương tiện gì khác nữa, mà hãy làm cho mắt trẫm phục hồi như là kết quả hạnh bố thí của trẫm thôi.

Thiên chủ bảo:

– Này Ðại Vương, dù ta được chúng gọi là Ðế Thích, Chúa tể chư Thiên, ta cũng không thể đem con mắt cho ai được cả; tuy thế, nhờ thiện quả từ hạnh bố thí của Ðại vương, chứ chẳng phải do việc gì khác, mà mắt của Ðại vương sẽ được phục hồi đó thôi.

Tiếp theo, vua ngâm kệ xác nhận việc bố thí của mình đã được thực hiện tốt đẹp chân chánh:

23- Loài nào bất kể, muốn cầu ân,
Hễ có ai nài nỉ lại gần,
Ai đến bất kỳ, xin bố thí,
Lòng ta cũng thấy thật thương thân:
Nếu lời Ðại nguyện này chân thật,
Cầu mắt ta nay sẽ hiện dần.

Ngay khi ngài vừa thốt những lời này, một con mắt của ngài xuất hiện ra trong lỗ mắt. Sau đó ngài ngâm đôi vần kệ để xin phục hồi con mắt kia:

24-Một đạo sĩ kia đến viếng ta,
Chỉ cần xin một mắt thôi mà,
Ta đà đem trọn đôi con mắt,
Bố thí La môn khất sĩ già.

25- Hoan hỉ càng nhiều, lạc thọ tăng,
Chính hành động ấy đã ban phần,
Nếu lời Nguyện ước này Chân thật,
Mong được mắt kia cũng phục hoàn.

Lập tức con mắt thứ hai xuất hiện, song đôi mắt này không phải là tự nhiên hay của thần linh nào. Con mắt do Ðế Thích Thiên chủ giả dạng Ba la môn ban cho, không thể là con mắt tự nhiên mà có được, ta phải hiểu như vậy; còn về phương diện khác, thì một con mắt thần linh không thể hóa hiện ra bất cứ sinh vật nào đã bị thương tật. Nhưng thật sự cặp mắt này được gọi là Nhãn quang Toàn chân và Tối thắng.

Vào lúc chúng xuất hiện, toàn thể triều thần tề tựu lại nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ; và Ðế Thích Thiên chủ đứng giữa hội chúng, cảm hứng ngâm đôi vần kệ tán thán đức vua:

26- Ðại đế Sivi bảo dưỡng dân!
Bài ca thánh thiện của Minh quân
Cho ngài được hưởng phần ân huệ
Vô giá này, đây cặp mắt thần.

27- Xuyên qua tường, núi, đá, đồng bằng,
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn,
Ðôi mắt ngài đây đều thấy suốt
Khoảng chừng trăm dặm ở mười phương.

Khi ngâm kệ xong, ngài vụt đứng trên không trước hội chúng này cùng với lời khuyến giáo bậc Ðại Sĩ phải tỉnh giác tu tập, rồi Thiên chủ trở về Thiên giới.

Còn bậc Ðại Sĩ được đám tùy tùng vây quanh, ngự xa giá về kinh thành trong cảnh uy nghi trọng thể và ngài bước vào cung điện mệnh danh Candaka hay Khổng tước Nhãn (Con mắt chim công)

Nguồn tin đức vua đã được phục hồi cặp mắt vang dậy khắp vương quốc Sivi. Toàn dân tập họp lại để yết kiến ngài cùng với các cống vật trong tay. Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Giờ đây hội chúng nàyđã tụ họp đông đủ, ta sẽ tán thán việc bố thí vừa rồi đã làm”. Ngài truyền lệnh dựng lên một ngôi đình ngay cổng thành, nơi đó ngài ngự trên môt vương toạ với chiếc lọng trắng hoàng gia che trên đầu ngài, triệu tập các hội đoàn, dân chúng, quân sĩ lại; rồi ngài phán:

– Này dân chúng Sivi, nay các người đã nhìn thấy cặp thiên nhãn này thì đừng có bao giờ ăn thứ gì mà không đem bố thí đi một ít!

Rồi ngài ngâm bốn vần kệ tuyên thuyết Pháp lành:

  1. Nếu mình được gợi ý thi ân,
    Nào ai có từ chối được chăng,
    Dù đó là phần cao quý nhất,
    Của mình, bảo vật giá vô ngần

29- Dân chúng Sivi hội họp đoàn,
Ðến đây, nhìn cặp mắt trời ban!
Xuyên qua tường đá , đồi, thung lũng
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn
Ðôi mắt ta đều trông thấy suốt
Một trăm dặm trải khắp mười phương

30- Từ bỏ thân mình giữa thế nhân
Là điều cao quý nhất trên trần,
Ta đem bố thí mắt phàm tục,
Nên được trời cho cặp mắt thần.

31- Dân chúng này xem, hãy phát ban,
Nhường phần cho kẻ khác khi ăn,
Nếu làm việc ấy đầy tâm thiện,
Người sẽ sinh thiên chẳng lỗi lầm.

Ðức vua thuyết Pháp qua bốn vần kệ này, và về sau cứ mỗi nửa tháng, vào ngày Trai giới, và mỗi ngày rằm ngài lại thuyết Pháp qua các vần kệ trên liên tục trước đám dân chúng đông đảo quây quần. Nghe lời ấy, dân chúng bố thí và làm nhiều thiện sự, cho nên đã đi lên gia nhập hội chúng cõi trời thật đông đúc.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa không thỏa mãn việc bố thí ngoại tài, nên đã bố thí cho bất cứ người nào ngẫu nhiên đến xin chính cả đôi mắt của mình lấy từ đầu ra nữa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy Ànanda là phẫu thuật sư Sivaka, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Thiên chủ Ðế Thích, hội chúng của đức Phật là toàn dân và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền thân Sirimanda)

Chuyện Thần nữ Cát Tường này sẽ được kể đầy đủ trong chuyện Ðường Hầm Lớn (Mahà-Ummagga) số 546.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền thân Rohanta Miga)

Hãi kinh thần chết hỡi Citta…..

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm ( Veluvana) về Tôn giả Ànanda (A-nan)đã hy sinh tính mạng mình.

Sự hy sinh này được miêu tả trong chương XXI, số 553. Tiền thân Culla-Hansa, tập V. ChuyệnĐiều phục con voi Dhanapàla (Tài hộ). Sau khi Tôn giả đã hy sinh tính mạng mình vì bậc Đạo Sư, Tăng chúng bàn tán việc ấy trong Chánh pháp đường.

– Này Hiền giả, Tôn giả Ànanda, sau khi đạt tri kiến đầy đủ về con đường tu tập Giáo pháp, đã hy sinh tính mạng mình vì đấng Thập lực (Dasabala: danh hiệu của đức Phật).

Bậc Đạo Sư bước vào, hỏi Tăng chúng nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình bày với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên vị ấy hy sinh tánh mạng vì Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho hội chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, chánh hậu của vua tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy Bồ Tát được sinh làm con Hươu ở vùng Tuyết Sơn có màu da vàng óng ả tuyệt đẹp, và em trai của Ngài là Citta Miga hay Hươu sao, và em gái ngài là Sutanà cũng có màu da như thế. Bấy giờ bậc Đại Sĩ có tên Rohanta làm chúa tể đàn hươu lớn. Vượt băng ngang qua hai rặng núi, vào đến rặng thứ ba, ngài sống ở bên hồ Rohanta và được cả bầy hươu nai tám mươi ngàn con vây quanh hầu hạ. Thời ấy ngài phải phụng dưỡng song thân ngài già cả mù lòa.

Bấy giờ một người thợ săn ở trong một làng săn gần Ba la nại đến vùng Tuyết Sơn và chợt thấy bậc Đại Sĩ. Lão trở về làng mình và vào lúc lâm chung, lão dặn con trai:

– Này con, ở một nơi nọ trong vùng đất cha săn bắn, có một con hươu màu vàng ròng, nếu bao giờđức vua chợt phán hỏi thì con hãy xin phép tâu trình với ngài về chuyện đó.

Một ngày kia hoàng hậu Khemà, trong một giấc mộng về sáng, nằm mơ thấy cảnh như vầy: Một con hươu màu vàng ròng ngồi trên một chiếc kim đôn thuyết pháp cho hoàng hậu nghe bằng giọng nói ngọt ngào như mật, chẳng khác gì tiếng chuông ngân vang. Song trước khi bài giảng chấm dứt, con hươu đứng lên và chạy mất, bà giật mình tỉnh dậy và kêu to:

– Bắt lấy con hươu!

Đám nữ tỳ nghe tiếng bà kêu, bật cười ròn rã:

– Đây là cung thất đóng kín mọi cửa lớn lẫn cửa sổ, ngay cả một mảy gió cũng không lọt vào được, giữa lúc này mà lệnh bà gọi lớn bảo bắt con hươu kia!

Đến khi ấy bà mới biết đó chỉ là giấc mộng. Song bà tự nhủ: “Nếu ta bảo đó là giấc mộng thì đức vua sẽ không để ý. Nhưng nếu ta bảo đó là nỗi ước ao của một thai phụ thì ngài sẽ quan tâm lo lắng ngay. Vậy ta quyết phải nghe cho được lời thuyết Pháp của chính con hươu màu hoàng kim ấy!”

Sau đó bà liền nằm xuống giả vờ ngã bệnh. Vua bước vào:

– Này ái khanh có việc gì thế? Ngài hỏi.

– Ôi tâu Chúa thượng, đó chỉ là nỗi ao ước tự nhiên của thần thiếp.

– Thế ái khanh muốn điều gì?

– Thần thiếp ước ao được nghe lời thuyết Pháp của một con hươu màu hoàng kim chân chánh.

– Kìa ái khanh, điều ái khanh ao ước không hề có: chẳng bao giờ có con vật nào là loài hươu hoàng kim cả.

Bà đáp:

– Nếu thần thiếp không được như ý, thần thiếp sẽ phải chết ngay lập tức.

Bà liền quay lưng lại về phía vua và nằm im. Vua bảo:

– Nếu có một con vật như thế trên đời này thì nó sẽ được bắt về ngay.

Sau đó vua hỏi các triều thần và các Bà la môn như trong chuyện Tiền thân “Khổng tước” (số 129, tập I) để xem thử có loài vật nào là hươu hoàng kim chăng. Khi được biết là hiện có, ngài triệu tập các thợ săn vào và hỏi:

– Trong các người, ai đã từng thấy hoặc nghe nói về một con vật như thế chăng?

Con trai của lão thợ săn mà ta đã nói trên đây liền kể lại câu chuyện gã nghe được. Vua phán:

– Này ngươi, khi nào ngươi đem về cho trẫm con hươu kia thì trẫm sẽ ban thưởng ngươi rất trọng hậu, vậy ngươi hãy đi tìm kiếm nó và đem về đây.

Ngài bảo đưa tiền lộ phí cho gã và bảo gã lui ra. Người thợ săn tâu:

– Xin Chúa thượng đừng lo, nếu như tiểu thần không đem được con hươu ấy về thì tiểu thần cũngđem được bộ da nó về, nếu không đem được da thì cũng đem được lông nó về đây.

Sau đó người ấy trở lại nhà, đưa số tiền vua ban cho gia đình mình rồi ra đi vào rừng và trông thấy Lộc vương. Gã suy nghĩ: “Ta phải đặt bẫy ở đâu để bắt hươu đây?” Gã thấy ngay cơ hội tốt ở chỗ hươu nai uống nước. Gã kết một sợi dây bằng da thật chặt và đặt sợi dây vào một cái sào ở nơi mà bậc Đại Sĩ thường xuống để uống nước.

Hôm sau bậc Đại Sĩ cùng với tám mươi ngàn con hươu trong lúc tìm kiếm thức ăn, đi đến đó để uống nước tại bến sông thường lệ. Ngài vừa đặt chân xuống liền bị kẹt ngay vào dây thòng lọng. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta rống lên tiếng kêu bị nạn thì cả đàn hươu sẽ kinh hoàng chạy trốn mà không được ăn uống gì cả”. Vì thế, mặc dầu ngài bị siết chặt ở đầu cây sào, ngài vẫn đứng giả vờ uống nước, như thể đang còn được tự do.

Khi tám mươu ngàn con hươu đã uống xong và bấy giờ chúng đã bước ra khỏi nước, ngài liền lắc mạnh cái thòng lọng ấy ba lần cố làm nó đứt ra. Lần đầu ngài làm rách da, lần thứ hai nó đâm sâu vào thịt và lần thứ ba làm giãn gân ra, vì thế cái thòng lọng siết tới tận xương tủy. Sau đó vẫn không thể nào phá đứt thòng lọng, ngài rống lên kêu bị nạn: cả bầy hươu kinh hoàng chạy thoát thân thành ba đàn lớn.

Citta Miga không tìm được bậc Đại Sĩ trong ba đàn ấy liền suy nghĩ: “Mối hiểm họa này vừa xảy ra cho bọn ta đã gieo xuống đại huynh của ta”. Khi quay về, chú hươu em thấy ngài đã bị mắc bẫy thật chặt. Bậc Đại Sĩ chợt thấy em mình, liền kêu lên:

– Này hiền đệ, đừng đứng đây nữa, ở đây nguy hiểm lắm.

Rồi ngài ngâm kệ, thúc giục em chạy trốn:

1- Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,
Cả đám hươu kia chạy thoát xa
Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng
Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.

Ba vần kệ sau do anh em đối đáp nhau:

Citta:

2- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

3- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

Citta:

4- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rồi Citta đứng vững làm chỗ dựa cho Bồ Tát ở bên phải và cố làm vui vẻ để ngài phấn khởi tinh thần.

Còn Sutanà, là bé Hươu còn non tơ, cứ chạy quanh quẩn giữa bầy hươu, song không tìm thấy hai anh đâu cả, cô bé Hươu non suy nghĩ: “Chắc tai họa đã xẩy ra cho hai anh của ta rồi”. Bé Hươu quay lại, đến chỗ hai anh và khi bậc Đại Sĩ thấy em gái tới, liền ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,
Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,
Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,
Em phải sống cùng với mẹ cha.

Ba vần kệ sau lại được hai anh em đối đáp như trên:

Sutanà:

6- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

7- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta

Sutanà:

8- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Em liều mất mạng, song không thể
Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.

Như vậy nàng Hươu non cũng không chịu nghe lời ngài, nên cứ đứng bên cạnh ngài mà an ủi vỗ về.

Bấy giờ người thợ săn thấy bầy hươu đã chạy trốn mất và nghe tiếng kêu của con vật mắc cạn:” Ắt hản là Hươu chúa đã bị lọt bẫy rồi!”. Gã nói xong, nai nịt dây đai thật kỹ và chạy vội đi.

Bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ chín, ngài vừa thấy gã đến:

9- Thợ săn hung dữ, dáo trong tay
Nhìn gã, kìa đang bước đến đây!
Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,
Chúng mình, gã giết nội, ngày nay!

Citta không chạy trốn, dù chú hươu này cũng trông thấy gã thợ săn. Còn bé Sutanà không đủ mạnh dạn để đứng yên, cứ vẫn chạy loanh quanh vì sợ chết. Rồi nàng Hươu bé bỏng kia suy nghĩ: “Ta sẽ chạy thoát đi đâu nếu ta bỏ mặc các anh của ta?” Thế là cô nàng quay lại, dành chịu hy sinh tánh mạng, mặc cho tử thần ghi dấu trên đôi mày và đứng yên phía bên trái anh mình.

*

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

10- Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,
Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,
Rồi có hành vi đầy quyết liệt:
Vì nàng đành chịu phận đau thương.

*

Khi người thợ săn đến nơi, gã thấy cả ba sinh vật này đứng bên nhau. Một ý tưởng từ mẫn thương xót nổi lên trong lòng, vì gã đoán chúng là anh em cùng một mẹ. Gã suy nghĩ: “Chỉ một mình Hươu chúa đàn bị mắc bẫy, còn hai Hươu kia thì bị ràng buộc bởi những mối liên hệ thương yêu tôn trọng mà thôi. Thế chúng có họ hàng gì với Hươu chúa chăng?” Gã hỏi câu ấy như vầy:

11- Đôi lộc dù không bị buộc chân,
Là ai, chầu chực cạnh tù nhân,
Không đành bỏ mặc chàng Hươu chúa,
Và chạy trốn đi để thoát thân?

Bồ tát liền đáp:

12- Em gái, em trai ấy thật là,
Cùng chung một mẹ đã sinh ra,
Không đành phận được riêng mình sống,
Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.

Những lời này lại làm cho tim gã mềm dịu xúc cảm tột độ. Lộc vương đệ Citta nhận thấy lòng gã thợ săn đã trở thành thân ái nhu hòa, liền nói:

– Này Hiền hữu thợ săn, hiền hữu đừng tưởng rằng đây là một con hươu tầm thường chứ không có gì khác, ngài đây chính là Lộc vương của tám mươi ngàn con hươu. Ngài đã sống đời đạo hạnh, có từ tâm đối với muôn loài và trí tuệ cao minh, ngài đã phụng dưỡng song thân nay đã già cả mù lòa. Nếu hiền hữu giết một bậc chân chánh như vậy, tức là giết chết song thân ta, em gái ta và ta nữa, luôn năm mạng tất cả. Còn nếu hiền hữu tha mạng ngài, là hiền hữu đem cuộc sống lại cho cả năm mạng ta đó.

Rồi Hươu này ngâm kệ:

13- Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,
Đành phải chết luôn cả mẹ cha,
Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,
Và xin thiện hữu thả anh ta.

Khi người thợ săn nghe lời thuyết giáo đầy hiếu thảo này, lòng gã vô cùng hoan hỷ, gã đáp:

– Xin Chúa công đừng sợ.

Rồi gã ngâm kệ tiếp đáp lời:

14- Thôi được, này xem ta thả ra,
Chúa Hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,
Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,
Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.

Trong khi nói thế, gã suy nghĩ: “Nay ta còn thiết gì đến đức vua cùng các danh vọng ngài ban cho nữa? Nếu ta làm hại Hươu chúa này, thì hoặc là mặt đất sẽ há miệng ra nuốt chửng ta, hoặc là Thiên lôi sẽ giáng xuống đánh tan xác ta. Vậy ta quyết thả Hươu này thôi”. Vì thế gã đến gần bậc Đại Sĩ, hạ cây sào xuống và cắt sợi dây da. Sau đó gã ôm lấy Hươu chúa vào lòng, đặt Hươu xuống gần mặt nước, nhẹ nhàng êm ái tháo gỡ nút dây thòng lọng ra khỏi chân Hươu, nối các đầu dây gân lại với nhau, làm kín vết thương trên da thịt cùng các mép da bị sây sát, lấy nước rửa sạch máu, rồi cứ thoa bóp Hươu khắp mình mẩy một cách đầy thương xót.

Nhờ uy lực của lòng thân ái kia cùng với công hạnh viên mãn của bậc Đại sĩ, nên toàn thân ngài bình phục như trước, đủ gân cổ, da, thịt, lông tơ và da non bao phủ cẳng chân, nên không ai đoán biết được chỗ nào Hươu đã bị trọng thương cả. Bậc Đại Sĩ đứng tại đó và tràn ngập hạnh phúc trong lòng, Citta nhìn ngài vô cùng hoan hỷ nên ngỏ lời cảm tạ người thợ săn qua vần kệ này:

15- Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,
Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Đại lộc vương nay được thoát nàn.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Phải chăng vì tự ý mà người thợ săn đánh bẫy ta, hay do lệnh của một ai khác?”. Và ngài hỏi nguyên nhân bắt hươu này. Người thợ săn đáp:

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này không có liên can gì đến Chúa công cả, chính vương hậu Khemà của đức vua ước mong nghe ngài thuyết giảng Chánh pháp, cho nên kẻ hèn này đã đánh bẫy ngài theo lệnh vua truyền.

– Hiền hữu, bạn đã dám cả gan thả ta ra ư? Mau lên, đưa ta vào yết kiến đức vua, rồi ta sẽ thuyết giáo trước mặt hoàng hậu.

– Quả thật, tâu Chúa công, các vua chúa thường ác độc lắm. Làm sao ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Kẻ hèn này chẳng màng thứ công danh gì mà đức vua có thể ban cho mình đâu; vậy ngài hãy ra đi nơi nào như ý.

Nhưng bậc Đại Sĩ lại suy nghĩ rằng gã thả ngài ra là một việc qúa liều lĩnh, nên ngài phải tìm cơ hội cho gã đạt vinh quang danh vọng đã được vua hứa hẹn trước ấy. Vì thế ngài bảo:

– Này hiền hữu, hãy lấy tay xát mạnh vào lưng ta.

Gã làm y lời, bàn tay gã liền dính dầy lông tơ vàng óng.

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này sẽ làm gì với đám lông tơ này đây?

– Này hiền hữu, hãy đem chúng về trình lên đức vua cùng hoàng hậu, tâu các ngài rằng đây là đám lông tơ của Hoàng kim Lộc vương kia, rồi hãy thay mặt ta thuyết giáo cho hai vị ấy nghe các lời kệ mà ta sắp ngâm đây. Khi hoàng hậu nghe lời hiền hữu như thế là cũng đủ làm thỏa mãn niềm khát khao của hoàng hậu rồi.

– Tâu Lộc vương, xin ngài hãy thuyết Pháp.

Người thợ săn nói và Hươu chúa dạy cho gã mười vần kệ về đời sống Thánh hạnh, trình bày Ngũ giới đức và bảo gã ra đi với lời dặn dò khuyên nhủ gã phải tỉnh giác hộ phòng.

Người thợ săn cư xử với bậc Đại Sĩ như cách người ta đồn đãi tôn trọng một bậc thầy vậy. Gã đi diễu quanh ngài ba lần hướng về phía hữu, đảnh lễ bốn lần rất cung kính và gói ghém đám lông tơ vàng ấy trong ngọn lá sen rồi ra đi.

Ba anh em chúa Hươu tiễn đưa gã đi một đoạn đường . Sau khi ăn uống xong, ba vị liền trở về với cha mẹ.

Song thân vội hỏi ngài:

– Này con yêu Rohanta, cha mẹ đã nghe con bị bắt, làm sao con trở về được tự do đây?

Hai vị hỏi qua vần kệ:

16- Làm thế nào con được tự do,
Khi đời con suýt dứt đường tơ?
Sao người săn nọ cho con thoát,
Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?

Bồ tát ngâm ba vần kệ đáp lời:

17- Citta đã giải thoát cho con
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

18- Suta đã giải thoát cho con,
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

19- Chú thợ kia đã giải thoát con,
Khi nghe lời nói thật mê hồn,
Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,
Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.

Song thân của ngài bày tỏ lòng cảm ơn bằng một vần kệ:

20- Ta chúc người, gia quyến, vợ con,
Cầu mong các vị phước duyên tròn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Nay chúa Lỗ hân được thoát nàn.

Bấy giờ người thợ săn ra khỏi rừng đi về yết kiến vua, gã đảnh lễ ngài và đứng chầu một bên. Khi vua trông thấy gã liền bảo:

21- Lạp hộ, mau lên , nói trẫm hay,
Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy
“Tâu hoàng thượng, tấm da hươu chúa,
Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay”.
Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có
Để dâng, vì cớ sự gì đây?

Thợ săn:

22- Chúa Hươu đã đến tận tay rồi
Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.
Bị bắt liền, song đôi lộc khác
Thong dong chầu chực một bên ngài.

23- Xót thương, thần rợn cả làn da
Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:
“Nếu giết Hươu này (thần nghĩ ngợi),
Đời thần ắt cũng hóa ra ma!”

Nhà vua:

24- Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,
Phong tư, cốt cách chúng ra sao,
Màu lông, đặc tính gì trong chúng
Xứng đáng lời kia tán tụng cao?

Vua cứ hỏi đi hỏi lại câu này mãi như thể một người tràn đầy kinh ngạc. Gã thợ săn đáp lời qua vần kệ:

25- Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,
Với bộ lông da sáng rỡ ràng,
Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,
Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.

Trong lúc ngâm kệ, gã vừa đem đặt vào lòng bàn tay vua một nắm lông tơ vàng ánh của bậc Đại Sĩ và qua một vần kệ khác, gã trình bày sơ lược đặc tính của các Hươu này:

26- Phong tư, cốt cách chúng như vầy,
Tâu Chúa công, là đám lộc này,
Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,
Thần không đem được chúng về đây.

Qua những lời này, gã miêu tả các đức tính của bậc Đại Sĩ, của chú Hươu em Citta và cô bé Hươu non Sutanà, rồi nói thêm điều này:

– Tâu Đại vương, Hươu chúa cho tiểu thần một nắm lông, lại bảo thần thay thế địa vị ngài mà thuyết Pháp trước Hoàng hậu qua mười vần kệ về đời sống theo Thánh hạnh.

Trong lúc gã thợ săn vừa ngồi trên bảo tọa bằng vàng, gã thuyết Pháp lành qua mu+o+fi vần kệ này:

(Theo bản kinh Miến Điện, vua đặt gã thợ săn lên chiếc vương tọa được chạm cẩn với bảy loại châu báu; còn chính vua cùng hoàng hậu ngồi trên một bảo tọa thấp hơn, đặt ở một bên, rồi cung kính đảnh lễ, thỉnh cầu gã thuyết giảng. Người thợ săn thuyết giảng pháp lành như vầy:)

27- Tâu Hoàng thượng, đối với song thân,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

28- Với đàn thê tử, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

29- Đại vương với thân hữu quần thần
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

30- Trong bước lãng du, hoặc chiến trường,
Thực hành đường lối sống thuần lương,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh,
Thiên giới sẽ về, tấu Đại vương

31- Trong làng, thị trấn, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

32- Mọi miền quốc độ, tấu Quân vương
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

33- Với các Sa môn, Bà la môn,
Thực hành đường lối sống hiền nhơn,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh
Thiên giới sẽ về , tấu Đại vương!

34- Với loài cầm thú, tấu Quân Vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

35- Xin thực hành chân chánh Đại vương
Từ đây nguồn hạnh phúc tuôn tràn,
Nhờ đi theo cuộc đời chân chánh
Chúa thượng sẽ lên cõi ngọc đường

36- Hộ phòng tỉnh giác, tấu Quân vương
Tiến bước trên đường lối thiện lương,
Thiên chủ, chư Thiên cùng giáo sĩ,
Từ lâu đã đạt cõi Thiên đường.

37- Ngàn xưa đây chính các phương ngôn,
Đi đúng theo đường lối trí nhân,
Thiên nữ được tràn đầy hạnh phúc,
Tự mình thăng tiến cõi Thiên đường.

Người thợ săn đã thuyết Pháp như trên, theo cách bậc Đại Sĩ đã giảng bày cho gã với tài năng của một bậc Giác Ngộ, chẳng khác nào người đem từ bầu trời xuống trần thế cả giải Thiên hà kia. Hội chúng gồm đủ ngàn giọng nói đồng reo hò tán thán. Lòng khát khao của Hoàng hậu đã được thỏa mãn lúc bà nghe lời thuyết Pháp ấy.

Vua đầy hoan hỷ liền ngâm các vần kệ này, khi ngài ban thưởng người thợ săn đại vinh hoa phú quý:

38- Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,
Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,
Xinh tươi, bảo tọa như hoa tấm
Với nệm nằm chen cả bốn hàng.

39- Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,
Trâu bò thường đúng một trăm rồi
Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính
Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!

40- Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,
Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,
Trẫm thấy khanh không làm việc ác,
Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.

Khi nghe vua nói những lời này, người ấy đáp:

– Tiểu thần không có nhà cửa hay gia đình gì nữa, xin Chúa thượng cho phép tiểu thần được làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi được vua chấp thuận, người ấy đem mọi vật vua ban thưởng trọng hậu ấy về cho vợ con, gia đình, xong rồi lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn, nơi đây người ấy sống theo đời khổ hạnh, tu tập tám Thiền chứng và được sinh lên cõi Phạm Thiên.

Còn vua vẫn tuân hành lời giáo huấn của bậc Đại Sĩ, nên về sau lên cộng trú với hội chúng chư Thiên dục giới. Lời giáo huấn ấy tồn tại cả ngàn năm sau nữa.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, xưa kia cũng như bây giờ, Ànanda hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Channa (Xa nặc) là người thợ săn, Sàriputta ( Xá Lợi Phất) là vua, một Tỳ kheo ni là hoàng hậu Khemà, hai người trong hoàng tộc là mẹ cha của chúa Hươu, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Sutanà, Ànanda la Citta, dòng họ Sàkya ( Thích Ca) này là đàn hươu tám mươi ngàn con, và Ta chính là Lộc vương Rohanta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền thân Hamsa)

Kìa đám hằng nga cất cánh bay….

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Tôn giả Ànanda hy sinh tính mạng.

Lúc ấy Tăng chúng đang bàn luận trong Chánh pháp đường về các đức tính của Tôn giả này thì bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì tại đó. Rồi ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda từ bỏ tánh mạng vì ta, mà xưa kia cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một vị vua ngự trị tại thành Ba la nại mệnh danh là Bahuputtaka hay là Thân phụ của nhiều Vương tử và chánh cung hoàng hậu của ngài là Khemà (Thái Hòa).

Thuở ấy, bậc Đại Sĩ sống trên đỉnh núi Cittakuta, ngài là chúa tể của chín mươi ngàn Thiên nga, sau khi được sinh làm chim Thiên nga với màun lông vàng ánh.

Thuở ấy như đã thuật trước đây, chánh hậu nằm mộng và tâu vua rằng bà đã mang nỗi khát khao của một thai phụ muốn nghe một chim Kim nga thuyết Pháp. Khi vua hỏi xem có loài vật nào như chim Kim nga chăng, và ngài được báo tin là hiện có loài ấy trên núi Cittakùta. Sau đó ngài bảo xây cái hồ đặt tên là Khemà, lại truyền lệnh trồng đủ loại ngũ cốc làm thực phẩm, hằng ngày rao truyền khắp tứ phương ban bố lệnh bảo vệ hồ ấy, rồi phái một thợ săn đến bắt Thiên nga.

Người này được phái đi cách nào, người ấy canh chừng chim muông ra sao, tin tức được tâu trình vua khi bầy Thiên nga được xuất hiện như thế nào, cái bẫy được giăng theo kiểu gì và bậc Đại Sĩ bị mắc vào bẫy, rồi Đại tướng Thiên nga Sumukha (Sư mục kha) không thấy Ngài trong ba đàn chim kia, liền trở về tìm ngài ra sao, tất cả chi tiết này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Mahàhamsa (Đại Thiên nga) số 534, tập VI, trong đó Chúa Thiên nga có tên Dhatarattha.

Bấy giờ ngay lúc bậc Đại Sĩ bị bắt vào thòng lọng và cây sáo, dù cho ngài đang treo lủng lẳng trong chiếc thòng lọng ở đầu cây sào, ngài cũng cố vươn cổ ra nhìn theo hướng bầy chim đã bay trốn mất và chợt thấy tướng Sumukha quay trở lại, ngài suy nghĩ: “Khi chim tướng đến đây, ta sẽ thử lòng chim tướng ấy xem sao”. Vì thế khi chim kia đến, bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ:

1- Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư mục lông vàng óng,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này.

2- Họ hàng ta đã bỏ rơi ta!
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ lại,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?

3- Thiên nga cao thượng hãy bay về,
Tù tội, thân không có bạn bè,
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi! Đừng bỏ dịp may kề.

Nghe vậy, Tướng quân Sumukkha đáp lời lúc đang đậu trên vũng bùn:

4- Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.

Như thế Sumukkha đã cất giọng sư tử hống và chúa chim Dhataratha đáp kệ này:

5- Những lời khanh nói thật anh hùng,
Đại tướng ôi, cao cả tấm lòng!
Vì muốn thử lòng hiền hữu đó,
Trẫm đà bảo bạn hãy phi thân!

Trong lúc hai vị đang trò chuyện với nhau như vậy, người thợ săn vừa tới nơi, cầm gậy trong tay, gã chạy như bay hết tốc lực. Sumukkha khuyến khích chúa chim Dhatarattha cho phấn khởi tinh thần, rồi bay ra đón người thợ săn, kính cẩn đề cao đức hạnh của chim chúa đàn. Lập tức tâm hồn người thợ săn trở nên nhu hòa. Sumukkha nhận thấy ngay điều này, liền quay lại, đứng cạnh chúa Thiên nga để khích lệ ngài phấn khởi tinh thần. Còn người thợ săn tiến đến gần chim chúa và ngâm vần kệ thứ sáu:

6- Bọn chúng đều co cẳng vút bay,
Bầy chim tung cánh giữa trời mây,
Thiên nga vương giả, sao chim chẳng
Trông thấy từ xa chiếc bẫy này?

Bậc Đại Sĩ đáp lại:

7- Khi đời sắp sửa phút lâm chung,
Giờ tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đứng kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt, dây giăng!

Người thợ săn hài lòng với lời nhận xét của chim chúa, liền ngâm thêm ba vần kệ hỏi Sumukha:

8- Kìa đám hằng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh thay,
Còn Thiên nga có sắc vàng óng,
Bị bỏ rơi, còn nán đợi đây.

9- Cả đám hồng nga đã uống ăn,
Rồi bay về hết, chẳng quan tâm,
Qua không gian chúng lao vùn vụt,
Và bỏ mặc chim chỉ một thân!

10- Có gì quan hệ với chim này,
Khi cả đàn ruồng rẫy vụt bay,
Dù được tự do, chim ở lại,
Một mình kết bạn với kẻ tù đây?

Sumukha đáp lời:

11- Chim chúa là đây, bạn chí tình,
Thiết thân như chính cuộc đời mình,
Bỏ ngài ư?- Chẳng bao giờ có,
Dù lúc tử thần gọi đích danh!

Nghe thế, người thợ săn vô cùng hoan hỷ và nghĩ thầm: “Ví thử ta làm hại các sinh vật đức hạnh như thế này, chắc chắn mặt đất sẽ há miệng ra và nuốt chửng ta đi mất. Ta còn thiết gì đến ân thưởng vua ban nữa? Ta quyết thả chúng ra thôi”.

Rồi gã ngâm kệ:

12- Thấy rằng vì trọng nghĩa thân bằng,
Chim sẵn sàng từ bỏ tấm thân,
Ta thả chúa chim đồng mệnh ấy
Để cùng nhau khắp chốn đằng vân.

Vừa nói lời này xong, gã kéo Nga vương Dhataratha xuống khỏi cây sào, nới lỏng dây thòng lọng ra và đem Thiên nga tới bờ hồ, rửa sạch máu trên thân chim với lòng đầy xót thương, rồi thoa bóp các bắp thịt cùng gân cốt bị trặc khớp lại cho đúng chỗ. Nhờ tâm từ ái của người thợ săn cùng uy lực các Công hạnh Viên mãn của bậc Đại Sĩ (Thập hạnh Ba la mật), nên lập tức chân ngài lành mạnh như trước, chẳng còn một dấu vết nào chứng tỏ ngài đã bị mắc bẫy cả. Tướng quân Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ với lòng hân hoan và cảm tạ qua những lời này:

13- Lạp hộ, cùng thân hữu, họ hàng,
Cầu mong các vị phước ân tràn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Chúa chim giờ đây thoát buộc ràng.

Khi người thợ săn nghe lời này, gã nói:

– Này hiền hữu, Ngài có thể bay đi rồi đấy.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ bảo gã:

– Thưa Hiền giả, thế ngài đã bắt ta theo ý riêng của ngài hay do lệnh một người khác?

Gã liền kể cho ngài nghe mọi sự. Chim chúa tự hỏi nên trở về núi Cittakuta chăng hay đi vào kinh thành kia. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta vào thành, thì người thợ săn sẽ được vua ban thưởng, nỗi khao khát của hoàng hậu sẽ được thỏa mãn, tình bằng hữu của Sumukha sẽ được mọi người biết rõ, rồi cũng nhờ công đức trí tuệ của ta, ta sẽ được vua ban thưởng hồ Khemà như một đặc ân. Vậy ta vào thành thì hơn”.

Quyết định xong ngài nói:

– Này thợ săn, bạn hãy mang chúng ta lên đòn gánh của bạn đưa vào yết kiến đức vua, và nếu ngài muốn, ngài sẽ thả ta ra.

-Này chúa chim ơi, tính vua chúa bạo tàn lắm, vậy các ngài cứ lên đường các ngài cho yên thân!

– Sao thế? Ta đã làm mềm lòng một thợ săn như Hiền giả, mà ta lại không chiếm được ân sủng của vua chúa kia ư? Cứ để việc ấy cho ta lo liệu, này bạn hữu, phần của ông bạn là mang chúng ta đến yết kiến đức vua.

Người ấy đành tuân lời.

Khi vua nhìn thấy đôi thiên nga, ngài rất đẹp ý. Ngài đặt đôi chim lên một cành đậu bằng vàng, bảo đem mật ong và hạt mễ cốc rang chín cùng nước đường lên mời đôi chim; sau đó ngài đưa đôi tay lên thỉnh cầu đôi chim thuyết Pháp. Nga vương thấy vua tha thiết nghe Pháp như thế, nên trước tiên ngài nói với vua bằng những lời lẽ nhu hòa êm ái.

Sau đây là các vần kệ trình bày câu chuyện giữa vua và Thiên nga chúa:

Thiên nga:

14- Đại vương, ngọc thể có khang an,
Quý quốc giờ đây có hưởng tràn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Và ngài trị nước thật công bằng!

Đức vua

15- Thiên nga, đây trẫm được khang an,
Và bổn quốc đây được vẹn toàn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Với nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

16- Triều đình ngài chẳng phạm sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn biệt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối hướng Nam chăng?

Đức vua:

17- Triều thần trẫm chẳng thấy sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn bặt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối ở phương Nam!

Thiên nga:

18- Phải chăng chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý chờ mong?

Đức vua

19- Thưa vâng, chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm hằng mong!

Thiên nga:

20- Đại đế nuôi dân! Ngài có đông
Hoàng nam được dưỡng dục oai phong,
Thông minh ứng đối, người nhu thuận,
Bất cứ việc gì cũng gắng công?

Đức vua:

21- Nga vương, trẫm có đủ hoàng nam,
Nổi tiếng một trăm lẻ một chàng,
Dạy bảo chúng làm tròn phận sự,
Chúng không bỏ dở các lời vàng.

Nghe điều này bậc Đại Sĩ khuyến giáo hội chúng qua năm vần kệ:

22- Kẻ hoãn trì cho quá muộn màng
Thiện hành mà chẳng gắng công làm,
Dù nhiều đức tính, dòng cao quý,
Cũng vẫn chìm sâu xuống dưới dòng.

23- Người kia tri kiến cứ tàn dần
Tổn hại lớn lao, nó lãnh phần
Như kẻ quáng gà vì bóng tối,
Khi nhìn mọi vật hóa phồng căng,
Gấp đôi tầm cỡ thường nơi chúng,
Vì có nhãn quang chẳng vẹn toàn.

  1. Ai nhìn hư vọng thấy toàn chân,
    Chẳng đạt chút nào trí tuệ thông,
    Như thể trên đường đèo lởm chởm,
    Bầy hươu nai vẫn té nhào lăn.
  2. Nếu người nào dũng cảm can cường,
    Ðức hạnh mến yêu, giữ đúng đường,
    Dù chỉ là người dòng hạ liệt,
    Cũng bừng lên tựa lửa đêm trường.
  3. Cứ dùng ngay ví dụ trên này
    Chân lý hiền nhân, hãy giải bày,
    Dưỡng dục hoàng nam thành bậc trí,
    Như mầm non gặp lúc mưa đầy.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy cho vua suốt đêm ròng. Lòng khao khát của hoàng hậu đã được thỏa mãn. Trước buổi bình minh, ngài an trú vào Thập vương pháp và khuyên nhủ vua tinh cần cảnh giác, sau đó, ngài cùng tướng quân Sumukha bay ra khỏi khung cửa sổ hướng Bắc về miền núi Cittakùta.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, trước kia người này cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người thợ săn, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua, một Tỷ-kheo-ni là hoàng hậu Khemà, bộ tộc Thích-ca (Sàkya) là đàn thiên nga, Ànanda là Sumukha và Ta chính là Thiên nga vương.

-ooOoo-

  1. Chuyện anh vũ Sattigumba (Tiền thân Sattigumba)

Vua xứ Pãn-ca với đạo quân..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Lộc-uyển Maddakucchi về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Khi Ðề-bà-đạt-đa xô tảng đá lớn và một mảnh đâm vào chân của đức Thế Tôn khiến chân ngài rất nhức nhối, nhiều nhóm Tăng chúng họp lại đến viếng đức Như Lai. Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn thấy quần chúng tụ họp đầy đủ, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nơi đây đông đảo lắm. Dân chúng sẽ tụ tập nhiều nữa. Vị nào hãy dùng cái cáng khiêng ta đến Maddakucchi.

Các Tỷ-kheo liền làm theo đúng như vậy. Còn Tôn giả Jìvaka chữa cho chân đức Như Lai bình phục. Khi ngồi trước bậc Ðạo sư, Tăng chúng nói về chuyện này:

– Ðề-bà-đạt-đa là một kẻ ác và toàn thể hội chúng của ông đều là bọn người ác, kẻ gây ác nghiệp thường thân cận với lũ ác nhân.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nói chuyện gì vậy?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, ác nhân Ðề-bà-đạt-đa thân cận với bọn ác, mà xưa kia cũng vậy.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Pancàla ngự trị trong kinh thành Uttarapancàla. Còn bậc Ðại sĩ được sinh làm vương tử của Anh vũ vương trong khóm cây bông vải mọc trên cao nguyên giữa lòng một khu rừng rậm: nhà có tất cả hai anh em trai. Ngược chiều gió với vùng đồi núi này là một làng trộm cướp, có năm trăm tên cướp trú ngụ. Thuận chiều gió núi rừng lại là một vùng ẩn am với năm trăm vị hiền nhân.

Vào thời kỳ loài chim Anh vũ thay lông, một cơn lốc cuốn đi mất một chim Anh vũ và rớt vào làng trộm cướp kia, nằm giữa đống vũ khí của bọn cướp, và do chim rớt vào đó nên bọn chúng gọi nó là Sattigumba hay “Gươm giáo tua tủa”. Còn con chim kia rơi vào am ẩn sĩ, giữa đám hoa mọc trên chỗ đất cát, vì lý do đó nó được đặt tên là Pupphaka hay Hoa điểu. Thế là chim Sattigumba lớn lên giữa bọn cướp, còn Pupphaka sống với các hiền nhân.

Một ngày kia, vua phục sức oai nghi sang trọng cầm đầu một đám tùy tùng đông đảo ngự trên vương xa lộng lẫy để đi săn hươu nai. Không xa kinh thành mấy, vua vào rừng cây xinh tươi tràn đầy hoa quả. Vua phán:

– Nếu kẻ nào để cho một con nai thoát đi do lỗi mình thì phải lãnh trách nhiệm ấy!

Sau đó vua xuống xa giá tìm nơi ẩn mình, đứng yên với cung trong tay, dưới túp lều dành cho ngài.

Bọn người xua dã thú, đập vào các bụi rậm để đuổi con mồi. Một con hươu liền vùng dậy tìm đường thoát thân, nó thấy một kẽ hở ở cạnh vua, liền chui lọt qua đó biến mất. Mọi người hỏi nhau:

– Ai đã để con hươu chạy thoát? Chính là đức vua rồi!

Nghe vậy cả bọn cười nhạo vua, và vì lòng tự kiêu ngài không chịu được trò đùa này:

– Nay ta phải bắt cho được con hươu!

Vua kêu lớn và nhảy lên xe.

– Nhanh lên!

Ngài bảo người quản xa và ngài vụt biến mất theo con hươu.

Vua đi nhanh quá khiến bọn kia không theo kịp ngài, chỉ có vua và viên quản xa, hai người này cứ tiến lên đến giữa trưa, song chẳng gặp hươu đâu cả. Sau đó vua trở lại và khi thấy cạnh làng bọn cướp có một thung lũng đẹp mắt, ngài đi xuống tắm rửa, uống nước rồi đi lên khỏi con suối.

Sau đó người quản xa lấy tấm thảm từ trong vương xa ra trải dưới bóng cây, vua nằm trên đó, người quản xa ngồi dưới chân vua xoa bóp: vua cứ thức ngủ chập chờn. Dân chúng trong làng bọn cướp và cả bọn cướp nữa, đều đã vào rừng để chầu vua, vì thế trong làng không còn ai ngoài Sattigumba và người đầu bếp tên là Patikolamba.

Vào lúc ấy, Sattigumba bước ra khỏi làng và khi thấy vua, nó liền suy nghĩ: “Giá ta giết chết người kia đang nằm ngủ và lấy hết đồ trang sức ấy nhỉ?”. Vì thế nó trở lại gọi Patikolamba và kể cho gã nghe mọi sự việc.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm năm vần kệ:

  1. Vua xứ Pãn-ca với đạo quân
    Lên đường săn bắn lũ nai rừng,
    Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,
    Chẳng có một ai ở kế gần. 
  2. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng
    Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,
    Anh vũ, một chim đang tiến bước,
    Tức thì lời ác nó kêu vang:
  3. “Ngồi trên xe nọ, một nam trang,
    Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,
    Vương miện trên đầu vàng óng ánh
    Chiếu hồng như thể ánh trời quang!
  4. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,
    Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,
    Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,
    Nhanh lên, cất dấu hết bây giờ!
  5. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,
    Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,
    Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,
    Giết họ, rồi ta chất củi lên!”.

Nghe nói vậy, người kia bước ra khỏi nhà, khi nhìn thấy đó chính là vua, gã kinh hãi và ngâm kệ này:

  1. Này Sat-ti, có phát điên khùng?
    Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?
    Vua chúa giống như vầng lửa cháy,
    Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.

Chim đáp lại qua kệ khác:

  1. Ngu dại Pa-ti nói chuyện này
    Và ông điên, chẳng phải ta đây,
    Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ
    Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?

Bây giờ vua thức dậy, và khi nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng người, nhận thấy nguy hiểm, ngài ngâm kệ sau để đánh thức người lái xe:

  1. Dậy mau, hiền hữu quản xa này,
    Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,
    Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,
    Vì ta chẳng thích chú chim đây.

Gã liền vùng dậy, thắng đôi ngựa vào xe, rồi ngâm kệ nữa:

  1. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương!
    Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,
    Ðại vương, xin ngự vào xa giá,
    Nơi khác, ta tìm để náu nương.

Vua vừa ngự vào trong xe thì đôi tuấn mã thuần chủng đã lao vút nhanh như gió. Khi chim Sattigumba thấy xe vua đi xa rồi, lòng dao động nôn nao, nó liền ngâm hai vần kệ:

  1. Này đi đâu cả đám râu mày,
    Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?
    Vua nước Pãn-cà vừa chạy mất,
    Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!
  2. Vua ấy thoát thân có được chăng?
    Hãy cầm lao, dáo với tên, cung;
    Kìa Pãn-ca chúa vừa bay mất,
    Này, chớ cho vua ấy thoát thân!

Con chim nói huyên thiên như thế, đạp cánh xào xạc bay lui bay tới đầy vẻ bồn chồn. Trong lúc ấy, vua vừa thì giờ đến am ẩn sĩ của các hiền nhân. Vào lúc này, các vị ấy đã ra đi kiếm củ quả rừng, chỉ còn một mình chim Anh vũ Pupphaka ở trong am. Khi chim thấy vua, liền ra chào đón ngài và nói chuyện với ngài rất cung kính tao nhã.

Lúc ấy bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Chim Anh vũ với mỏ tươi hồng
    Cung cách ân cần đã nói năng:
    “Vạn tuế Ðại vương! Duyên hạnh ngộ
    Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng!
    Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,
    Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?
  2. Tin-dook, Pi-yal, các lá cây,
    Cùng Ka-su quả ngọt ngào thay,
    Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,
    Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.
  3. Nước mát từ hang núi thật sâu
    Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,
    Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,
    Ẩm thức tùy nghi thỏa khát khao.
  4. Mọi người đang lượm trái trong rừng,
    Các vị nơi này vẫn trú thân,
    Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,
    Tay thần chẳng có để cung dâng!”

Vua rất đẹp ý khi nghe lời nói tao nhã lịch thiệp này, liền đáp qua lời đôi vần kệ:

  1. Chưa có chim nào ưu tú hơn,
    Trên đời, Anh vũ quả thuần chơn,
    Còn chim Anh vũ đằng kia ấy
    Ðã nói bao điều thật ác ngôn:
  2. “Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,
    Ðến mau! Trói giết!” nó kêu vang,
    Trẫm đi tìm đến am tu sĩ
    Và thấy nơi này chốn vạn an.

Khi được vua bảo như thế, Hoa Ðiểu Pupphaka ngâm đôi vần kệ:

  1. Ðại đế! Chúng thần chính đệ huynh,
    Cùng chung một mẹ đã khai sinh,
    Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,
    Song chốn khác nhau đã trưởng thành.
  2. Vì Sat-ti đến bọn cường gian,
    Còn tiểu thần đi đến trí nhân,
    Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó
    Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.

Sau đó, Anh vũ giải thích đầy đủ chi tiết những sự khác nhau bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,
    Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,
    Bao nhiêu bạo động và xung kích,
    Chính đó là môn nó sở trường.
  2. Còn đây tiết độ, tự điều thân,
    Nhân ái, công bằng với chánh chân,
    Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,
    Quây quần thần lớn giữa hiền nhân.

Tiếp theo chim lại thuyết Pháp cho vua qua các vần kệ sau:

  1. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân
    Mà người ta kính trọng tôn sùng,
    Cho dù ác độc hay hiền đức,
    Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.
  2. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,
    Như một người tri kỷ, bạn lòng,
    Người ấy sẽ đồng hành, kế cận
    Bên mình ta đến phút sau cùng.
  3. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,
    Chuyện này ngài thấy quả là chân:
    Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,
    Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.
  4. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,
    Vì e ô nhiễm chạm vào thân:
    Cá ươn, cứ gói trong chùm cỏ,
    Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,
    Những kẻ kết giao phường trí độn
    Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.
  5. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,
    Ngọn là liền thơm ngát dịu dàng,
    Cũng vậy, nhiều người thành có trí,
    Khi ngồi chầu các bậc hiền nhân.
  6. Nhờ ví dụ này bậc trí nhân
    Phải am tường lợi lạc riêng phần:
    Tránh xa bầu bạn phường gian ác,
    Và sánh vai cùng bậc chánh chân,
    Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh.
    Đọa vào ngục tối bọn tà gian.

Vua rất hoan hỷ với bài thuyết giảng này. Kế đó các bậc trí giả từ rừng trở về. Vua đảnh lễ các vị và nói:

– Cầu mong các Tôn giả tỏ lòng từ bi hạ cố đến an trú trong ngự viên của trẫm.

Và ngài đã thuyết phục được các vị nhận lời mời. Khi hồi cung vua liền ban bố lệnh thả hết mọi Anh vũ. Còn các bậc trí nhân vẫn đến yết kiến vua. Ngài tặng các vị khu vườn thượng uyển để trú ngụ và chăm nom các vị rất chu đáo trong thời gian ngài còn tại thế. Sau khi mạng chung ngài lên cộng trú với hội chúng chư Thiên, hoàng thái tử của ngài được quần thần giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu làm lễ phong vương, và vị tân vương này cũng chăm sóc các hiền nhân và cứ thế cha truyền con nối suốt bảy đời vua đều bố thí cúng dường rất rộng rãi. Còn bậc Ðại sĩ an trú trong rừng cho đến khi mạng chung liền đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông thấy xưa kia Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) cũng thân cận bạn ác như bây giờ.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Sattigumba, đám tùy tùng của kẻ ấy là bọn cướp, Ànanda là vua, hội chúng của đức Phật là các trí giả, và Ta là Anh vũ Pupphaka.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại vương Bhallàtiya (Tiền thân Bhallàtiya)

Ngày xưa có đại đế Bhal-là..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) tức Nương tử Vũ Quý Hoa.

Một buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa hoàng hậu và vua về quyền lợi trong đời sống nội cung, vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà. Bà suy nghĩ: “Ta chắc đức Như Lai không biết đức vua đang giận hờn ta”.

Khi bậc Ðạo sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Ba-la-nại có Tăng chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón ngài và cầm lấy bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng chúng ngồi theo thứ tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi cơm, vua ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo sư hỏi:

– Tại sao hoàng hậu Mallikà không đến?

Vua đáp: – Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Ðại vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi Ðại vương còn là một tiên nam, Ðại vương rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi thương tiếc cả bảy trăm năm đó.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua tên là Bhallatiya trị vì tại Ba-la-nại. Do nỗi say mê món thịt nai rừng bốc khói trên hỏa lò lôi cuốn, ngài giao phó vương quốc cho các đại thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng một bầy chó săn thông minh tinh luyện, ngài lên xa giá rời kinh tiến về vùng Tuyết Sơn. Ngài cứ du hành dọc theo sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng thức món thịt nướng kia, cho đến khi ngài trèo tận một đỉnh cao.

Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối. Lúc ấy các đàn cá rùa, đủ loại tung tăng, dải cát dưới nước sáng loáng như bạc, cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái, chim chóc, ong bướm say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát, nơi đây từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn. Bấy giờ trên bờ suối xinh đẹp này có đôi tiên đang ôm chặt nhau, âu yếm vuốt ve nhau rồi bỗng tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.

Trong lúc vua trèo lên đỉnh Gandhamàdana (Hương Sơn) men theo dòng suối này, ngài chợt nhận thấy đôi tiên kia. “Tại sao họ cứ khóc than rền rĩ như thế này?”, ngài suy nghĩ, “Ta muốn hỏi xem sao”. Ngài chỉ cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất. Vừa khi ngài đã thấy chúng đã khuất dạng, ngài đặt cung tên cùng các vũ khi kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi ngài cất tiếng hỏi:

– Tại sao các ngươi than khóc?

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm ba vần kệ:

  1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
    Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
    Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
    Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
  2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
    Ðặt các cung tên xuống đất liền,
    Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
    Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
  3. “Ðông đã qua, sao lại trở về
    Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
    Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
    Người gọi loài gì, nói trẫm nghe”.

Nghe vua hỏi, vị tiên nam không nói gì, nhưng tiên nữ đáp lại như sau:

  1. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
    Chúng thần men suối mát, băng qua,
    Thú rừng cứ tưởng là người thật,
    Song bọn đi săn gọi quỷ ma.

Kế đó vua ngâm ba vần kệ:

  1. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
    Song lại khóc than thật não nùng,
    Tiên chúng giống như người thế tục,
    Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
  2. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
    Song khóc đầy ai oán thảm thương,
    Ðôi lứa khác nào người thế tục,
    Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
  3. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
    Song lời than khóc thật lê thê,
    Các ngươi trông giống người trần tục,
    Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!

Các vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:

Tiên nữ:

  1. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
    Không tình ân ái, nặng u sầu,
    Tương tư, song chẳng bao giờ có
    Ðêm ấy trở về được nữa đâu.

Quân vương:

  1. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
    Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
    Ðôi trẻ giống như người thế tục
    Mất tiền, hay lão phụ từ trần?

Tiên nữ:

  1. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
    Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
    Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
    Nên tình quân đã lội qua bờ.
  2. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
    Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
    Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
    Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
  3. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
    Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
    Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
    Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
  4. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
    Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
    Ðể kết liền cho chàng với thiếp
    Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
  5. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
    Về trải đầy trên mặt đất mềm
    Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
    Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
  6. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
    Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
    Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
    Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
  7. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
    Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
    Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
    Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
  8. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
    Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
    Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
    Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
  9. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
    Khi nhìn con suối cạn khô mau,
    Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
    Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
  10. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
    Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
    Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
    Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!

Quân vương:

  1. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
    Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
    Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
    Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.

Tiên nữ:

  1. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
    Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
    Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
    Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!

Khi vua nghe vậy, ngài suy nghĩ: “Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một quốc độ rộng ba trăm dặm, lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một sai lầm nghiêm trọng”.

Ngài liền quay về lập tức. Khi đến thành Ba-la-nại, triều thần hỏi ngài có thấy việc gì hi hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, ngài kể cho hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh vinh hoa của mình.

Ðể giải thích việc này bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
    Ðại vương trở lại bước đường ngay,
    Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
    An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.

Và Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:

  1. Rút ra bài học của tiên kia,
    Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
    Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
  2. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
    Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
    Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.

Bấy giờ hoàng hậu Mallikà đứng dậy từ bảo tọa khi bà nghe đức Như Lai thuyết giáo, rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
    Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
    Con nghe được các lời vàng,
    Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
    Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
    Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!

Từ đó về sau, vua xứ Kosala chung sống sắt cầm hòa hợp với hoàng hậu mãi mãi.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua xứ Kosala là vị tiên nam, hoàng hậu Mallikà là tiên nữ và Ta chính là vua Bhallàtiya.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử hoan lạc (Tiền thân Somanassa)

Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về cách Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) dự định sát hại Ngài. Sau đó bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-ba-đạt-đa tìm cách sát hại Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng nghe một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Câu-lâu (Kuru) và kinh thành Uttarapãncàla, có vị vua ngự trị với danh hiệu Renu. Lúc ấy có một ẩn sĩ khổ hạnh tên là Mahàrakkhita, sống ở vùng Tuyết Sơn cùng hội chúng năm trăm vị tu khổ hạnh khác. Trong lúc xuống vùng đồng bằng để xin muối và gia vị, vị tu khổ hạnh ấy đến xứ Uttarapancàla và cư trú trong ngự viên.

Cùng với hội chúng mình đi khất thực, vị ấy đến tận cung môn, và khi vua chiêm ngưỡng các hiền nhân, ngài rất đẹp lòng về cung cách của các vị, nên mời ngồi trên bảo tọa lộng lẫy, rồi cúng dường cao lương mỹ vị các vị dùng. Vua lại mời các vị an cư trong ngự viên suốt mùa mưa. Ngài rước các vị vào trong vườn ngự, cung cấp đủ nơi chốn để an trú, cùng các vật cần dùng cho đời sống tu hành, xong rồi từ giã. Sau đó các vị đều ăn uống trong cung vua. Bấy giờ vua không có con và đang ước mong sinh được hoàng nam, song chẳng có vương tử nào ra đời cho ngài cả.

Khi mùa mưa qua rồi, vị ẩn sĩ Mahàrakkhita nói:

– Nay vùng Tuyết Sơn xinh tươi dễ chịu lắm, ta hãy trở về đó.

Rồi vị ấy tạ từ vua, ngài liền tỏ bày đủ mọi cách tôn vinh trọng vọng rất hào phóng đối với các hiền nhân, xong hội chúng ra đi. Trên bước du hành, vào đúng ngọ, vị ấy rời đường cái cùng hội chúng của mình ngồi xuống trên thảm cỏ êm ái dưới bóng cây râm mát.

Các vị khổ hạnh kia bắt đầu đàm đạo. Họ nói:

– Nay không có hoàng nam trong cung để nối nghiệp hoàng gia. Nếu vua có được một vương tử thì thật là điều vạn phúc để kế tục vương nghiệp.

Mahàrakkhita nghe lời hội chúng nói chuyện, liền suy nghĩ: “Vua này có sinh được hoàng nam hay chăng?”. Rồi vị này nhận xét thấy rằng vua sẽ có một hoàng nam, vội bảo:

– Này các Hiền giả, các bạn đừng lo lắng gì, đêm nay lúc rạng đông một đấng thiên tử sẽ giáng trần, và sẽ nhập mẫu thai của chánh hậu.

Một vị tu khổ hạnh giả danh nghe được chuyện ấy, nghĩ thầm: “Nay ta muốn trở thành người tâm phúc của hoàng gia”.

Khi đến thời hội chúng khổ hạnh phải lên đường, vị ấy liền nằm xuống giả vờ lâm bệnh.

– Mau lên, ta cùng đi.

Hội chúng bảo nhau.

Người kia đáp:

– Ðệ không đi nổi.

Sau đó Hiền giả Mahàrakkhita biết được tin vì sao người ấy phải nằm yên tại chỗ.

– Hễ khi hiền hữu đi được thì hãy theo chúng ta ngay. Ngài bảo.

Rồi ngài cùng các hiền nhân kia tiến về Tuyết Sơn.

Bấy giờ kẻ lừa dối ấy liền ra sức chạy thật nhanh đến đứng tại cửa cung, dâng sớ tâu rằng có một người tùy tùng của Hiền giả Mahàrakkhita đến chầu. Kẻ ấy được vua triệu vào ngay lập tức và bước lên thượng lầu ngồi xuống sàn tọa đã được mời. Vua chào mừng kẻ ấy rồi ngồi xuống một bên, hỏi thăm sức khỏe của chư hiền. Ngài bảo:

– Tôn giả trở lại quá sớm. Thế vì nguyên cớ gì Tôn giả vội vàng quay lại đây?

– Tâu Ðại vương – kẻ ấy đáp – trong lúc chư hiền đang ngồi thong dong cùng nhau, hội chúng bắtđầu nói chuyện nếu đức vua sinh được hoàng nam để kế nghiệp thì thật là điều đại phúc. Khi tiểu thần nghe thế, liền suy ngẫm xem Ðại vương có sinh được hoàng nam không, thì nhờ thiên nhãn, thần thấy được một vị thiên tử vĩ đại sắp giáng trần và vị ấy sẽ nhập vào mẫu thai của chánh hậu Sudhamma. Rồi thần suy nghĩ: “Nếu họ không biết, họ có thể vô tình phá hoại bào thai ấy, vậy thì ta phải thông báo cho họ biết”. Và thế là vì để trình Ðại vương về tin ấy, nên hạ thần đến đây, tâuÐại vương. Nay hạ thần đã tâu trình xong, xin cho hạ thần lên đường.

– Không, không, này hiền hữu, không thể như vậy được.

Vua vô cùng hơn hỷ đem kẻ lừa gạt kia vào ngự viên ban cho ông một nơi an trú. Từ đó về sau ông sống trong cung vua, được dâng món ngự thiện tại đó và được mệnh danh là Dibbacakkuka hay là Thiên nhãn Ðạo nhân.

Sau đó, Bồ-tát từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, nhập mẫu thai của chánh hậu và khi ngài ra đời, triều thần đặt tên ngài là Somanassa Kumara hay là Vương tử Hoan Lạc, rồi ngài được nuôi nấng theo cung cách của vua chúa.

Bấy giờ vị tu khổ hạnh giả hiệu ở trong góc vươn ngự thường trồng rau đậu, củ, quả; rồi đem bán cho người trồng rau ở chợ nên kiếm được nhiều tiền bạc. Khi Bồ-tát lên bảy, ở biên thùy có xảy ra bạo loạn. Vua ra đi dẹp giặc, giao phó vị tu khổ hạnh Dibbacakkhuka ấy cho thái tử chăm sóc và dặn không được xao nhãng vị ấy.

Một ngày kia, thái tử đến thăm vị ẩn sĩ. Ngài thấy ông mang cả hai chiếc y vàng, buộc chặt thượng y lẫn hạ y, hai tay cầm hai bình nước tưới cây, ngài nghĩ thầm: “Lão tu hành giả hiệu này lo làm vườn chứ chẳng lo làm phận sự tu hành”. Ngài liền hỏi:

– Ông đang làm gì thế, này kẻ làm vườn phàm tục kia?

Ngài làm nhục ông như vậy và bỏ về chẳng chào hỏi gì ông cả. Ông suy nghĩ: “Nay ta đã khiến thằng bé này thành kẻ thù của ta rồi, ai biết được nó sẽ làm gì cơ chứ? Ta phải tiêu diệt nó ngay lập tức”.

Vào lúc vua sắp hồi cung, ông ta ném chiếc trường kỷ bằng đá sang một bên, đập bể vụn bình bát, rải cỏ rác khắp am thất, lấy dầu bôi khắp người, rồi vào am nằm trên nệm rơi kia, trùm kín mít từ đầu đến chân, làm ra vẻ đau đớn lắm.

Vua đã hồi loan, xa giá diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu, song trước khi vào nội cung, ngài đến thăm vị thần hữu Dibbacakkhuka ấy. Vừa đứng bên cửa am, ngài đã thấy cảnh bừa bãi kia, liền bước vào mà không biết việc gì xảy ra. Còn kẻ đó đang nằm dưới đất. Vua xoa bóp chân ông và ngâm vần kệ đầu:

  1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
    Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
    Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
    Ðất này ai lại xuống nằm lê?

Nghe lời này, kẻ bịp bợm kia liền vùng dậy rên rỉ, đáp vần kệ thứ hai:

  1. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
    Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
    Thái tử vừa đi thăm lão đó,
    Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!

Các vần kệ sau đây theo mạch lạc rõ ràng, được sắp đặt đúng với diễn biến của câu chuyện:

  1. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
    Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
    Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
    Ðem đầu cao quý đến đây giao!
  2. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
    Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
    “Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
    Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!”.
  3. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
    Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
    “Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
    Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?”
  4. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
    Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
    Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
    Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
  5. “Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
    Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
    Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
    Con đã làm nên tội lỗi nào?”.

Vua cha đáp:

– Hoàng triều đang suy sụp điêu tàn: tội của con làm trọng đại lắm.

Rồi vua giải thích qua vần kệ:

  1. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
    Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
    Hãy trả lời ta, sao lại dám
    Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?

Vương tử đáp:

– Tâu Chúa thượng, nếu thần nhi gọi một kẻ phàm tục là một kẻ phàm tục thì có hại gì đâu?

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Lão có nhiều cây với trái đầy,
    Phụ vương xem đủ sắn khoai này
    Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
    Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.

Hoàng tử nói tiếp:

– Và đó là lý do con gọi lão là người phàm tục. Nếu phụ vương không tin con, xin cứ hỏi thăm những người trồng rau ở bốn cổng thành thì rõ.

Vua cha truyền đi điều tra việc ấy. Dân chúng đáp:

– Thưa vâng, chúng thần đã mua của vị ấy đủ loại rau quả.

Khi vua khám phá ra việc buôn bán rau quả này, ngài công bố cho mọi người biết. Gia nhân của hoàng tử vào am lão và lục soát được một bó đồng tiền và đồng xu nhỏ, là số tiền bán rau quả kia, họ liền trình vua.

Lúc ấy, vua biết bậc Ðạo sĩ vô tội, liền ngâm kệ:

  1. Ðúng là lão có thật nhiều cây
    Với các loại rau, củ trái đầy,
    Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
    Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.

Sau đó, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Trong khi có một kẻ ngu si ám động như thế này ở hoàng cung, thì thượng sách là đi vào vùng Tuyết Sơn và sống đời tu tập. Vậy trước tiên ta công bố tội trạng lão với quần chúng tại đây, sau đó, ngay hôm nay, ta xuất gia thành ẩn sĩ”.

Thế là ngài cúi chào hội chúng và nói lớn:

  1. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
    Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
    Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
    Khiến người vô tội phải vong thân.

Nói xong, ngài xin phép thực hiện ước nguyền trên qua vần kệ tiếp theo:

  1. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
    Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
    Con cúi mình đây xin phép được
    Giã từ thế tục để lên đường.

Các vần kệ sau đây thuật lại cuộc trò chuyện giữa vua cha và vương tử:

Phụ vương:

  1. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
    Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
    Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
    Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!

Vương tử:

  1. Trần thế này đem lạc thú nào?
    Khi xưa con đã ở trời cao,
    Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
    Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
  2. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
    Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
    Với phụ vương là vua yếu kém,
    Con không muốn ở nữa bây giờ.

Phụ vương:

  1. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
    Tha thứ cha nay việc đã làm,
    Giả sử cha còn làm việc ấy,
    Cha tùy con định, chẳng kêu than.

Sau đó bậc Ðại sĩ ngâm tám vần kệ khuyến giáo vua cha:

  1. Hành động không suy nghĩ trước sau,
    Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
    Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
    Hậu quả ắt là phải khổ đau.
  2. Hành động nào suy tính thật lâu,
    Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
    Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
    Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
  3. Con chán ghét người ở thế gian
    Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
    Người tu khổ hạnh hư danh đó
    Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
    Một vị hôn quân thường xử án
    Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
    Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
    Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
  4. Một vị vua xem xét kỹ càng
    Rồi ban lời phán xử công bằng,
    Khi vua cân nhắc lời phân xử,
    Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
  5. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
    Phải được đắn đo thật kỹ càng
    Những việc làm trong lúc vội vã
    Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
    Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
    Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
  6. Những người có việc phải thi hành,
    Muốn chẳng gây ân hận với mình
    Thường đắn đo bao điều thận trọng,
    Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
    Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
    Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
  7. Cha thét: “Kìa đao phủ, hãy mau!
    Ði tìm vương tử của ta nào,
    Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!”
    Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
    Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
    Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
  8. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
    Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
    Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
    Con rời thế, chẳng sống nơi đây.

Khi bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy xong, vua phán bảo hoàng hậu:

  1. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
    Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
    Quí tử So-ma bao khả ái;
    Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
    Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
    Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.

Song hoàng hậu thúc giục vương tử rời bỏ thế tục:

  1. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
    Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
    Ai giữa quần sinh không độc ác
    Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.

Vua ngâm kệ tiếp theo:

  1. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
    Sầu đang chất ngất ở trong mình,
    Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
    Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.

Hoàng hậu lại ngâm kệ nữa:

  1. Có hạng người không đắm dục tham,
    Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
    Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
    Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
    Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
    Thì hoài công cản bước hoàng nam.

Vua ngâm vần kệ cuối cùng để đáp lời:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
    Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
    Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
    Ái hậu từng nghe các diệu âm,
    Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
    Nên không còn khổ não, tham lam.

Sau đó, bậc Ðại sĩ đảnh lễ song thân, xin hai vị tha thứ cho ngài nếu có lỗi lầm gì, rồi vào cung kính vái chào toàn thể hội chúng, ngài quay mặt về hướng Tuyết Sơn. Khi dân chúng đã về, ngài cùng với các Thiên thần vừa đến đó giả dạng người trần, vượt băng qua bảy ngọn đồi cao lên tận Tuyết Sơn. Trong chiếc am tranh do vị Thiên thần Vissakamma giáng thế xây dựng cho ngài, ngài sống đời tu hành, tại đó ngài được các Thiên thần ấy giả dạng làm tùy tùng của vị hoàng tử, hầu hạ ngài đến năm lên mười sáu tuổi. Còn kẻ tu hành lừa bịp kia bị dân chúng bao vây đánh chết.

Về sau, bậc Ðại sĩ tu tập làm phát khởi năng lực Thiền định, và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như bây giờ, kẻ ấy đã dự mưu sát hại Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ lừa đảo, mẫu hậu Mayà là vương hậu kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Hiền giả Rakkhita và Ta chính là vương tử Somanassa

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Campeyya (Tiền thân Campeyya)

Ai đó như tia chớp sáng bừng..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các hạnh nguyện ngày trai giới. Bậc Ðạo sư bảo:

– Lành thay, này các thiện nam tử, các ông đã phát nguyện giữ trai giới. Nhưng bậc trí xưa kia cũng đã từ bỏ ngay cả vinh quang của một Long vương và sống theo các giới hạnh này.

Sau đó theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Anga (Ưng-già) trị vì ở quốc độ Anga (Ưng-già) mà vua Ma-kiệt-đà trị vì ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà); giữa hai quốc độ Ưng-già và Ma-kiệt-đà là con sông Campà (Chiêm-bà), nơi có loài Rồng rắn (Nàga) sinh sống, được chúa Rồng Campeyya cầm quyền thống lãnh.

Ðôi khi vua Ma-kiệt-đà chiếm nước Ưng-già và có khi vua Ưng-già chiếm Ma-kiệt-đà. Một ngày kia, vua Ma-kiệt-đà, sau khi lâm chiến với Ưng-già và thất bại, liền leo lên chiến mã đào tẩu, và bị quân sĩ Ưng-già đuổi theo gấp. Khi vua đến sông Campà lại đang mùa lũ lụt, nhưng vua nói:

– Thà chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù của ta!

Rồi cả người và ngựa đều nhào xuống dòng sông ấy.

Thời bấy giờ Long vương đã xây dựng cho mình ở dưới nước một ngôi nhà thủy tạ bằng châu ngọc, ngay lúc ấy đang ở giữa triều đãi tiệc say sưa. Nhưng vua trên kia cùng chiến mã nhảy xuống sông ngay chính trước mặt chúa Rồng. Rồng chúa ngắm vị vua lộng lẫy cao sang này, sinh lòng yêu mến, liền đứng lên từ bảo tọa, Rồng chúa mời vua ngự lên chính ngai vàng của mình, bảo vua đừng sợ gì cả, rồi hỏi tại sao vua lại nhảy xuống sông. Vua kể hết mọi sự xảy ra cho Rồng chúa nghe. Rồng chúa liền bảo:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả! Trẫm sẽ làm cho Ðại vương trở thành bá chủ hai vương quốc ấy.

Rồng chúa an ủi vua như vậy và suốt bảy ngày liền tiếp đãi vua vô cùng trọng thể. Vào ngày thứ bảy, chúa Rồng cùng vua Ma-kiệt-đà rời Long cung. Sau đó nhờ thần lực của Long vương, vua Ma-kiệt-đà chiếm lấy quốc độ Ưng-già, giết vua Ưng-già rồi thống trị cả hai lãnh thổ ấy. Từ đó trở đi, có mối giao hảo mật thiết giữa vua và Rồng chúa.

Dần dần vua truyền lệnh xây một ngôi đình bằng châu báu trên bờ sông Campà, triều cống Rồng chúa đủ lễ vật rất cao sang. Rồng chúa cùng đám tùy tùng đông đảo xuất hiện từ Long cung lên tiếp nhận lễ triều cống và mọi người được dịp chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của Rồng chúa.

Thời ấy, Bồ-tát sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, ngài thường đi cùng đám thần dân ấy đến bờ sông. Tại đó khi trông thấy cảnh vinh quang của Rồng chúa, ngài sinh lòng thèm muốn và ngài chết đi trong nỗi khát vọng này. Rồi bảy ngày sau khi Rồng chúa Campeyya ấy từ trần, phần Bồ-tát vì suốt một đời đã sống đầy đức hạnh và chuyên bố thí, nên được tái sinh vào cung điện của Rồng chúa ấy trên long sàng kia, thân thể ngài như một chuỗi vũ quý hoa (hoa lài) vĩ đại.

Khi thấy vậy, lòng ngài tràn ngập niềm hối hận. Ngài bảo: “Ta đã có quyền lực để dành trên sáu cảnh trời dục giới là do kết quả các thiện nghiệp của ta, như hạt thóc tích trữ trong vựa. Song nay hãy xem đây, ta lại sinh làm thân rồng rắn, vậy ta còn thiết gì đời sống nữa?” Và vì thế ngài có ý định kết liễu cuộc đời mình. Nhưng có một Long nữ tên là Sumanà, trông thấy ngài liền báo tin cho cả loài biết:

– Vị này ắt hẳn là Ðế Thích Thiên chủ đầy uy lực vừa ra đời tại đây với chúng ta!

Sau đó, Long chúng cùng đi đến dâng lễ vật cho ngài với đủ loại đàn ca múa hát. Long cung của ngài chẳng khác nào cung của Thiên chủ, nên ngài không còn nghĩ đến chuyện chết nữa, ngài trút bỏ hình tướng Rồng và ngự lên bảo tọa, lộng lẫy xiêm y cùng ngọc vàng trang điểm. Từ đó về sau, cảnh vinh quang của ngài thật vĩ đại, ngài thấy hối tiếc ăn năn thầm nghĩ: “Ta còn ham thích gì cái thân rồng rắn này nữa? Ta muốn sống theo các hạnh nguyện trai giới, ta muốn thoát thân khỏi nơi này, ta sẽ ra đi đến giữa loài người, học hỏi các chân lý và chấm dứt khổ đau”.

Nhưng sau đó ngài vẫn ở lại trong cung điện ấy, và thành tựu các hạnh nguyện trai giới, rồi khi các Long nữ trang điểm rực rỡ đến vây quanh ngài, ngài lại thường vi phạm giới đức. Về sau, ngài rời bỏ cung điện đi vào ngự viên, nhưng bọn chúng theo ngài đến đó, và hạnh nguyện của ngài cũng bị phá bỏ như trước kia. Ngài liền suy nghĩ: “Ta phải rời cung này, đi vào thế giới loài người, và tại đó, ta phải sống theo đúng hạnh nguyện của trai giới”.

Vì thế vào ngày trai giới, ngài rời cung điện ra đi, vào nằm trên nóc tổ kiến cạnh đường cái, không xa một thôn làng biên địa. Ngài nói:

– Ai muốn lấy da thịt ta, thì cứ lấy, hoặc có ai muốn bắt ta làm trò con rồng nhảy múa thì cứ bắt ta đi.

Như vậy ngài đã chịu xả thân ra bố thí, nên vừa thu gọn chiếc mồng lại, ngài vừa nằm đó hành trì hạnh nguyện trai giới.

Nhiều người qua lại trên đường cái trông thấy ngài, liền cúng dường ngài đủ hương hoa thơm ngát. Và dân chúng trong thôn làng biên địa kia xem ngài là Rồng chúa đại oai lực, nên dựng một ngôi đình trên chỗ ngài nằm, rải cát trước đó và cúng dường chiêm bái đủ thứ hương liệu, nước hoa.

Bấy giờ, dân chúng bắt đầu cầu tự nhờ ngài giúp sức, nên có lòng tín ngưỡng bậc Ðại sĩ và sùng kính tôn thờ ngài. Tại đó bậc Ðại sĩ giữ hạnh nguyện vào các ngày mười bốn, rằm giữa tháng, an tọa trên tổ kiến, rồi đến ngày mồng một âm lịch, ngài lại về long cung, và cứ như vậy ngài giữ tròn hạnh nguyện theo thời gian.

Một hôm vương phi Sumanà thưa với ngài:

– Tâu Chúa thượng, ngài ra đi đến cõi nhân gian để giữ hạnh nguyện trai giới, song nhân thế đầy nguy hiểm kinh hoàng. Giả sử có mối nguy cơ nào xảy ra cho Chúa thượng, thì nay ngài hãy bảo cho thần thiếp biết nhờ dấu hiệu gì để nhận ra việc ấy.

Sau đó ngài dẫn vương phi đến bên một hồ nước an toàn và bảo:

– Nếu có ai đánh ta hay làm ta bị thương, thì nước hồ sẽ vẩn đục lên. Còn nếu có con chim đại bàng nào tha ta đi, thì nước hồ sẽ biến mất, nếu có kẻ bỏ bùa bắt rắn nào tóm được ta thì hồ sẽ đổi thành màu máu.

Sau khi giải thích ba dấu hiệu này cho vương phi, ngài rời cung điện ra đi, giữ hạnh nguyện trai giới trong ngày mười bốn, đến nằm trên tổ kiến, ánh sáng trên thân ngài tỏa rực rỡ khắp chỗ đó. Toàn thân ngài trắng ngần, như một cuộn dây toàn bạc, đầu ngài như một cuộn len đỏ. Trong Tiền thân này, thân thể Bồ-tát to bằng cái đầu lưỡi cày, còn trong Tiền thân Bhuridatta (số 543, tập VII) ngài lớn bằng bắp đùi, và trong Tiền thân Sankhapàla (số 524, tập VI) thân ngài tròn trịa như chiếc xuồng dài có móc chèo.

Thời ấy có một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đến Takkasilà học tập dưới sự dạy bảo của một vị giáo sĩ lừng danh thế giới, nhờ vị này chàng ta học được bùa chú sai khiến mọi loài hữu tình. Khi về nhà theo đường cái ấy, chàng chẳng thấy gì ngoài bậc Ðạo sĩ. Chàng suy nghĩ: “Ta sẽ bắt con Rồng này và sẽ du hành khắp thôn làng thị trấn, kinh thành, bắt nó nhảy múa và tha hồ kiếm lợi lớn”.

Sau đó chàng lấy thứ cỏ thuốc linh dược, đọc thần chú và đến gần Rồng chúa. Vừa nghe tiếng niệm chú này, tức thì bậc Ðại sĩ cảm thấy hai lỗ tai như bị củi đốt cháy đâm thủng, đầu ngài như thể vỡ ra vì bị kiếm đâm vào. Ngài suy nghĩ: “Ta gặp chuyện gì đây?”. Rồi ló đầu ra khỏi chiếc mồng, ngài trông thấy người bỏ bùa bắt rắn ấy. Ngài liền suy nghĩ: “Nọc độc của ta cực kỳ mãnh liệt, nếu ta nổi giận và phì hơi độc từ lỗ mũi ra thì thân nó sẽ tan nát ra như một nắm trấu vậy, và thế là công đức của ta sẽ bị tiêu diệt hết, nên ta không muốn nhìn nó”. Ngài vừa nhắm mắt lại vừa thụt đầu vào trong chiếc mồng.

Người Bà-la-môn bỏ bùa rắn kia nhai một cây cỏ thuốc, niệm chú rồi nhỏ lên mình ngài: nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú nên nơi nào có nước miếng của người đó dính vào thì các mụn mủ nổi lên. Sau đó chàng ta nắm lấy được ngài ra. Chàng ta lấy chiếc gậy hình chân dê thúc ép ngài cho đến lúc ngài yếu sức, rồi nắm chặt phần đầu ngài mà chà xuống. Bậc Ðại sĩ há mồm ra, chàng nhỏ nước miếng vào, nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú, răng ngài gãy tan hết, chiếc mồm đầy cả máu. Song bậc Ðại sĩ sợ phải phá hủy công đức của ngài, nên ngài chịu mọi khổ hình này và không hề mở mắt ra đủ để liếc nhìn gã.

Sau đó chàng nói:

– Ta sẽ làm Rồng chúa này yếu đi!

Chàng ép chặt thân Rồng chúa từ đầu chí đuôi như thể chàng muốn chà nát xương ngài thành bột! Rồi chàng gói ngài trong thứ thường được gọi là mảnh vải cuộn, thắt thêm một vật gọi là dây thừng rồi nắm đuôi ngài và đấm đá. Thân thể của bậc Ðại sĩ bê bết máu, và ngài đau đớn vô cùng. Khi thấy chúa Rồng này đã yếu sức, chàng làm cái thúng bằng cây liễu gai để đặt Rồng chúa vào.

Sau đó chàng đem ngài vào làng xóm, bắt ngài làm trò cho dân chúng. Dù phải hóa thành màu xanh, đen hay màu gì khác nữa, biến ra hình tròn vuông lớn nhỏ ra sao, hễ chàng Bà-la-môn muốn gì , bậc Ðại sĩ đều làm cả, vừa nhảy múa, giương mồng quay tít thành thiên hình vạn trạng. Dân chúng quá thích thú nên cho thật nhiều tiền. Trong một ngày chàng đã kiếm được cả ngàn đồng ru-pi và nhiều trò đáng giá cả ngàn đồng khác nữa.

Lúc đầu chàng dự định thả ngài ra khi đã kiếm được một ngàn đồng, nhưng khi được rồi, chàng lại nghĩ: “Trong một làng biên địa mà ta đã kiếm được chừng này, nếu gặp vua quan thì ta còn mong được biết bao nhiêu của cải nữa”.

Thế là chàng mua một chiếc xe bò và một chiếc xe du ngoạn, trong xe bò, chàng chất đầy hàng hóa, còn chàng ngồi xe kia. Như vậy cùng với một đoàn tùy tùng hầu cận, chàng đi qua thôn làng thị trấn, bắt bậc Ðại sĩ làm trò, và tiếp tục du hành với ý định trình diện ngài trước vua Uggasena ở Ba-la-nại rồi mới thả ngài đi.

Chàng ta thường giết ếch nhái và đem cho Rồng chúa nhưng Rồng từ chối mỗi khi chàng ta đưa vậy, để không một sinh vật nào bị chàng ta giết vì ngài nữa. Sau đó chàng ta đem mật và bắp rang cho ngài. Nhưng ngài cũng không chịu ăn, vì ngài nghĩ: “Nếu ta ăn gì thì ta sẽ ở trong giỏ này cho đến chết”.

Suốt một tháng, người Bà-la-môn đến ở Ba-la-nại. Tại đó chàng kiếm được nhiều tiền nhờ bảo Rồng chúa diễn trò trong các thôn làng ngoài cổng thành. Vua cho triệu chàng vào và ra lệnh diễn trò. Chàng hứa sẽ làm vào ngày hôm sau, là ngày cuối trong mỗi nửa tháng. Sau đó vua bảo đánh trống khắp kinh thành, bố cáo ngày mai sẽ có một Rồng chúa nhảy múa trong sân chầu, vậy dân chúng được phép tụ tập để xem thật đông. Hôm sau sân chầu được trang hoàng, và người Bà-la-môn được triệu vào. Chàng mang bậc Ðại sĩ trong cái thúng và có dát ngọc vàng, trên một tấm thảm rực rỡ, chàng đặt thúng xuống và vua an tọa trên ngai vàng giữa thần dân chật ních vây quanh.

Người Bà-la-môn bắt bậc Ðại sĩ ra và bảo nhảy múa. Dân chúng không thể nào ngồi yên được: hàng ngàn chiếc khăn quăng tung vẫy giữa không gian; bảy loại châu báu rớt xuống như mưa quanh Bồ-tát.

Từ khi Long vương bị bắt đến nay đã một tháng tròn và suốt thời gian ấy ngài chẳng ăn uống gì cả. Bây giờ vương phi Sumanà bắt đầu suy nghĩ: “Phu quân yêu quý của ta đã ở nán lại trên đó lâu rồi. Cả tháng này ngài chưa trở về chắc có việc gì chăng?

Vì thế nàng bước ra xem mặt nước hồ: Kìa, nước đỏ như máu! Thế là nàng biết chắc hẳn ngài đã bị hành hạ, và nàng khóc than.

Sau đó nàng vào ngôi làng biên địa kia để hỏi thăm và khi biết hết mọi sự, nàng đi thẳng đến Ba-la-nại và ngay giữa quần chúng trên khoảng không của chính sân chầu, nàng cứ đứng than khóc mãi.

Trong lúc bậc Ðại sĩ nhảy múa, ngài chợt nhìn lên không và thấy nàng, ngài hổ thẹn, bò ngay vào thúng nằm yên. Khi ngài bò vào thúng, vua kêu lớn:

– Sao có gì thế này?

Nhìn quanh quẩn đâu đó, ngài thấy Long nữ đứng ở trên không liền ngâm vần kệ:

  1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
    Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
    Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
    Ta chắc nàng không phải thế nhân?

Sau đây câu chuyện giữa hai vị qua các vần kệ:

Long nữ:

  1. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
    Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
    Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
    Ðến đây vì có việc cầu ân.

Ðức vua:

  1. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
    Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
    Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
    Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!

Long nữ:

  1. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
    Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
    Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
    Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!

Ðức vua:

  1. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
    Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
    Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
    Làm sao đánh giá đúng Rồng này?

Long nữ:

  1. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
    Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
    Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
    Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.

Sau đó vua hỏi bằng cách nào chàng kia bắt được ngài, nàng đáp qua vần kệ sau:

  1. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
    Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
    Gã múa rối kia tìm bắt được,
    Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!

Sau những lời trên, nàng lại ngâm hai vần kệ khác xin giải thoát cho ngài:

  1. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
    Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
    Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
    Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
  2. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
    Xin chuộc Long vương được thoát thân
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.

Ðức vua liền ngâm tiếp ba vần kệ:

  1. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
    Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
  2. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
    Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
    Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
    Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
  3. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
    Và hai người vợ cũng chung dòng,
    Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
    Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.

Nghe vậy, người bắt rắn đáp lời:

  1. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
    Mà để chúa Rồng được thoát thân,
    Như vậy, nay thần xin giải phóng:
    Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.

Sau lời này, chàng ta đem bậc Ðại sĩ ra khỏi thúng. Long vương từ từ bò ra, tiến vào trong một cái hoa, tại đó ngài trút bỏ xác cũ và hiện hình một nam tử phục sức cực kỳ lộng lẫy: Ngài đứng sừng sững, chẳng khác nào ngài vừa rẽ mặt đất ra và bước lên. Còn nàng Long nữ Sumanà từ trên trời giáng xuống đứng cạnh ngài. Vị Rồng chúa đứng chấp tay tỏ vẻ tôn trọng vua lắm.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
    Liền nói như vầy với đức vua:
    “Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
    Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
    Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
    Trước lúc trở về viếng cố gia!”.

Ðức vua:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
    Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!

Nhưng bậc Ðại sĩ muốn vua tin tưởng, liền thề nguyền như sau qua hai vần kệ:

  1. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
    Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
    Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
    Chúa thượng, thần không thể dối lời!
  2. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
    Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
    Dù núi Tu-di rung bật gốc,
    Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!

Dù có lời cam đoan như vậy, vua vẫn chưa tin bậc Ðại sĩ và bảo:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian,
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
    Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!

Một lần nữa vua ngâm vần kệ trên và thêm:

– Ngài phải biết ơn ta về các hành động tốt ta đã làm cho ngài đấy. Tuy nhiên ta có tin ngài chân chánh hay không, thì việc ấy tùy ta định đoạt.

Vua nói rõ điều này qua vần kệ:

  1. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
    Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
    Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
    Quyền ta là phải được tri ân!

Bậc Ðại sĩ liền thề nguyền như vầy để vua tin tưởng:

  1. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
    Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
    Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
    Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!

Bấy giờ vua mới tin ngài và cảm ơn ngài như vầy:

  1. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
    Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
    Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
    Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!

Phần ngài, bậc Ðại sĩ cũng ngâm kệ nữa để cảm tạ vua:

  1. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
    Cho con độc nhất quý vô ngần,
    Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
    Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.

Bấy giờ vua ước ao đi viếng cảnh giới loài Rồng, nên truyền lệnh cho quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng lên đường qua vần kệ:

  1. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
    Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
    Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
    Ta cùng đi viếng xứ Long vương.

Sau đây là vần kệ phát xuất từ trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
    Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
    Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
    Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.

Vào lúc vua rời kinh thành, bậc Ðại sĩ dùng thần lực khiến cảnh giới Long vương xuất hiện với một bức tường thành bao quanh làm bằng bảy loại châu báu, cùng các tháp canh tại cổng thành, ngài hóa phép cho các con đường dẫn đến Long cung đều được trang hoàng rực rỡ. Theo đường này, vua cùng đám tùy tùng bước vào cung và trông thấy một khung cảnh đầy kỳ thú với nhiều lâu đài nguy nga lộng lẫy cao sang.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
    Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
    Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
    Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
  2. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
    Ngự vào đại sảnh của Long thần
    Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
    Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
  3. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
    Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
    Ngàn cây đổ bóng che im mát,
    Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
  4. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
    Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
    Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
    Yêu kiều Long nữ múa như bay!
  5. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
    Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
    Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
    Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.

Vừa khi vua an tọa tại đó, quân hầu đã dâng lên đủ thức cao lương mỹ vị thần tiên, họ cũng đem các thứ này mời mười sáu ngàn Long nữ kia và toàn thể hội chúng ấy. Suốt bảy ngày, vua cùngđám tùy tùng thọ hưởng các thực phẩm thần tiên cùng mọi lạc thú khác. Vừa ngự trên bảo tọa, vua vừa ca ngợi cảnh vinh quang của bậc Ðại sĩ:

– Này Long vương – vua hỏi – tại sao ngài bỏ mọi cảnh huy hoàng này để đi nằm trên tổ kiến giữa cảnh trần thế của con người và hành trì ngày trai giới vậy?

Bậc Ðại sĩ liền đáp lại vua.

Ðể giải thích sự việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
    Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
    “Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
    Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
    Trên trần không chốn nào như vậy,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  2. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
    Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
    Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
    Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
    Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
    Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
  3. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
    Ðều có bến xây bậc vững vàng
    Trên trần chẳng chốn nào như thế,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  4. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
    Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
    Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
    Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
  5. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
    Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
    Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
    Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
  6. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
    Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
    Cảnh này không thấy trên trần giới,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?

Long vương:

  1. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
    Ta phấn đấu vầy với bản thân,
    Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
    Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.

Vua lại nói:

  1. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
    Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
    Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
    Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
  2. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
    Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
    Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
    Vì sao địa giới vượt Long đài?

Câu hỏi này được Rồng chúa đáp lại như sau:

  1. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
    Khi người ta sống giữa quần sinh,
    Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
    Ta thấy tử sinh đến với mình.

Vua lắng nghe và đáp kệ này:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.

Long vương bảo ngài:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.

Sau buổi đàm đạo ấy, vua Uggasena muốn ra đi, liền tạ từ ngài và bảo:

– Này Long vương, trẫm ở lại đây đã lâu rồi, nay trẫm cần phải ra về.

Bậc Ðại sĩ liền chỉ các kho báu cho vua xem, vừa tặng bất cứ thứ gì vua muốn lấy, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
    Bạc chất như cây cả mấy tầng,
    Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
    Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
  2. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
    San hô chen giữa ửng hồng tươi,
    Lấy đi để trải đầy cung điện
    Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
  3. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
    Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
    Tại đó xin ngài lên ngự trị,
    Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
    Mong ngài cai trị dân hiền đức,
    Và trị nước nhà thật xứng danh.

Vua chấp thuận lời đề nghị này. Sau đó bậc Ðại sĩ ban lời bố cáo khắp kinh thành bằng tiếng trống lệnh:

– Hãy để cho đám tùy tùng của đức vua từ nhân giới lấy đem về bất cứ món gì trong các kho báu của ta, cả vàng ròng nữa như ý muốn.

Rồi ngài truyền đưa bảo vật đến tặng vua chất đầy hàng trăm cỗ xe.

Xong xuôi, vua giã từ cảnh giới Long vương trong muôn vẻ huy hoàng trọng thể và trở về thành Ba-la-nại. Từ đó về sau, tục truyền rằng đất được lát vàng khắp cả xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy các bậc trí ngày xưa đã từ giã cảnh vinh quang trong thế giới loài Rồng để hành trì ngày trai giới.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là người nhử rắn, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là nàng Sumanà, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua Uggasena và Ta chính là Long vương Campeyya.

-ooOoo-

  1. Chuyện sức cám dỗ mạnh (Tiền thân Mahà-Palobhana)

Từ cõi Phạm thiên một vị thần..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự ô nhiễm lậu hoặc của các vị bậc thanh tịnh.

Các hoàn cảnh đã được nêu trước kia. Tại đây, một lần nữa, bậc Ðạo sư bảo:

– Nữ nhân thường gây cấu uế cho cả những người đã đạt tâm thanh tịnh.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại.. câu chuyện đời xưa này cũng diễn tiến như trong Tiền thân Cullapalobhana. Bấy giờ một lần nữa, bậc Ðại sĩ từ Phạm thiên giới giáng trần làm vương tử của vua Kàsi và ngài có tên là Anitthi gandha: Người ghét nữ nhân. Vương tử hài nhi không muốn ở trong tay bất cứ một nữ nhân nào, nên bọn chúng phải mặc áo quần đàn ông khi cho vương tử bú sữa và chàng cứ ở riêng trong một thiền thất, không hề thấy bóng một nữ nhân nào cả.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
    Ðến đây là thế giới phàm nhân
    Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
    Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
  2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
    Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
    Giờ sinh dục giới này, vương tử
    Nghe chữ “tình” thôi, chán ngấy liền!
  3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
    Một am thất nhỏ của riêng tây,
    Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
    Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
  4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
    Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
    “Trẫm chí sinh ra mình thái tử
    Mà bao dục lạc, trẻ không màng!”

Vần kệ thứ năm diễn tả lời than vãn của vua cha:

  1. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
    Ôi, lẽ nào không có cách chi?
    Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
    Có ai làm thái tử mê ly?

Vần kệ rưỡi này là vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
    Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
    Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
    Và uốn người quay tít thật đều.
    Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
    Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.

Nửa vần kệ này do cô gái ngâm:

  1. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
    Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.

Vua đáp lời cô gái, và phán như vầy như vầy:

Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!

Bấy giờ vua truyền lệnh tạo ra mọi cơ hội thuận tiện cho nàng và triệu nàng vào chầu chực bên mình vương tử.

Buổi sáng kia, nàng đem cây đàn đến đứng ngay bên ngoài tịnh thất của vương tử và chạm nhẹ các đầu ngón tay vào đàn, cố ra sức quyến rủ chàng bằng giọng ca êm ái dịu ngọt làm sao.

Bậc Ðạo sư ngâm kệ để giải thích việc này:

  1. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
    Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
    Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
    Xuyên vào tim của bạn chung tình.
  2. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
    Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
    Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
    Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
  3. “Âm thanh nào đó thật du dương
    Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
    Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
    Bên tai kỳ thú thật khôn lường!”
  4. “- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
    Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
    Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
    Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!”.
  5. “- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
    Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
    Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
    Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!”
  6. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
    Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
    Nàng vây chàng chặt như voi nọ
    Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
  7. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
    Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
    “Không ai được phép yêu nàng cả!
    Chỉ một mình ta được luyến thương!”
  8. Một mình ta, chẳng được người nào!
    Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
    Cầm kiếm lồng lên như khát máu
    Ði tàn sát hết bọn mày râu!
  9. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
    Toàn thể phi thân đến hậu cung:
    “Vương tử giết người bất kể số,
    Chẳng ai khiêu khích!” Họ kêu rần.
  10. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
    Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
    “Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
    Trong vùng biên địa nước ta này!”.
  11. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
    Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
    Tại đó chàng xây lều lợp lá,
    Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
  12. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
    Bay qua biển cả, giữa không gian,
    Ði vào lều lá sao vừa lúc
    Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
  13. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
    Xem việc làm sao hạ liệt thay!
    Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
    Mọi thần thông lực thảy xa bay!
  14. Chiều đến, khi vương tử trở về,
    Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
    Quả rau, một đống trên đòn gánh,
    Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
  15. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
    Ngài ra bờ biển vội rời chân,
    Ngỡ là hành cước qua không khí,
    Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
  16. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
    Vào trong biển cả cứ chìm thân,
    Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
    Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
  17. Ngài phi hành đến bởi thần thông
    Trên biển không buồm để ruổi dong,
    Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
    Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
  18. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
    Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết hồng quần phải tránh xa!
  19. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
    Cũng như khó đổ nước đầy sông,
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết, nên xa lánh má hồng!
  20. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
    Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
    Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
    Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
  21. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
    Chán chê trần thế quả hư huyền,
    Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
    Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
  22. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
    Cách ngài bay bổng giữa hư không,
    Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
    Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
  23. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
    Dục tham và khát vọng nồng nàn,
    Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
    “Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng”.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ vì nữ nhân mà ngay những người có tâm thanh tịnh cũng vẫn gây ác nghiệp.

Rồi ngài thuyết giảng các Sự thật, bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđắc Thánh quả A-la-hán.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta chính là Vương tử Anitthigandha

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị Hiền nhân (Tiền thân Panca-Pandita)

Chuyện Tiền thân về năm vị Hiền nhân sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga (Ðường Hầm lớn) số 546, tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền giả quản tượng (Tiền thân Hatthipàla)

Cuối cùng thấy một Bà-la-môn..,

Câu chuyện này, bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Rồi cùng với các lời sau đây:

– Này các Tỷ-kheo, không phải đây là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự xuất thế, mà xưa kia cũng vậy.

Bậc Ðạo sư kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời tại Ba-la-nại, có một vị vua cai trị mệnh danh là Esukàri. Vị tế sư của ngài vốn là bạn đồng môn được ngài yêu chuộng từ thuở niên thiếu. Cả hai đều không có con. Một ngày kia trong lúc hai vị đang ngồi chuyện trò thân thiết cùng nhau, hai vị nghĩ thầm: “Chúng ta cùng hưởng cảnh đại vinh quang, song chẳng hề có con trai con gái gì cả, vậy phải làm sao bây giờ?” Vua liền bảo vị tế sư:

– Này hiền hữu, nếu nhà hiền hữu sinh được một công tử thì hài nhi đó sau trở thành chúa tể trong quốc độ ta, song nếu ta sinh được một hoàng nam thì đó sẽ là chủ nhân tài sản nhà hiền hữu vậy.

Cả hai vị giao ước với nhau về các chuyện tiếp theo các điều lệ này.

Một hôm, vị tế sư đi đến ngôi làng có hoa lợi của mình, và vào làng bằng cổng phía nam, vị này thấy ngoài cổng làng một người đàn bà cùng khổ lại sinh nhiều con trai quá: có đến bảy đứa, tất cả đều cường tráng khỏe mạnh, đứa cầm nồi đem chảo đi nấu bếp, đứa thì lấy chiếu trải giường, thằng này đi trước thằng nọ theo sau, thằng khác nắm tay mẹ, thằng kia ngồi trong lòng mẹ, một thằng nữa trèo trên vai bà. Vị tế sư hỏi:

– Thế cha bầy trẻ này đâu?

Bà ấy đáp:

– Thưa ngài, chắc chắn là đám trẻ chẳng có cha nào cả.

Vị này hỏi:

– Vậy thì làm sao bà có được bảy thằng con xinh tốt như thế này?

Người đàn bà không để ý đến cả khu rừng rậm, mà chỉ tay vào cây đa đứng cạnh cổng thành và nói:

– Thưa ngài, tiện thiếp cầu khẩn vị thần sống ở cây này, vị thần ấy đáp lại lời cầu xin của thiếp bằng cách ban cho bảy thằng bé ấy.

Vị tế sư liền bảo:

– Thôi được, bà đi đi.

Rồi vị này xuống xe bước lên cây ấy, cầm một cành mà lắc mạnh, bảo nó:

– Này thần linh, đức vua có thiếu món gì cúng ông, suốt năm này qua năm khác, ngài cúng ông cả ngàn đồng tiền, mà ngược lại ông chẳng ban cho ngài vị vương tử nào cả. Còn mụ ăn mày kia đã làm gì mà ông cho mụ cả bảy đứa con trai hử? Ông phải cho đức vua một đứa con trai này trong vòng bảy ngày, nếu không ta sẽ bảo chặt đốn thân ông xuống và xẻ ra từng khúc đấy.

Khi trách mắng vị thần cây đa như thế xong, vị tế sư ra đi.

Suốt sáu ngày vị tế sư cứ làm như vậy và vào ngày thứ sáu, vừa nắm một cành cây vừa bảo:

– Này thần cây, chỉ còn một đêm nữa thôi đấy, nếu ông không cho đức vua một con trai thì thân ông phải ngã xuống ngay.

Vị nữ thần trên cây suy nghĩ mãi cho đến khi nàng thấy sự việc ấy rõ ràng như thế nào. Nàng nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn kia sẽ phá tan nhà của ta nếu vị ấy không được đứa con trai. Vậy ta biết cho ngài một con trai bằng cách nào đây đã chứ? Sau đó nàng yết kiến Tứ đại Thiên vương, và tâu trình với các ngài. Các ngài phán:

– Này, chúng ta không thể ban cho người ấy một đứa con trai được!

Kế đó, nàng đến gặp hai mươi tám vị thần Dạ-xoa (Yakkha), các thần kia cũng trả lời nàng như vậy, nàng liền đến yết kiến Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và tâu trình ngài.

Thiên chủ suy nghĩ trong lòng: “Nhà vua nay có sinh được hoàng nam xứng đáng với mình hay chăng?” Rồi ngài nhìn quanh và chợt thấy bốn vị Thiên tử đức độ. Truyện kể rằng các vị này nguyên là thợ dệt ở Ba-na-lại, trong một đời trước, tất cả mọi tiền của kiếm được nhờ buôn bán, các vị ấy chia làm năm phần, bốn phần làm của riêng mỗi người, còn phần thứ năm là của chung được đem ra bố thí hết. Từ thành ấy chư vị tái sanh lên cõi trời (Ba-mươi-ba) sau đó lại tái sinh vào cõi Yama thiên (Dạ-ma), từ đấy cứ tái sinh liên tục lên xuống qua về sáu tầng trời cõi dục và hưởng thọ vô số vinh quang.

Ngay thời bấy giờ là lúc chư vị phải đi từ cõi trời Ba-mươi-ba đến cõi Yama (Dạ-ma). Thiên chủ Sakka liền đi tìm kiếm, đi đến cõi nhân gian và nhập mẫu thai của chánh hậu Ðại vương Esukàri.

– Lành thay, tâu Thiên chủ.

Và các vị cùng nói những lời này:

– Chúng thần sẽ đi, song chúng thần không muốn liên quan gì đến hoàng gia cả: chúng thần sẽ tái sinh vào gia đình vị tế sư và ngay khi còn thanh niên, chúng thần sẽ từ giã thế tục.

Thế là Thiên chủ tán thành các vị ngay về lời cam kết kia, xong ngài trở về, kể lại mọi chuyện cho nữ thần sống trên cây đa ấy. Nữ thần rất vui mừng, tạ từ Thiên chủ Sakka và lui về nơi cư ngụ của mình.

Còn vị tế sư ngày hôm sau lại đến cùng với một đám người lực lưỡng mà vị này đã tập họp lại, mỗi người cầm một cây rìu thật bén hay một vật tương tự. Vị tế sư bước gần cây nắm một cành và kêu to:

– Này thần cây! Ðây là ngày thứ bảy. Kể từ khi ta cầu khẩn ông một đặc ân: nay đã đến phá hoại cây rồi đó!

Vị thần cây dùng đại lực của nàng làm nứt nẻ thân cây và xuất hiện với giọng ngọt ngào, bảo vị ấy như vầy:

– Này vị Bà-la-môn, ngài muốn có một nam tử chăng? Chà! Ta sẽ ban cho ngài cả bốn đứa kia!

Vị tế sư bảo:

– Ta không muốn có con, xin nàng có một đứa con trai cho đức vua của ta thôi.

Nàng đáp:

– Không được đâu, ta chỉ muốn ban cho ngài thôi.

Vậy thì nàng hãy ban cho đức vua hai đứa và ta hai đứa đi.

– Không được, đức vua chẳng thể nào có con đâu, phần ngài phải có cả bốn đứa, mà chúng chỉđược phép ban cho riêng ngài thôi, là vì chúng sẽ không muốn sống cuộc đời thế tục tại gia, nên ngay lúc tuổi còn thanh xuân, chúng sẽ từ giã thế tục này.

– Vậy nàng cứ cho ta các đứa con trai ấy đi, ta quyết chăm sóc để bọn chúng khỏi từ giã thế tục. Vị ấy đáp.

Như vậy là nữ thần đã chấp thuận lợi cầu tự của vị tế sư này và trở về chỗ cư ngụ của nàng. Từ đó về sau, nữ thần kia được trọng vọng tôn vinh lắm.

Bấy giờ vị Thiên tử lớn nhất giáng trần, nhập mẫu thai của phu nhân vị quốc sư kia. Vào ngày đặt tên, gia đình ấy gọi hài nhi là Hatthipala hay Người Quản Tượng, và để ngăn cản con trai rời khỏi thế tục này, họ giao hài nhi cho vài người giữ voi chăm sóc, nên hài nhi lớn lên giữa đám người ấy.

Khi hài nhi mới lớn vừa biết đi chập chững thì hài nhi thứ hai ra đời cũng từ phu nhân ấy. Vào ngày sanh, họ đặt tên hài nhi là Assapàla hay Người Giữ Ngựa, và hài nhi lớn lên giữa bọn người giữ ngựa. Hài nhi thứ ba lúc ra đời được đặt tên là Gopàla hay Người Chăn Trâu và hài nhi lớn lên giữa bầy mục tử. Còn Ajapàla hay Người Chăn Dê, là tên hài nhi thứ tư được gọi lúc ra đời và hài nhi này lớn lên giữa đám người chăn dê. Khi bầy trẻ lớn lên, chúng là những nam tử có đầy đủ tướng mạo tốt lành.

Lúc bấy giờ, vì lo sợ bầy con trai từ bỏ thế tục nên các người tu khổ hạnh xuất gia đều bị đuổi ra khỏi quốc độ này: trong toàn xứ sở Kàsi không còn sót tu sĩ nào cả. Riêng bầy nam tử này tính tình thô bạo lắm: hễ chúng đi trên con đường nào là chúng cướp đoạt những lễ vật cúng cấp đây đó trong vùng.

Khi Hathipàla lên mười sáu tuổi, vua và vị tế sư thấy dung mạo hoàn mỹ của chàng, liền nghĩ thầm: “Các con nay đã khôn lớn mạnh mẽ. Khi đã giương lên chiếc lọng hoàng gia rồi thì ta sẽ làm gì chúng được nữa? Ngay khi làm lễ quán đảnh cho chúng xong, chúng sẽ thống trị tất cả: Các vị tu khổ hạnh sẽ đến, bọn chúng sẽ thấy các vị đó và cũng sẽ trở thành các vị tu khổ hạnh luôn; một khi chúng hành động như thế thì cả nước sẽ loạn lên mất. Vậy trước tiên ta phải thử lòng chúng rồi sau đó mới làm lễ quán đảnh”.

Thế là hai vị này cải trang làm các nhà tu khổ hạnh và đi khất thực cho đến khi vào tận cửa nhà của Hatthipàla đang ở. Chàng trai này vui vẻ thích thú ngay khi gặp hai vị, liền bước đến gần đảnh lễ hai vị rất cung kính, và ngâm vần kệ:

  1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
    Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
    Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
    Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
  2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
    Vui thú theo đường lối chánh chân
    Với vỏ cây làm y phủ kín,
    Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
  3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
    Thật là chân chánh lúc đem dâng,
    Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
    Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.

Chàng trai lần lượt nói như vậy với hai vị. Rồi vị tế sư bảo:

– Này Hatthipàla con hỡi, con nói điều này vì con không biết chúng ta. Con tưởng chúng ta là các bậc hiền nhân từ vùng Tuyết Sơn xuống đây ư, song thật chúng ta không phải như vậy đâu, con ạ. Ðây là Ðại vương Esukàri và ta là thân phụ của con, vị quốc sư đó.

Chàng trai nói:

– Thế thì tại sao Ðại vương và thân phụ đắp y như các bậc hiền giả?

Vị ấy đáp:

– Ðể thử lòng các con đó mà!

Chàng hỏi:

– Tại sao lại thử con chứ?

– Bởi vì, nếu con gặp chúng ta mà không muốn từ giã thế tục thì chúng ta sẵn sàng làm lễ quán đảnh phong vương cho con ngay.

– Ồ thưa phụ vương, chàng đáp, con chẳng ham vương vị, con muốn rời bỏ thế tục.

Thân phụ chàng liền đáp:

– Này con Hatthipàla, đây chưa phải thời để rời bỏ thế tục đâu.

Rồi vị này giải thích ý định của mình qua vần kệ thứ tư:

  1. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
    Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
    Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
    Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
    Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
    Thế là người trí xứng danh hiền.

Hatthipàla đáp lại với vần kệ:

  1. Chân lý không sao lại đạt thành
    Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
    Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
    Có lối thoát ra mọi dục tình,
    Như các trí nhân đều thấu suốt:
    Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.

Bấy giờ vua ngâm kệ đáp lời chàng trai:

  1. Lời tự mồm con quả thật chân:
    Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
    Hai thân con đó, nay già yếu
    Song các người mong muốn thấy rằng
    Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
    An khang cho trẻ hưởng riêng phần.

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn ám chỉ việc gì thế?

Vương tử hỏi và ngâm hai vần kệ:

  1. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
    Có thể tìm ra một bạn thân,
    Ðã ký với tuổi già thỏa ước
    Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
    Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
    Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
  2. Cũng giống như người lái vượt dòng,
    Con thuyền sang bến nọ bên sông,
    Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
    Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.

Bằng cách trên, chàng trai đã chỉ cho các vị này thấy cuộc sống thế nhân giả tạm phù du ra sao, rồi thêm lời khuyên nhủ:

– Tâu Ðại vương, ngài đứng đó và ngay khi tiểu sinh đang đàm đạo với ngài, ngay bây giờ đây, bệnh tật, tuổi già và thần chết đang tiến gần ta. Vậy xin Ðại vương hãy tỉnh giác!

Sau khi vái chào vua và phụ thân, chàng đem theo đám hầu cận muốn đi cùng chàng, bỏ lại vương quốc Ba-la-nại đằng sau và lên đường với ý định theo sống đời khổ hạnh. Cả một hội chúng đông đảo cùng đi với chàng thanh niên Hatthipàla vì hội chúng bảo:

– Cuộc sống tu hành này chắc hẳn phải cao thượng lắm.

Hội chúng ấy trải dài suốt một dặm đường, chàng nam tử cùng hội chúng tiến lên cho đến tận bờ sông Hằng. Tại đó chàng làm phát khởi Thiền định bằng cách quán sát dòng nước sông Hằng.

Chàng nghĩ thầm: “Tại đây rồi sẽ có hội chúng đông lắm!.. Ba vị hiền đệ của ta sẽ đến, kế là song thân, đức vua và hoàng hậu, tất cả cùng với đám tùy tùng sẽ sống theo đời tu tập. Thành Ba-la-nại sẽ trống vắng. Ta sẽ ở đây cho đến khi các vị đến đủ”. Thế là chàng ngồi tại đó, khích lệ cả đám đông dân chúng đang tụ tập.

Hôm sau, vua và vị tế sư suy nghĩ: “Như vậy vương tử Hatthipàla đã thực sự rời bỏ quyền làm vua và hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng, từ đó chàng sẽ đi theo cuộc sống tu hành cùng với một hội chúng đông đảo ở bên chàng. Song ta hãy đi thử Assapàla xem sao, rồi làm lễ quán đảnh phong vương cho chàng”. Vì thế cũng như trước kia vừa khoác bộ y phục của nhà tu khổ hạnh, hai vị cùng đi đến cửa nhà chàng. Chàng rất hoan hỷ khi thấy hai vị, liền bước tới gần hai vị ngâm câu kệ “Cuối cùng..” ấy giống như anh cả của chàng đã ngâm. Hai vị này cùng làm như trước, và báo cho chàng biết nguyên nhân hai vị đến đây. Chàng đáp:

– Tại sao chiếc lọng trắng hoàng gia lại dành ưu tiên cho phần con, khi con có một hoàng huynh như Hatthipàla?

Hai vị đáp:

– Này con, hoàng huynh con đã ra đi để sống đời tu tập, anh con chẳng muốn liên hệ gì với hoàng gia nữa.

– Thế bây giờ anh con đâu rồi? – Chàng hỏi.

– Hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng.

– Tâu Chúa thượng và thân phụ, con cũng chẳng đến cái thứ mà anh con đã nhổ khỏi mồm. Chỉ có những kẻ ngu si và thiếu trí mới không đủ năng lực vứt bỏ ác dục này, còn con quyết sẽ vứt bỏ nó.

Sau đó chàng thuyết pháp cho thân phụ và đức vua qua hai vần kệ được chàng ngâm lên:

  1. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
    Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
    Ai chìm trong đám bùn vô trí
    Không thể bước sang đến bến bờ.
  2. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
    Nó bị bắt giam trước đến giờ,
    Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
    Ðể không làm những chuyện như xưa
    Từ nay con quyết lòng xây dựng
    Những bức tường không thể lọt vô.

– Tiểu sinh xin thưa: Chúa thượng cùng thân phụ hiện đứng chỗ kia và ngay khi tiểu sinh đang trình với hai vị, thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết cũng đang tiến đến gần ta hơn.

Cùng với lối khuyến giáo này, vừa được một đám đông hộ tống kéo dài cả dặm đường, chàng ra đi tìm gặp vương tử Hatthipàla, vị vương huynh chàng liền đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng rồi nói:

– Này hiền đệ, sau sẽ có một đám đông dân chúng đến đây, vậy hai ta hãy cùng ở lại chốn này.

Chàng đồng ý ở lại đó ngay.

Hôm sau, vua và vị tế sư cũng theo cách trên đến nhà vương tử Gopala. Khi được chàng hoan hỷ chào đón theo như cách hai vị vương tử trước, hai vị giải thích duyên cớ đến đây. Cũng như Hatthipàla, chàng từ chối lời đề nghị của hai ngài.

– Từ lâu con đã ước mong sống đời tu tập như một bò cái bị lạc trong rừng, còn vẫn đi lang thang tìm lối sống. Nay con nhìn thấy con đường mà hai vương huynh của con đã đi qua, giống như dấu chân kia của con bò bị lạc, nên con cũng theo đường ấy mà ra đi.

Sau đó chàng ngâm kệ:

  1. Như tìm bò cái lạc trên đường,
    Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
    Cũng vậy, an vui con đã mất,
    Sao còn do dự với phân vân,
    Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
    Khi bước đi tìm theo dấu chân?

Hai vị đáp:

– Nhưng này Gopàlaka thân yêu, con hãy đến ở cùng chúng ta một ngày, hoặc đến với chúng ta hai ba ngày, để nhà chúng ta được hạnh phúc hân hoan, rồi sau đó con hãy rời thế tục.

Chàng đáp:

– Tâu Ðại vương, xin đừng bao giờ hoãn lại đến ngày hôm sau chuyện gì đáng làm hôm nay, nếu Ðại vương muốn an lành xin hãy hành động ngay hôm nay, đừng trì hoãn nữa.

Sau đó chàng ngâm kệ khác:

  1. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
    Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
    “Thời vị lai không còn sự nghiệp!”
    Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
    Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
    Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.

Gopala vừa nói như vậy, vừa thuyết Pháp qua hai vần kệ trên, xong rồi nói thêm:

– Ngay nơi Ðại vương đứng đó, và ngay lúc con thưa trình với Ðại vương thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết nữa cũng đang tiến tới dần.

Sau đó được dân chúng hộ tống cả một dặm đường, chàng ra đi tìm kiếm hai vị hiền huynh. Rồi Tôn giả Hattipàla vừa đứng ở trên không vừa thuyết Pháp cho chàng như trước.

Ngày kế đó, vua và vị tế sư cũng theo cách trên và đi đến nhà vương tử Ajapàla; chàng hoan hỷ đón chào hai vị giống như các vương huynh chàng đã làm. Hai vị nói rõ duyên cớ đến đây và đề nghị giương cho chàng chiếc lọng hoàng gia. Vương tử bảo:

– Thế hai vương huynh con đâu rồi? Hai vị đáp:

– Hai vương huynh của con không muốn liên hệ với giang sơn quốc độ này nữa; cả hai đã khước từ chiếc lọng trắng và cùng với một hội chúng trải rộng cả ba dặm đường đang ngồi trên bờ sông Hằng.

– Thế thì con cũng không muốn đặt lên đầu cái vật mà hai vương huynh nhả ra khỏi mồm và đi theo sống đời tu hành như thế, nhưng con muốn hành trì đời sống xuất gia thôi.

Hai vị bảo:

– Này con, con còn trẻ lắm, hạnh phúc của con là mối quan tâm lo lắng của hai ta, vậy để lúc già hơn rồi con hãy sống theo đời tu tập.

Song chàng trai đáp:

– Ðại vương và thân phụ bảo con điều gì thế kia? Hiển nhiên cái chết vẫn đến với tuổi trẻ cũng như với tuổi già! Không ai có dấu hiệu gì trong bàn tay hay không biết được lúc nào con chết cả, vì vậy con muốn rời thế tục ngay bây giờ đấy.

Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
    Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
    Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
    Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
  2. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
    Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
    Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
    Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
    Con giã biệt đời người thế tục
    Cùng bao dục lạc của trần gian,
    Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
    Và hãy trở về chốn cố hương.

Sau đó chàng nói tiếp:

– Nay Ðại vương đứng chỗ kia và ngay lúc tiểu sinh đang tâu trình với Ðại vương cùng thân phụ, thì bệnh tật, tuổi già và thần chết cũng đang tiến tới gần tiểu sinh.

Rồi chàng đảnh lễ cả hai vị, dẫn đầu một hội chúng dài cả dặm đường, chàng ra đi đến bờ sông Hằng. Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng, rồi ngồi xuống, đợi đám đại chúng mà ngài mong gặp.

Hôm sau, vị tế sư bắt đầu suy tư trầm ngâm trong lúc ngồi trên bảo tọa. Ông nghĩ thầm: “Các con ta đã sống đời tu tập, nay chỉ còn lại một mình ta là lão già như gốc cây đã cằn cỗi tàn rụi, ta cũng muốn theo cuộc sống tu hành.

Rồi ông ngâm kệ với phu nhân mình:

  1. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
    Người ta gọi đó một cây xanh,
    Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
    Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
    Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
    Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
    Ðây là thời điểm dành cho lão
    Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.

Nói lời này xong, vị tế sư triệu tập các Bà-la-môn vào diện kiến mình: sáu mươi ngàn vị đến nơi. Sau đó ông hỏi cả hội chúng muốn làm gì. Họ đồng đáp:

– Ngài là sư phụ của chúng thần.

Ông bảo:

– Ðược lắm, thế thì ta sẽ đi tìm con trai ta và theo đời sống tu hành.

Hội chúng đáp:

– Không chỉ riêng ngài mới thấy địa ngục nóng rực lửa; chúng tiểu thần cũng sẽ làm y như ngài vậy.

Vị tế sư liền giao hết kho tàng châu báu, cả tám trăm triệu đồng tiền cho bà phu nhân, rồi dẫn đầu cả một đoàn Bà-la-môn trải dài suốt một dặm đường, ra đi đến vùng đất hai vị vương tử đang cư trú. Với hội chúng này cũng như trước kia, Tôn giả Hatthipàla đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Ngày hôm sau, bà phu nhân nghĩ thầm: “Bốn nam tử của ta đã từ chối chiếc lọng trắng của hoàng gia để theo đời tu tập; trượng phu của ta cũng đã để lại kho tài sản và vứt bỏ luôn chức vụ tế sư của triều đình nữa, rồi đi theo các con, thế ta còn làm gì một thân trơ trọi nữa? Theo cách các con ta đã đi, ta cũng đi luôn”.

Rồi bà ngâm kệ nói lên ước vọng qua câu tục ngữ:

  1. Tháng ngày mưa gió đã qua,
    Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
    Tự do bay lượn giữa trời,
    Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
    Vậy ta theo đúng đường thiêng
    Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.

Bà nhủ thầm: “Vì ta biết rõ điều này, sao ta lại không rời bỏ thế tục?”. Với dự định trên, bà triệu tập các phu nhân Bà-la-môn lại và bảo:

– Các phu nhân định làm gì giờ đây?

Họ bảo bà:

– Thế lệnh bà muốn làm gì?

– Về phần ta, ta sẽ từ giã thế tục.

– Vậy chúng thần thiếp cũng làm việc ấy.

Như thế, bà từ giã mọi cảnh huy hoàng này, ra đi tìm các con mình, đem theo cả một đám nữ nhân trải dài trên một dặm đường. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Hôm sau, vua hỏi:

– Vị tế sư của trẫm đâu rồi?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngài tế sư và phu nhân đã vứt bỏ hết cảnh phú quý lại đằng sau, rồi ra đi theo các công tử cùng với một hội chúng dài đến hai ba dặm đường.

Vua phán:

– Tiền bạc vô chủ đến tay ta rồi!

Vua truyền lệnh đem tiền bạc từ nhà vị tế sư về cung. Lúc bấy giờ chánh hậu muốn biết nhà vuađang làm gì, bà được trình báo:

– Hoàng thượng đang truyền đem về cả kho báu từ nhà vị tế sư.

Bà hỏi:

– Thế vị tế sư đâu?

– Tâu lệnh bà, ngài đã xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh, cùng với cả vợ con và gia quyến.

Hoàng hậu nghĩ: “Thế tại sao chúa thượng đây lại truyền theo đem vào nhà mình thứ phân uế và nước bọt mà vị Bà-la-môn này cùng gia quyến vợ con đã nhổ ra thế kia? Thật là một kẻ ngu si mê mờ tham đắm làm sao! Ta sẽ khuyên bảo ngài qua ví dụ này”.

Bà truyền lấy một mớ thịt dành cho chó, chất thành một đống giữa sân hoàng cung, rồi bà đặt một cái bẫy quanh đó, để cho lối ra vào bẫy mở rộng thẳng lên trời. Bầy kên kên thấy thịt, từ xa vội sà xuống. Song những con chim khôn ngoan trong đàn ấy nhận ra cái bẫy đã được giăng quanh đó, và tự biết thân mình quá nặng nề nên không thể bay vụt thẳng được, liền nôn ra hết mọi thứ chúng đã ăn và không để cho mình bị mắc bẫy, chúng lại vút lên không và bay biến mất.

Còn những con chim khác vì ngu si mà giáng xuống, ngốn ngấu hết các thức mửa ra của đàn trước, nên quá nặng nề không thể nào bay thoát được và bị mắc vào bẫy. Quân hầu mang một con chim mắc bẫy vào dâng lên hoàng hậu và bà tự mang đến chỗ vua:

– Tâu Chúa thượng hãy nhìn xuống, bà nói. Trong sân chầu có một cảnh lạ mắt cho ta nhìn đấy!

Rồi bà vừa mở cánh cửa sổ vừa nói:

– Tâu Chúa thượng, hãy nhìn đám kên kên kia kìa!

Sau đó bà ngâm hai vần kệ:

  1. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
    Tự do bay lượn giữa bầu trời:
    Ðám kia ăn nán và lưu lại,
    Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
  2. Vị tế sư nôn hết dục tham,
    Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
    Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
    Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!

Nghe những lời này, vua tràn đầy ăn năn hối hận, ba cõi sinh hữu đều chẳng khác nào đám lửa đang cháy bừng bừng, nên vua bảo:

– Ngay chính hôn nay, trẫm phải từ giã vương vị này và sống theo đời ẩn dật tu hành.

Lòng nặng trĩu ưu phiền, ngài tán thán chánh hậu qua vần kệ:

19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!

Vua vừa nói như thế xong, liền lập tức triệu hồi đám quần thần, lòng nôn nóng theo đuổi cuộc sống tu hành, ngài bảo:

– Còn các khanh sẽ ý sao? – Ngài phán – Trẫm sẽ đi tìm Hatthipàla và trở thành người tu hành.

Quần thần đáp:

– Tâu chúa thượng, vậy chúng thần cũng xin làm việc ấy.

Nhà vua rời bỏ vương quyền khắp Ba-la-nại hình thành vĩ đại rộng cả mười hai dặm và bảo:

– Ai muốn thì cứ giương lên chiếc lọng trắng vương quyền.

Sau đó được đám triều thần vây quanh, ngài dẫn đầu một dòng người dài cả ba dặm, đi đến trình diện vị nam tử kia. Với đám người này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ kể chuyện vua này lại xuất hiện thế ra sao:

  1. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
    Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
    Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
    Như thể voi vùng đứt bộ cương .

*

Ngày hôm sau dân chúng còn lại trong kinh thành tụ tập lại trước cung môn, xin trình báo với chánh hậu, rồi họ đi và đảnh lễ chánh hậu xong, liền ngồi sang một bên và ngâm kệ:

  1. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
    Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
    Vào ngự trong ngôi vị đế vương
    Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
    Ðược tay phò trợ của quần thần.

Bà lắng nghe những lời hội chúng thỉnh nguyện, xong bà liền ngâm các vần kệ còn lại:

  1. An lạc thay là đấng Thánh Quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
    Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
  2. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
    Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
    Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
  3. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
    Dung sắc thanh xuân phải úa dần
    Nay hãy biết rằng ta đã quyết
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Giã từ khát vọng và tham ái
    Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
  4. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
    Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
    Nay hãy biết rằng ta quyết chí
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Nơi nào bất kể còn tham dục
    Ta cũng rời xa chúng mọi phần
  5. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
    Hương sắc thanh tân phải úa dần,
    Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
    Cũng chẳng còn uy lực dục tâm

Qua các vần kệ trên, bà thuyết Pháp cho hội chúng đông đảo ấy xong, bà triệu tập các vị phu nhân của đám triều thần và bảo:

– Nay các phu nhân muốn làm gì?

– Tâu nương nương , thánh ý định thế nào?

– Ta muốn sống đời tu tập.

– Thế thì chúng thần thiếp cũng làm theo lệnh bà.

Vậy là chánh hậu mở rộng cửa kho vàng trong cung, bà ra lệnh khắc một phiến đá vàng ghi câu: “Nơi ấy là cả một đại kho tàng, bất cứ ai muốn, đều có thể lấy về”. Phiến vàng ấy được bà cho buộc vào một cái trụ trên một đài cao. Sau đó, từ giã bao cảnh vinh quang tráng lệ của hoàng cung, bà ra khỏi kinh thành. Tiếp theo toàn thành nhốn nháo lên với tiếng la hét:

– Ðại vương và chánh hậu đã rời thành đi theo hội chúng tu khổ hạnh, vậy bây giờ ta phải làm gì?

Từ đó về sau dân chúng rời bỏ nhà cửa cùng các đồ vật trong đó, và ra đi, đem theo con cái, các tiệm buôn bán mở rộng cửa hàng, song chẳng ai buồn quay lại nhìn chúng nữa, cả kinh thành trống vắng không một bóng người.

Và chánh hậu cùng với đoàn người hộ tống dài cả ba trăm dặm đường đi đến cùng nơi chốn ấy như các vị trước đây. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết pháp; rồi sau đó cùng toàn thể dân chúng dài hơn mười dặm khởi hành về hướng Tuyết Sơn.

Toàn quốc độ Kàsi náo loạn, la hét vang lừng câu chuyện nam tử Hatthipàla đã làm cho kinh thành Ba-la-nại trống vắng bằng cách nào, với hội chúng dài hơn cả nười hai dặm đường chàng rađi về vùng Tuyết Sơn ra sao, để theo sống đời tu khổ hạnh, dân chúng bảo nhau:

– Thế thì hiển nhiên chúng ta càng nên làm việc ấy!

Cuối cùng hội chúng này cứ tăng dần đến độ chiếm cả ba mươi dặm đường, rồi vương tử cùng cảđại chúng ấy đi đến Tuyết Sơn.

Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trong luc xét suy, đã nhận biết mọi việc đang xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Vương tử Hatthipàla đã làm Ðại sự Xuất thế; quần chúng đông đúc lắm, như thế chúng phải có nơi cư trú”. Ngài liền ra lệnh cho Thiên sứ Vissakamma (Thần xây dựng):

– Này hiền hữu, hãy ra đi xây dựng vùng am tu dài ba mươi sáu dặm và rộng mười lăm dặm, rồi thâu góp về đó tất cả mọi thứ cần dùng cho các vị tu hành.

Vị này tuân lệnh, và dựng bên bờ sông Hằng ở một nơi mát mẻ dễ chịu cả một vùng am thất theo đúng tầm cỡ cần dùng, chuẩn bị trong các am đầy đủ nệm rơm lót bằng cánh lá cây, lại để sẵn sàng mọi vật dụng cần thiết cho các người tu hành. Mỗi am đều có các cửa ra vào, một chốn đi dạo mát, có chỗ ở riêng biệt dùng cho ban ngày và ban đêm, tất cả đều được quét vôi trắng sạch sẽ sáng sủa, lại có thêm các trường kỷ để nghỉ ngơi. Ðó đây rải rác đủ loại trái cây trổ hoa chi chít trên cành khoe đủ sắc hương ngào ngạt; cuối mỗi chốn dạo chơi là một cái giếng để kéo nước, cạnh đó có cây ăn trái, mỗi cây đều mọc đủ mọi thứ. Tất cả những thứ này đều nhờ thần lực hóa ra cả.

Khi Thiên sứ Vissakamma đã xây xong khu ẩn cư này và cung cấp cho các thảo am đủ mọi vật cần thiết, vị ấy ghi các hàng chữ bằng son đỏ trên bức tường: “Ai muốn sống đời tu tập xin mời đến chỗ các vật dụng này”. Sau đó vị ấy lại dùng thần lực xua đuổi ra khỏi vùng ấy mọi thứ tiếng kêu kỳ quái, mọi ác điểu và mãnh thú, những loại phi nhân rồi trở về cõi của mình.

Tôn giả Hatthipàla chợt thấy vùng ẩn am này là tặng vật của Ðế Thích Thiên chủ, ngài đi theo con đường mòn và thấy phiến đá ghi chữ kia. Ngài nghĩ thầm: “Ðế Thích Thiên chủ hẳn đã nhận thấy ta vừa làm Ðại sự Xuất Thế”. Ngài mở một cánh và bước vào am, cầm lên những vật dụng dành cho người tu khổ hạnh, ngài lại bước ra đi dọc theo chốn dạo chơi, và quanh quẩn đó đây vài lần. Sau đó ngài thâu nhận cả hội chúng vào nếp sống tu hành, và đi quan sát cả vùng ẩn cư ấy. Ngài để dành phần giữa là cho phụ nữ có con thơ, phần kế đó cho các bà già, phần kế nữa cho đám phụ nữ không có con cái gì, còn các am thất khác ở chung quanh đều dành cho nam giới.

Thế rồi một hôm vị vua kia nghe tin đồn là không có vua cai trị vì Ba-la-nại liền đi xem và thấy cả kinh thành được trang hoàng rực rỡ với nhiều báu vật. Bước vào cung điện vua ấy thấy vàng bạc nằm ngổn ngang từng đống.

– Kìa! Vị ấy bảo. Rời bỏ kinh thành như thế này để trở thành người tu hành ngay khi cơ duyên tốt lành vừa đến, thật là một việc cao cả thay!

Vị vua ấy vừa hỏi đường một anh chàng say rượu nào đó, liền đi tìm Tôn giả Hatthipàla. Khi Hatthipàla nhận biết vị vua ấy đã đến ven rừng, liền bước ra đón mừng, vừa trên không vừa thuyết Pháp cho toàn hội chúng mới. Sau đó ngài dẫn đám người ấy vào rừng ẩn cư, tiếp nhận cả đoàn vào hội chúng tu tập. Cùng cách trên, sáu vị vua khác gia nhập vào đây. Bảy vị vua này đều từ bỏ mọi phú quí vinh quang. Chốn ẩn cư này rộng cả ba mươi sáu dặm cứ đông đúc dần dần. Mỗi khi có một vị đạo nhân nào khởi tư tưởng tham dục hay các tưởng tượng như thế, ngài thường thuyết Pháp cho vị đó và giảng dạy hội chúng tư duy về các Công hạnh Viên mãn (Các hạnh Ba-la-mật) và thiền định, nên dần dần các vị này tu tập pháp môn nhập định; hai ba phần hội chúng được tái sanh vào cảnh giới Phạm Thiên, còn một phần ba lại được chia ra thành ba nhóm: một nhóm được sanh lên cõi Phạm thiên giới, một nhóm được sanh vào sáu tầng trời dục giới và một nhóm, sau khi hoàn thành sứ mạng của vị kiến giả, được sinh vào thế giới loài người. Như vậy mỗi người trong ba nhóm đều được thọ hưởng công đức của mình. Thế là việc giáo hóa của hiền giả Hatthipàla đã cứu độ mọi người khỏi đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và khỏi trở thành một Asura (A-tu-la: một loại ác thần hay sân hận, từng gây chiến với chư Thiên dục giới).

*

Trên đảo Tích Lan (Ceylon) này, các vị đã làm Ðại sự Xuất thế là Trưởng lão Dhammagutta, vị này đã làm cho địa cầu chấn động; Trưởng lão Phussa-deva, một thị dân của thành Katakandhakara, Trưởng lão Mahàsamgharakkhita từ vùng Uparimandalakamalay, Trưởng lão Malimahàdeva từ vùng Bhaggiri; Trưởng lão Mahàsìva, từ vùng Vàmantapabbhàra; Trưởng lão Mahànàga từ vùng Kàlavallimandapa; các vị trong hội chúng của ngài Kuddàla, Mùgapakkha, Cùlusutasoma, của Hiền giả Ayohara, và cuối cùng của tất cả hội chúng Hatthipàla.

Do vậy bậc Thế Tôn bảo:

– Hãy vội làm việc lành, các vị sẽ được an lạc! Nghĩa là an lạc chỉ đến với ta nếu ta vận dụng hết công sức mình.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, ngày xưa, Như Lai làm Ðại sự Xuất thế cũng như bây giờ

Nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn) là vua Eusari, mẫu hậu Mahàmayà là vị chánh hậu kia; Kassapa (Ca-diếp) là vị tế sư, Bhaddakapilàni là vị phu nhân, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Ajapàla, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Gopàla, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Assapala, hội chúng của đức Phật là toàn thể đám người kia, và Ta chính là Hiền giả Hatthipàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử trong ngôi nhà sắt (Tiền thân Ayoghara)

Mầm sống một khi nhập tử cung…

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về Ðại sự Xuất thế của Ngài. Tại đây một lần nữa, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, vì trước kia Như Lai cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Bramadatta trị vì Ba-la-nại, bà chánh hậu thọ thai, đến thời mãn nguyệt khai hoa, bà sinh một vương tử ngay sau buổi rạng đông. Bấy giờ trong một đời trước có một phụ nữ khác cũng lấy chồng chung với bà, đã thốt lời thề rằng nàng sẽ tìm cách ăn thịt hài nhi của bà đời sau. Chuyện kể lại, vì nàng không sinh sản gì nên đem lòng tức giận cả hai mẹ con bà thuở ấy, mới thốt lên lời nguyền như trên. Bởi duyên cớ đó, nàng tái sinh thành một thứ quỷ cái. Còn người mẹ kia, nay trở thành chánh hậu và sinh hạ hoàng nam này. Con quỷ cái ấy tìm cơ hội hiện hình khủng khiếp chụp lấy hài nhi ngay trước mặt người mẹ và mang đi mất. Hoàng hậu thét lên vang lừng:

– Một con quỷ đã bắt hoàng nam của ta rồi!

Con quỷ kia nhai ngấu nghiến trệu trạo đứa hài nhi như ăn một củ hành sống rồi nuốt trửng hết! Sau đó nó lại biến hóa tay chân ra đủ hình dạng để đe dọa cho hoàng hậu kinh hoảng lên, rồi biến đi. Khi vua hay tin dữ ấy, ngài câm lặng không nói gì được, ngài suy nghĩ: “Còn biết làm sao chống chọi lại con quỷ cái kia chứ?”

Lần kế tiếp hoàng hậu lâm bồn, vua sắp đặt quân canh phòng bên mình bà. Bà hạ sinh một vương tử nữa, con quỷ ấy lại đến vồ lấy đứa bé ăn thịt rồi biến mất.

Làn thứ ba chính là bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai của chánh hậu. Vua triệu tập một số người lại phán:

– Hễ hoàng nhi nào do chánh hậu của trẫm sinh ra đều bị một con quỷ cái đến vồ lấy ăn thịt. Vậy phải làm sao bây giờ?

Sau đó có người tâu:

– Bọn quỷ rất sợ lá thốt nốt, chúa thượng nên cho buộc một ngọn lá ấy vào tay chân hoàng hậu.

Một kẻ khác lại tâu:

– Bọn quỷ cũng sợ cái nhà bằng sắt. Vậy phải dựng lên một cái.

Nhà vua chấp thuận. Ngài triệu tập tất cả thợ rèn trong quốc độ ngài và ra lệnh dựng cho ngài một cái nhà bằng sắt, và cho người giám sát công việc của họ. Ngay trong kinh thành, tại một địa điểm khả ái, họ xây lên một ngôi nhà có cột trụ và mọi bộ phận trong nhà không gì khác ngoài sắt; trong chín tháng ngôi nhà được hoàn tất, thật là một lâu đài vững chắc kiên cố, được đèn chiếu sáng suốt ngày đêm không bao giờ ngưng cả.

Khi vua biết rằng hoàng hậu sắp mãn nguyệt khai hoa, ngài truyền lệnh sắp đặt tiện nghi đầy đủ cho tòa nhà sắt rồi rước bà vào trong đó. Bà hạ sinh một hoàng nam có đầy đủ mọi quý tướng tốt lành, và hai vị đặt tên con là Ayoghara Kumàra hay Vương tử Thiết Thất (Vương tử ở trong ngôi nhà sắt)

Vua giao hài nhi cho các nhũ mẫu trông nom lại sắp đặt một đôi vệ sĩ hùng hậu giữ quanh lâu đài ấy, trong khi ngài cùng chánh hậu đi diễu quanh kinh thành hướng về phía hữu, rồi ngự lên thượng lầu nguy nga lộng lẫy của hoàng cung. Ðồng thời con quỷ cái, vì cần uống nước đã đi tìm thứ nước của Thiên Vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) nên bị giết.

Trong ngôi nhà sắt kia, bậc Ðại Sĩ lớn lên cùng với trí khôn phát triển dần, ngài được dạy đủ mọi môn học thuật cũng tại nơi đó cả.

Vua hỏi các triều thần:

– Nay vương nhi đã mấy tuổi rồi?

Hội chúng đáp:

– Tâu chúa thượng, vương tử vừa lên mười sáu: thật là một trang anh hùng đầy dũng lực cường tráng, đủ để chế ngự cả ngàn con quỷ kia!

Vua liền quyết định giao vương quyền vào tay vương tử. Ngài ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, truyền bảo rước vương tử ra khỏi ngôi nhà sắt đến triều kiến ngài. Quần thần tuân lệnh: Toàn thành Ba-la-nại được trang hoàng rực rỡ, kinh đô vĩ đại ấy trải khắp mười hai dặm; họ lại tô điểm cho vương tượng bằng tấm khăn phủ lưng thật lộng lẫy, phục sức cho vương tử cực kỳ sang trọng rồi đặt ngài lên lưng vương tượng và tâu:

– Tâu Ðiện hạ, xin Ðiện hạ ngự du một vòng theo phía hữu quanh kinh thành đang nô nức mở hội này, đây chính là giang sơn sự nghiệp của Ðiện hạ, sau đó sẽ đến đảnh lễ đấng Hoàng thượng là Ðại vương quốc độ Kàsi, vì hôm nay chính là ngày Ðiện hạ đón nhận chiếc Lọng trắng.

Bậc Ðại Sĩ ngự đám rước ngài diễu quanh kinh thành theo về phía bên hữu, ngài thấy các hoa viên tuyệt mỹ, đủ màu sắc xinh tươi với hồ nước, các thửa ruộng, vườn cây, nhà cửa phố xá, khắp nơi đều đẹp mắt, ngài tự nhủ thầm: “Tất cả cảnh sắc thế này mà trong bao lâu vương phụ lại giam giữ ta rất cẩn mật, chẳng hề cho ta thấy kinh thành được trang hoàng rực rỡ thể kia. Ta đã có lỗi gì vậy?” Ngài liền đem câu ấy hỏi các triều thần. Hội chúng đáp:

– Tậu Ðiện hạ, ngài chẳng có lỗi gì. Song có một con quỷ cái đã xé xác ăn hai vương huynh của ngài mất đi nên đức Thượng hoàng cho ngài ở trong ngôi nhà sắt và chính ngôi nhà sắt ấy đã cứu mạng ngài.

Những lời này lại làm ngài suy nghĩ: “Suốt mười tháng ta đã ở trong bụng mẹ, chắc hẳn có khác gì cái địa ngục hình Chảo Sắt (Thiết Oa địa ngục) hay Ðịa ngục phân dơ (Phẩn Ni địa ngục) đâu, rồi khi ta ra khỏi bụng mẹ, cả mười sáu năm trời nay ta sống trong ngục thất kia, không bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Mặc dù ta đã thoát được đôi bàn tay của con quỷ kia, ta vẫn không sao thoát được tuổi già và thần chết; vậy ta sẽ xin phép phụ vương đi theo đời sống tu hành, và ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn để thực hiện ước nguyện.”

Như vậy sau khi ngài dự đám lễ hội rước ngài ngự quanh kinh thành xong, ngài vào hoàng cung, đảnh lễ phụ vương và đứng chờ lệnh. Vua ngắm dung sắc tuyệt mỹ của ngài, lại nhìn đến đám quần thần với tấm lòng yêu thương mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt. Quần thần hỏi:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng muốn truyền cho chúng thần làm gì?

– Các hiền khanh hãy đưa vương nhi ngự lên đám trân châu báu ngọc, làm lễ quán đảnh cho vương nhi với nước từ ba vỏ ốc xà cừ, xong rồi giương chiếc Lọng trắng viền tua vàng lên che cho vương nhi.

Song Bậc Ðại Sĩ đảnh lễ phụ vương và thưa trình:

– Tâu phụ vương, con không muốn liên hệ gì với vương triều nữa. Con ước ao sống đời tu tập và con tha thiết cầu mong phụ vương cho phép con làm việc ấy.

– Này vương nhi, tại sao con lại muốn rời bỏ vương vị và sống theo đời tu khổ hạnh.

– Tâu phụ vương, suốt mười tháng con nằm trong bụng mẹ chẳng khác nào Ðịa ngục phân dơ, khi đã sinh ra đời, vì sợ con quỷ dữ mà con phải sống trong cảnh giam cầm, chẳng bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Con thấy giống như bị nhốt vào ngục Ussada (Ngục có thành sắt bao bọc), nay đã thoát nạn quỷ cái ấy, song con chẳng bao giờ thoát được tưổi già và cái chết, vì không ai có thể chiến thắng thần chết cả. Con nhàm chán sự sinh ra đời rồi. Vậy trước khi già, bệnh, chết kéo đến với con, con quyết theo đời người tu hành, tiến bước trong chánh hạnh. Con không muốn ngai vàng dành cho con. Tâu phụ vương, xin phụ vương ban ơn chấp thuận cho con đi.

Rồi ngài thuyết Pháp cho thân phụ như vầy:

  1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
    Mới vừa khởi sự bước đầu xong
    Nó liền tiến mãi hoài liên tục
    Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
  2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
    Giúp người tránh lão tử sau cùng,
    Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
    Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
  3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
    Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
    Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
    Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
  4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
    Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
    Song không ai thoát tay thần chết
    Con quyết đời thanh tịnh để phần.
  5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
    Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
    Song không thấy có người nào đủ
    Sức mạnh phá tan được tử hình;
    Vì thế lòng con nay đã quyết
    Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
  6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
    Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
    Song chẳng thấy người đầy thế lực
    Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
    Cho nên con quyết lòng tu tập
    Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
  7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
    Bắn như tia chớp tự xa bay,
    Song con không thấy người thừa sức
    Làm tổn thương được thần chết này
    Vì thế lòng con giờ quyết định
    Theo đời thanh tịnh để phần đây.
  8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
    Không lâu để sụp đổ điêu tàn
    Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
    Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
  9. Giống như cây ở mé bờ sông
    Bán áo, người say đổi rượu nồng
    Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
    Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
    Ngã như trái rụng vì cây đổ;
    Con quyết đời thanh tịnh bản thân
  11. Xuân của thế gian khác nữ thần
    Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
    Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
    Ðối với lão niên kiệt quệ dần
    Lạc thú ái ân nào có được?
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
  12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
    Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
    Song làn khí độc thần linh ấy
    Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
    Vì vậy lòng con giờ đã quyết
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
  13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
    Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
    Do người cúng bái; song không thể
    Làm tử thần tan hết bất bình
    Vì vậy giờ con đây quyết định
    Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
  14. Những người gây tội ác, hung tàn
    Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
    Song với tử thần, không thể phạt
    Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
  15. Những người gây tội ác đau thương
    Tìm cách cản tay các đế vương
    Song với tử thần tay lưỡi hái
    Việc này xem quả thật vô phương.
    Cho nên con quyết giờ đây chọn
    Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
  16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
    Những kẻ mang danh vị tối tôn,
    Những đại phú gia, người thế lực
    Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
    Cho nên con quyết từ đây sống
    Phạm hạnh đời con đã chọn đường
  17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
    Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
    Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
    Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
    Cho nên con trẻ từ đây quyết
    Phạm hạnh riêng con sống cả đời
  18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
    Diễn trò lừa bịp mắt người trông
    Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
    Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
  19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
    Tấn công, giết lập tức người trần;
    Nọc kia, thần chết không hề sợ;
    Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
  20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
    Vị lương y có đủ tài năng
    Làm tiêu tan hết xà công lực
    Song chữa vết thương của Tử thần
    Không một anh hùng nào đủ sức
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
    Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
    Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
    Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
  22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
    Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
    Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
    Mà tử thần trông thấy vẫn gần
    Vì vậy lòng con nay quyết định:
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
  23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
    Ðều là người được hưởng bình an,
    Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
    Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
    Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
    Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
  24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
    Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
    Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
    Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.

Khi bậc Ðại Sĩ đã thuyết pháp như vậy qua hai mươi bốn vần kệ xong, ngài tiếp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương giữ quốc độ cho mình, phần con không màng đến nó chút nào. Ngay khi con đang tâu trình với phụ vương thì bệnh tật, tuổi già và thần chết nữa đều tiến đến gần con hơn. Xin phụ vương ở lại vương vị cũ.

Sau đó, chẳng khác nào con voi điên cuồng bật tung xiềng xích bằng sắt, hoặc như chú sư tử nhỏ bé phá vỡ chiếc lồng vàng, ngài đập tan mọi dục vọng phàm tục trong lòng và đảnh lễ song thân rồi ra đi.

Tiếp theo đó phụ vương của ngài phán:

– Ta cũng không thiết ngai vàng quốc độ nữa!

Rồi vua cha từ giã thế sự, ra đi cùng ngài. Khi các ngài đi rồi, chánh hậu, đám triều thần Bà-la-môn, các gia chủ cùng mọi người khác trong kinh thành đều bỏ nhà cửa ra đi hết.

Thế là một đoàn đại chúng trải dài cả mười hai dặm đường. Cùng với đám đông này, ngài tiến về phía Tuyết Sơn.

Khi Sakka Thiên chủ (Ðế Thích) biết rằng ngài đã xuất gia, liền sai Thiên sứ đi xây dựng một vùng am thất trải dài cả mười hai dặm, bề rộng bảy dặm và truyền bảo vị ấy đem vào đó mọi thứ cần thiết cho cuộc đời tu tập khổ hạnh. Cách thức bậc Ðại Sĩ tiếp tục thâu nhận đám người này vào hội chúng xuất gia của ngài và thuyết giáo cho hội chúng, sau đó hội chúng được sinh lên Phạm thiên giới hay chứng đắc quả Tam quả bất Lai như thế nào, tất cả đều diễn ra giống như trước kia

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, trước kia Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, song thân của vương tử kia là phụ hoàng và mẫu hậu ngày nay, hội chúng của đức Phật là đám thần dân và Ta chính là Hiền giả Ayoghara (Thiết Thất)

-ooOoo-

Chương XVI

Phẩm Ba mươi bài kệ

  1. Chuyện dục tham kỳ dị (Tiền thân Kimchanda)

Vì cớ sao ngài ở bến sông…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên hay Thắng Lâm) về việc hành trì ngày trai giới (uposatha: Bố-tát giới hay bát quan trai giới)

Một ngày nọ, một số nam nữ cư sĩ đang hành trì ngày trai giới, đến nghe Pháp và ngồi tại Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư hỏi xem hội chúng có hành trì ngày trai giới không, và khi họ đáp là có, Ngài nói thêm:

– Các ông hành trì ngày trai giới thật tốt lành thay; ngày xưa, có những người chỉ nhờ hành trì nửa ngày trai giới mà đạt được vinh quang tột bực.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta cai trị quốc độ rất đúng pháp và là một người sùng đạo, ngài nhiệt tình hành trì mọi thiện sự trong ngày trai giới, giữ đúng giới luật và bố thí. Ngài cũng khuyên các cận thần cùng nhiều người khác giữ hạnh nguyện bố thí, làm phước đức, nhưng vị quốc sư của ngài là một kẻ xấu miệng, ưa gièm pha, tham của hối lộ, nên xử án bất công.

Vào một ngày trai giới kia, vua triệu các quân sư lại và bảo họ giữ giới. Vị quốc sư này không thi hành phận sự của ngày trai giới. Vì vậy trong ngày ấy, lão nhận hối lộ và xử án bất công rồi sau đó đến chầu vua. Sau khi hỏi mỗi vị cận thần xem có giữ giới không, vua hỏi vị quốc sư:

– Này Tôn giả, người có giữ giới không?

Lão nói dối là có, rồi rời cung vua. Lúc ấy một vị cận thần khác quở trách lão:

– Chắc chắn ngài chẳng giữ giới.

Lão đáp:

– Ta đã ăn từ sáng sớm, nhưng khi ta về nhà sẽ súc miệng và giữ giới luật, ta sẽ không ăn gì buổi chiều và suốt đêm ta sẽ giữ giới luật, như thế ta cũng giữ được nửa ngày trai giới.

Họ đáp:

– Thưa Tôn giả, thế thì tốt lắm.

Lão đi về nhà và làm đúng như vậy.

Một ngày kia, khi lão đang ngồi xử kiện, một người đàn bà vốn là kẻ giữ đúng giới luật, đang gặp chuyện thưa kiện, và vì không thể về nhà được, bà ấy nghĩ thầm: “Ta không thể vi phạm hành trì ngày trai giới.”

Nên lúc đến gần giờ trì giới, bá ấy bắt đầu súc miệng. Và lúc ấy có người mang vào một mâm xoài chín biếu tế sư Bà-la-môn. Lão thấy bà ta đang giữ giới liền bảo:

– Bà ăn đi rồi giữ giới.

Bà ấy vâng theo. Hạnh nghiệp của vị Bà-la-môn kia đã tạo được nhiều phước lớn.

Về sau đó, lão chết đi và tái sinh vào vùng núi Tuyết Sơn, trong một nơi phong cảnh tươi đẹp bên bờ sông Kosiki, chi nhánh của sông Hằng, trong một khu rừng xoài rộng ba dặm trên một vương sàn nguy nga của một cung điện bằng vàng. Lão tái sinh như thể một người vừa thức giấc, liềnđược phục sức xiêm y, điểm trang lộng lẫy, với dung mạo tuyệt vời, lại được mười sáu ngàn tiên nữ chầu hầu chung quanh. Suốt đêm trường lão thọ hưởng vinh quang này vì đã được sinh làm vị Thần trong Ma cung, phước lộc của lão cũng tương xứng với hạnh nghiệp xưa của lão.

Vì thế khi bình minh đến, lão vào rừng xoài, ngay lúc vừa bước chân vào, thân thể thần tiên của lão biến mất, lão hóa hình thù to lớn như một cây thốt nốt cao tám mươi cubit (acubit = 45cm), toàn thân rực sáng như một cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm. Lão chỉ có một ngón tay trên mỗi bàn tay, nhưng móng lại to như bàn cuốc, với các móng tay này, lão móc thịt sau lưng, xé thịt mình ra mà ăn, rồi đau đớn điên cuồng lên, lão cứ khóc rống thật to. Mãi vào lúc mặt trời lặn, thân hình này biến mất và phong cách thần tiên của lão hiện ra. Bầy tiên nữ nhảy múa, cầm nhiều nhạc cụ trong tay, hầu hạ quanh lão, trong lúc hưởng đại vinh hiển như vậy, lão bước lên tiên cung trong khu rừng xoài diễm lệ.

Như vậy là do kết quả việc tặng trái xoài cho người đàn bà đang trì giới, lão được hưởng một khu rừng xoài rộng ba dặm, nhưng vì phải thọ lãnh nghiệp quả về việc nhận hối lộ và xử án sai lầm, lão phải xé thịt trên lưng ra mà ăn, đồng thời nhờ việc hành trì nửa ngày trai giới, lão tận hưởng vinh quang mỗi đêm cùng với mười sáu ngàn tiên nữ múa hát hầu hạ quanh mình.

Vào thời ấy, vua xứ Ba-la-nại hiểu rõ tội lỗi do tham dục gây ra, nên xuất gia tu hành, ẩn cư trong một thảo am nọ trên một vùng phong cảnh xinh đẹp miền hạ lưu sông Hằng, sống khổ hạnh với những vật ngài kiếm được.

Một ngày kia, có quả xoài chín trong rừng ấy bằng cái bát, rơi xuống sông Hằng theo dòng sông đến nơi đối diện với chỗ định cư của vị khổ hạnh này. Trong khi ngài đang súc miệng, chợt thấy trái xoài trôi giữa dòng, ngài liền lội qua lấy nó mang về am, cất vào nội thất, nơi ngài đốt ngọn lửa thiêng. Sau đó khi xẻ xoài ra, ngài chỉ ăn vừa đủ sống, rồi gói phần còn lại bằng lá chuối. Ngài cứ ăn dần dần trái xoài như vậy cho đến hết.

Khi đã ăn hết xoài, ngài không thể ăn trái cây nào khác nữa, nhưng bị thói tham ăn của ngon trói buộc, ngài thốt lời thề từ nay chỉ ăn xoài chín mà thôi, liền đến bờ sông nhìn xuống dòng nước, quyết không bao giờ đứng dậy cho đến khi tìm được một trái xoài! Thế là ngài nhịn ăn sáu ngày liền, cứ ngồi đó chờ mong tìm xoài, cho đến khi ngài khô héo vì nắng gió.

Ðến ngày thứ bảy, một vị nữ thần xem xét sự việc ấy, thấy rõ lý do hành động của ngài và suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh này bị thói tham ăn câu thúc, cứ ngồi đó nhịn đói bảy ngày nhìn xuống sông Hằng. Việc ta chối từ ngài một quả xoài là điều sai lầm, vì nếu không có xoài , ngài sẽ chết, vậy ta sẽ cho ngài một trái.”

Thế là nữ thần liền hiện lên giữa không gian trên sông Hằng và nói với ngài vần kệ đầu tiên

  1. Vì cớ sao ngài ở bến sông
    Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng
    Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện
    Chủ đích gì ngài vẫn ước mong

Nhà tu khổ hạnh nghe thế liền đáp lại chín vần kệ:

  1. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng
    Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần
    Vươn cánh tay dài ta lấy quả
    Ðem về nhà cất ở gian trong
  2. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
    Ta nghĩ của trời quí giá sao!
    Hình dáng đẹp tươi này sánh với
    Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!
  3. Ta dấu xoài trong lá chuối cây
    Cắt ra từng lát với dao này
    Ít oi thực phẩm, phần ăn uống
    Hợp với đời người đạm bạc đây
  4. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng
    Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:
    Trong các trái nào ta kiếm được
    Ta đều không thấy vị thơm ngon!
  5. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông
    Xoài ngon ta lượm ở bên dòng
    Sẽ làm ta chết, ta lo sợ
    Chẳng trái cây nào ta ước mong!
  6. Vì sao giữ giới đã trình nàng
    Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng
    Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá
    Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng
  7. Nay ta cầu khẩn nói cho ta
    Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
    Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?
    Tại sao nàng lại đến đây mà?
  8. Thị nữ chư Thiên đẹp tuyệt vời
    Khác nào vàng óng ánh ngời soi!
    Xinh như bầy hổ còn thơ dại
    Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi
  9. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
    Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan
    Song không ai giữa nhân Thiên ấy
    Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!
    Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ
    Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang
    Xin cho ta biết phương danh tánh
    Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng

Nữ thần liền đáp tám dòng kệ

  1. Trên dòng sông nước thật xinh tươi
    Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi
    Bá chủ ngôi cao ta ngự trị
    Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi
  2. Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh
    Che phủ rừng cây rậm lá xanh
    Từ đó bao dòng tràn ngập chảy
    Hòa theo với sóng nước sông mình
  3. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây
    Ðưa đến Long cung lắm suối đầy
    Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc
    Ngập dòng bát ngát của ta này
  4. Lệ thường trên các phụ lưu này
    Nhiều trái sinh từ đủ loại cây
    Ðào đỏ, chà là, sung mít vả
    Với xoài, người thấy rõ ràng ngay
  5. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ
    Rơi xuống vừa tầm với của ta
    Ta bảo của trời cho chánh đáng
    Danh ta, ai có thể gièm pha?
  6. Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây
    Hỡi đại vương thông tuệ, trí tài
    Chớ đắm tham vào tâm dục vọng
    Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai
  7. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn
    Nay việc ngài, ta chẳng tán dương
    Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ
    Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng
  8. Giáo sĩ, chư thần, quý hiển linh
    Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh
    Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh
    Dưới thế đã thành tựu hiển vinh
    Quả thấy việc ngài làm trái đạo
    Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh!

Tiếp theo đó vị tu hành ngâm bốn vần kệ:

  1. Ai biết đời người thật mỏng manh
    Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh
    Không hề nghĩ đến điều sinh sát
    Mà trú an trong mọi hạnh lành
  2. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh
    Là bậc làm công đức sáng danh
    Nay lại giao du nhiều kẻ ác
    Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!
  3. Ví ta chết cạnh bến sông nàng
    Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn
    Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả
    Khác nào mây phủ giữa không gian!
  4. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng
    Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng
    Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc
    Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!

Nghe nói vậy , nữ thần đáp lại:

  1. Ta biết ngài thầm kín ước mong
    Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm
    Ta cam đành phận làm tỳ nữ
    Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân
    Kìa ác dục từ bao thưở trước
    Khó thay bỏ lạc thú phàm trần
    Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh
    Và trí bình an, phải giữ luôn.
  2. Người nào đã thoát buộc ràng xưa
    Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa
    Phóng dật bước vào phi thánh đạo
    Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.
  3. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
    Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
    Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
    Ngài sống đời an lạc biết bao!
  4. Mây-na, cu-gáy, hạc, hồng nga,
    Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
    Từng đám thiên nga cao vút lượn
    Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa
    Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái
    Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!
  5. Hoa nghệ, Ka-dam-ba rộ bông
    Khác nào rơm rạ ở trên đồng
    Chà là, thốt nót, nồng nàn chín
    Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm
    Và giữa cây cành đầy trĩu trái
    Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!

Vừa ca tụng thắng cảnh kia, tiên nữ vừa mang nhà tu hành đến đó, và mời ngài ăn xoài trong rừng này cho đến khi thỏa thích, rồi nàng lại ra đi. Nhà ẩn sĩ ăn xoài mãi đến lúc đã hết cơn thèm, xong nghỉ ngơi chốc lát. Sau đó loanh quanh thơ thẩn trong rừng, ngài thấy vị Thần kia đang lúc chịu khổ sở đau đớn, ngài không còn lòng dạ nào thốt ra lời hỏi han vị ấy, nhưng hoàng hôn đến, ngài thấy vị Thần kia được bầy tiên nữ hầu hạ và thọ hưởng vinh quang của tiên giới, ngài liền ngâm ba vần kệ:

  1. Suốt đêm, quán đảnh tiệc liên hoan
    Vương miện trên mày lại được mang
    Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí
    Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng
  2. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài
    Thần lực ngài kia thật đại tài!
    Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi
    Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!
  3. Ngài đã làm sao phải đọa đày?
    Tội gì ngài hối tiếc ngày nay?
    Sao từ lưng nọ nay ngài phải
    Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?

Vị Thần kia nhận ra ngài, liền bảo:

– Ðại vương không nhận ra tiểu thần, nhưng ngày xưa tiểu thần là tế sư của Ðại vương. Hạnh phúc này thần được hưởng hằng đêm là nhờ ơn Ðại vương, đó là kết quả hành trì nửa ngày trai giới của thần, còn nỗi thống khổ thần phải chịu ban ngày là kết quả nghiệp ác mà thần đã làm. Vì khi thần được Ðại vương cho ngồi ghế phán quan, thần đã ăn hối lộ, và phán xét sai trái, thần lại là kẻ xấu miệng, ưa phỉ báng sau lưng người khác, nên kết quả việc ác thần đã tạo những ngày đó, nay thần phải chịu khổ đau này.

Nói xong vị Thần ngâm hai vần kệ:

  1. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh
    Song ác nghiệp giam hãm đắm mình
    Việc ác đã làm cho bạn hữu
    Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh
  2. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân
    Cứ thích rình mò phá tiếng thơm
    Phải móc thịt mình ăn lại mãi
    Như ta việc ấy hiện đang làm!

Nói xong vị thần hỏi nhà tu khổ hạnh tại sao đã đến đây. Vị này liền kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình. Vị Thần lại hỏi:

– Vậy xin thưa Thánh giả, ngài định ở đấy hay lại ra đi?

– Ta không muốn ở lại, ta muốn trở về am.

Vị Thần đáp:

– Thưa Thánh giả, lành thay, thần sẽ dâng cúng ngài trái xoài chín thường xuyên đầy đủ.

Rồi vị ấy dùng thần lực đưa vị vua ẩn sĩ trở về vùng thảo am, khuyên ngài sống thiểu dục ở đó, yêu cầu ngài phải giữ tròn lời nguyền, rồi ra đi. Từ đó vị Thần kia thường xuyên cung cấp xoài cho nhà tu khổ hạnh. Ngài thọ hưởng thứ trái cây ấy, hành trì những pháp môn tu tập để làm phát khởi thiền định và về sau được thọ sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư, sau khi chấm dứt Pháp thoại với các cư sĩ, liền thuyết các Thánh Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Vào đoạn kết thúc các Thánh Ðế, một số người đạt Sơ quả Dự Lưu, một số người đạt Nhị quả Nhất Lai, lại có một số người khác đạt Tam quả Bất Lai.

– Vào thời ấy nữ thần ấy là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và ẩn sĩ khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện bình rượu (Tiền thân Kumbha)

Ngài là Ðại Sĩ ở trên không…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về việc năm trăm nữ nhân, các vị thân hữu của bà Visàkhà (Tỳ-xà-khư), là những kẻ uống rượu nặng.

Lúc bấy giờ truyện kể rằng có một tửu hội được tổ chức tại Savathi (Xá-vệ) và năm trăm nữ nhân này, sau khi đem rượu nồng cho các vị phu quân xong, vào cuối đám hội lại suy nghĩ: “Chúng ta cũng muốn dự tửu hội”.

Họ liền tìm đến bà Visàkhà và bảo:

– Này hiền hữu, chúng ta cũng muốn dự hội.

Bà đáp:

– Ðây là một tửu hội, còn ta không muốn uống rượu nồng.

Họ bảo:

– Thế hiền hữu hãy cúng dường đức Phật tối thượng, còn chúng tôi muốn dự hội này.

Nàng chấp thuận ngay và để họ đi. Sau khi đã cúng dường bậc Ðạo Sư một phẩm vật long trọng, buổi chiều bà đi đến Kỳ Viên, cầm nhiều tràng hoa thơm cùng các nữ nhân kia để nghe thuyết pháp.

Bấy giờ đám nữ nhân kia thèm uống rượu cùng khởi hành với bà, nên lúc họ đứng trong căn phòng có nóc nhọn kia, họ uống rượu mạnh rồi cùng bà Visakhà đến yết kiến bậc Ðạo Sư.

Bà Visàkhà đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cung kính ngồi qua một bên. Vài người đàn bà trong bọn ấy dám múa ca ngay trước mặt bậc Ðạo Sư, có người lại lấy tay, chân làm những cử chỉ thô lỗ có người còn cãi nhau nữa. Bậc Ðạo Sư muốn gây chấn động cho bọn này, liền phóng ra một tia hào quang từ chân mày của Ngài.

Tiếp theo đó bầu trời tối đen kịt. Bọn nữ nhân kinh hoàng sợ chết, vì thế tỉnh rượu ngay.

Bậc Ðạo Sư biến mất khỏi bảo tọa Ngài đang ngồi, xuất hiện trên đỉnh núi Tu-di và phóng ra một tia hào quang từ giữa chân mày rực rỡ, khác nào ngàn vầng trăng hiện.

Trong lúc đứng đó, Bậc Ðạo Sư nói lên kệ này để gây kinh động cho đám nữ nhân kia:

Ở đây không phải chốn vui cười
Lửa dục đốt tan mọi cảnh đời
Sao mãi chìm thân trong bóng tối
Không tìm ngọn đưốc, nẻo đường soi

Câu kệ vừa chấm dứt, cả đám năm trăm nữ nhân đều đắc quả Dự Lưu. Bậc Ðạo Sư lại xuất hiện trên bảo tọa dành cho đức Phật dưới bóng mát của Hương phòng. Lúc ấy, bà Visàkhà đảnh lễ Ngài và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, việc uống rượu mạnh phát xuất từ đâu đã xâm phạm đến thanh danh và lương tâm con người?

Ðể trả lời bà, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta đang trị vì quốc độ Ba-la-nại có người thợ rừng tên gọi Sura, sống ở quốc độ Kàsi, đến vùng Tuyết Sơn đi tìm hàng buôn bán. Ở đó có một cây mọc lên cao vừa tầm vóc người giơ hai tay lên đầu, và chia làm ba nhánh giữa cái chĩa ba này là một lỗ lớn bằng bình rượu, khi trời mưa lỗ này đầy nước. Chung quanh cây này có hai cây myrobalan (am-ma-lạc) và một bụi tiêu, khi trái chín được cắt xuống lại rơi vào lỗ này. Không xa cây này lại có một ruộng lúa tự mọc lên. Chim sẻ mổ lúa ăn đến đậu trên cây này. Trong lúc chim ăn, lúa và gạo sạch trấu rơi xuống đó, chỗ ấy nước lên men dưới ánh nắng mặt trời, nên có màu đỏ như máu. Mùa nắng, từng đàn chim khát nước, uống nước ấy và say sưa, ngã xuống dưới gốc cây, sau khi ngủ một lát, lại bay đi, kêu chiêm chiếp rất vui tai. Việc này cũng diễn ra với các loài chó hoang, khỉ và nhiều dã thú khác nữa. Người thợ rừng thấy vậy nghĩ thầm: “Nếu đây là thuốc độc thì chúng chết hết rồi, nhưng còn đây sau một giấc ngủ ngắn, chúng bay đi như ý muốn, vậy không phải là thuốc độc.”

Gã uống thứ nước ấy và lúc say rượu, gã thấy thèm ăn thịt, liền nhóm lửa lên, giết chim trĩ và gà gô vừa ngã gục dưới gốc cây, gã nướng con thịt trên đám lửa hồng, rồi một tay gã múa may, tay kia cầm thịt ăn, gã ở lại chỗ đó một hai ngày.

Bấy giờ không xa nơi ấy, có một vị ẩn sĩ tên gọi Varuna, nhiều lúc gã thợ rừng đến viếng ẩn sĩ, gã nghĩ thầm” Ta sẽ uống thứ rượu này với vị ẩn sĩ ấy”

Gã đổ đầy nước vào một ống sậy, cùng một ít thịt nướng, rồi gã đi đến am tranh và bảo:

– Thưa Thánh giả, xin ngài thử nếm rượu này.

Hai người cùng uống rượu và ăn thịt. Vì thứ rượu này do Sura và Varuna phát hiện, nên được đặt tên theo đó: Rượu Surà và Varuni. Cả hai suy nghĩ: “Ðây là cách sử dụng rượu này”

Họ đổ đầy nước vào ống sậy, gánh đi đến làng lân cận, dâng sớ tâu vua rằng có vài người lái buôn rượu đã đến. Nhà vua cho triệu họ vào, và họ dâng rượu lên. Nhà vua uống rượu hai ba lần là say mèm. Rượu này chỉ đủ dùng chừng hai ba ngày, sau đó vua hỏi còn rượu không. Họ bảo:

– Tâu Ðại vương còn.

– Ở đâu thế?

– Tâu Ðại Vương trong vùng Tuyết Sơn..

– Thế đem rượu về đây.

Họ đi tìm rượu kia chừng hai ba lần rồi suy nghĩ: “Ta không thể đến đó mãi.”

Họ nghiên cứu các thành phần chế tạo rượu ấy và bắt đầu dùng thứ vỏ cây kia, họ đổ thêm các thứ kia vào, và làm rượu ngay tại kinh thành. Dân trong thành uống rượu say trở thành những kẻ khốn cùng lười biếng. Vùng ấy trở nên một kinh thành hoang vắng.

Các lái buôn rượu bỏ đi đến Ba-la-nại dâng sớ tâu nhà vua xin trình báo họ đến thành. Nhà vua triệu họ vào, trả tiền cho họ và họ lại làm rượu tại đó. Thành ấy cũng hoang tàn như kiểu trên.

Sau đó họ đến Sàketa, từ Sàketa họ đến Xá Vệ, lúc bấy giờ có vị vua mệnh danh Sabbamitta ngự tại Xá-Vệ. Nhà vua tỏ ra ưu ái họ và hỏi họ muốn gì. Khi họ bảo:

– Chúng tiểu thần muốn có các vật liệu chính cùng gạo xay và năm trăm chiếc bình.

Nhà vua ban đủ mọi thứ họ xin.

Thế là họ cất rượu trong năm trăm bình kia, và họ cột một con mèo vào một bình rượu để canh giữ. Khi rượu lên men và bắt đầu phun ra, bầy mèo uống rượu mạnh chảy ra từ trong bình, khi say mèm, chúng nằm xuống ngủ, bọn chuột đến gặm tai, mũi, răng và đuôi mèo. Quân cận thần đến tâu vua:

– Bầy mèo đã chết vì uống rượu.

Nhà vua phán:

– Chắc chắn hai gã kia đã làm thuốc độc.

Rồi vua ban lệnh chém đầu họ và khi phải chết, họ còn la lớn:

– Xin cho chúng thần rượu mạnh, xin cho chúng thần rượu mật!

Nhà vua, sau khi xử tử bọn kia rồi, ra lệnh mở các bình ra. Còn bầy mèo, khi tác dụng rượu đã hết, tỉnh dậy đi lại chơi đùa. Các cận thần thấy vậy liền tâu vua. Vua bảo:

– Nếu đó là thuốc độc thì chúng đã chết hết rồi, chắc đây là rượu mật ta phải uống mới được.

Thế là vua ra lệnh trang trí kinh thành, dựng ngôi đình trong sân chầu và ngự vào đình nguy nga trên ngai vàng có lọng trắng che đầu, với các cận thần chầu quanh, nhà vua nhập tiệc uống rượu.

Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ bảo:

– Có ai dưới trần là những kẻ phụng dưỡng mẹ cha lại tinh cần giữ trọn ba chánh hạnh chăng?

Rồi nhìn xuống thế gian, ngài thấy nhà vua đang ngồi uống rượu nồng, ngài nghĩ: “Nếu vua ấy cứ uống rượu nồng mãi thì toàn cõi Diêm-phù-đề sẽ bị hủy diệt, ta muốn thấy chắc chắn vua không được uống rượu nữa”.

Thế là đặt bình rượu vào lòng bàn tay, ngài giả dạng một Bà-la-môn, đứng trên không ngay trước mặt vua kêu lớn:

– Mua bình này đi, mua bình này đi.

Vua Sabbamitta thấy ngài đứng trên không và nói như vậy, liền hỏi:

– Bà-la-môn này từ đâu đến đây?

Và nhà vua ngâm vần kệ trò chuyện với ngài:

  1. Ngài là đại sĩ hiện trên không
    Mình phóng hào quang rực ánh hồng
    Như chớp ngang trời đang lóe sáng
    Ðêm đen kịt chiếu ánh trắng trong.
  2. Giữa chốn bao la, lượt nhẹ mình,
    Ði đứng trong khoảng chẳng âm thanh.
    Lực thần ngài đạt, ôi vi diệu,
    Chứng tỏ ngài thần thánh hiển linh
  3. Ðạo Sĩ, xin cho biết bậc nào
    Vật gì trong ấy, chiếc bình cao
    Giữa không trung giáng trần như vậy
    Chắc muốn bán hàng cho trẫm sao?

Lúc ấy Thiên chủ đáp lại:

– Này nhà vua hãy nghe đây

Rồi vừa thuyết giảng mọi đặc điểm xấu xa của rượu nồng, ngài vừa ngâm vần kệ.

  1. Bình không đựng lạc, chẳng dầu hương,
    Chẳng phải mật ong, chẳng mía đường
    Song chuyện xấu xa không kể xiết
    Chứa đây trong bụng quả cầu tròn
  2. Ai uống, tội thay kẻ dại khờ
    Sẽ chìm trong hố thẳm đen dơ
    Ðâm đầu trong vũng bùn ghê tởm,
    Ăn phải vật xưa đã nguyện chừa,
    Ðại đế, xin mua bình rượu nặng
    Ðầy lên tận miệng của nhà ta.

6.Rượu vào trí đảo lộn quay cuồng
Như chú bò ăn cỏ lạc đường
Tâm trí phiêu diêu, người lảo đảo.
Múa men ca hát suốt ngày trường.
Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
Cực mạnh, mua ngay, hỡi Ðại vương!

  1. Người uống rượu trơ trẽn chạy rong
    Khắp thành, như ẩn sĩ trần truồng
    Ðến khuya nằm nghỉ , liền đâm hoảng
    Quên cả thì giờ phải ngã lưng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy hỡi Quân vương!
  2. Bợm rượu , như người hoảng múa men,
    Ngã nghiêng, dường chẳng đứng ngồi yên
    Tay chân run rẩy, đầu co giật
    Như nộm gỗ nhờ tay kéo lên
    Ðại đế, mua đi bình rượu đó
    Ðầy lên tận miệng, rượu cay men.
  3. Bợm rượu bị thiêu đốt ruột gan,
    Hoặc làm mồi lũ chó rừng hoang,
    Dấn thân tù ngục hay thần chết
    Còn phải chịu hao tốn bạc vàng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy, hỡi Vương quân!
  4. Túy ông mất hết vẻ thanh tao
    Trò chuyện những điều bẩn thỉu sao!
    Ngồi đứng trần truồng cùng đám bạn
    Mọi đàng ô trọc , bệnh lao đao
    Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
    Cực mạnh, quân vương hãy lấy vào!
  5. Kẻ uống thường hay thói tự cao,
    Nhãn quang chẳng sáng suốt đâu nào,
    “Thế gian của tớ”, lòng thầm nghĩ,
    Chẳng có vua nào sánh kịp đâu!
  6. Rượu nồng là thứ đại kiêu căng
    Ác quỷ nhát gan tựa nhộng trần,
    Kết hợp đánh nhau và phỉ báng
    Ấy nhà cho trộm, điếm dung thân.
  7. Dù gia đình có thật giàu sang
    Hưởng thọ kho vô số bảo tàng
    Giữ của trời cho phong phú nhất
    Rượu này cũng sẽ phá tan hoang
  8. Bạc vàng, đồ đạc ở trong nhà
    Ðồng ruộng, trâu bò, thóc vựa kho
    Ta sợ tiêu vong vì rượu mạnh
    Là mầm suy sụp của toàn gia
  9. Túy ông đầy nặng tính kiêu căng
    Phỉ báng cả hai bậc lão thân,
    Thách đố bà con cùng máu huyết
    Dám làm ô uế mối hôn nhân
  10. Nữ nhân uống rượu cũng kiêu căng
    Phỉ báng chồng mình lẫn phụ thân
    Bất chấp thanh danh nhà quý tộc
    Biến thành nô lệ tính điên khùng
  11. Bợm rượu, gan liều dám sát nhân
    Sa môn chân chính Bà-la-môn,
    Rồi cùng mọi cõi đời đau khổ
    Hối tiếc hành vi quá bạo tàn
  12. Rượu vào, phạm ác nghiệp ba phần:
    Lời nói, việc làm với ý tâm
    Địa ngục chìm sâu đầy khổ não
    Vì hành động ác tạo sai lầm
  13. Có kẻ, người năn nỉ uổng công
    Dù đem dâng mấy đống vàng, song
    Khi say, chúng dụ theo đường chúng
    Lời dối tuôn ra cũng sẵn lòng
  14. Vì người say giữ việc thông tin
    Gặp cảnh gian nguy đến đột nhiên
    Hãy ngắm! Kẻ này thề thốt nặng:
    “Việc này tâm trí chợt quên liền!”
  15. Ngay người thanh lịch nhất, khi say
    Cũng hóa ra phường tục tử ngay
    Ðệ nhất trí nhân mà túy lúy
    Cũng huyên thuyên nói xuẩn ngu đầy!
  16. Uống nhiều, nhịn đói, ngã chơi vơi
    Ðất cứng trần là chỗ nghỉ ngơi
    Lúc nhúc trẽn trơ như lũ lợn
    Chịu bao nhục nhã nhất trên đời
  17. Như bò, bị đánh ngã trên trên sàn
    La liệt nằm từng đống hỗn mang
    Ngọn lửa chứa trong men rượu nặng
    Sức người không thể sánh ngang bằng
  18. Mọi người kinh hoảng vội lùi ra.
    Tránh độc dược kia tựa độc xà
    Dũng sĩ to gan nào giải khát
    Cho mình bằng rượu giết người ta?
  19. Ta chắc sau khi uống rượu nồng
    And-ha tộc, với Vrish-ni cùng
    Lang thang bờ biển rồi nhào xuống
    Vì chiếc chùy kia của họ hàng
  20. Tiên say bị đọa khỏi cung trời
    Thần lực mất liền, Ðại đế ơi!
    Ai muốn nếm mùi ghê tởm ấy,
    Mua đi bình rượu của nhà tôi!
  21. Chẳng phải sữa chua, mật ngọt đây
    Song ngài luôn nhớ mãi từ nay
    Cái gì chứa đựng trong bầu ấy
    Ðại đế xin mua lấy rượu này!

Khi nghe xong bài thuyết giảng trên, vua nhận thấy thống khổ do rượu nồng gây ra, nên lòng hoan hỷ, tán thán Thiên đế qua hai vần kệ sau:

  1. Chẳng song thân dạy khéo như ngài
    Ngài thật nhân tử, thiện hảo thay,
    Chân lý ngài tìm ra tối thượng
    Trẫm vâng lời dạy bảo hôm nay
  2. Năm đệ nhất thôn của trẫm ban
    Bảy trăm bò, thị nữ trăm nàng
    Mười xe tuấn mã thuần cao quý.
    Vì lợi ích ngài đã dạy răn

Ðế Thích nghe vậy liền xuất đầu lộ diện, vừa trụ trên không vừa ngâm hai vần kệ:

  1. Một trăm thị nữ vẫn nhà ngài
    Làng mạc, đàn bò, cũng mặc ai
    Chẳng ngựa xe, đòi thuần chủng quý
    Sak-ka Thiên chủ chính danh này
  2. Hưởng đủ bơ tươi, thịt ướp, cơm
    Vui lòng ăn bánh mật men thơm
    Thích nhiều chân lý ta vừa dạy
    Trong sạch cõi Thiên đến đúng đường.

Ðế Thích Thiên chủ thuyết giáo cho ngài xong lại trở về Thiên giới. Nhà vua liền chừa rượu mạnh và ra lệnh đập vỡ các bình rượu kia. Sau đó ngài kiên tâm giữ Ngũ giới và bố thí, về sau được sinh vào cõi Thiên.

Nhưng việc uống rượu mạnh dần dần phát triển khắp cõi Diêm-phù-đề.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là nhà vua kia, còn Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử chiến thắng (Tiền thân Jayaddisa)

Kìa, đã nhịn ăn bảy buổi sáng…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Phần mở đầu cũng giống như chuyện kể trong số 540 Tiền thân Sàma. Nhưng vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa từ bỏ chiếc lọng trắng có các vòng kim hoa để phụng dưỡng song thân.

Nói xong, Ngài liền kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua ở kinh thành phía Bắc Pãncàla, trong quốc độ Kampila, mệnh danh là Pãncàla. Hoàng hậu của ngài có thai, sinh được một hoàng nam. Trong suốt tiền kiếp xưa, bà có một tình địch trong hậu cung đang cơn nóng giận đã thề:

– Một ngày kia ta sẽ ăn thịt con bà.

Và để lời nguyền kia có công hiệu, nàng biến thành một con quỷ cái. Sau đó, ác quỷ tìm cơ hội chụp lấy hài nhi ngay trước mặt hoàng hậu, nhai ngấu nghiến như miếng thịt tươi rồi biến đi. Lần thứ hai cũng làm y hệt như thế, nhưng đến lần thứ ba, khi hoàng hậu đã vào phòng sinh, đám vệ binh liền canh gác quanh hoàng cung rất chặt chẽ.

Vào ngày bà sinh con, quỷ cái lại xuất hiện và chụp lấy hài nhi. Hoàng hậu thét lên:

– Quỷ cái!

Lập tức binh lính cầm khí giới chạy đuổi theo con quỷ cái khi nghe báo động. Vì không kịp ăn thịt hài nhi, quỷ cái chạy trốn, ẩn mình dưới cống. Hài nhi nhận quỷ cái ấy làm mẹ, ngậm vú đòi bú, và quỷ cái kia bỗng sinh lòng thương hài nhi như mẹ thương con, liền đi đến nghĩa địa dấu hài nhi trong hang đá và chăm sóc kỹ lưỡng.

Hài nhi lớn dần, quỷ cái đem thịt người về cho nó ăn, và cả hai đều sống bằng thức ăn này. Ðứa trẻ không biết mình là người, song dù tưởng mình là con của quỷ, cậu bé cũng không thể biến hóa khỏi hình người hay dấu mình được. Ðể thực hiện việc này, con quỷ đưa cho cậu bé cất một loại rễ cây – Nhờ công lực của thứ rễ này, cậu biến hình được và tiếp tục sống bằng thịt người. Lúc bấy giờ quỷ cái có việc đi xa để chầu đại lực quỷ vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) rồi chết luôn tại đó. Còn phần hoàng hậu, lần thứ tư sinh được một hoàng nam bình yên vì quỷ cái đã chết, và do sự kiện hoàng nam sinh ra chiến thắng kẻ thù là quỷ cái kia, nên được đặt tên Jayaddisa (Hoàng tử Chiến Thắng)

Khi hoàng tử khôn lớn, học hành tinh thông mọi mặt, chàng lên nắm quyền theo nghi lễ giương chiếc lọng trắng và trị vì quốc độ. Vào thời ấy, hoàng hậu của vua sinh hạ Bồ-tát được đặt tên là Alinasattu. Khi hoàng tử lớn khôn tinh thông mọi môn học thuật, liền được phong làm phó vương. Còn cậu bé làm con của quỷ cái vì bất cẩn làm hư hỏng rễ cây kia nên không thể dấu mình được nữa, phải sống trong nghĩa địa ăn thịt người nhưng vẫn xuất lộ nguyên hình.

Dân chúng thấy vậy sợ hãi, đến kêu than với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, một con quỷ có hình dạng rõ ràng đang ăn thịt người trên nghĩa địa. Dần dần nó sẽ tìm đường vào kinh thành ăn thịt dân. Xin Ðại vương ra lệnh bắt nó đi.

Nhà vua chấp thuận ngay và ra lệnh bắt quỷ nọ. Một đạo binh cầm khí giới đứng quanh thành. Con quỷ ấy trần truồng nom thật khủng khiếp, nhưng lại sợ chết nên thét to và nhảy vào giữa ba quân. Quân sĩ la lên:

– Quỷ đây rồi!

Và họ cũng lo sợ cho mạng sống của họ, nên tan rã thành hai nhóm và bỏ chạy. Con quỷ thoát được và chạy ẩn mình trong rừng, từ đó không dám lai vãng chỗ có người ở.

Nó sống dưới gốc cây đa gần con đường lớn xuyên qua rừng, khi dân chúng qua lại đường đó, nó bắt lấy từng người một đem vào rừng giết ăn thịt. Lúc bấy giờ có một Bà-la-môn dẫn đầu đám, bộ hành, đưa một ngàn đồng tiền cho đám kiểm lâm rồi đi ngang qua đường ấy với năm trăm cỗ xe. Con quỷ có hình người liền rống lên nhảy vào đám người ấy. Họ hốt hoảng chạy trốn ngã lăn lóc dưới đất. Quỷ chụp lấy gã Bà-la-môn nhưng vì bị mảnh gỗ gây thương tích trong lúc đang chạy trốn, lại bị đám kiểm lâm đuổi theo rất gắt, nên nó thả gã Bà-la-môn và đi đến nằm dưới gốc cây thường trú ẩn.

Ðến ngày thứ bảy, vua Jayaddisa truyền lệnh đi săn và khởi hành từ kinh thành. Ngay lúc nhà vua lên đường, một người dân vùng Takkasilà, là một Bà-la-môn tên gọi Nanda, đang phụng dưỡng cha mẹ, đến yết kiến đức vua, mang theo bốn bài kệ, mỗi bài trị giá bốn trăm đồng tiền.

Nhà vua dừng lại để nghe kệ, và ra lệnh làm chỗ nghỉ ngơi cho ngài. Trong lúc đi săn người bảo:

– Người nào để con hươu chạy thoát từ phía mình thì phải trả tiền cho vị Bà-la-môn về các bài kệ ấy.

Sau đó một con hươu sao xuất hiện, chạy thẳng về phía nhà vua để thoát thân. Các cận thần cười rộ lên. Nhà vua chụp lấy kiếm, đuổi theo con hươu chừng ba dặm bắt được nó, liền lấy kiếm xẻ đôi và gánh lên đòn.

Lúc trở về, ngài đi đến chỗ quỷ nhân đang ngồi, nghỉ ngơi một lát trên bãi cỏ kusa rồi định tiếp tục đi, lúc đó quỷ nhân xuất hiện thốt lên:

– Dừng lại, ngươi định đi đâu, ngươi là mồi ngon của ta!

Rồi chụp lấy tay ngài, quỷ ngâm vần kệ:

  1. Kìa! Bảy ngày qua chịu đói lòng
    Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng
    Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy?
    Ta muốn biết tên họ, giống dòng

Nhà vua kinh hoảng khi thấy quỷ nhân, nên đứng sửng như trời trồng, không thể chạy trốn được, song rồi tỉnh trí dần, ngài đáp vần kệ thứ hai:

  1. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua
    Của xứ Pãn-ca, quốc độ ta!
    Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
    Xin dùng hươu nọ thả ta ra.

Con quỷ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng
    Mồi kia ngon thật đấy Quân vương
    Ta xơi ngài trước và không bỏ
    Thú nếm thịt hươu: chớ nói quàng!

Khi nhà vua nghe vậy liền nhớ đến Bà-la-môn Nanda, và ngâm vần kệ thứ tư

  1. Vì ta chẳng thuộc mạng an toàn
    Ðược thả như ta khẩn thiết van
    Thì hãy cho ta tròn hứa cũ
    Ta đà giao ước Bà-la-môn
    Sáng mai cứu được lời danh dự
    Rồi sẽ trở về với quỷ nhân

Quỷ nhân nghe vậy , lại ngâm vần kệ thứ năm

  1. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng
    Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương
    Nói thật cho ta rồi có thể
    Ta bằng lòng thả một ngày ròng

Nhà vua ngâm vần kệ thứ sáu để giải thích sự việc ấy

  1. Ta hứa lời cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa cho xong
    Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứ
    Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông

Nghe vậy, quỷ nhân đáp vần kệ thứ bảy:

  1. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong
    Mong tròn nguyện ước thanh danh cứu
    Rồi trở về đây buổi rạng đông

Nói xong con quỷ để cho vua đi, Vua được tha về liền bảo:

– Xin đừng bận tâm vì ta, sáng sớm mai ta sẽ trở lại.

Rồi ghi nhận một số dấu đường xong, ngài trở lại với đám binh sĩ và chúng hộ tống ngài về thành. Sau đó ngài triệu vị Bà-la-môn vào, ngài ban tặng bốn ngàn đồng tiền. Rồi ngài lại truyền đưa vị Bà-la-môn lên ngồi một cỗ xe, ra lệnh cho đám tùy tùng rước vị này thẳng đến Takkasilà. Ngày hôm sau, nôn nóng đến gặp quỷ nhân, ngài gọi hoàng thái tử đến dặn dò.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ giải thích việc này:

  1. Thoát ác quỷ kia, lại trở về
    Nhà yêu, mộng nước đẹp tràn trề
    Với La-môn bạn, không sai hứa
    Song dặn A-lin quý tử kia
  2. Vương nhi nay nhận chức Quân vương
    Cai trị bạn thù thật chính chân
    Ðừng để bất công làm hại nước
    Cha đành nộp mạng chốn hung thần

Thái tử nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân
    Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng
    Cha phải đưa con lên kế vị
    Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng

Nhà vua nghe vậy, ngâm vần kệ tiếp theo:

  1. Này con, cha chẳng thể tìm ra
    Một ác ngôn hay một nghiệp tà
    Song nợ thanh danh, giờ trả trọn
    Còn lời nguyền giữ với yêu ma.

Thái tử nghe thế liền ngâm vần kệ:

  1. Cha ở lại, đây con sẽ đi
    Trở về an ổn, có gì mong
    Nếu cha đi nữa, con theo gót
    Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi!

Nghe lời này, nhà vua đáp kệ:

  1. Vương tử , con theo đúng đạo trời
    Song cha mất hết thú yêu đời
    Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ
    Nướng thịt con ăn trọn cả đời

Nghe vậy thái tử lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh
    Vì phụ vương, con nguyện bỏ mình
    Hơn nữa con tràn trề hỷ lạc
    Ðược đem đời hiến sinh thành

Nghe vậy vua nhận thấy đức hiếu thảo của con, liền nhận lời cầu mong của con và bảo:

– Tốt lành thay, vương nhi, hãy ra đi.

Thế là thái tử giả từ song thân và rời kinh thành.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt
    Cúi đầu ngài đảnh lễ song thân.

Lúc ấy, song thân ngài, em gái ngài, vương phi cùng triều thần tiễn ngài đi ra khỏi kinh thành; ngài hỏi vua cha lối đi và sau khi xếp mọi việc cẩn thận cùng dặn dò khuyên nhủ các người thân, ngài lên đường tiến về hang quỷ, oai hùng như con sư tử có bờm. Mẹ ngài thấy ngài ra đi, không thể kềm chế được, liền ngất lịm. Vua cha giơ hai tay khóc lớn.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Phụ vương khóc lớn, giơ tay cản,
    Hiền mẫu buồn thương, ngã lịm dần

Như vậy, muốn nêu rõ lời nguyện cầu của vua cha và lời Thề Chân thực của mẹ ngài, em ngài, cùng vương phi, bậc Ðạo Sư lại ngâm thêm bốn vần kệ:

  1. Khi hình thái tử khuất mờ dần
    Trước mắt thảm sầu của phụ thân
    Cầu nguyện chư thần , tay chắp khấn
    Va-rù-na với So-ma vương
    Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
    Bảo vệ hoàng nhi được vạn an
    Nhờ các thần linh này, thái tử
    Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng

Mẫu hậu:

  1. Như mẹ Ra-ma đẹp dáng người
    Cứu con nàng đã bặt tăm hơi
    Khi vào rừng rậm Dam-da ấy
    Con trẻ ta mong giải thoát thôi
    Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện
    Chư thần cho trở lại an vui

Vương muội:

  1. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì
    Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che
    Chứng thực lời này, con nguyện ước
    Chư thần mang thái tử quay về

Vương phi:

20 Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân
Chứng thực lời này xin ước nguyện
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân

*

Về phần thái tử, ra đi theo lời hướng dẫn của vua cha , lên đường đến nơi quỷ nhân ở. Song quỷ nhân nghĩ thầm: “Các vua Sát-dế-ly nhiều mưu mẹo lắm, ai biết được việc gì sẽ xảy ra?” Rồi nó trèo lên cây đợi nhà vua đến.

Khi thấy thái tử, nó nghĩ “Người con đã ngăn cản vua cha và tự dẫn thân đến. Không có gì phải sợ người ấy cả.”

Và quỷ trèo xuống ngồi quay lưng về phía thái tử. Khi đến nơi thái tử đứng trước quỷ nhân, vừa lúc quỷ nhân này ngâm vần kệ:

  1. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam
    Có biết rừng này của quỷ chăng?
    Ai đến thật xem thường tính mạng
    Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang

Nghe vậy, thái tử bèn đáp kệ:

  1. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn
    Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang
    Ta là đích tử Ja-ya đế,
    Ăn thịt rồi , thả phụ vương

Quỷ nhân lại ngâm vần kệ:

  1. Ta biết con trai chúa Ja-ya
    Dáng chàng để lộ việc kia mà
    Thật là gian khổ cho chàng quá
    Phải chết vì thay mạng của cha

Thái tử liền đáp kệ nữa:

  1. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng
    Ðược chết vì ân phước phụ thân
    Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng
    Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung

Nghe vậy, quỷ liền nói

– Này thái tử, không có kẻ nào không sợ chết. Thế tại sao chàng lại không sợ?

Ngài liền nói lý do cho quỷ nghe qua hai vần kệ:

  1. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì
    Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che
    Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ
    Dù đây, hay các cõi sau về
  2. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân
    Phải làm công việc ấy cho xong
    Ta buông mình xuống trên cao chết
    Người cứ ăn ta, thỏa nguyện lòng

Qủy kia nghe vậy kinh hoảng liền bảo:

– Ta không thể ăn thịt người này được.

Rồi nghĩ mưu kế cho ngài chạy trốn, quỷ liền bảo:

  1. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân
    Thái tử, đem đời cứu phụ vương
    Ta bảo chàng rời ngay bước vội
    Tìm gom củi đốt lửa than hừng

*

Bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng
    Và chất cao lên một cái giàn
    Và thét vừa châm: “Bày tiệc sẵn!
    Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!”

*

Khi thấy thái tử trở về và nhóm lửa, quỷ nhân nói:

– Người này thật gan dạ không sợ chết. Xưa nay ta chưa từng thấy ai can đảm như vậy.

Nó ngồi sửng sờ, thỉnh thoảng lại nhìn thái tử. Ngài thấy thái độ quỷ nhân như thế, liền ngâm vần kệ:

  1. Ðừng đứng nhìn ta , dáng sửng sờ
    Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta
    Khi đang còn sống ta trù tính
    Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ

Quỷ nhân nghe vậy, liền ngâm kệ:

  1. Một hiền nhân, chánh trực, công bằng
    Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn
    Hoặc kẻ nào ăn người, ắt hẳn
    Ðầu kia tan nát bảy phần chăng

Thái tử nghe vậy hỏi:

– Nếu ngươi không muốn ăn ta, tại sao ngươi bảo ta bẻ cành về nhóm lửa?

Quỷ nhân nói:

– Ta muốn thử chàng đó thôi, vì ta chắc chàng sẽ bỏ chạy trốn.

Thái tử đáp:

– Bây giờ làm sao ngươi thử ta được, bởi vì lúc còn là súc sinh, ta đã để cho Thiên chủ thử đức hạnh của ta rồi.

Cùng với lời này ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðế Thiên giả dạng một La-môn
    Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng
    Từ đó mặt trăng in dáng thỏ
    Ta chào nguyệt diện: “Dạ xoa thần!”

Quỷ nhân nghe vậy thả cho thái tử đi về và bảo:

  1. Như trăng thoát vuốt La thần
    Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang
    Ngài, chúa Kam-pi anh dũng đã
    Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng
    Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy
    Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang
    Phụ mẫu thân yêu , ngài cống hiến
    Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan

Rồi nó nói thêm:

– Hỡi đấng anh hùng, hãy đi đi!

Và nó để Bậc Đại Sĩ lên đường. Sau khi đã hàng phục quỷ nhân xong, ngài còn dạy nó ngũ giới và muốn thử xem nó phải quỷ không, ngài nghĩ thầm: “Mắt bọn quỷ thường đỏ và không chớp. Chúng không đổ bóng xuống đường và không hề biết sợ gì cả. Còn đây không phải quỷ. Ðây là người. Nghe nói cha ta có ba vương huynh bị quỷ dữ tha đi, hai người ắt hẳn đã bị ăn thịt rồi, còn một người được quỷ cái thương yêu với tình mẹ con. Chắc là đây thôi. Ta phải đem vị này về tâu với vua cha để đưa lên ngôi báu mới được.

Nghĩ vậy ngài kêu lên:

– Này Tôn ông, Tôn ông chẳng phải là quỷ đâu, mà là bào huynh của cha ta. Xin mời Tôn ông đi về cùng ta giương chiếc lọng trắng biểu hiện vương quyền trong giang sơn của tổ tiên mình.

Khi quỷ nhân đáp:

– Ta không phải là người.

Thái tử nói:

– Tôn ông chẳng tin ta ư? Vậy kẻ nào cho Tôn ông tin được?

Quỷ đáp:

– Có chứ, có một nơi nọ có một ẩn sĩ đã thành tự thiên nhãn thông.

Thế là ngài dẫn quỷ đến nơi ấy. Vừa trông thấy hai người xuất hiện, vị ẩn sĩ hỏi ngay:

– Hai vị có cùng dòng họ tổ tiên, cần gì mà đến đây?

Nói xong vị ẩn sĩ lại nói rõ về liên hệ dòng họ giữa hai người. Con quỷ ăn thịt người liền tin ngay và bảo:

– Này hiền hữu cứ về triều đi, phần ta, ta sinh ra với hai bản chất trong một hình hài. Ta không muốn làm vua. Ta sẽ đi tu làm ẩn sĩ.

Thế là quỷ thọ giới tu hành với vị ẩn sĩ ấy.

Sau đó thái tử đảnh lễ hai vị và trở về triều.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ thêm vấn đề này:

  1. A-lin thái tử anh hùng
    Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn
    Thêm lần thoát nạn lên đàng
    Về Kam-pi xứ, an toàn tấm thân.

Khi thái tử về thành, bậc Ðạo Sư giải thích cho dân trong thành cùng toàn thể hội chúng nghe những chuyện thái tử đã làm và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Từ thành thị đến thôn trang
    Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân
    Kìa! Ðồng nô nức hô vang
    Uy danh thái tử can tràng hùng anh
    Tượng, xa ngất nghểu đăng trình
    Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn

Vua nghe thái tử đã trở về liền đi ra ngoài đón ngài. Thái tử được đám đông hộ tống bước đến đảnh lễ vua cha. Vua cha hỏi:

– Này vương nhi, làm thế nào con thoát được ác quỷ kia?

Ngài đáp:

– Tâu phụ vương, vị đó chẳng phải quỷ đâu. Chính là bào huynh của phụ vương, là bá phụ của conđấy.

Ngài liền kể mọi chuyện cho vua cha nghe và nói:

– Vương phụ nên đi thăm bá phụ ngay.

Vua lập tức ban lệnh khua trống lên rồi cùng đoàn tùy tùng lên đường đi thăm hai vị ẩn sĩ, vị ẩn sĩ trưởng kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện: hài nhi bị quỷ bắt đi ra sao. Thay vì ăn thịt, quỷ cái đem hài nhi về nuôi thành quỷ nhân. Vua và quỷ liên hệ máu huyết như thế nào. Vua liền bảo:

– Này hoàng huynh, hãy về làm vua trị nước.

– Xin cảm tạ Ðại vương. Không được đâu.

Vua lại nói:

– Thế thì hoàng huynh đến ở trong vườn thượng uyển, ta sẽ cung cấp đủ bốn thứ vật dụng.

Nhà ẩn sĩ lại từ chối.

Sau đó vua cho lập ngôi làng trên một ngọn núi, không xa nơi ẩn cư kia, xây hồ, trồng trọt, đất đai và đem một ngàn gia đình cùng nhiều của cải đến lập một ngôi làng lớn cùng ban bố thí cúng dường cho hai vị ẩn sĩ. Ngôi làng lớn dần thành thị trấn Cullakammàsadamma. Vùng có quỷ nhân được bậc Ðại sĩ Sutasoma điều phục mệnh danh là thị trấn Mahàkammàsadamma.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong liền tuyên thuyết các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình đã đắc quả Dự Lưu-

– Thời ấy , phụ vương và mẫu hậu là hai thân trong hoàng tộc ngày nay, ẩn sĩ là Sàriputta (Xá-lợi-phất), quỷ nhân là Angulimàla; vương muội là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), hoàng hậu là mẹ của La-hầu-la và thái tử Alinasattu chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta (Tiền thân Chaddanta)

Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ-viên) về một Sa-di-ni.

Một thiện gia tín nữ ở Xá vệ nhận thấy nỗi khổ đau của cuộc đời thế tục, đã xuất gia tu hành. Một ngày kia, nàng cùng các Tỷ-kheo-ni khác đi đến nghe Pháp.

Trong lúc đức Phật ngồi thuyết giảng trên bảo tọa uy nghi, nàng chiêm ngưỡng kim thân của Ngài đầy đủ vẻ tối thắng mỹ diệu phát xuất từ công đức vô lượng của Ngài, nàng nghĩ thầm: “Ta không biết trong một đời trước nào ta từng phụng sự là thê thiếp của bậc vĩ nhân này chăng?”

Ngay lúc ấy, nàng chợt nhớ lại các đời trước của nàng. “Vào thời thượng tượng vương Chaddanta, ta đã từng làm vợ vĩ nhân này “. Tâm nàng tràn ngập hân hoan hạnh phúc khi nhớ lại việc ấy. Trong niềm xúc động sung sướng kia, nàng bật cười lớn và nghĩ thầm: “Ít phụ nữ có thiện ý đối với chồng mình, đa số đều có ác ý cả. Ta không biết xưa kia ta có thiện ý hay ác ý đối với vị này.”

Rồi hồi tưởng lại quá khứ, nàng nhận ra là vì cảm thấy bị đối xử thờ ơ lãnh đạm nên nàng đã sinh lòng oán hận Ðại tượng vương Chaddanta có chiều dài một trăm hai muơi cubit ( gần năm mươi mét), và nàng đã nhờ tay thiện xạ Sonuttara dùng tên tẩm thuốc độc bắn trọng thương để giết ngài. Lúc ấy niềm đau khổ khởi lên, lòng nàng bồn chồn nóng rang, rồi không thể kềm chế xúc động kia, nàng bật tiếng khóc nức nở.

Thấy thế, bậc Ðạo Sư nở một nụ cười và khi được hội chúng tỷ-kheo hỏi:

– Bạch Thế Tôn, duyên cớ gì khiến Thế Tôn mỉm cười?

Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, Sa-di-ni này vừa khóc, khi nhớ lại một tội ác đã từng phạm để hại Ta trong một đời trước.

Nói vậy xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có tám ngàn vương tượng nhờ tu luyện thần thông, du hành qua không gian đến an trú gần bên hồ Chaddanta ở vùng Tuyết Sơn. Vào thời ấy Bồ tát tái sinh làm con của Voi chúa. Thân ngài thuần trắng, bàn chân đỏ, da mặt đỏ hồng. Dần dần lớn khôn, ngài cao đến tám mươi tám cubit, và dài một trăm hai mươi cubit. Ngài có cái vòi như cuộn dây thừng bằng bạc dài năm mươi tám cubit, bộ ngà có chu vi mười lăm cubit, dài ba mươi cubit, tỏa ánh sáng lục sắc. Ngài là chúa đàn voi lớn gồm tám ngàn con, thường tôn kính cúng dường các vị Ðộc Giác Phật và Mahàsubhaddà (Tiểu Hiền Phi và Ðại Hiền Phu) Tượng cương với quân thần tám ngàn voi ngự trong Kim động.

Lúc bấy giờ hồ Chaddanta dài năm mươi dặm và rộng năm mươi dặm. Ở giữa hồ khoảng mười hai dặm, chẳng hề có cây Sevàla hoặc Panaka nào mọc, nên nước trong như khối ngọc thần. Bao quanh vùng nước này gần đó là một dải toàn hoa súng trắng tinh khiết rộng chừng một dặm. Tiếp theo đó là loại sen trắng, sen hồng, đến súng trắng, súng hồng và loại súng trắng ăn được, đám súng trắng chen lẫn các loại súng khác, rộng chừng một dặm cứ mỗi lớp bao quanh các lớp trước.

Kế tiếp bảy lớp cây này là một đám súng trắng xen lẫn các loại súng khác cũng rộng chừng một dặm, bao quanh tất cả các lớp trước.

Kế đó trong vùng nước sau vừa cho voi đứng, là một đám lúa đỏ. Tiếp theo trong vùng nước bao quanh là những khu rừng cây nhỏ đầy hoa thơm dịu dàng đủ mầu vàng, xanh, trắng, đỏ. Như vậy mười rừng hoa này rộng chừng một dặm mỗi thứ. Kế đó là rừng đậu đủ loại. Kế nữa là rừng chen lẫn bìm bìm, dưa, bí bầu và nhiều cây leo khác. Tiếp theo là một rừng mía cao bằng cây cau. Rồi đến một rừng chuối có quả lớn bằng chiếc ngà voi. Kế đó là một ruộng lúa. Rồi đến một vườn mít, trái bằng bình nước lớn. Tiếp theo là một vườn me đầy quả ngon ngọt. Sau đó là vườn táo voi. Rồi đến một rừng cây lớn đủ loại. Kế tiếp là một rừng tre. Vào thời ấy, phong cảnh vùng này tráng lệ như thế. Vẻ kỳ vĩ đương thời miêu tả trong bộ Luận Samyatta (Luận giải Bộ Kinh Tương Ưng)

Song vùng bao quanh rừng tre lại là bảy ngọn núi. Từ phía ngoài cùng là ngọn Tiểu Hắc Sơn. Kế đó là Ðại Hắc Sơn, Thủy Sơn, Nguyệt Sơn, Nhật Sơn, Ngọc sơn và núi thứ bảy theo thứ tự là Kim Sơn. Núi này cao bảy dặm, vươn cao lên quan hồ Chaddanta, như đường viền cái chén; vách núi bên trong màu vàng chói. Do ánh sáng tỏa ra từ đó, hồ Chaddanta rực rỡ như mặt trời mới mọc.

Trong số các núi phía ngoài, có một ngọn cao sáu dặm, một ngọn cao năm dặm, ngọn cao bốn dặm, ngọn cao ba dặm, ngọn cao hai dặm và ngọn chỉ cao một dặm. Lúc bấy giờ về phía góc hồ đông, được bao bọc bằng Thất Sơn như vậy, ở một nơi gió thường thổi trên mặt nước, có một cây đa lớn mọc lên.

Thân cây có chu vi năm dặm, cao bảy dặm. Bốn cành vươn ra bốn phía dài sáu dặm. Như vậy từ rễ đến ngọn cao mười ba dặm, từ đầu ngọn cành cây phía này sang đầu ngọn cành cây phía kia rộng mười hai dặm. Cây này sinh ra tám ngàn chồi mọc thẳng tuyệt đẹp, chẳng khác nào Ngọc Sơn lồ lộ kia.

Song về phía Tây hồ Chaddanta trong Kim Sơn, có Kim Ðộng chừng mười hai dặm. Tượng vương Chaddanta cùng đoàn tùy tùng tám ngàn voi, về mùa mưa thường sống ở Kim Ðộng này, về mùa nóng lại đứng dưới gốc đa lớn kia, giữa các nhánh cây để đón gió nhẹ hiu hiu thổi từ mặt hồ nước.

Một ngày kia, đám quần thần tâu với ngài:

Ðại Thọ Sàla vương đang độ nở hoa.

Thế là đám tùy tùng hộ tống, ngài có ý định đi du ngoạn trong vườn Sàla, và khi vừa đến nơi ấy, trán ngài đụng vào một cây Sàla đang nở rộ hoa.

Lúc bấy giờ nàng Cullasubhaddà đứng theo chiều gió, nên một đám cành lá khô cùng kiến đỏ rớt xuống thân nàng. Còn nàng Mahàsubhaddà đứng chỗ khuất gió nên các hoa tươi cùng phấn hoa và cành lá xanh rơi trên thân nàng.

Cullasubhaddà nghĩ thầm:”Ngài để rơi trên mình nàng ái phi của ngài đầy hoa tươi, phấn hoa cùng cành lá xanh, còn trên mình ta, ngài lại làm rớt cả một mớ cành lá khô cùng bầy kiến đỏ lẫn lộn! Ðược lắm, rồi đây ta sẽ biết cách làm gì!”

Và nàng sinh lòng oán hận bậc Ðại Sĩ từ đó.

Một ngày kia, Tượng vương cùng đám tùy tùng xuống hồ Chaddanta để tắm. Lúc ấy, hai chú voi dùng vòi cầm các bó rễ cây usìra để hầu tắm ngài, chà xát cả thân ngài cao như thể núi Kelàsa. Khi ngài bước ra khỏi nước, lên đứng trước mặt bậc Ðại Sĩ.

Sau đó tám ngàn voi kia xuống hồ vui đùa thỏa thích trong nước, hái đủ loại hoa dưới hồ, trang điểm bậc Ðại Sĩ khác nào một ngôi đền bằng bạc; sau đó, chúng trang điểm cả hai hoàng hậu của chúa voi. Lúc ấy có một con voi kia bơi quanh hồ, hái một đóa sen lớn bảy chồi dâng bậc Ðại Sĩ. Ngài dùng vòi cầm hoa sen rảy phấn lên trán mình xong đưa tặng hoa cho chánh hậu Mahàsubhaddà. Thấy việc này, nàng tình địch của chánh hậu lại nghĩ: “Hoa sen bảy chồi này ngài cũng tặng cho ái hậu của ngài, chứ không phải tặng ta!.”

Nàng lại càng sinh lòng căm hờn ngài thêm nữa.

Một ngày kia, khi Bồ-tát đã ướp hoa quả ngon cùng ngó sen và củ sen với mật ong xong, ngàiđem cúng dường năm trăm vị Ðộc Giác Phật thọ thực, nàng Cullàsubhaddà cũng đem các thứ quả rừng nàng đã hái dâng cúng các vị Ðộc Giác Phật ấy, và nàng cầu nguyện như vầy:

– Từ nay, sau khi con lìa trần, ước mong rằng con được tái sinh làm công chúa Subhaddà trong hoàng tộc của vua Madda, và khi đến tuổi trưởng thành, mong rằng con được vinh dự làm hoàng hậu của vua Ba-lai-nại. Lúc ấy con sẽ đầy vẻ diễm lệ trước mắt ngài và được ngài sủng ái. và sẽ có đầy đủ quyền lực thực hiện điều gì con ước muốn. Thế là con sẽ tâu đức vua cho người thợ săn dùng tên độc bắn tử thương Voi chúa này. Và như vậy con ước mong có thể bảo chúng đem về dâng con một cặp ngà tỏa hòa quang lục sắc kia.

Từ đó nàng bỏ ăn uống, nên héo mòn dần, chẳng bao lâu nàng từ trần rồi tái sinh làm con chánh hậu vua Madda và được đặt tên là Subhaddà. Khi nàng đến tuổi dậy thì, song thân nàng liền xe duyên nàng với vua Ba-lai-nại. Nàng làm đẹp lòng vua và được sủng ái, nên được phong làm chánh hậu giữa đám mười sáu ngàn phi tần.

Khi nhớ lại các đời trước của mình, nàng nghĩ thầm: “Lời nguyện cầu của ta đã thành tựu, nay ta phải truyền đem bộ ngà voi ấy dâng ta mới được”.

Thế là nàng xoa dầu khắp người, mặc áo dơ bẩn, nằm lên giường, giả vờ bệnh. Nhà vua hỏi:

– Ái hậu Subhaddà của trẫm đâu rồi?

Khi nghe tin nàng bị bệnh, ngài vội vào hậu cung ngồi bên vương sàng, vuốt nhẹ lưng nàng và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần,
    Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
    Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
    Vì cớ sao nàng héo úa dần?

Nghe lời này, nàng liền đáp vần kệ thứ hai:

  1. Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
    Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
    Mộng ước hão huyền e khó đạt,
    Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.

Vua nghe thế, lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Những lạc thú nào ở thế gian,
    Con người khao khát tận tâm can,
    Ðiều gì mong trẫm đem ban tặng,
    Hãy nói trẫm nghe, ước nguyện nàng.

Nghe vậy, hoàng hậu bảo:

– Tâu Ðại vương, ước nguyện của thiếp thật khó đạt thành, thiếp chưa thể nói được ngay bây giờ ước nguyện ấy, xin cho tất cả các thiện xạ trong nước tụ tập về đây, lúc ấy thiếp sẽ nói ra giữa đám thiện xạ ấy.

Và nàng ngâm vần kệ để giải thích ý nàng muốn nói:

  1. Truyền đám thợ săn phụng mệnh ngay,
    Những người cư ngụ nước non này,
    Ðiều thần thiếp muốn nhờ tay họ,
    Khi diện kiến, xin sẽ giải bày.

Vua chấp thuận và từ hậu cung, ngài ban lệnh cho các đại thần:

– Hãy cho đánh trống ban lệnh rằng tất cả các thợ săn trong quốc độ Kàsi trải dài ba trăm dặm này, phải đến tụ tập tại đây.

Họ tuân lệnh, chẳng bao lâu các thợ săn trong quốc độ Kàsi mang tặng vật tùy theo phương tiện của họ, nhờ tâu trình vua họ xin bệ kiến. Lúc ấy họ đến chừng sáu mươi ngàn người. Vua nghe tin ấy, liền đứng trước cửa sổ mở rộng giơ tay chỉ cho hoàng hậu thấy họ đã trình diện, ngài bảo:

  1. Nhìn đám thợ săn dũng cảm đây!
    Nghề săn mồi lão luyện cao tay,
    Với tài chém giết bầy hoang thú,
    Vì trẫm, sẵn sàng bỏ mạng ngay.

Hoàng hậu nghe thế liền ngâm vần kệ bảo họ:

  1. Lạp hộ can trường tụ tập đây,
    Những lời ta nói, lắng nghe vầy:
    Dường như ta thấy trong cơn mộng
    Bạch tượng sáu ngà tuyệt mỹ thay,
    Ta ước bộ ngà, lòng khắc khoải,
    Chẳng còn gì đáng giá đời này!

Ðám thợ săn nghe nàng nói, đáp lời:

  1. Các bậc tổ tiên thuở đã qua,
    Sáu ngà voi trắng, thấy bao giờ?
    Loài gì thú ấy, xin cho biết,
    Ðã hiện trong mơ của lệnh bà.

Sau đó họ lại còn ngâm thêm vần kệ nữa:

  1. Bốn phương Nam, Bắc, với Tây, Ðông,
    Chính giữa bốn miền cũng họp chung,
    Thiên đỉnh thêm vào thiên đế nữa,
    Nơi nào trong thập hướng không trung,
    Tượng vương này ở, xin cho biết,
    Xuất hiện trong mơ của chánh cung.

Nghe nói thế hoàng hậu Subhaddà nhìn toàn thể đám thợ săn, thấy trong đó có một người chân lớn, bắp chân phồng to như một cái thúng đựng đầy lễ vật, xương sườn, đầu gối đều vạm vỡ, bộ râu rậm, hàm răng vàng khè, mặt mũi méo mó đầy sẹo, là người thật xấu xí, đồ sộ, nổi bật lên giữa đám thợ săn, tên là Sonuttara, trong một đời trước đã từng là kẻ cừu thù của bậc Ðại sĩ. Nàng liền nghĩ: “Người này có thể làm theo lời ta được”.

Và xin phép vua đem gã kia đi lên thượng lầu của cung điện bảy tầng, nàng mở cửa sổ hướng Bắc, chỉ tay thẳng về phía dãy Bắc Tuyết Sơn, rồi ngâm bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc bên kia dãy Thất San,
    Cuối cùng ta đến Vách non Vàng,
    Ðỉnh cao thường có loài ma quỷ,
    Hoa tự chân lên ngọn rỡ ràng.
  2. Dưới núi ma kia lại thấy ngay
    Xanh um cả khối, dáng như mây,
    Một cây đa chúa, từ nhiều gốc
    Sinh tám ngàn cành, tráng kiện thay.
  3. Trú đây, Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Thở phì, Voi đứng, mắt trừng trừng,
    Hơi gió nhẹ đưa cũng nổi sân,
    Nếu chợt thấy người gây mảy gió,
    Ðùng đùng, chúng dẫm nát tan thân!

Sonuttara nghe tả thế, hồn vía bay lên mây, vội đáp vần kệ:

  1. Lam ngọc sáng ngời hoặc bảo trân,
    Biết bao trang sức với kim ngân,
    Việc gì hoàng hậu cần ngà ấy,
    Hay lệnh bà mong giết thợ săn?

Hoàng hậu lại ngâm vần kệ:

  1. Nung nấu lòng ta rẫy giận hờn,
    Mỗi lần nhớ lại vết đau thương,
    Cho ta, lạp hộ, điều ta ước,
    Làng đẹp năm ngôi, sẽ hưởng ơn!

Nói xong nàng thêm:

– Này hiền hữu thiện xạ, ngày trước, khi ta cúng dường các vị Ðộc Giác Phật, ta dâng lời cầu nguyện rằng ta muốn có đủ thần lực giết con voi sáu ngà kia để chiếm một đôi ngà. Ðiều này ta không phải chỉ thấy trong giấc mộng mà thôi đâu, đó còn là lời nguyện ta phải thành đạt. Hiền hữu hãy ra đi, đừng lo sợ gì cả.

Nàng nói vậy để trấn an gã. Gã chấp thuận lời nàng và đáp:

– Xin tuân lệnh hoàng hậu, nhưng trước hết xin lệnh bà chỉ rõ cho thần biết voi ấy hiện ở đâu.

Và gã hỏi qua vần kệ:

  1. Voi ở đâu? Tìm kiếm chốn nào?
    Ðường Voi đi tắm, hướng ra sao?
    Nơi nào Vương tượng thường bơi lội?
    Xin chỉ con đường để bắt mau.

Lúc ấy nàng hồi tưởng lại đời trước của mình và nhớ rõ địa điểm ấy, nên chỉ đường cho gã qua hai vần kệ:

  1. Không xa nơi tắm ấy là bao,
    Thăm thẳm hồ sâu diễm lệ sao,
    Hoa rộ nở, đầy ong bướm lượn,
    Ðấy nơi Vương tượng dễ tìm cầu.
  2. Tắm mát, cài sen, chiếc miện hoa,
    Hân hoan Voi rảo bước về nhà,
    Như cành sen trắng cao vòi vọi,
    Theo gót bà hoàng yêu thiết tha!

Sonuttara nghe vậy chấp thuận ngay và thưa:

– Tâu lệnh bà, tiểu thần xin đi giết Voi này và đem về dâng cặp ngà.

Nàng hoan hỷ ban thưởng gã một ngàn đồng tiền vàng và bảo:

– Hiền khanh cứ trở về nhà đã, sau bảy ngày nữa hãy khởi hành đến đó.

Nàng cho gã lui về và triệu tập đám thợ rèn lại, truyền lệnh:

– Này các khanh, ta cần một cái rìu, một cái xẻng, một cái khoan, một cái búa, dụng cụ để chặt tre, cái liềm cắt cỏ, một gậy sắt, một cái cọc, một cái chĩa ba bằng sắt, hãy làm mọi thứ thật gấp rồi đem đến đây ngay.

Nàng lại cho triệu tập đám thợ đồ da, bảo họ:

– Này các khanh, hãy làm cho ta một cái túi da đủ đựng đồ vật nặng cỡ một đầu heo lớn, ta lại cần các dây da, các lưới da, đôi giày lớn vừa cho voi mang và một cái dù da để nhảy xuống. Hãy làm mọi thứ thật cấp bách rồi đem lại đây ngay.

Cả hai đám thợ rèn và thợ da kia làm gấp mọi vật rồi mang lại cho nàng. Sau khi có đủ mọi vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình, cùng lửa củi đủ loại, nàng đặt mọi món trang bị cần thiết như bánh nướng, lương khô.. vào túi da. Tất cả nặng cỡ chiếc đầu heo. Còn Sonuttara, sau khi sắp đặt xong xuôi, đến ngày thứ bảy, cung kính diện kiến hoàng hậu. Nàng bảo:

– Này hiền hữu, tất cả mọi hành trang đã hoàn thành, hãy cầm túi da này đi.

Gã này là một tên hạ đẳng lực lưỡng gan dạ, mạnh bằng năm con voi, nên cầm chiếc túi kia như thể túi đựng bánh đặt lên sườn, rồi đứng lên như thể hai tay không! Nàng Cullasubhaddà trao lương thực cho đám tùy tùng của gã, và tâu trình vua rồi truyền gã lui ra. Gã đảnh lễ vua cùng hoàng hậu xong, xuống thềm cung điện đặt các vật dụng lên một cỗ xe, khởi hành khỏi kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo rầm rộ vượt qua vô số thôn làng, tới vùng biên địa.

Lúc ấy gã bảo dân chúng lui và tiếp tục đi cùng đám dân cư ngụ trên biên giới cho đến khu rừng, qua khỏi những nơi có người ở, gã lại cho dân biên giới lui về và một mình gã tiến lên một khoảng ba mươi dặm đường, băng qua rừng cỏ kusa và nhiều cỏ khác rậm rạp, những đám dàyđặc rau quế, lau sậy, cây đậu, những khóm gai, mía, và cây đủ loại, rồi các rừng rậm toàn lau, mía dày, rậm đến độ rắn cũng không thể bò qua được, rồi các rừng cây lớn, tre nứa, những bãi nước lầy, những dải núi; gã lần lượt đi qua mười tám vùng tất cả.

Qua rừng cỏ, gã cắt bằng lưỡi liềm, qua các đám rau, gai, tre, nứa, gã mở đường bằng dụng cụ đẵn tre, gã chặt các cây lớn bằng cái rìu, còn các cây cổ thụ quá lớn, gã phải đục bằng cái khoan trước tiên.

Sau đó tiếp tục cuộc hành trình, gã làm một cái thang trong rừng tre và trèo lên ngọn cây, gã đặt một cây tre vừa chặt lên trên bụi tre kế đó, cứ thế gã bò dần qua các đọt tre đến một bãi lầy.

Gã lại trải một tấm ván khô trên bùn, bước qua rồi ném một tấm ván khác ra phía trước và cứ như thế đi băng qua bãi lầy. Sau đó gã lại đóng thuyền để vượt qua một vùng ngập nước, cuối cùng đến đứng dưới chân các ngọn núi.

Gã buộc cái móc sắt có chĩa ba vào sợi dây, ném lên cao cho nó dính chặt vào sườn núi. Leo lên sợi dây, gã khoan núi bằng đầu gậy có gắn kim cương, đóng cọc vào lỗ rồi đứng lên đó. Sau gã lại kéo cái móc sắt có chĩa ba ra đóng vào sườn núi cao hơn trước, từ nơi này gã để dây da thòng xuống, xong gã cầm dây trèo xuống, buộc dây vào cọc phía dưới. Rồi tay trái cầm dây, tay phải cầm búa, gã đánh vào sợi dây để kéo cái cọc ra và trèo lên lần nữa.

Bằng cách này gã trèo lên đỉnh núi đầu tiên, rồi bắt đầu đi xuống phía bên kia, sau khi đóng cọc vào đỉnh núi đầu tiên như trước đây, xong buộc dây vào túi da và bao quanh cái cọc, gã ngồi vào trong túi da và thả mình xuống bằng cách buông dần cuộn dây như thể nhện nhả tơ vậy. Gã để cho cái dù da bắt gió và hạ xuống nhanh như chim. Tương truyền ít nhất là thế đấy.

Như vậy bậc Ðạo sư kể chuyện gã thợ săn tuân lệnh nàng Subhaddà, xông pha từ kinh thành băng qua mười bảy địa giới khác nhau cho đến khi vào tận miền núi rừng, những cách gã băng rừng vượt qua sáu vùng nước non như thế nào để leo lên đỉnh Kim Sơn:

  1. Thợ săn nghe lệnh, vững can tràng,
    Nai nịt cung tên, tiến bước đàng,
    Băng vượt bảy tầng non bát ngát,
    Cuối cùng đến thượng đỉnh Kim San.
  2. Ðến núi cao đầy quỷ ẩn thân,
    Khối gì trước mắt, dáng như vân?
    Chính cây đa chúa, thân to lớn
    Ðỡ tám ngàn cành tán trải giăng.
  3. Trú đây Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Gần đó, hồ kia nước tận bờ,
    Xứng nơi vương tượng lội bơi qua,
    Ðôi bờ khả ái muôn hoa đẹp,
    Ong lượn quanh đầy tiếng nhỏ to.
  5. Ðánh dấu đường đi của Tượng vương
    Những khi bơi lội, chí kiên cường
    Gã đào hố, việc làm hèn hạ
    Xúi giục cho vương hậu giận hờn!

Tiếp theo đây là câu chuyện từ đầu đến cuối: chuyện kể rằng, sau bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, khi đến tận nơi cư trú của bậc Ðại sĩ theo cách kể trên, gã thợ săn ghi dấu kỹ nơi ấy, và đào một cái hố ở đó, gã bảo:

– Ta sẽ đứng đây và đâm chết Voi chúa.

Gã sắp đặt công việc như vậy xong, vào rừng chặt cây làm cột trụ, cùng chuẩn bị một số vật dụng khác.

Khi đàn voi đến tắm ở nơi Voi chúa thường đứng, gã lại đào một hố vuông bằng một cái cuốc lớn, và đám đất gã đào lên gã rải khắp mặt nước, như thể gieo hạt, và trên đầu các tảng đá hình khối xay, gã trồng một trụ, chôn thêm các vật nặng cùng dây da và trải nhiều ván lên trên. Kế đó gãđào lỗ vừa cỡ một mũi tên rồi ném đất đá, rác rến lên nữa, còn một bên gã làm lối ra vào cho gã.

Thế là khi hố đã xong xuôi, vào lúc tảng sáng gã buộc một chùm tóc giả trên chỏm, mặc hoàng y vào, cầm cung và mũi tên độc, gã bước xuống đứng dưới hố kia.

Bậc Ðạo sư giải thích mọi việc như sau:

  1. Che hố trước tiên đậy ván dày,
    Bước vào, cung nắm ở trong tay,
    Vừa khi Bạch tượng đi qua đó,
    Kẻ ác cho tên dữ vút bay.
  2. Voi bị thương gầm rống thảm thương,
    Cả đoàn đáp lại cũng gầm vang,
    Ngàn cây nghiêng ngã giày tan cỏ,
    Tán loạn đàn voi chạy thẳng đường.
  3. Voi chúa đã gần giết địch nhân
    Vì chứng đau đớn hóa điên cuồng,
    Nhưng kìa! Ðôi mắt ngài vừa gặp
    Biểu tượng thanh cao, chiếc áo vàng,
    Bộ áo tu hành bất khả phạm,
    Ấy điều suy nghĩ của hiền nhân.

Bậc Ðạo sư, trong lúc nói chuyện với thợ săn, ngâm hai vần kệ này:

  1. Người nào vấy phải tội đầy thân,
    Chẳng chế ngự mình, thiếu thật chân,
    Dù chiếc hoàng y, mình nó mặc,
    Chẳng hòng mong đạt tịnh thanh tâm.
  2. Còn kẻ thoát ra mọi lỗi lầm
    Ðầy lòng chân thật, tự điều tâm,
    Vững lòng cương quyết theo công chánh,
    Xứng đáng y vàng khoác tấm thân.

Nói xong, bậc Ðại sĩ dập tắt mọi nỗi hận sân đối với gã kia và hỏi:

– Tại sao ông bắn ta bị thương? Có phải vì lợi ích riêng hay vì bị kẻ nào mua chuộc?

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Voi trúng tên tàn bạo quỵ chân,
    Trong lòng bình thản, hỏi cừu nhân:
    “Ðích gì khi giết nhằm ta thế,
    Cho biết ai xúi giục, bạn thân?”.

Kế tiếp gã thợ săn đáp kệ này:

  1. Ái hậu Kà-si bậc đại quân,
    Su-bhad-dà, bảo đã từng trông
    Dáng ngài trong mộng, và vì thế:
    “Ta muốn ngà kia, hãy kiếm dâng!”.

Nghe gã nói điều này, ngài nhận ra đây là việc làm của nàng Cullasubhaddà, nên ngài nhẫn nhục chịu đau đớn và suy nghĩ: “Nàng chẳng cần gì đôi ngà của ta đâu, nàng bảo gã đi đến đây chỉ vì muốn giết ta đấy thôi”.

Và để làm sáng tỏ việc, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Kho báu ta mang ở bộ ngà,
    Hình hài di tích của ông cha,
    Ðiều này ác phụ am tường quá,
    Nên kẻ khốn nhằm đoạt mạng ta.
  2. Trước khi ta chết, thợ săn ôi,
    Cưa lấy bộ ngà của chúa Voi,
    Bảo ác phụ kia mừng mãn nguyện,
    “Ðây ngà, Bạch tượng đã lìa đời!”.

Nghe ngài bảo vậy, gã thợ săn đứng dậy từ nơi gã đang ngồi, cầm cưa trong tay đi đến gần ngài để cắt đôi ngà. Lúc bấy giờ Vương tượng cao như một ngọn núi tám mươi tám cubit (gần bốn mươi mét) nên không thể cưa được như ý muốn, vì gã này không thể lên tới tận đôi ngà. Thấy thế bậc Ðại sĩ phải cúi mình trước gã, nằm xuống kê đầu dưới đất.

Lúc ấy gã mới trèo lên chiếc vòi của bậc Ðại sĩ, dẫm chân lên đó như thể sợi dây thừng bạc, rồi đứng trên trán ngài như thể đỉnh núi Kesàla. Sau đó gã nhét chân gã vào miệng ngài, đầu gối gã đập vào da thịt trong miệng ngài, gã bò xuống từ trán ngài và thọc cây cưa vào miệng ngài. Bậc Ðại sĩ chịu đựng nỗi thống khổ hành hạ và miệng ngài ứa đầy máu.

Còn gã thợ săn đi loanh quanh chỗ này chỗ kia vẫn không thể nào dùng cái cưa cắt được đôi ngà. Vì thế bậc Ðại sĩ để máu rơi ra từ miệng ngài, chịu đựng nỗi đau đớn cực độ, hỏi gã:

– Này tôn ông không cưa được sao?

Và khi nghe gã bảo:

– Không.

Ngài liền lấy lại sự bình tĩnh trong tâm, bảo:

– Vậy thì được rồi, vì ta không còn đủ sức đưa chiếc vòi lên, ông hãy nhắc nó lên cho ta và nó sẽ cầm một đầu cưa.

Gã thợ săn làm theo.

Bậc Ðại sĩ dùng vòi cầm phía đầu cưa, đưa lui đưa tới và đôi ngà được cắt rời ra ngay như đọt cây. Sau đó ngài bảo gã cầm lấy đôi ngà và nói:

– Này hiền hữu lạp hộ, không phải ta cho ông đôi ngà này vì ta không quý trọng chúng, cũng không phải giống như một người mong ước địa vị của Ðế Thích Thiên chủ, Ma vương hay Phạm thiên đâu, nhưng đôi ngà Chánh Ðẳng Chánh Giác còn đáng quý đối với ta gấp cả trăm ngàn lần hơn đôi ngà này, và ta ước mong công đức thiện hành này sẽ làm nhân duyên cho ta chứng đắc quả Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Vừa khi cho gã đôi ngà, ngài hỏi:

– Ông đến đây phải đi mất bao lâu?

– Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày.

– Vậy nhờ thần lực của đôi ngà này, ông sẽ về đến Ba-la-nại trong bảy ngày thôi.

Sau khi ngài bảo gã ra đi và trước khi đàn voi kia cùng hoàng hậu Subhaddà đến nơi, ngài đã qua đời.

Bậc Ðạo sư giải thích sự việc qua vần kệ:

  1. Rồi thợ săn cưa lấy bộ ngà
    Từ hàm Bạch tượng tối cao ra,
    Sáng ngời, bảo vật vô song ấy,
    Gã bước nhanh chân trở lại nhà.

Khi gã đi rồi, đàn voi không còn thấy bóng kẻ thù trở lại nữa.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Kinh hãi nhìn Vương tượng bỏ thân,
    Ðàn voi vùng tán loạn, hoang mang,
    Chẳng tìm thấy vết cừu nhân ác,
    Trở lại nhìn vua ngã xuống đàng.

Vương hậu Subhaddà cùng đến với đàn voi, tất cả đều đau đớn than và từ đó đi yết kiến các vị Ðộc Giác Phật trước kia thường rất thân thiết với bậc Ðại sĩ, và thưa:

– Bạch các Tôn giả, đức vua thường vẫn cúng dường các Tôn giả mọi vật dụng cần thiết, đã từ trần vì trúng một mũi tên độc. Xin các Tôn giả đến viếng thi hài của ngài đang được quàng tại nơi kia.

Năm trăm vị Ðộc Giác Phật liền bay qua không trung hạ mình xuống vùng đất thiêng ấy. Vào lúc hai chú voi con lấy ngà nâng thi hài của Voi chúa lên để thi hài tỏ dấu hiệu sùng kính các vị Ðộc Giác Phật, rồi nâng thi hài cao đến tận dàn hỏa thiêu và làm lễ hỏa táng. Suốt đêm ấy các vị Ðộc Giác Phật tụng kinh trong thánh địa này. Tám ngàn voi ấy, sau khi dập tắt các ngọn lửa, liền tắm rửa rồi cùng theo hoàng hậu Subhaddà dẫn đầu, trở lại nơi cư ngụ như cũ.

Bậc Ðạo sư giải thích vấn đề như sau:

  1. Ðàn voi khóc lóc lẫn kêu gào,
    Tất cả chất tro đội đỉnh đầu,
    Chầm chậm trở về nơi cư trú,
    Theo sau hoàng hậu mãi thanh cao.

Còn gã Sonuttara trong bảy ngày đã về tới Ba-la-nại cùng với bộ ngà voi.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Thẳng đến Kà-si, gã thợ săn,
    Vô song tặng vật, gã vừa mang:
    Bộ ngà của chúa Voi ngời chiếu
    Làm mọi tâm hoan với ánh vàng;

Ðến trước bà hoàng kia, gã nói:

“Ðây ngà; Vương tượng đã từ trần!”.

Bấy giờ khi mang đôi ngà đến dâng hoàng hậu, gã thưa:

– Tâu hoàng hậu, chúa Voi mà hoàng hậu mang mối thù hận trong lòng chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt ấy đã bị tiểu thần giết chết rồi!.

– Ngươi bảo rằng ngài đã chết rồi ư? Nàng kêu lớn.

Gã dâng đôi ngà lên và tâu:

– Hoàng hậu cứ tin chắc rằng ngài đã chết, đây là đôi ngà của ngài.

Nàng nhận lấy đôi ngà có sáu sắc hào quang ấy để lên chiếc quạt nạm ngọc của nàng rồi đặt vào lòng, nàng nhìn đôi ngà của Voi chúa ngày trước trong một đời trước đã là vị quân vương ái kính của nàng, nàng nghĩ thầm: “Gã thợ săn này trở về với đôi ngà gã cưa được từ Bảo tượng mà gã đã giết bằng mũi tên độc”.

Rồi nhớ lại bậc Ðại sĩ, lòng nàng bỗng tràn ngập đau thương đến độ nàng không thể chịu đựng được nữa, tim nàng tan nát ra và nàng từ trần ngay hôm ấy.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ câu chuyện:

  1. Bà hoàng vừa chợt thấy đôi ngà,
    Chúa thượng dấu yêu thuở đã qua,
    Lòng quá đau thương liền vỡ nát,
    Vì ngài, kẻ ngốc hóa ra ma.
  2. Khi Ðại trí nhân đủ lực thần,
    Mỉm cười trước mắt các hiền Tăng,
    Tức thì Thánh chúng liền suy nghĩ:
    “Chư Phật chẳng cười chuyện bỗng dưng!”.
  3. Ngài bảo: “Các ông thấy nữ nhi
    Làm Sa-di ấy, khoác hoàng y,
    Xưa là hoàng hậu, và Ta nữa,
    Ngài tiếp, “là Voi chúa mất đi”.
  4. Kẻ ác cưa ngà báu trắng tinh,
    Vô song dưới thế, ánh quang minh,
    Ðem về thành phố Ba-la-nại
    Nay chính Ðề-bà-đạt đích danh”.
  5. Phật-đà với trí tuệ riêng Ngài
    Kể lại chuyện xưa ấy thật dài,
    Đủ mọi nỗi buồn đau thống thiết,
    Dù Ngài đã thoát hết bi ai.
  6. “Ngày xưa Bạch tượng chính Ta đây,
    Làm chúa Voi đông đảo cả bầy,
    Như vậy, chư Tăng, ta muốn bảo
    Các ông hiểu rõ Tiền thân này”.

Các vần kệ trên được các Tỷ-kheo ghi nhớ khi Tăng chúng tán dương Ðạo pháp và ca ngợi đấng Thế Tôn đầy đủ mọi thần lực.

*

Khi nghe Pháp thoại này xong, một số trong đại chúng chứng quả Dự Lưu, còn vị Sa-di-ni ấy về sau nhờ tu tập Thiền định đã chứng đắc quả A-la-hán.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Sambhava (Tiền thân Sambhava)

Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương..,

Trong lúc trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể lại câu chuyện này liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Các chi tiết đưa đến phần mở đầu câu chuyện sẽ được nêu ra trong Tiền thân Mahà Ummagga Ðường Hầm lớn, Chương XXII, tập VII.

*

Ngày xưa có vị vua danh hiệu Dhananjaya Korabya trị vì tại kinh đô Indapatta ở quốc độ Kuru (Câu-lâu). Một Bà-la-môn tên Sucìrata là tế sư cùng là quốc sư của ngài trong mọi vấn đề thánh sự. Nhà vua cai trị rất đúng pháp, thực hành bố thí cùng nhiều thiện sự khác. Một ngày kia ngài chuẩn bị một câu hỏi liên quan việc phụng sự Chân lý, nên sau khi mời Bà-la-môn Sucìrata an tọa xong, và cung kính đảnh lễ vị ấy, ngài đưa vấn đề ra hỏi bằng cách ngâm bốn vần kệ:

  1. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,
    Su-cì, và thống trị giang sơn,
    Vì mong trẫm đạt thành cao cả,
    Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.
  2. Bằng Chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,
    Bởi vì tất cả đấng quân vương,
    Ở trên trần thế cần theo đúng
    Bất cứ điều Chân chánh Thiện lương.
  3. Do đó ta xa lánh lỗi lầm
    Ðời này và mãi mãi ngàn năm
    Ta cầu mong được danh vinh hiển
    Ở giữa chư Thiên lẫn thế nhân.
  4. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng
    Những gì Chân thiện, trẫm mong làm,
    Vậy khi được hỏi, xin cho biết
    Những việc làm nào đúng Thiện Chân.

Lúc bấy giờ, đó là cả vấn đề cao siêu thuộc phạm vi tri kiến của một vị Phật. Ðó là vấn đề ta phải đem ra thưa trình lên đức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc nếu không có Ngài, thì ta phải trình với một vị Bồ-tát đang mong cầu quả vị Chánh Ðẳng Chánh Giác kia. Còn Sucìrata không phải là một vị Bồ-tát nên không lý giải được vấn đề; vì thế ông chẳng hề làm ra vẻ thông thái, mà đành thú nhận sự bất tài của mình qua vần kệ sau:

  1. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai
    Ngoài Vi-dhu ấy đủ thiên tài,
    Nói điều kỳ diệu là Chân thiện,
    Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.

Nhà vua nghe lời này, liền phán:

– Vậy Tôn giả hãy đi ngay.

Và vua ban một tặng vật để vị tế sư đem theo và trong niềm mong mỏi ông lên đường, ngài ngâm vần kệ:

  1. Hiền hữu, đi ngay lấy phiến vàng
    Ðến Vi-dhu ấy, trẫm nhờ mang
    Tặng phần xứng trí nhân ưu tú
    Dạy trẫm điều Chân thiện tỏ tường.

Nói xong ngài cho ông một phiến vàng đáng giá một trăm ngàn đồng tiền dùng để viết lời giải đáp vấn đề lên trên đó, một xe ngựa để đi đường, một đạo binh hộ tống, một tặng vật và bảo ông đi ngay.

Khởi hành từ thành Indapatta, ông không đi thẳng Ba-la-nại, trước tiên đến thăm nhiều nơi chốn các bậc hiền nhân cư ngụ, vẫn không thấy ai có thể giải đáp vấn đề được, ông đi dần đến Ba-la-nại. Trong khi nghỉ tại đó, cùng vài người tùy tùng đến nhà Vidhura vào giờ ăn sáng, sau khi nhờ thông báo việc đến yết kiến, ông được mời vào và thấy tế sư Vidhura đang dùng điểm tâm tại nhà riêng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ bảy để giải thích sự việc này:

  1. Bhà-rad vội vã tiến lên đàng
    Ðến gặp Vi-dhu, thấy bạn vàng
    Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự
    Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.

Lúc bấy giờ Vidhura là bạn thiếu thời của Sucìrata, đã học chung tại nhà một vị giáo sư, nên sau khi cùng ăn điểm tâm với nhau, tế sư Sucìrata an tọa, và được tế sư Vidhura hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì?

Tế sư Sucìrata nêu rõ lý do đến đây và ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền hữu, Vi-dhu, cho đệ biết
    Thiện lương, Chân chánh phải là đâu.

Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn này đang đeo đuổi công việc sưu tập các dòng tư tưởng của một số người, việc ấy cứ chồng chất lên cao như thể nước lụt sông Hằng dâng tràn, cho nên chẳng có thì giờ giải đáp vấn đề này được nữa. Vì thế, ông ngâm vần kệ thứ chín nêu rõ trường hợp mình:

  1. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao
    Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,
    Ta không thể nói đâu là lẽ
    Chân Thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.

Nói vậy xong, ông lại thêm:

– Ta có một con trai rất thông minh, cháu ấy còn mẫn tuệ hơn ta nhiều. Cháu sẽ giải thích rõ cho hiền hữu. Vậy hãy đến gặp tiểu điệt.

Và ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hiện giờ đệ có một con trai
    Tên gọi Bhà-dra ở giữa đời,
    Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói
    Thiện lương, Chân lý rõ cho ngài.

Nghe điều này, tế sư Sucìrata liền rời nhà vị tế sư Vidhura, đến tư thất của Bhadrakàra, và thấy chàng đang ngồi ăn điểm tâm giữa đám thân nhân của chàng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười một làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Bha-dra gấp tại gia đường,
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.

Khi đến nơi, vị tế sư được chàng thanh niên Bhadrakàra tiếp đãi nồng hậu, mời lên tọa sàng cùng nhiều tặng vật. Vừa khi an tọa, và được hỏi nguyên cớ đến thăm, ông ngâm vần kệ thứ mười hai:

  1. Ðến vì thánh chỉ Câu-lâu
    Dòng họ Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt Bhà-dra, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Lúc ấy Bhadrakàra đáp lại:

– Thưa Tôn giả, ngay bây giờ, tiểu điệt đang có dự mưu dan díu với vợ một người khác. Cho nên trí óc của tiểu điệt không được thư thái để giải đáp vấn đề. Song em trai cháu tên là Sanjaya còn thông thái hơn cháu nhiều. Xin Tôn giả đi hỏi chàng, chàng sẽ giải đáp vấn đề của Tôn giả.

Chàng ngâm vần kệ để bảo ông đến đó:

  1. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,
    Và đang theo đuổi tắc kè con,
    Làm sao có thể nào thông hiểu
    Ðâu lẽ Thiện lương với Thật chơn?
  2. Song có em trai, ngài phải biết,
    San-ja tên gọi, hãy lên đường
    Kiếm chàng cho được, chàng tuyên thuyết
    Chân Thiện ngài nghe thật tỏ tường.

Ông liền đi đến nhà Sanjaya ngay và được chàng tiếp niềm nở, khi được hỏi lý do đến đấy, ông nói rõ ra.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad phải vội vàng
    Ðến San-jay gấp tại gia đường
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.
  2. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt San-jay, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Nhưng Sanjaya cũng đang bận bày mưu tính kế, chàng liền thưa với ông:

– Thưa Tôn giả, tiểu điệt đang theo đuổi vợ người khác, và lại sắp đi xuống sông Hằng để qua sông. Sáng tối trong lúc tiểu điệt qua sông thường phải gặp nanh vuốt tử thần, cho nên tâm trí tiểu điệt đang rối ren, tiểu điệt không thể giải đáp vấn đề của Tôn giả được, song em trai tiểu điệt là Sambhava, mới lên bảy tuổi đã thông minh tài trí hơn tiểu điệt gấp cả trăm ngàn lần đấy. Em cháu sẽ nói chuyện với Tôn giả, xin hãy đi tìm để hỏi em cháu ngay.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc:

  1. Tử thần há miệng rộng đầy chông
    Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông
    Làm thế nào con thưa với chú
    Ðâu là Chân lý với Hiền lương?
  2. Song có em thơ, chú biết chăng,
    Sam-bha tên gọi, hãy lên đường,
    Tìm em, thưa chú, em nêu rõ
    Chân lý, Thiện lương thật tỏ tường!

Nghe vậy, tế sư Sucirata nghĩ thầm: “Vấn đề này ắt là điều kỳ bí nhất trên đời. Ta chắc không ai đủ sức giải đáp cả”.

Nghĩ vậy ông ngâm hai vần kệ:

19 – 20. Việc lạ lùng này phật ý ta,
Chẳng hai con lớn, chẳng ông cha,
Biết phương giải đáp điều mầu nhiệm
Vậy nếu như chàng cũng chịu thua,
Thì phải chăng đây là cậu bé
Biết gì về lý Thiện Chân ư!

Nghe vậy, Sanjaya đáp:

– Thưa Tôn giả, xn ngài đừng tưởng Sambhava chỉ là đứa trẻ thơ dại. Nếu chẳng ai giải đáp được vấn đề của Tôn giả, thì cứ đi hỏi em cháu.

Rồi chàng ngâm mười hai vần kệ nêu lên những đức tính của cậu bé này qua các ví dụ chứng minh trường hợp trên:

  1. Xin ngài đi hỏi Sam-bha,
    Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,
    Em đầy thông thái tài ba
    Nói ngay ngài biết đâu là Thiện Chân.
  2. Khác nào ánh nguyệt trong ngần
    Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,
    Ánh sao le lói mờ soi
    Chim dần trong ánh rạng ngời Hằng nga,
  3. Cũng như chú bé Sam-bha
    Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, biết tỏ tường,
    Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.
  4. Em đầy thông thái tài ba
    Nói rành Chân Thiện đâu là lẽ ngay.
    Tháng tư quyến rủ đắm say,
    Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.
  5. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,
    Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,
    Bé Sam-bha cũng thế này,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.
  6. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn
    Rừng cây bao phủ, có thần điểm trang
    Tỏa ra ánh sáng huy hoàng,
    Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền,
  7. Dành cho vô số thần tiên
    Tìm nơi ẩn náu bình yên chốn này.
    Bé Sam-bha cũng như vầy,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí đầy khôn ngoan.
  8. Khác nào ngọn lửa huy hoàng
    Cháy tràn lan khắp đồng hoang tung hoành,
    Với cây cột lửa cuộn nhanh,
    Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.
  9. Ðể trơ một lối đen ngòm,
    Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt qua.
    Cũng vầy chú bé Sam-bha,
    Trí tài kiệt xuất vượt đà ấu niên,
  10. Khác nào một ngọn lửa thiêng
    Ðốt bằng bỏ sống trong đêm tối trời,
    Gặp cây gỗ quý nhất đời,
    Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.
  11. Cũng vầy chú bé Sam-bha
    Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông hiểu, nói tận tường Thiện Chơn.
  12. Trâu nhờ sức lực tráng cường
    Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,
    Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,
    Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.
  13. Sam-bha cũng vậy, mầm non,
    Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông thái, nó tận tường Thiện Chân.

Trong khi Sanjaya ca ngợi Sambhava như vậy, tế sư Sucìrata nghĩ thầm: “Ta sẽ đặt vấn đề với cậu bé này là biết ngay”.

Ngài hỏi:

– Thế tiểu hiền điệt ở đâu rồi?

Chàng liền mở cửa sổ giơ tay chỉ và nói:

– Ngài nhìn cậu bé đằng kia, da óng như vàng ròng, đang chơi cùng các trẻ khác bên đường trước cửa, chính đó là tiểu đệ của cháu. Xin cứ đến hỏi, tiểu hiền đệ sẽ giải đáp vấn đề của ngài với mọi lý lẽ huyền diệu của một vị Phật.

Sucìrata nghe thế, liền bước xuống khỏi dinh, đến gần cậu bé vừa đúng lúc cậu bé đang đứng, áo quần xốc xếch vắt qua vai, hai tay đang bốc đất.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Sam-bha gấp tại gia đường
    Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó
    Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.

Bậc Ðại sĩ vừa khi thấy vị Bà-la-môn kia đến đứng trước ngài, liền hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì chăng?

Vị tế sư đáp:

– Này tiểu hiền điệt, ta đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề mà không tìm ra người nào đủ tài trí giải đáp vấn đề ta đặt ra, nên nay ta đến đây tìm cháu.

Cậu bé nghĩ thầm: “Họ bảo đây là vấn đề khắp cả cõi Diêm-phù-đề chưa giải đáp được, nên vị này đến tìm ta. Còn ta đã am hiểu thông thạo rồi”.

Lúc ấy cậu thấy hổ thẹn, liền vứt cục đất đang cầm trong tay, sửa sang áo quần lại đàng hoàng và bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, cứ hỏi đi, ta sẽ giải đáp cho ngài với mức tinh thông lưu loát của một vị Phật.

Rồi với trí tuệ Tối thắng, ngài mời vị kia lựa chọn đề tài để hỏi. Vị Bà-la-môn liền hỏi vấn đề qua các câu kệ:

  1. Ðến vi thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền điệt Sam-bha, cho chú biết,
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu?

Vấn đề được hỏi kia quá rõ ràng đối với Sambhava như thể vầng trăng tròn giữa bầu trời cao. Ngài bảo:

– Này hãy nghe lời ta.

Và ngài giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý qua các vần kệ:

  1. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,
    Ðúng như bậc trí phải trình bày,
    Vua cần biết rõ điều Chân Thiện,
    Song việc vua làm, ai có hay?

Trong khi ngài đứng giữa đường phố thuyết giảng Chân lý với giọng ngọt như mật, âm thanh vang dội khắp thành Ba-la-nại, mỗi phía vang đến mười hai dặm đường. Nhà vua cùng các phó vương và nhiều vua khác tụ tập lại, bậc Ðại sĩ liền đứng giữa đám đông ấy, tuyên thuyết Chân lý. Sau khi đã hứa giải đáp vấn đề qua vần kệ này, giờ đây ngài nêu lời giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý:

  1. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:
    “Ngày nay không hẳn giống ngày mai,
    Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt
    Nắm lấy thời cơ kịp đến tay”.
  2. Ta ước mong hiền hữu tế sư
    Gợi cho vua biết cách suy tư,
    Nhờ đây tâm trí ngài an lạc:
    Vua phải tránh xa mọi oán thù,
    Cũng chớ đi theo đường ác độc
    Như là người độn trí mê mờ.
  3. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,
    Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,
    Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,
    Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.
  4. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân
    Những điều này, giống nguyệt tròn dần,
    Như vua danh tiếng tăng lên mãi,
    Làm ánh sáng soi đám bạn thân,
    Yêu mến họ hàng, khi tận mạng
    Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.

Như vậy chẳng khác nào đem vầng trăng soi rọi khắp bầu trời, bậc Ðại sĩ giải đáp vấn đề của vị Bà-la-môn này với mọi vẻ tinh thông của một bậc Giác Ngộ. Dân chúng reo hò vỗ tay vang dậy. Hàng ngàn tiếng reo tán thưởng cùng vô số khăn vẫy lên không và tiếng búng tay lách tách. Họ thả luôn cả đồ trang sức trên tay. Vua Ba-la-nại hoan hỷ tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ ngài. Còn vị tế sư Sucìrata, sau khi tặng thưởng ngài một ngàn cân vàng, liền viết câu giải đáp vấn đề trên bằng son đỏ vào phiến vàng ấy và khi đến kinh thành Indapatta, ông tâu trình vua về câu giải đáp Phụng sự Chân lý như trên.

Phần vua nhờ kiên tâm hành trì các pháp chân chánh, về sau được lên thiên giới.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngay từ xa xưa, Như Lai đã dùng đại trí để giải đáp mọi vấn đề.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ Ànanda (A-nan) là vua Dhananjaya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sucìrata, Kassapa (Ca-diếp) là Vidhura, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Bhadrakàra, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thiếu sinh Sanjaya, và Trí giả Sambhava chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện khỉ chúa (Tiền thân Mahàkapi)

Tương truyền đại đế xứ Kà-si..,

Câu chuyện này được bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) ném đá vào Ngài.

Vì vậy khi Tỷ-kheo quở trách Ðề-bà-đạt-đa về việc xúi giục các thợ săn bắn cung vào đức Phật và sau đó lại ném đá vào Ngài, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã ném đá vào Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Bradhmadatta trị vì xứ Ba-la-nại có một nông dân dòng họ Bà-la-môn trong một làng Kàsi, sau khi cày ruộng xong, thả trâu ra và bắt đầu cuốc đất. Ðàn trâu trong khi gặm lá ở bụi cây dần dần tẩu thoát vào trong rừng. Người ấy nhận thấy trời tối liền đặt cuốc xuống đi tìmđám trâu nhưng chẳng thấy đâu, gã quá buồn khổ đi lang thang vào trong rừng tìm chúng, dần dần đến tận vùng Tuyết Sơn. Vì lạc mất phương hướng, gã lang thang bảy ngày nhịn đói, nhưng khi nhìn thấy cây Tinduka, gã trèo lên hái trái ăn. Rồi tuột khỏi cây này gã rơi xuống một vực thẳm như địa ngục sâu 60 cubit (1 cubit = 45cm) và ở đó cả mười ngày.

Thời bấy giờ Bồ-tát sinh làm thân Khỉ, đang lúc ăn trái rừng, ngài thấy gã kia, liền dùng một hònđá lôi gã ra khỏi vực. Trong lúc Khỉ đang ngủ, gã kia đập đầu Khỉ bằng một cục đá, bậc Ðại Sĩ biết được việc này, liền vùng dậy nhảy lên cành cây, đứng lại và kêu to:

– Này tôn ông, ngài đang ngồi trên đất bằng, ta sẽ chỉ đường cho ngài từ trên ngọn cây này rồi ta sẽ đi ngay.

Thế là ngài cứu gã kia ra khỏi rừng, chỉ đúng đường cho gã rồi biến mất trong rừng núi ấy. Còn gã kia vì đã gây tội ác với bậc Ðại sĩ, nên hóa thành tên hủi, chẳng khác nào ngạ quỷ đội lốt người trên trần thế. Trong bảy năm liền, gã đau đớn chất chồng, lang thang hết nơi này sang nơi khác, gã đến ngự viên Migàcira (Lộc Uyển) tại thành Ba-la-nại, trải ngọn lá chuối trên một góc, gã nằm xuống, lòng đau khổ điên cuồng.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại đến ngự viên và trong khi dạo chơi, tìm thấy người kia, liền hỏi:

– Ngươi là ai và ngươi đã làm gì đến nỗi phải khổ như vậy?

Gã trình vua toàn thể câu chuyện với đầy đủ chi tiết.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Tương truyền đại đế xứ Kà-si,
    Một thuở Ba-la-nại trị vì,
    Cùng với hiền thần trên đại lộ
    Vào đến Vườn Nai một bữa kia.
  2. Ðằng kia vua thấy gã La-môn,
    Một bộ xương khô bước chập chờn,
    Da trắng vì mang dòng máu hủi,
    Xù xì xương xẩu tựa cây mun.
  3. Ngạc nhiên trước cảnh tượng đau thương
    Của kẻ không may, nặng khổ buồn:
    “Thật tội nghiệp ngươi”, ngài phán hỏi,
    Tên gì, ác quỷ phận đành mang?
  4. Giống như tuyết trắng cả tay chân,
    Ta chắc đầu ngươi lại trắng hơn,
    Thân thể ngươi tràn đầy vết hủi,
    Bệnh kia ghi dấu ấn riêng phần.
  5. Lưng ngươi như suốt chỉ giăng hàng,
    Lồi lõm, dài ngoằn lại uốn quăn,
    Xương khớp đen điu như mẩu gỗ,
    Chẳng hề ai thấy kẻ ngang bằng!
  6. Ngươi từ đâu đến, kẻ lang thang,
    Khốn khổ bơ vơ, da bọc xương,
    Ðầu đội nắng trời nung bức lửa,
    Chịu bao đói khát quá đau thương?
  7. Hình hài tàn phá thật kinh hoàng,
    Chẳng xứng nhìn lên ánh nhật quang,
    Ngay chính mẹ ngươi chắc cũng chẳng
    Còn mong nhìn trẻ quá tồi tàn!
  8. Ác nghiệp gì xưa ngươi đã gây
    Hay là ngộ sát kẻ nào đây,
    Tội gì người phạm, ta mong biết,
    Xui khiến ngươi mang nỗi khổ này?

Gà Ba-la-môn đáp lại:

  1. Thần xin thưa thật với Tôn quân
    Hành động đúng như một thiện nhân,
    Vì kẻ không bao giờ dối trá,
    Người hiền khen ngợi giữa phàm trần.
  2. Xưa kia thần đến một rừng hoang,
    Tìm kiếm đàn trâu tối lạc đàng,
    Băng mãi lối mòn rừng rậm rạp,
    Nơi loài voi ở, bước lang thang.
  3. Lạc trong rừng rậm quá hoang sơ,
    Chịu đói khát đau khổ xót xa,
    Suốt bảy ngày ròng thần lẩn quẩn,
    Chốn loài hổ dữ mớm con thơ.
  4. Trái độc tối kinh, cũng cứ thèm
    Ô kìa, đôi mắt bỗng bừng lên:
    Cây xinh lắt lẻo ngang bờ vực,
    Lơ lửng trái thơm trĩu nhánh mềm.
  5. Những trái rơi theo gió lạnh rung
    Thần nhai ngấu nghiến nuốt thơm lừng,
    Vẫn còn khao khát, thần leo vội:
    “Cách ấy no nê được vẹn toàn”.
  6. Chưa từng ăn quả chín ngon sao!
    Thần vội giơ tay hái thật nhiều,
    Cành lá, dựa thân vào gãy đứt
    Như là chặt bởi búa ông tiều.
  7. Cành gãy làm cho ngã lộn thân,
    Không gì chặn lại, rớt nhanh dần
    Trên bờ vực thẳm, đầy tường đá,
    Không thoát khỏi hang vực thẳm cùng.
  8. Nước sâu nằm dưới bờ vực kia,
    Cứu mạng không tan nát thảm thê,
    Rồi bất hạnh thay, thần tuyệt vọng,
    Mười đêm nằm đợi thật dài ghê!
  9. Cuối cùng một chú Khỉ dài đuôi
    Trú ẩn trong hang đá, đến nơi,
    Nhảy nhót cành này sang bụi nọ,
    Hái ăn trái chín thật xinh tươi.
  10. Chợt thấy thần vàng vọt héo khô,
    Ðộng lòng trắc ẩn, Khỉ kêu to:
    “Khốn thay! Ta thấy ai nằm đó
    Tuyệt vọng đau thương ngập tận bờ
    Như vậy, ví như người hoặc quỷ,
    Ông là ai đó, nói nguyên do”.
  11. Thần đầy cung kính, vội thưa ngay:
    “Một kẻ khốn cùng chính lão đây,
    Song phước đức dành cho Khỉ hết,
    Nếu tìm được cách cứu thân này”.
  12. Chúa Khỉ chuyển cành ở núi cao,
    Mang hòn đá nặng lực anh hào,
    Ấy nhờ tu luyện tròn công hạnh,
    Mục đích tỏ bày trọng đại sao:
  13. “Tôn ông, trèo đến chỗ lưng này,
    Quanh cổ ta, ghì chặt cánh tay,
    Tức tốc ta đem ông thoát khỏi
    Vách tường đá, chính cảnh tù đày”.
  14. Hoan hỷ, thần ghi nhớ rõ ràng
    Lời khuyên của chúa Khỉ vinh quang,
    Trèo lên lưng nọ, đôi tay bám,
    Quanh cổ trí nhân thật vững vàng.
  15. Chúa Khí lúc này thật mạnh thay,
    Kiên cường can đảm đến như vầy
    Dẫu rằng mệt lả vì hao sức,
    Chốc lát đưa lên vách đá dày.
  16. Kéo thần xong, cất tiếng anh hùng:
    “Ta mệt nhoài: xin đứng hộ phòng,
    Bên cạnh mình ta, tôn giả hỡi,
    Trong khi ta ngủ giấc say nồng.
  17. Các thứ như beo, gấu, hổ, sư,
    Nếu nhìn ta, thấy quá thờ ơ,
    Chúng liền giết hại ta ngay đấy,
    Tôn giả canh phòng, chớ phải lo”.
  18. Trong lúc thần đang đứng hộ phòng
    Hầu vương đánh một giấc an thân,
    Một tư tưởng xấu xa nhen nhúm
    Tiềm ẩn lan dần ở nội tâm:
  19. “Khỉ, vượn, hươu, nai thật ngọt ngon
    Vậy sao ta chẳng giết hầu vương
    Ðỡ cơn đói khát và con thịt
    Cung cấp cho ta món tuyệt trần?
  20. Khi no dạ, chẳng muốn chần chờ,
    Song kiếm thật đầy thực phẩm khô,
    Tích trữ cho nhiều ngày vất vả,
    Từ rừng ta sẽ kiếm đường ra”.
  21. Cầm viên đá suýt đánh tan tành
    Chiếc sọ kia, song bởi phận mình
    Tay vụng về đưa lên loạng quạng,
    Vung ra yếu ớt chẳng nên hình.
  22. Chúa Khỉ nhanh chân nhảy ngọn cây
    Toàn thân bê bết máu tuôn đầy,
    Từ xa trách móc nhìn thần mãi
    Với cặp mắt tuôn lệ chảy dài:
  23. “Cầu trời ban phước lộc tôn ông,
    Ðừng làm như vậy, chỉ cầu mong
    Kẻo sau số phận ngài, ta chắc
    Gặp phải người hành động bất nhân.
  24. Than ôi nhục nhã đến như vầy!
    Sao trả ơn ta cách thế này?
    Vì đã cứu ông ra thoát khỏi
    Vực kia sâu thẳm hãi kinh đầy!
    |
    33-34. Cứu tử, chơi trò phản bội ta
    Âm mưu việc ác với tâm ma,
    Coi chừng, kẻ ác, e đày đọa,
    Khốc liệt xuất từ ác nghiệp kia
    Ðem họa tử vong cho chủ nó,
    Khác nào trái giết gốc tre già.
  25. Ta chẳng còn tin tưởng ở ngươi,
    Vì ngươi làm ác với ta rồi,
    Hãy đi tới trước kia cho khéo,
    Còn để ta nhìn thấy bóng thôi.
  26. Thoát bầy dã thú đói tìm mồi,
    Ngươi trở về nơi sống đời
    Thẳng tắp con đường dài trước mặt,
    Ði theo như ý muốn nhà ngươi”.
  27. Ðến đây, dòng lệ Khỉ lau khô,
    Vội vã nhanh chân nhảy xuống hồ
    Rửa sạch chiếc đầu bê bết máu
    Ôi, vì thần, đã chảy tuôn ra!
  28. Từ đấy, đầy đau khổ đoạn trường,
    Ðốt thiêu, vò xé bởi Hầu vương,
    Lê bước thân tàn, thần thất thểu,
    Tìm nơi giải khát cho mình luôn.
  29. Nhưng khi thần đến vũng hồ kia,
    Mặt nước đều loang lổ máu me,
    Một dòng đỏ sẫm dần dần hiện
    Thành một đám như lửa lập lòe.
  30. Mỗi giọt nước kia dính đến thân,
    Hóa thành mụt nhọt lớn lên dần,
    Như Vil-va trái khô rồi nứt
    Giống hệt sắc da lẫn cỡ tầm.
  31. Máu mủ tràn ra thật đáng nhờm,
    Nơi nào thần muốn được an thân,
    Dù là thành thị hay thôn dã,
    Dân chúng chạy bay hỗn loạn luôn.
  32. Lảng tránh vì mùi quá thối tha,
    Trong khi gậy, đá cứ tung ra:
    “Này tên khốn nạn! Ðừng đi đến
    Gần chúng ta!” Toàn thể hét la.
  33. Như vậy khổ đau thật đáng thương,
    Thần mang theo suốt bảy năm trường,
    Tùy theo hạnh nghiệp mình gây tạo,
    Mỗi người đi đến một con đường.
  34. Thần ước mong chư vị vạn an,
    Mọi người, thần gặp gỡ trên đàng,
    Xin đừng phản bạn, ôi hèn hạ,
    Kẻ phạm tội mưu chống bạn vàng!
  35. Tất cả những ai với bạn mình
    Tỏ ra là kẻ thiếu chân thành,
    Như bầy hủi phải ăn năn tội,
    Thân hoại, vào trong ngục tái sinh.

Và trong lúc kẻ kia đang tâu trình vua, ngay chính thời điểm ấy, mặt đất há miệng rộng ra làm gã mất dạng và được tái sinh vào Ðịa ngục. Khi gã bị trái đất nuốt xong, vua ra khỏi ngự viên và trở về thành.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã némđá vào Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, kẻ phản bạn kia là Ðề-bà-đạt-đa và Ta chính là Khỉ chúa.

-ooOoo-

  1. Tiền thân Dakarakkhasa

Chuyện này sẽ được trình bày trong Tiền thân số 546, Mahà Ummagga (Ðường hầm lớn), tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Pandara (Tiền thân Pandara)

Người nào chuyện bí mật đem phơi..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) nói dối và quả đất đã há miệng nuốt sống ông như thế nào.

Thời đó là lúc Ðề-bà-đạt-đa bị chúng Tỷ-kheo quở trách, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã nói dối và đã bị quả đất nuốt chửng.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có năm trăm thương nhân lên tàu ra khơi. Vào ngày thứ bảy, khi họ đã khuất dạng khỏi đất liền, họ bị đắm tàu giữa biển và tất cả làm mồi cho cá chỉ trừ một người. Người này nhờ gió đẩy đến bờ Karambiya, lên bờ, mình trần trụi, vô cùng khốn khổ, gã lang thang khắp nơi khất thực. Dân chúng nghĩ: “Ðây là bậc tu hành khổ hạnh thiểu dục tri túc”.

Và họ tiếp đãi gã rất ân cần. Song gã bảo:

– Ta đã có đủ sống rồi.

Và khi họ cúng dường y trong y ngoài, gã đều không nhận thứ gì cả. Họ bảo nhau:

– Chẳng có bậc khổ hạnh nào vượt quá vị này về phương diện thiểu dục tri túc.

Và lại càng hân hoan vô cùng vì gã, họ xây am ẩn sĩ cho gã trú ẩn và gã lấy danh hiệu Karambiya đạo sĩ.

Trong khi gã ở đó, gã được nhiều lợi dưỡng vinh quang, cả Long vương lẫn Kim sí Ðiểu vương đều đến bày tỏ lòng tôn kính gã, vị Long vương này có danh hiệu là Pandara. Một ngày kia Kim sí Ðiểu vương đến gặp đạo sĩ, và sau khi đảnh lễ vị này, ngồi xuống một bên và bảo:

– Thưa Tôn giả, dân chúng của ta, khi tấn công loài Rồng rắn, thường hay bị chết đuối. Ta không biết cách nào bắt Rồng rắn cho đúng. Nghe nói có điều bí ẩn chi đây. Ngài có thể dỗ dành chúng nói ra điều bí ẩn ấy chăng?

– Ðược rồi – đạo sĩ nói.

Khi Ðiểu vương từ giã ra về, vừa đúng lúc Long Vương đến tôn kính đảnh lễ xong ngồi xuống, gã hỏi:

– Này Long vương, loài Kim sí Ðiểu nói rằng khi bắt loài Rồng, chúng bị giết chết rất nhiều. Thế lúc đánh bắt Rồng rắn, làm sao cho chúng được an toàn?

Long vương đáp:

– Thưa Tôn giả, đây là điều bí mật của loài ta, nếu ta nói ra, ta sẽ gây tai họa tàn sát cả chủng tộc của ta.

– Sao thế, ngài nghĩ rằng ta nói với kẻ nào chăng? Ta chẳng nói với ai đâu, ta chỉ hỏi cho thỏa thích hiếu kỳ thôi. Ngài cứ tin ta và nói cho ta biết, đừng e sợ gì cả.

Long vương hứa sẽ nói và từ giã.

Ngày hôm sau ẩn sĩ lại gạn hỏi, Long vương cũng không nói ra. Song vào ngày thứ ba, lúc Long vương đến và ngồi xuống, ẩn sĩ bảo ngay:

– Hôm nay là ngày thứ ba ta hỏi ngài rồi. Tại sao ngài không nói?

– Thưa Tôn giả, ta sợ ngài kể lại cho kẻ khác.

– Ta sẽ không hé môi với ai cả, nói đi, đừng sợ gì.

Thế là Long vương bảo ẩn sĩ hứa sẽ không kể lại với ai rồi nói:

– Thưa Tôn giả, loài Rồng rắn chúng ta nuốt đá lớn cho nặng mình và nằm sát xuống, rồi loài Kim sí Ðiểu đến, chúng ta há miệng ra, nhe răng nhào đến chúng. Chúng chụp lấy đầu bọn ta, và trong khi chúng cố nhấc lên mà chúng ta lại nặng và nằm sát đất, nước tràn lên chúng khiến chúng chết chìm giữa biển. Một số Kim sí điểu chết như vậy. Trong lúc bắt bọn ta, tại sao chúng lại chụp lấy đầu? Nếu bọn ngu xuẩn kia chụp lấy đuôi chúng ta và dốc ngược đầu xuống, chúng sẽ bắt bọn ta phải nhả ra những hòn đá đã nuốt ấy, thế là làm cho bọn ta nhẹ đi và tha bọn ta về tổ chúng.

Long vương đã tiết lộ bí mật như vậy với ác nhân này.

Sau đó khi Long vương ra về, Ðiểu vương lại đến đảnh lễ đạo sĩ Karambiya xong, liền hỏi:

– Thưa Tôn giả, thế Tôn giả đã biết điều bí mật của Long vương chưa?

– Thưa ngài, đã.

Và gã kể mọi điều vừa được kể trên cho gã.

Nghe xong, Ðiểu vương bảo:

– Long vương đã sai lầm nặng nề, đáng lẽ không nên nói cho ai biết cách tàn sát chủng tộc mình như vậy.

Thế là vừa nổi gió lên, Ðiểu vương liền chụp lấy đuôi Long vương Pandara và dốc ngược đầu xuống, làm chúa Rồng nay phải nhả những hòn đá đã nuốt vào cổ, rồi Ðiểu vương mang Long vương bay lên không. Rồng Pandara, trong lúc bị treo ngược đầu lên không như vậy, liền than khóc thê thảm:

– Ta tự gây khổ cho ta rồi!

Và chúa Rồng ngâm các vần kệ:

  1. Người nào chuyện bí mật đem phơi
    Bất cẩn, lòng không muốn giữ lời,
    Kẻ ngốc bị kinh hoàng trấn áp,
    Như ta, Rồng chúa ngã nhào thôi!
  2. Người nào ngu xuẩn lộ ra ngoài
    Tư tưởng cần che dấu mặt trời,
    Kinh hoảng ngập tràn vì lẻo mép,
    Như ta, Rồng chúa gặp chim mồi!
  3. Không nên để bạn hữu tham gia
    Ý tưởng thâm trầm nhất của ta,
    Bạn tốt có khi đầy xuẩn ngốc,
    Kẻ khôn lừa dối, phải phòng xa!
  4. Tin tưởng gã, ôi! Có phải chăng?
    Chuyên trì khổ hạnh bậc hiền nhân?
    Phơi bày bí mật, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây nỗi đoạn trường!
  5. Chuyện riêng tư, gã khốn len vào,
    Bí mật ta không giữ được nào,
    Ta sợ mối nguy từ gã đến,
    Giờ ta khóc chính nỗi thương đau.
  6. Tưởng bạn trung thành tận tủy xương
    Sinh lòng kính sợ, nặng tình thương
    Ân tình tiết lộ cho người khác
    Ngã gục, người ngu chẳng thể vươn!
  7. Ai nói lên cùng đám ác nhân
    Ðiều thầm kín phải giữ trong tâm
    Ðược xem rắn độc nơi trần giới,
    “Kẻ ấy, tránh xa!” Chúng thét rần!
  8. Cẩm y, mỹ nữ, gỗ chiên-đàn
    Hương liệu, vòng hoa, thực phẩm ngon,
    Mọi dục ác kia, ta tránh cả,
    Ðiểu vương, nếu đến giúp Long vương!

Rồng chúa Pandara đã khóc than như vậy qua tám vần kệ trong khi bị dốc ngược trên không. Ðiểu vương nghe tiếng than khóc liền khiển trách Long vương và bảo:

– Này Long vương, tại sao lại than khóc sau khi đã tiết lộ bí mật cho đạo sĩ kia?

Và Ðiểu vương ngâm vần kệ:

  1. Trong chúng ta, ba kẻ sống đây,
    Nói tên ai kẻ đáng trách này?
    Chẳng sư, chẳng điểu, nhưng ngài ngốc,
    Mang họa Long vương nhục nhã đầy!

Nghe vậy, Rồng Pandara liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ðạo sĩ, theo ta, một bạn vàng,
    Chuyên trì khổ hạnh, bậc hiền nhân,
    Ẩn tình ta lộ, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây, chính khổ thân!

Kế đó Ðiểu vương lại ngâm bốn vần kệ khác nữa:

  1. Nhân sinh trần thế phải lìa đời,
    Thánh đạo cho con cháu phải soi,
    Bằng tự điều thân, chân chánh hạnh,
    Con người thành đạt đích cao vời.
  2. Chẳng ai thân thiết vượt song thân,
    Không kẻ thứ ba ái luyến bằng,
    Song ẩn tình, người đừng tỏ lộ,
    E rằng phản bội thật không tưởng!
  3. Mẹ cha, quyến thuộc khắp xa gần,
    Bạn hữu đồng minh, dẫu thiết thân!
    Ẩn ý ngươi đừng nên tỏ lộ,
    Về sau phản bội, phải ăn năn.
  4. Vợ hiền xinh đẹp, tuổi còn xuân,
    Chia xẻ bầy con, đám bạn thân,
    Song chớ tỏ bày điều bí ẩn,
    E nàng phản bội, phải đề phòng.

Tiếp theo là các vần kệ sau:

  1. Ðừng ai đem chuyện kín phơi ra,
    Phải giữ như kho báu của nhà,
    Việc tiết lộ ra điều bí mật,
    Hiền nhân chẳng muốn ngợi khen mà.
  2. Bậc trí không nên lộ tấc lòng,
    Với cừu nhân hoặc với hồng quần,
    Những người nô lệ lòng tham dục,
    Bọn chúng tỏ ra lũ bốc đồng.
  3. Ai hé lộ ra một ẩn tình
    Cho người không có trí thông minh,
    Sợ lòng tin bị người làm phản,
    Phải chịu người kia khống chế mình.
  4. Những người biết được chuyện riêng tư
    Mà bạn chẳng nên để lộ ra,
    Sẽ khiến bất an tâm trí bạn,
    Vậy đừng tiết lộ chuyện riêng mà!
  5. Ban ngày chỉ có một mình ta,
    Cứ bạo gan nêu chuyện kín ra,
    Song giữa đêm khuya trời vắng vẻ,
    Ðừng liều lĩnh lộ chuyện riêng mà.
  6. Bởi vì chắc chắn ở bên lưng,
    Cỏ kẻ phản ta đứng sẵn sàng,
    Lời thoáng đưa đều nghe lọt cả:
    Vậy đừng tin chúng: đệ cầu mong!

Ðây là năm vần kệ sẽ xuất hiện trong vấn đề Năm vị Hiền nhân của Tiền thân Ummagga, số 546, tập VII.

Tiếp theo là các vần kệ này:

  1. Như cổ thành vây bọc tứ phương,
    Với hào, cọc sắt, đã coi thường
    Quân thù xâm nhập vào Tiên giới,
    Bí mật người khôn giữ kín luôn.
  2. Những người dù vội vã nhanh lời,
    Chuyện kín vẫn không hé hở môi,
    Mà quyết giữ mình luôn vững chắc,
    Thật lòng chân chánh, đấy là người
    Cừu nhân phải tránh, như đi trốn
    Lúc rắn độc đang đuổi chạy dài!

Khi Chân lý đã được Ðiểu vương tuyên thuyết như vậy, Long vương Pandara liền ngâm vần kệ:

  1. Lõa thể, cạo đầu, gã xuất gia,
    Lang thang khất thực khắp quê nhà,
    Ôi! Ðem bí mật khai cùng gã,
    Phúc đức tan tành, số phận ta!
  2. Giới hạnh nào, tu sĩ phải trì,
    Phát nguyền nào, tránh lỗi lầm chi?
    Làm sao thoát ác hành vây hãm,
    Ðể đạt thiên cung cuối hạn kỳ?

Ðiểu vương đáp:

  1. Bền lòng, kham nhẫn, tự điều thân,
    Vứt bỏ vọng ngôn, với hận sân,
    Tu sĩ đoạn trừ bao tội lỗi,
    Sau cùng đạt đến cảnh thiên cung.

Long vương Pandara nghe Ðiểu vương thuyết Pháp như vậy liền xin tha mạng và ngâm vần kệ này:

  1. Như trẻ sơ sinh, mẹ ngắm nhìn,
    Khắp người rung động, thú thần tiên,
    Ðiểu vương cũng vậy, xin ban bố,
    Từ ái đàn con, đấng mẹ hiền!

Sau đó Ðiểu vương tha mạng cho Long vương và ngâm vần kệ nữa:

  1. Chúa Rồng, ta thả bạn bây giờ
    Thoát chết, cho ngài được tự do
    Trong các bầy con này, chỉ có:
    Con nuôi, con ruột, học trò ta,
    Là ba trẻ hưởng nhiều sung sướng,
    Quả thật ngài là một giữa ba!

Nói vậy xong, Ðiểu vương hạ cánh từ trên không và đặt Long vương xuống mặt đất liền.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói vậy xong, Chim chúa thả ngay
    Kẻ thù, đáp nhẹ địa cầu này:
    Nay ta giải phóng, mau đi kiếm
    An trú xa nơi hiểm họa đầy,
    Dù bạn lên bờ hay dưới nước,
    Ta nguyền phòng hộ kỹ từ rày.
  2. Như lương y có đủ tài năng,
    Con bệnh hiểm nghèo đã chữa xong,
    Như nước mát trong hồ giải khát
    Cho bao người được thỏa thuê lòng,
    Như nhà trú ẩn trời băng giá
    Ta, chốn bạn nhờ, lúc bại vong.

Ðiểu vương lại bảo:

– Xin hãy đi ngay.

Rồi Chim thần thả Long vương ra. Long vương liền biến mất vào cảnh giới của loài Rồng rắn.

Còn Ðiểu vương trở về nơi cư ngụ của loài Kim sí Ðiểu, tự nhủ:

– Long vương Pandara đã được ta tin tưởng nhờ lời thề nguyền nên được ta thả ra. Bây giờ ta phải thử thách xem tình cảm của vị này đối với ta ra sao.

Rồi đi đến cảnh giới Long vương, Chim thần này nổi cơn thần phong của loài Kim sí Ðiểu lên thật mạnh.

Thấy vậy, Long vương tưởng Kim sí Ðiểu vương đến bắt mình, liền hóa hình dài cả ngàn sải (1 sải: 1m 82) và nuốt cát sỏi cho nặng rồi nằm sâu xuống, vừa dấu đuôi dưới mình xong, vừa vội giương cao mồng lên như thể sẵn sàng cắn Ðiểu vương.

Thấy vậy, Ðiểu vương liền ngâm vần kệ:

  1. Kìa, Long vương trước đã làm lành,
    Nay bỗng dưng ngài há bộ nanh,
    Với địch thủ ngài trong thuở trước,
    Vì đâu ngài phách lạc hồn kinh?

Nghe lời này Long vương ngâm ba vần kệ:

  1. Phải luôn nghi ngại kẻ thù mình,
    Chớ quá tin ngay bạn chí tình,
    Lòng cả tin sinh niềm sợ hãi,
    Giết ngươi từ gốc đến đầu cành.
  2. Sao đặt lòng tin tưởng một người
    Trước kia ta đã cãi tranh rồi?
    Hãy lo phòng hộ mình cho kỹ,
    Yêu kẻ địch à? – Chẳng có ai!
  3. Hãy gây tin tưởng khắp nơi nơi,
    Song chớ tin vào bất cứ ai,
    Ðừng để người nghi ngờ chính bạn,
    Song tâm hướng đến mối nghi hoài;
    Người nào thực sự là người trí,
    Cần phải hết lòng gắng sức thôi,
    Bản tính mình không hề để lộ,
    Phơi bày ra trước mặt người đời!

Hai vị đã trò chuyện với nhau như vậy xong liền hòa giải với nhau và cùng nhau thân thiết đi đến am của ẩn sĩ khổ hạnh kia.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Này thấy xứng đôi bạn thánh thần,
    Toát ra dáng điệu tịnh tham tâm,
    Như đôi tuấn mã cùng cương chạy,
    Ðến chốn nhàn cư của Thánh nhân.

Về vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Long vương đi thẳng đến thầy tu,
    Rồng chúa báo ngay với kẻ thù:
    “Phải biết hôm nay ta thoát nạn,
    Không nhờ tình Thánh giả dành cho!”.

Tiếp theo, vị khổ hạnh liền ngâm vần kệ khác:

  1. Trịnh trọng ta thề trước Ðiểu vương,
    Với ngài, ta nặng trĩu tình thương,
    Hơn bao giờ cả, song rung cảm
    Vì mối tình thân với đại bàng,
    Ta đã sai lầm vì cố ý,
    Chớ không do bởi tính ngông cuồng!

Nghe vậy, Long vương liền ngâm ba vần kệ:

  1. Người thấy đời này lẫn kiếp sau
    Chẳng hề thương ghét nhọc lòng đâu,
    Tu hành đội lốt, ngài mong dấu
    Hành động phi nhân, ngược thánh bào.
  2. Nhuốm đầy ty tiện, dáng cao siêu,
    Khoác áo tu, lòng chẳng tự điều,
    Bản tính chứa tầm tư hạ liệt,
    Ngài chuyên tạo ác nghiệp bao nhiêu!

Rồi để khiển trách gã, vị này lại ngâm vần kệ nhiếc mắng:

  1. Chỉ điểm, dối lừa, muốn giết oan
    Bạn lành vô tội, vậy ta mong
    Nhờ đây Thề nguyện điều Chân thật:
    Bảy mảnh, đầu ngài phải vỡ tan.

Thế là ngay trước mắt Long vương, đầu kẻ tu khổ hạnh kia bị vỡ nát thành bảy mảnh và mặt đất nứt ra ngay ở nơi gã đang ngồi. Gã biến mất vào lòng đất và tái sinh vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Còn Long vương và Ðiểu vương đều trở về cảnh giới của riêng mình.

*

Bậc Ðạo sư làm sáng tỏ sự kiện vị ấy đã bị nuốt trửng vào lòng đất bằng vần kệ sau cùng:

  1. Vì thế ta nay nhắn nhủ rằng
    Chớ bao giờ phản bội thân bằng
    Còn gì tồi tệ hơn nhìn thấy
    Một thứ bạn bè giả dối chăng?
    Bị nuốt trôi vào lòng đất lạnh,
    Kẻ mồm độc ấy ngã nhào lăn,
    Và người khổ hạnh nay đành chết
    Vì chính lời kia của chúa Rồng

*

Ðến đây bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả xưa kia nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã nói dối và bị nuốt trửng vào lòng đất.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, ẩn sĩ là Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), Long vương là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và Kim sí Ðiểu vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng hậu Sambulà (Tiền thân Sambulà)

Run rẩy nép mình dáng hãi kinh..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc Ngài trú tại Kỳ Viên, về Hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi)

Phần khởi đầu được kể đầy đủ trong Tiền thân Kammàsapinda (số 415, tập IV). Lúc bấy giờ nhờ công đức cúng dường ba phần cháo dâng đức Như Lai, ngay hôm ấy bà được sắc phong địa vị chánh hậu, cai quản đám cung tần trung tín, bà đầy đủ năm vẻ nữ sắc yêu kiều, tài trí tột bực, lại là đệ tử của đức Phật, bà tỏ ra là một vợ hiền tận tụy. Lòng nhiệt tình của bà sáng chói tỏa khắp cả kinh thành.

Vì vậy một ngày kia, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn luận trong Chánh pháp đường việc hoàng hậu Mallikà là một hiền phụ trung kiên, tận tụy như thế nào. Bậc Ðạo sư, lúc đến đó, liền hỏi các Tỷ-kheo đang bàn luận đề tài gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngay xưa nữa, bà ấy đã là một vợ hiền tận tụy.

Nói vậy xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, Brahmadatta có một hoàng nam mệnh danh là Sotthisena, và lúc đến tuổi trưởng thành, chàng được phong làm phó vương. Chánh phi của chàng là Sambulà cực kỳ diễm lệ, dung sắc rực rỡ chói lọi như thể ánh đèn chiếu sáng trong chốn tối tăm.

Song dần dần chứng bệnh phong cùi xuất hiện trên mình phó vương Sotthisena và mọi lương y đành bó tay chữa trị. Khi các vết lở loét chảy mủ ra, thật hôi tanh khủng khiếp đến độ phó vương tuyệt vọng kêu lên:

– Ngai vàng có ích gì cho ta đâu? Thôi ta vào rừng sâu này chết một mình không cần bạn bè cho xong.

Khi đã cho trình vua cha, chàng rời hậu cung ra đi.

Mặc dù chàng cố sức ngăn cản, Sambulà vẫn không chịu trở về, mà bảo:

– Thiếp xin nguyện chăm sóc Chúa công trong rừng thẳm.

Rồi nàng cùng chàng ra đi, từ bỏ kinh thành. Khi vào rừng, chàng xây một lều cỏ để trú thân ở một nơi có bóng cây và nước suối, trái rừng đầy đủ. Còn vương phi săn sóc chàng ra sao?

Nàng dậy thật sớm, quét dọn lều sân mang nước đến cho chàng súc miệng. Khi chàng súc miệng xong, nàng nghiền nát nhiều loại cỏ thuốc thoa vào các vết lở loét của chàng rồi đưa trái cây ngon ngọt cho chàng ăn. Khi chàng đã súc miệng, rửa tay, nàng chào chàng và bảo:

– Xin Chúa công hãy chuyên tâm làm việc thiện.

Rồi nàng cầm cái thúng, cái xẻng, và cái móc đi vào rừng hái trái cây cho chàng. Khi chàng ăn hết, nàng đem nước thơm cho chàng uống rồi mới ăn trái cây phần mình.

Nàng lại sắp đặt một tọa sàng có khăn phủ lên, và trong lúc chàng nằm trên đó, nàng rửa chân cho chàng, thay áo quần, tắm gội đầu cho chàng xong, nàng đến nằm xuống cạnh tọa sàng. Nàng chăm sóc Chúa công của nàng như vậy đó.

Một ngày kia, trong lúc đem trái cây về nhà, nàng thấy một hang có con suối, nàng liền đặt thúng trên đầu xuống, đứng bên bờ hang, rồi bước xuống tắm, nàng xoa khắp người với thuốc nhuộm vàng rồi tắm rửa. Xong xuôi nàng trèo lên mặc áo quần bằng vỏ cây và đứng trên bờ suối. Cả khu rừng sáng rực lên vì dung sắc rực rỡ tỏa ra từ thân thể nàng. Lúc ấy có một con ác quỷ Dạ-xoa đi tìm mồi, thoạt trông thấy nàng, liền mê mẩn ngâm đôi vần kệ sau:

  1. Run rẩy nép mình dáng hãi kinh,
    Ai đây đang đứng cạnh hang ghềnh,
    Nói đi, thục nữ thân bồ liễu,
    Quyến thuộc là ai, với quý danh?
  2. Nương tử là ai, đẹp rỡ ràng,
    Ðâu là dòng giống của nhà nàng,
    Khiến nàng chiếu rực khu rừng sáng,
    Chốn lạc cư muôn loại thú hoang?
    Yêu quỷ là ta đầy kính cẩn
    Nghiêng mình, bái phục trước tôn nhan!

Nghe ác quỷ nói thế, nàng đáp lời qua ba vần kệ:

  1. Thái tử Sot-thi kế vị ngai,
    Xứ Kà-si, hãy biết như vầy,
    Ta là vương hậu hoàng nam ấy,
    Thường gọi Sam-bu chính hiệu này.
  2. Vương tử Vi-đề đang ốm đau,
    Khổ thân mê loạn ở rừng sâu,
    Mình ta chăm sóc chàng nằm liệt,
    Không thế, chắc chàng phải chết mau!
  3. Ðây miếng thịt nai thật ngọt ngon,
    Ta vừa kiếm được chốn rừng hoang,
    Ðem về dâng chúa công ta đó,
    Giờ bởi thiếu ăn đã mỏi mòn!

Ác quỷ:

  1. Chúa công bệnh hoạn ích gì chăng?
    Ngài chẳng cần vương hậu, hỡi nàng,
    Mà chỉ cần người nuôi bảo hộ,
    Ta mong chiếm địa vị ông hoàng!

Vương phi:

  1. Lòng ta mòn mỏi với ưu sầu,
    Khốn khổ bơ vơ, đẹp chẳng cầu,
    Nếu quỷ vương tìm nương tử mới,
    Hãy cầu nàng khác đẹp dường nào!

Ác quỷ:

  1. Thê thiếp bốn trăm sẵn của ta
    Tôn vinh lầu các ở đồi xa,
    Xin nàng chiếu cố, ngôi cao ngự,
    Cho thỏa bao nguyền ước thiết tha.
  2. Hỡi mỹ nhân tươi sáng ánh vàng,
    Những gì nàng quý chuộng cho nàng,
    Ta đều ban tặng, xin mời đến,
    Cùng ta tận hưởng thú trần gian.
  3. Nếu chối từ làm vợ quỷ vương,
    Hiển nhiên nàng hóa miếng mồi ngon
    Cho ta thọ dụng hôm nay đấy,
    Ðể lót lòng ta đã nhịn cơm.

Bậc Ðạo sư:

  1. Ác quỷ mày râu rậm bảy chòm,
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thấy nàng lạc lỏng bơ vơ bước,
    Liền nắm chặt tay ấy của nàng.
  2. Bị cầm giam bởi quỷ hung tàn,
    Cừu địch nàng kia, ác dục tràn,
    Nàng chỉ khóc thương chàng vắng mặt,
    Chẳng hề quên nỗi khó riêng chàng.

Vương phi:

  1. Ta chẳng buồn vì số phận ta,
    Làm mồi cho quỷ ác căm thù,
    Song vì tình trượng phu tôn quý,
    Ly biệt ta, đành phải héo khô.
  2. Chư thần đi vắng cả rồi chăng?
    Chẳng vị nào cai quản thế gian
    Ðể trấn áp hành vi sỉ nhục,
    Cản ngăn điều phóng đãng dâm loàn!

Lúc ấy cung đình của Ðế Thích Thiên chủ rung động vì công năng đức hạnh của nàng, chiếc ngai bằng hoàng thạch của ngài trông có vẻ nóng lên; ngài suy nghĩ, tìm ra duyên cớ, liềm cầm kim cang chùy phi nhanh đến trước con quỷ và ngâm vần kệ:

  1. Giữa đám quần đệ nhất danh,
    Chính nàng toàn hảo, trí thông minh,
    Khác nào ngọn lửa đang bừng sáng,
    Ví thử ngươi ăn thịt gái lành,
    Ác quỷ, đầu ngươi liền vỡ nát,
    Thành ra bảy mảnh phải tan tành.
    Vậy đừng làm hại nàng, nên thả,
    Nàng, vợ hiền dâng hiến trọn mình.

Nghe vậy, con quỷ liền thả Sambulà. Thiên chủ nghĩ thầm: “Con quỷ này sẽ còn tái phạm một lần nữa”.

Vì thế ngài lấy dây trói, giam lỏng nó trên ngọn núi thứ ba cách xa chỗ ấy, để nó không trở lại đấy được, rồi nồng nhiệt ngợi khen vương phi xong, ngài trở về thiên đình của ngài. Còn vương phi, sau khi mặt trời lặn, phải nhờ ánh trăng trở về lều cỏ.

Bậc Ðạo sư ngâm tám vần kệ giải thích sự việc:

  1. Thoát quỷ kia, nàng vội lại nhà,
    Như chim về thấy chết con thơ,
    Hay bò bị cướp bê con dại,
    Than khóc nhìn hang ổ trống trơ.
  2. Cũng vậy, Sam-bu tiếng tốt vang,
    Hoàng phi liền cất giọng kêu than,
    Thất thần, hoảng hốt, bơ vơ quá,
    Ðơn độc, vô phương giữa núi ngàn:
  3. “Tiện thiếp xin quỳ lạy Ðạo sư,
    La-môn, hiền thánh trí nhân từ,
    Bơ vơ, lạc lỏng thay, thân thiếp
    Chạy đến thần nhân để trú nhờ.

19-20. Cọp beo, sư tử, chúa sơn lâm,
Cùng các loài hoang thú ở giữa rừng,
Tiện thiếp xin chào mừng tất cả,
Cỏ cây, hoa lá mọc um tùm,
Xin chào rừng rậm màu xanh ngắt
Cùng núi cao dốc đứng chập chùng.

  1. Tiện thiếp xin thi lễ Dạ thần,
    Trên cao tinh tú điểm huy hoàng,
    Ðêm dày tựa đóa sen xanh thẳm,
    Nhuốm vẻ đậm đà nhất thế gian!
  2. Thiếp xin thi lễ cả sông Hằng,
    Là mẹ hiền chung của suối sông,
    Ở giữa loài người trên hạ giới,
    Bha-gi-ra mỹ hiệu vang lừng.
  3. Tiện thiếp xin chào đỉnh Tuyết Sơn,
    Là vua ngự trị mọi sơn lâm,
    Ðà chồng chất nhất cao hùng vĩ,
    Vượt hẳn lên toàn cảnh thế gian.

Nhìn thấy nàng đang than khóc như thế, Sotthisena nghĩ thầm: “Nàng than khóc quá lời. Ta không biết có ý gì đây, nếu nàng làm thế vì yêu thương ta, thì tim nàng sẽ tan nát. Thôi ta phải thử nàng xem sao”.

Chàng liền đi đến ngồi ở cửa lều. Nàng đến cửa vẫn còn than khóc, đảnh lễ chàng xong, nàng hỏi:

– Nãy giờ chúa công ở đâu?

Chàng đáp:

– Này vương phi, ngày thường nàng chưa hề về nhà giờ này, hôm nay nàng về quá trễ.

Rồi chàng ngâm vần kệ hỏi nàng:

  1. Này quý phi danh tiếng vọng vang,
    Sao nàng về muộn quá chiều tàn?
    Tình lang yêu dấu nào đâu hẳn
    Ðã giữ nàng lâu hóa trễ tràng?

Nàng đáp lại:

– Tâu chúa công, thiếp đang mang trái cây về nhà thì gặp một con quỷ si tình thiếp, nắm tay thiếp và bảo: “Nếu nàng không nghe lời ta, ta sẽ ăn thịt nàng ngay”.

Và nàng ngâm vần kệ:

  1. Bị cừu địch bắt, nặng sầu tư,
    Thiếp nói lời cùng quỷ Dạ-xoa:
    “Ta chẳng buồn đau vì số phận
    Làm mồi cho ác quỷ tinh ma,
    Song vì tình trượng phu tôn quý
    Ly biệt ta, đành phải héo khô”.

Rồi nàng kể hết mọi chuyện cho chàng nghe và nói:

– Khi thiếp đang bị quỷ bắt giữ như vậy không thể nào thoát thân được, thiếp liền xin sự phò hộ của chư thần, nên Ðế Thích Thiên chủ hiện ra, cầm chùy kim cang trong tay, ở trên không hăm dọa ác quỷ thả thiếp ra. Rồi ngài lại lấy dây thần trói quỷ trên ngọn núi thứ ba xa chỗ ấy, xong biến mất. Thế là thiếp đã được Ðế Thích Thiên chủ cứu mạng.

Thái tử Sotthisena nghe xong liền bảo:

– Này vương phi, chuyện có thể là như vậy. Với nữ nhân thật khó biết được sự thật. Trong vùng Tuyết Sơn có nhiều sơn nhân, ẩn sĩ, và pháp sư. Ai sẽ tin nàng đây?

Nói vậy xong chàng ngâm vần kệ:

  1. Các nàng ngọc nữ quá tinh khôn,
    Thật hiếm khi tìm được thật chơn,
    Cung cách nữ nhân làm rối trí,
    Như đường cá lội giữa trùng dương!

Nghe vậy, nàng đáp:

– Tâu Chúa công, dù chàng không tin thiếp, thiếp vẫn nói nhân danh chân lý và thiếp sẽ chữa bệnh cho chàng.

Thế là khi đã rót đầy một bình nước để thực hiện một lời Ước nguyện Chân lý, nàng đổ nước từ trên đầu chàng và ngâm vần kệ:

  1. Ước mong Chân lý, chốn nương thân,
    Thiếp chẳng yêu ai khác Chúa công,
    Thiếp nguyện cầu xin nhờ Nói Thật
    Bệnh chàng nay được chữa lành chăng?

Khi nàng thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý ấy xong, nước vừa được rảy lên đầu Sotthisena thì bệnh hủi liền biến mất như thể rỉ đồng gặp cường toan vậy. Sau khi ở lại đó vài ngày, hai vị rời khu rừng, đi đến Ba-la-nại và vào ngự viên.

Phụ vương biết chuyện hai con đã về, liền vào ngự viên, ngay tại đó, ngài bảo đem chiếc lọng hoàng gia đến che lên đầu Sotthisena, làm lễ quán đảnh sắc phong Sambulà lên ngôi chánh hậu. Sau đó ngài đưa hai con về thành, và chính ngài xuất gia tu hành, lập am trong ngự viên, nhưng vẫn thường dùng ngự thiện trong cung.

Còn vua Sotthisena chỉ phong Sambulà lên ngôi chánh hậu, song chẳng ban huệ gì cho nàng, chàng chẳng quan tâm ngay cả đến đời sống của nàng, mà chỉ ham hưởng lạc thú với những nữ nhân khác. Sambulà hờn ghen với đám tình địch kia nên gầy mòn bạc nhược, cả thân hình nổi gân xanh xao ra dáng bệnh hoạn.

Một ngày kia, phụ hoàng của vua, vi ẩn sĩ đã xuất gia ấy, đến dùng ngự thiện, nàng liền yết kiến ngài cho khuây khỏa nổi buồn. Sau khi ngài dùng bữa xong, nàng đảnh lễ ngài và ngồi xuống một bên. Trông thấy tình trạng suy nhược của nàng, ngài ngâm vần kệ hỏi:

  1. Bảy trăm vương tượng trực bên mình,
    Phòng hộ sẵn sàng khởi chiến binh,
    Thiện xạ hàng trăm ngừa hiểm họa,
    Ðâu cừu nhân đến khiến hồn kinh?

Nghe vậy, nàng đáp lại:

– Tâu phụ vương, chúa thượng không còn như xưa đối với thần thiếp nữa.

Rồi nàng ngâm năm vần kệ:

  1. Chàng yêu mỹ nữ tựa liên hoa,
    Giọng điệu thiên nga cất tiếng thưa,
    Rung động lòng chàng say đắm đuối,
    Khi chàng nghe chúng nhịp nhàng ca,
    Thiếp không còn ngự trong tâm tưởng,
    Tình cảm chàng, như một thuở xưa!
  2. Nữ nhân dáng đẹp tựa thiên nga,
    Trang điểm toàn châu báu sáng lòa,
    Tuyệt sắc cung tần nằm yểu điệu,
    Mê hồn quyến rủ mắt vương gia!
  3. Mong lần nữa lạc bước rừng hoang,
    Kiếm mỗi bữa ăn đỡ dạ chàng,
    Thiếp sẽ được chàng yêu quý lại,
    Rừng xanh ngự trị bỏ ngai vàng!
  4. Gấm vóc lụa là khoác nữ nhi,
    Cao lương mỹ vị đủ tràn trề,
    Diễm kiều, song nếu chàng không chuộng,
    Thà kết lụa đào để chết đi!
  5. Gái nghèo khốn khổ ngủ giường rơm,
    Nếu được yêu thương dưới mắt chồng,
    Cũng hưởng một đôi niềm hạnh phúc,
    Mà người chỉ thiếu tấm tình nồng
    Không hề biết đến, dù đầy đủ
    Tất cả mọi điều, tấu phụ vương!

Khi nàng giải thích cho vị vua ẩn sĩ hiểu nguyên nhân vì đâu nàng héo mòn như vậy, ngài liền triệu vua tới và bảo:

– Này vương nhi Sotthisena, khi vương nhi bị bệnh hủi giày vò khốn khổ phải chốn vào rừng sâu, nàng đã cùng vương nhi vào rừng, săn sóc hầu hạ đủ mọi nhu cầu cho vương nhi, lại nhờ thần lực Chân lý chữa bệnh cho vương nhi nữa; bây giờ sau khi nàng đã làm phương tiện cho vương nhi ngự chiếc ngai vàng, vương nhi không biết đến địa vị của nàng, thật là lỗi đạo lắm. Một hànhđộng phản bội bạn hiền như vậy là một tội lớn.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Khó tìm được vợ chung tình,
    Nam nhi tốt với vợ mình, khó sao,
    Vương nhi đức hạnh dường nào,
    Với chồng, nàng lại dạt dào tình thương.
    Vậy giờ đây, hỡi quân vương,
    Với Sambu, phải trọn đường thủy chung.

Sau khi khiển trách vương nhi xong, ngài đứng dậy bỏ ra về ngay. Khi vương phụ đi rồi, vua triệu Sambulà đến và bảo:

– Này ái hậu, xin hãy tha thứ lỗi lầm của trẫm bấy lâu nay. Từ nay về sau trẫm giao hết quyền hành cho ái hậu.

Và nhà vua ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Hưởng đầy phúc lộc dồi dào,
    Ái khanh vẫn cứ xanh xao héo mòn,
    Vì lòng nặng trĩu ghen hờn,
    Từ nay trẫm với phi tần cung nga,
    Là người dưới trướng Sam-là,
    Sẵn sàng tuân phục lệnh bà phán sai!

Từ đó nhà vua cùng hoàng hậu sống hạnh phúc bên nhau, thực hành bố thí, và các thiện pháp.

Ðến khi từ trần, hai vị đi theo đúng hạnh nghiệp của mình. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh tu tập phát khởi Thiền định, về sau tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong lại bảo:

– Không chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Mallikà đã là người vợ thủy chung.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Sambulà là Mallikà, Sotthisena là vua xứ Kosala, vị ẩn sĩ kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị thần cây Tindu (Tiền thân Gandatindu)

Lòng nhiệt thành là hướng Niết bàn..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một ông vua.

Việc giáo hóa này được kể đầy đủ trong Tiền thân số 334 Tiền thân Ràjovàda tập III và số 521, Tiền thân Tesakuna, tập V.

*

Ngày xưa tại quốc độ Kampila, trong kinh thành phía Bắc xứ Pancala, có vị vua danh hiệu Pancala, cai trị bất công vì theo ác đạo và phóng dật buông lung, bởi thế các quần thần cũng trở nên bất công như nhà vua. Dân chúng bị thuế má nặng nề áp bức liền đem vợ con lang thang vào rừng như bầy dã thú.

Những vùng trước kia là làng mạc, nay hoang vắng cả, dân chúng ban ngày thì sợ quân sĩ của nhà vua nên không dám ở trong nhà, và lấy hàng rào gai bao bọc lại, khi trời mới tảng sáng, họ đã biến dạng vào rừng. Ban ngày họ bị quân lính của vua tước đoạt của cải còn ban đêm lại bị bọn cướp hoành hành.

Vào thời ấy, Bồ-tát xuất hiện trong thân hình một vị Thần cây Tinduka ở ngoại thành, hằng năm nhận được phẩm vật cúng dường của nhà vua trị giá một ngàn đồng tiền, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua thật buông lung phóng dật, quốc độ đang suy tàn, ngoài ta ra, không ai có thể đưa vua trở về chánh đạo. Vua này là kẻ ban ơn cho ta, hằng năm lại dâng tặng ta phẩm vật một ngàn đồng tiền. Vậy ta sẽ giáo hóa cho vị vua này”.

Thế là đang đêm tối, ngài vào hậu cung đứng trên không, ngay phía đầu vương sàng, phóng ra một luồng hào quang. Vua thấy ngài sáng chói như mặt trời mọc, liền hỏi ngài là ai và từ đâu đến. Nghe vua hỏi, ngài đáp:

– Này Ðại vương, ta là thần Tinduka đến đây khuyên nhủ ngài.

Vua hỏi:

– Ngài muốn khuyên trẫm điều gì?

Bậc Ðại sĩ đáp:

– Ðại vương buông lung việc trị nước, cả quốc độ đang điêu tàn như thể làm mồi cho bọn quần thần tay sai. Vua chúa buông lơi việc trị nước không thể nào làm chủ vận mệnh quốc gia được, ngay trong đời này chính họ sẽ bị suy tàn và đời sau phải tái sinh vào địa ngục, một khi vua chúa buông lơi việc cai trị, quần thần bên ngoài lẫn bên trong quốc độ buông lơi theo cả, vì thế nhà vua phải hết sức lo trị nước.

Nói xong, ngài ngâm các vần kệ ghi lại một bài học đạo đức:

  1. Lòng nhiệt tình là hướng Niết-bàn,
    Buông lung thường dẫn đến vong thân,
    Những người tỉnh giác không hề chết,
    Phóng dật khác nào đã mạng vong.
  2. Buông lung có gốc tự kiêu căng,
    Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,
    Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,
    Ðoạn trừ phóng dật, hỡi Anh quân!
  3. Người hùng phóng dật biết bao phen,
    Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,
    Ðiền chủ trở thành người thất lạc
    Không nhà, trôi giạt, khổ triền miên.
  4. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,
    Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,
    Ví thử bạc vàng đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với ông hoàng!
  5. Phi thời phóng dật, hỡi quân vương,
    Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,
    Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy
    Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.
  6. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,
    Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,
    Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,
    Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.
  7. Ông hoàng bị tước đoạt giang san
    Với các kho châu báu, bạc vàng
    Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,
    Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.
  8. Xe ngựa, quản xa, với vệ binh,
    Lục quân lúc trước thật hùng anh,
    Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,
    Cũng chẳng còn vì nể, kính danh.
  9. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,
    Bị lời tà dụ dỗ, sai đường,
    Người ngu chóng mất vinh quang cũ
    Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.
  10. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,
    Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,
    Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,
    Tài sản người kia lớn mãi hoài.
  11. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,
    Lắng nghe dân chúng nói bao lời:
    Nhờ nghe, nhìn được điều Chân lý,
    Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.

Như vậy, bậc Ðại sĩ đã giáo hóa vua mười một vần kệ, rồi bảo:

– Ðại vương hãy đi nuôi dưỡng quốc độ, đừng chậm trễ, chớ để đất nước suy tàn.

Nói xong ngài trở lại cõi của ngài.

Vua nghe các lời khuyên ấy, vô cùng cảm kích, ngay hôm sau, ngài liền giao việc nước cho các vị đại thần và cùng với vị tế sư của hoàng gia, rời kinh thành bằng đông môn và đi được một khoảng chừng vài trăm thước. Nhằm lúc ấy, có một ông lão vốn là dân làng lấy những cành cây gai trong rừng về đặt quanh nhà, sát cửa lớn, rồi cùng vợ con vào rừng. Buổi chiều, khi quân lính vua đã bỏ đi, người ấy trở về nhà đến gần cửa bị đầu gai nhọn đâm vào chân, lão ngồi vắt chân lên, vừa rút gai ra, vừa nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Mong tên trúng ở chiến trường
    Cho Pan-ca bạo chúa thương khóc đời,
    Như ta có cớ kêu trời,
    Thế này vì bị gai dài đâm da!

Lời nguyền rủa vua này phát ra nhờ thần lực của Bồ-tát, lão già nguyền rủa vua như thể một người được Bồ-tát nhập vào, hành động này của lão phải được hiểu như vậy. Vào lúc đó, vua cùng vị tế sư của ngài đang cải trang đứng trước mặt lão.

Vị tế sư nghe như vậy liền đáp kệ:

  1. Tôn ông nay tuổi đã già,
    Và đôi mắt đã mù lòa, cho nên,
    Chẳng công bằng để xét xem,
    Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?
    Chúa Brah-ma biết thế nào,
    Khi chân ông bị gai cào đâm da?

Nghe lời này, ông lão ngâm ba vần kệ:

  1. Hiển nhiên vì chúa Brah-ma
    Cho nên mới khổ thân ta thế này!
    Như dân cô thế thường hay
    Bị đem chém giết vì bầy hại dân.
  2. Ban đêm bị trộm ăn phần,
    Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền;
    Ác nhân đầy rẫy toàn miền,
    Khi bầy bạo chúa nắm quyền trong tay.
  3. Khổ đau vì sợ nỗi này,
    Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,
    Chung quanh nhà rải lung tung
    Ðám gai để được yên phận mình!

Nghe nói vậy vua bảo vị Sư trưởng:

– Này Sư trưởng, lão già này nói đúng lắm, đó là lỗi của ta. Vậy ta hãy trở về cai trị nước chođúng pháp.

Lúc ấy, Bồ-tát nhập vào thân của vị Sư trưởng, đứng trước mặt vua bảo:

– Tâu Ðại vương, ta hãy xem xét vấn đề này cho kỹ.

Rồi từ làng ấy qua một làng khác, hai vị lại nghe lời của một bà già. Nghe nói bà này nghèo khổ có hai con gái đã lớn mà bà không muốn cho hai con vào rừng. Nhưng chính bà phải tìm củi, lá khô về cung cấp cho hai con. Một ngày kia, bà lão trèo lên cây lượm lá, bị té lăn tròn xuống đất, liền nguyền rủa vua phải chết đi và ngâm vần kệ này:

  1. Khi nào vua ấy chết đi?
    Chao ôi, còn chúa trị vì non sông,
    Các con lẻ bóng phòng không,
    Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi!

Vị tế sư ngâm vần kệ ngăn lời bà lão:

  1. Xấu mồm vô ích, bà ơi!
    Những lời bà mới kêu trời gào la,
    Làm sao vua kiếm đâu ra
    Trong làng cho mỗi gái tơ một chồng?

Bà già nghe nói đáp lại hai vần kệ:

  1. Lời ta chẳng phải ác ngôn,
    Cũng không phải nói hoài công hão huyền;
    Khi còn thất thế dân đen
    Chịu đàn áp bởi lắm tên giết người:
  2. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài
    Thời suy, bần nữ lắm người
    Buồn tình chẳng kiếm được ai làm chồng!

Nghe bà lão nói, cả hai vị đều nghĩ: “Bà lão này nói đúng vấn đề đây”.

Rồi hai vị đi xa hơn một khoảng đường lại nghe một gã nông dân nói chuyện. Trong lúc gã cày ruộng, con bò của gã tên gọi Saliya ngã lăn ra vì bị lưỡi cày đụng phải, gã chủ bò liền nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,
    Như Sa-li ngã xuống đường,
    Thương thay! Cày đụng bị thương nằm đờ!

Vị Sư trưởng liền ngâm vần kệ chận gã lại:

  1. Ngươi hờn giận chúa Brah-ma
    Song ai có thấy đâu là nguyên do?
    Vì ngươi phỉ báng đức vua,
    Tội kia tất cả đều là của ngươi!

Nghe thế, gã nông phu đáp ba vần kệ:

23-24. Vì vua, ta cứ giận sôi,
Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay;
Dân đen thất thế như vầy,
Bị tàn sát bởi lắm tay giết người:
Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Gia nô phải nấu hai lần
    Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,
    Lúc đang há họng chờ nhà,
    Bò ta bị đụng ắt là mạng toi!

Đi xa hơn một đoạn nữa, hai vị vào một làng kia. Sáng sớm hôm sau, một con bò trở chứng đá người vắt sữa ngã nhào, sữa đổ tung tóe. Người này liền ngâm vần kệ nguyền rủa vua Brahmadatta:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,
    Như ta, bò đá lăn chiêng,
    Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay!

Vị tế sư ngâm vần kệ đáp:

  1. Này, bò đá gậy thúc dai,
    Hay là thùng sữa của người đổ ra,
    Việc gì đến chúa Brah-ma,
    Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?

Nghe vậy người vắt sữa bò ngâm ba vần kệ đáp:

28-29. Pan-ca chúa đáng trách thay
Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,
Dân lành cô thế thấy luôn
Bị tàn hại bởi những quân giết người:
Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Hung hăng là thứ bò rừng,
    Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,
    Ta đành vắt sữa hôm nay,
    Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng!

Hai vị bảo nhau:

– Gã này nói đúng đấy.

Rồi từ làng ấy hai vị đi ra đường cái tiến về kinh thành. Trong một làng nọ, có gã thu thuế giết một con bê con có đốm rồi lột da để làm bao da bọc kiếm, khiến bò mẹ nó quá buồn khổ vì mất con thơ, bỏ cả ăn cỏ uống nước, chỉ lang thang kêu khóc. Thấy vậy trẻ con trong làng nguyền rủa vua:

  1. Cầu Pan-ca chúa héo mòn,
    Hoài công than khóc mất con như vầy,
    Bò kia quẩn trí thương thay,
    Ði tìm bê nhỏ, người nay giết càn!

Vị tế sư liền ngâm vần kệ khác:

  1. Khi bò trâu phải lạc đàn,
    Muốn vơi nỗi khổ, khóc vang kêu gào.
    Vậy thì duyên cớ làm sao
    Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?

Lũ trẻ đáp lại hai vần kệ sau:

  1. Tội tình của chúa Bra-hma,
    Việc này con thấy rõ ra rành rành:
    Bơ vơ khốn đốn dân lành,
    Vẫn thường bị bọn bạo hành giết tươi:
  2. Ban đêm bị trộm rình mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,
    Cớ sao bê hãy còn non,
    Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?

– Các ngươi nói đúng đấy.

Hai vị nói xong liền ra đi. Trên đường, họ thấy trong một hồ nước khô cạn, bầy quạ đang lấy mỏ bắt ếch nhái ăn thịt. Khi hai vị đến nơi, Bồ-tát vận dụng thần lực nguyền rủa vua qua miệng con nhái:

  1. Cầu Brah-ma chúa chết chùm,
    Cùng bầy con cháu ở trong chiến trường,
    Như ta nhái bén rừng hoang,
    Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay!

Nghe vậy vị tế sư ngâm vần kệ, nói chuyện với con nhái:

  1. Nhái cần biết rõ, nhái này,
    Ðại vương không thể giữ bầy nhái ranh!
    Việc này vua chẳng tội tình,
    Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày!

Nghe vậy, nhái đáp lại hai vần kệ:

  1. Tế sư lời nịnh khéo thay,
    Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,
    Mặc cho dân bị sát tàn,
    Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư
    Quả là đệ nhất tài ba;
    Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.
  2. Nước này an lạc, thái bình,
    Quạ kia được hưởng phần mình cực sang
    Có đâu cần phải giết càn
    Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?

Nghe vậy vua và vị Sư trưởng đều nghĩ thầm: “Tất cả mọi loài, ngay cả nhái rừng, đều nguyền rủa ta”.

Vì thế, khi về thành, hai vị lo cai trị nước thật đúng pháp và hành trì theo lời thuyết giảng của bậc Ðại sĩ, hai vị chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác.

*

Ðến đây, bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại với vua Kosala bằng các lời này:

– Này đại vương, một vị vua phải dứt bỏ các ác đạo và cai trị đúng pháp.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Thần cây Tinduka chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVII

Phẩm Bốn Mười Bài Kệ

  1. Chuyện ba con chim (Tiền thân Tesakuna)

Điều này cha muốn hỏi Ves-san …,

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc giáo giới vua Kosala.

Bấy giờ vị vua này đến nghe thuyết pháp và bậc Đạo Sư bảo vua như sau:

– Thưa Đại vương, một vị vua phải cai trị vương quốc chân chánh, vì bất cứ khi nào các quân vương bất chánh thì quần thần cũng bất chánh theo.

Và khi giáo giới vua theo Chánh đạo như đã kể trong Chương Bốn, Ngài nêu ra những khổ đau liên hệ đến việc theo ác đạo, hoặc hạnh phúc liên hệ đến việc từ bỏ ác đạo và trình bày đầy đủ chi tiết nỗi bất hạnh phát sinh từ dục lạc, vừa so sánh dục lạc với cơn mộng hoặc đại loại như thế, Ngài vừa bảo:

– Trong trường hợp những người ở đời này:

Không bạc tiền mua chuộc được Tử thần,

Không từ tâm làm lắng dịu Ma quân,

Không ai thắng trong chiến trường Thần chết,

Vì tất cả đều có ngày tiêu diệt.

Và khi bước sang thế giới bên kia, trừ các thiện nghiệp công đức của riêng mình, con người không có một nương tựa vững chắc nào khác, vì vậy con người cần phải từ bỏ các mối quan hệ hạ liệt, và vì thanh danh của mình, con người không được buông lung phóng dật, mà phải tinh cần thực hành giới luật chân chánh, giống như các vị vua ngày xưa, trước khi Đức Phật ra đời, đã an trú vào lời dạy của các bậc trí, cai trị đúng pháp và lúc từ trần đạt đến cõi thiên.

Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại không có con kế vị, và lời vua cầu xin vương tử hoặc công chúa đều không được đáp ứng. Bấy giờ một hôm vua cùng đám quần thần hộ tống đông đảo đến ngự viên, và sau khi du hí nữa ngày trong vùng ấy, ngài bảo trải sàng tọa cho ngài nằm dưới gốc cây Sàla vương giả. Sau một giấc ngủ trưa ngắn, ngài thức dậy và nhìn lên cây Sàla, ngài thấy một tổ chim trên đó. Vừa chợt thấy nó, một ước muốn chiếm tổ chim kia nảy sinh trong lòng, ngài truyền gọi một vị hầu cận đến bảo:

– Hãy trèo lên cây xem thử có gì trong tổ không?

Người ấy trèo lên, thấy có ba quả trứng trong đó, liền trình vua. Ngài phán:

– Vậy khanh hãy cẩn thận đừng thổi hơi vào chúng. Ngài bảo.

Rồi trãi một ít vải trong một cái hộp, ngài dặn người ấy đi xuống nhẹ nhàng, và đặt trứng vào trong đó.

Khi trứng đã được đưa xuống xong, ngài cầm hộp đến hỏi đám cận thần xem các trứng này thuộc giống chim gì. Họ đáp:

– Chúng thần không biết, song đám thợ săn sẽ biết.

Vua truyền gọi các thợ săn đến hỏi. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, một trứng chim cú, một trứng khác là chim may nha và trứng thứ ba là chim anh vũ hét.

– Có ba loại trứng khác nhau trong một tổ chim ư?

– Tâu Đại vương, phải, khi không có gì đáng lo ngại thì vật gì được khéo sắp đặt sẽ không hư hoại được.

Vua đẹp ý bảo:

– Chúng nhất định sẽ là các con trẫm.

Rồi giao ba quả trứng cho ba vị quan trong triều chăm sóc, ngài bảo:

– Đây sẽ là các con trẫm. Các khanh hãy cẩn thận chăm nom chúng và khi nào chim non nở ra khỏi vỏ, hãy báo tin cho trẫm.

Ba vị chăm sóc trứng rất chu đáo. Trước tiên trứng chim cú được ấp nở và vị quan đầu đi tìm một người thợ săn bảo:

– Hãy xem chim non này thuộc giống gì, nó là chim trống hay mái.

Khi kẻ ấy xem xét xong, tuyên bố đó là chim trống, vị quan đến trình vua:

– Tâu Đại vương, một vương nhi đã ra đời.

Vua hài lòng, ban thưởng ông nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm sóc các con trẫm cẩn thận và đặt tên nó là Vessantara.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm những việc được giao.

Sau đó vài hôm, trứng chim Maynah được ấp nở, vị quan thứ hai cũng vậy, sau khi bảo một thợ săn xem xét nó và nghe đó là chim mái, liền đi tâu trình vua một công chúa ra đời. Vua đẹp ý ban thưởng nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm nom con gái trẫm thật cẩn thận và đặt tên nó là Kundalini.

Ngài lại bảo ông ra về. Ông cũng làm những việc được dặn.

Sau đó vài hôm nữa, trứng chim anh vũ được ấp nở và vị quan thứ ba, sau khi được người thợ săn xem xét kỹ, nói đó là chim trống, liền đi tâu vua một vương tử mới ra đời. Vua hoan hỷ ban thưởng rộng rãi và bảo:

– Hãy làm lễ tôn vinh vương tử của trẫm thật long trọng và đặt tên nó là Jambuka.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm theo lời dặn.

Ba con chim này lớn lên trong nhà ba vị quan ấy giữa mọi lễ nghi thích hợp với hoàng gia. Vua thường gọi chúng là “con trai trẫm”, “con gái trẫm”.

Các triều thần thường nói đùa với nhau:

– Hãy xem chúa thượng làm kia: ngài cứ đi quanh nói chuyện về bầy chim như các con của ngài vậy.

Vua suy nghĩ: “Quần thần nầy không biết mức độ trí tuệ của các con ta. Ta muốn chứng tỏ việc nầy cho họ thấy.”

Vì thế ngài truyền một vị cận thần đến bảo Vessantara:

– Phụ vương muốn hỏi vương tử một câu. Vậy khi nào ngài có thể đến hỏi được?

Vị ấy đến chào Vessantara và đưa lời vua truyền. Vessatanra mời vị quan chăm sóc mình đến và nói:

– Họ bảo phụ vương ta muốn hỏi ta một câu. Khi ngài đến, chúng ta phải bày tỏ tất cả lòng tôn kính đối với ngài.

Và chim hỏi thêm:

– Vậy khi nào phụ vương có thể đến?

Vị quan đáp:

– Xin mời Đại vương đến vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay.

Vessatara nghe vậy liền bảo:

– Xin mời phụ vương đến vào ngày thứ bảy kể từ nay.

Cùng với những lời này, chim bảo ông ra về. Ông đi đến trình vua. Vào ngày thứ bảy, vua truyền đánh trống khắp kinh thành và đi đến nhà vương nhi của ngài đang cư ngụ.

Vessatara tiếp đãi phụ vương vô cùng cung kính và tỏ ra hết lòng quý trọng ngài cả đám nô tỳ và gia nhân. Sau khi vua ngự yến tiệc tại nhà Vessatara và thọ hưởng mọi sự chiêu đãi trọng thể, ngài ra về cung thất của ngài.

Sau đó ngài truyền dựng một cái đình lớn trong sân chầu và truyền đánh trống khắp kinh thành báo tin xong, ngài ngự vào cái đình nguy nga lộng lẫy được quần thần đông đảo vây quanh, rồi bảo một vị quan đưa Vessatara đến yết kiến ngài. Vị ấy đặt Vessantara lên một kim đôn. Con chim đậu lên lòng phụ vương và chơi với ngài, xong bay qua đậu lên kim đôn ấy.

Rồi giữa đám quần thần, vua ngâm vần kệ đầu hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Điều nầy cha muốn hỏi Ves-san,
    Cầu chúc cho con yêu được lạc an:
    Với một vị vua mong trị nước,
    Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?

Vessantara không trả lời trực tiếp câu hỏi trên, mà khiển trách vua cha về tính buông lung phóng dật, và ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Kam-sa, chúa tể xứ Kà-si,
    Phóng dật buông lung đã lắm khi,
    Thúc dục con, dù đầy nhiệt huyết,
    Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.

Chim khiển trách vua qua vần kệ này và bảo:

– Tâu Đại vương, một vị vua phải cai trị đất nước đúng Chánh pháp và tuân thủ ba chân lý này.

Rồi chim ngâm các vần kệ nói về phận sự quân vương:

  1. Trước hết vị vua phải vứt đi,
    Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
    Phải làm những việc cần hành động,
    Nếu chẳng làm xong, sẽ lỗi thề.
  2. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
    Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
    Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
    Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.
  3. Khi vua trị nước quá buông lung,
    Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
    Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  4. Thần nữ Cát tường với Vận may,
    Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
    “Chúng ta thích hạng người can đảm,
    Nghị lực, thoát ly tật đố này”.
  5. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
    Thích những người làm các ác hành,
    Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
    Trong tâm ganh tỵ cứ dần sinh.
  6. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
    Để cho mọi sự được an toàn,
    Tránh xa Vận rủi, song làm chỗ,
    An trú Vận may thật vững vàng.
  7. Con người tốt số lại can trường,
    Ngự trị Kà-si, chính phụ vương,
    Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
    Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.
  8. Thiên chủ Ska-ka mãi ngắm trông,
    Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
    Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
    Nhận thức đó là chính thiện lương.
  9. Thác-bà, Thiên chúng lẫn loài người.
    Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
    Các bậc thần linh đều ủng hộ
    Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.
  10. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
    Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
    Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
    Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.
  11. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Đủ đạt phước phần cho thiện hữu
    Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.

Như thế chim Vessantara đã khiển trách vua phóng dật trong một vần kệ, rồi ngâm mười một vần kệ nữa để trả lời câu hỏi của vua với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Tâm quần chúng tràn đầy thích thú lẫn kinh ngạc chưa từng có và vô số tiếng reo tán thán vang dậy.

Vua xúc động với niềm hân hoan liền hỏi quần thần phải làm gì cho vương tử vì đã nói như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, vương tử phải được phong chức đại tướng quân.

– Tốt lắm, trẫm ban cho vương tử chức đại tướng. Ngài phán.

Và Ngài bổ nhiệm Vessantara vào chức vụ còn trống ấy.

Từ đó về sau, ở địa vị, vương tử thực hành mọi ước của phụ vương. Đến đây chấm chuyện về câu hỏi chim Vessantara.

*

Sau vài ngày nữa, cũng như trước kia, vua gởi thông điệp đến Kundalinì, và vào ngày thứ bảy, ngài ngự đến thăm chim con rồi trở về cung, ngự giữa ngôi đình và truyền đưa Kundalinì đến yết kiến ngài. Khi chim này đã đậu trên kim đôn, ngài ngâm vần kệ hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Kun-da-li, ái điểu hoàng gia,
    Con hãy đáp câu hỏi của cha:
    Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
    Sống sao tốt nhất cõi người ta?

Khi vua cha hỏi chim về phận sự của một quốc vương như thế, chim con đáp.

– Tâu phụ vương, con chắc phụ vương muốn thử con vì nghĩ rằng: “Nữ nhi có thể bảo ta việc gì nào?”. Vậy con xin đáp lời phụ vương bằng cách đặt mọi phận sự quân vương vào đúng hai phương châm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

  1. Vấn đề được đặt, hỡi thân bằng,
    Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
    Gìn giữ những gì ta phải đạt,
    Tránh xa những việc chẳng nên làm.
  2. Quốc sư hãy chọn các hiền nhân,
    Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
    Không phóng đãng và không phí phạm,
    Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.
  3. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
    Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
    Như người điều ngự vương xa ấy,
    Lèo lái giang sơn đến phú cường.
  4. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
    Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
    Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
    Phải tự mình làm đúng kỷ cương.
  5. Những ích lợi hay việc hại mình,
    Đại vương phải biết thật phân minh,
    Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
    Khen thưởng những người thật xứng danh.
  6. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
    Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
    Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
    Phải hóa mồi quan lại ác gian.
  7. Canh phòng hành động của vua quan,
    Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
    Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
    Về sau chắc chắn sống ăn năn.
  8. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
    Vì chưng sân hận vỡ tràn lan,
    Liền đem nguy hại cho vua chúa,
    Đánh bại người kiêu mạn nhất trần.
  9. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
    Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
    E rằng tất cả người nam nữ,
    Sa đọa vào trong biển khổ buồn.
  10. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
    Dục lạc là nguồn sống bản thân,
    Tài sản, kho tàng đều mất hết,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  11. Đây là nhiệm vụ của quân vương
    Chỉ dạy phụ vương bước đúng đường,
    Thực hiện chuyên tâm toàn thiện nghiệp,
    Chống điều quá độ, thói hoang toàng,
    Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi
    Luôn dẫn đến đau khổ đoạn trường.

Như vậy Kundalinì cũng dạy phận sự quân vương trong mười một vần kệ. Vua thích thú hỏi quần thần:

– Phải ban thưởng gì cho ái nữ của trẫm vì đã nói như vậy?

– Tâu Đại vương, ban chức thủ ngân khố.

Và ngài chỉ định Kundalinì vào địa vị còn trống ấy. Từ đó chim này giữ chức vụ trên và làm việc cho vua.

Đến đây chấm dứt chuyện về câu hỏi chim Kundalinì.

*

Sau chừng vài ngày, cũng như trước kia, vua truyền sứ giả đến gặp bậc trí điểu Jambuka, rồi khi ngài đến viếng nhà con vào ngày thứ bảy và đã được chiêu đãi trọng thể tại đó, ngài trở về cung và cũng như trên, ngài ngự vào bảo tọa giữa đình. Một vị triều thần đặt bậc trí điểu Jambuka trên một kim đôn rồi đến mang kim đôn lên đầu mình.

Chim anh vũ thông thái ngồi trong lòng phụ vương, chơi với ngài rồi sau cùng đậu trên kimđôn ấy. Khi đó vua ngâm vần kệ hỏi chim:

  1. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,
    Công chúa Kun-da-li đẹp xinh,
    Đến lượt Jam-bu-ka hãy nói,
    Cho cha biết lực tối cao minh.

Như vậy vua, trong lúc đặt vấn đề với bậc Đại Sĩ, đã không hỏi theo cách vua đã hỏi hai chim kia, mà hỏi theo một cách đặc biệt. Lúc ấy con chim thông thái bảo ngài:

– Tốt lắm, tâu phụ vương, xin hãy lắng nghe kỹ, con sẽ trình phụ vương tất cả.

Rồi giống như một người đặt chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền vào một bàn tay mở rộng, chim bắt đầu thuyết giảng phận sự của quân vương:

  1. Giữa bao người vĩ đại trên trần,
    Năm lực này, ta thấy rõ ràng:
    Sức mạnh tứ chi là thấp nhất,
    Kế là quyền lực của kim ngân.
  2. Thứ ba là lực của lời khuyên,
    Giai cấp hiển nhiên đệ tứ quyền,
    Tất cả điều này, người có trí,
    Sẽ đều công bố thật đương nhiên.
  3. Lực tối ưu trong các lực này,
    Khả năng trí tuệ chính là đây,
    Nhờ vào uy lực này, người trí,
    Thành tựu phần mình tốt đẹp thay.
  4. Ví thử quốc gia đại phú cường,
    Rơi vào tay của một ngu nhân,
    Một người khác sẽ dùng cường bạo,
    Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.
  5. Dù quân vương quý tộc cao sang,
    Phận sự chính là ngự trị dân,
    Vua ấy quả là rất khó sống,
    Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.
  6. Trí tuệ xét xem các việc làm,
    Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
    Người nào trí tuệ đầy thông thái,
    Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.
  7. Không ai sống phóng dật buông lung,
    Lại có thể nào đạt trí thông,
    Nhưng phải theo lời khuyên bậc trí,
    Nếu không, sẽ mãi mãi ngu đần.
  8. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
    Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
    Làm bao phận sự đang mời gọi,
    Chắc chắn thành công ở giữa đời.
  9. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
    Hoặc hành động với trí buông lung,
    Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
    Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.
  10. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
    Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
    Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
    Bất kỳ công việc họ đang làm.

37-38. Hộ phòng bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng;
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống như nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.

Như vậy qua các vấn đề này, Bồ-tát ca ngợi năm uy lực, vừa tán dương uy lực của trí tuệ, như người dùng lời nói gõ vào mặt trăng, ngài khuyến giáo vua trong mười một vần kệ.

  1. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
    Phận sự thi hành thật chánh chân,
    Như vậy, sống theo đời chánh trực,
    Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Sau khi ngâm các vần kệ về nếp sống chân chánh, Bồ-tát lại ngâm vần kệ kết thúc để khuyến giáo vua thêm nữa:

  1. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Theo trí tuệ và luôn hạnh phúc,
    Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.

Như vậy bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp với tất cả vẻ kỳ diệu của một vị Phật, chẳng khác nào đem dải Thiên hà từ trời xuống. Quần thần tỏ ra vô cùng kính trọng ngài và vô số tiếng hò reo tán thán vang dậy. Vua hân hoan hỏi đám quốc sư:

– Làm sao để vương tử của trẫm, bậc trí điểu Jambuka với chiếc mỏ như quả hồng đào tươi mát, được phần thưởng vì đã nói như thế?

– Tâu Đại vương, xin ban chức thống soái.

– Thế thì trẫm sẽ ban cho con trẫm chức vụ ấy.

Vua phán rồi chỉ định vương nhi vào chức vụ còn trống ấy. Từ đó về sau, ở địa vị thống soái, ngài thi hành các mệnh lệnh của phụ vương.

Cả ba chim con đều được tôn vinh trọng thể và cả ba đã khuyến giáo các vấn đề thế sự cũng như thánh sự. Vua an trú vào lời giáo giới của bậc Đại Sĩ, chuyên bố thí làm các thiện sự khác, nên được sinh làm thiên giới.

Sau khi cử hành tang lễ của vua, quần thần nói với ba con chim con:

– Tâu Chúa công Jambu, tiên vương đã ra lệnh giương chiếc lọng hoàng gia lên che Chúa công.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Ta không cần vương quốc, các vị hãy chuyên tâm tỉnh giác lo việc trị nước.

Sau khi an trú quốc dân vào giới đức, ngài bảo:

– Hãy thực hành công lý.

Rồi ngài truyền đem cách xử án công bằng khắc vào một tấm bảng vàng, và biến mất vào rừng.

Lời giáo huấn của ngài đã tiếp tục có hiệu lực trong bốn mươi ngàn năm.

*

Bậc Đạo Sư giảng Pháp thoại này làm phương tiện giáo giới vua và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), Kundalinì là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Vessantara là Sàriputta (Xá Lợi Phất) và chim Jambuka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại nhân thiện xạ Sarabhanga (Tiền thân Sarabhanga)

Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang …,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư trong lúc trú tại Trúc Lâm về sự diệt độ của Tôn giả Trưởng lão Mahàmoggallàna (Đại Mục Kiền Liên).

Còn về phần Tôn giả Sàriputta (Xá Lợi Phất), sau khi được Đức Như Lai chấp thuận trong thời Ngài trú tại tịnh xá Kỳ Viên, Tôn giả liền đi đến làng Nàla và nhập diệt tại đó, ngay chính trong phòng xưa kia Tôn giả sinh ra đời. Bậc Đạo Sư nghe tin Tôn giả này nhập diệt liền đến thành Ràjagaha (Vương Xá), trú tại Veluvana (Trúc Lâm). Lúc ấy có một Trưởng lão trú ở đó, ngay trên sườn núi Isigili (chư Thánh sơn) tại Hắc Thạch động. Tôn giả này khi đắc Thánh quả, nhờ thần thông có thể lên trời hay xuống địa ngục.

Trên thiên giới, Tôn giả này thấy một vị đệ tử của đức Phật thọ hưởng đại quyền lực; còn trong hạ giới, Tôn giả lại thấy đệ tử của đám ngoại đạo tà giáo chịu đau khổ kinh hồn, nên khi trở về cõi nhân gian, Tôn giả kể cho mọi người nghe chuyện trên một cõi thiên kia, có một Tỷ kheo này hay Tỷ kheo ni nọ được tái sinh thọ hưởng vinh quang cao trọng, còn trong những kẻ theo ngoại đạo tà giáo lại có người thác sinh vào địa ngục hay các đọa xứ đầy đau khổ khác.

Dân chúng hoan hỷ lời dạy của Tôn giả này, bác bỏ lời tà thuyết ngoại đạo. Họ bày tỏ sự tôn kính trọng đại đối với các đệ tử của đức Phật, còn lòng kính trọng đối với các ngoại đạo sư giảm dần. Bọn ấy sinh lòng căm hận vị Trưởng lão này, bảo nhau:

– Bao lâu lão này còn sống, là còn nhiều chia rẽ giữa đám tín đồ của ta. Lòng tôn trọng đối với ta mất dần. Vậy ta phải giết lão đi mới được.

Họ liền đưa một ngàn đồng tiền cho tên cướp thường canh giữ các ẩn sĩ để giết vị này đi, gã liền quyết tâm giết vị Trưởng lão, nên đi đến Hắc Thạch Sơn cùng với đồng bọn đông đảo, vị Trưởng lão khi thấy gã đến liền dùng thần lực bay lên không biến mất. Tên cướp không thấy vị Trưởng lão hôm ấy, đành trở về nhà rồi lại đến trong sáu ngày liền, song vị Trưởng lão vẫn dùng thần thông biến mất dạng như trước.

Vào ngày thứ bảy, một tiền nghiệp do Tôn giả gây ra trong một đời trước, mang theo hậu quả lâu dài ở đời sau, giờ đây đang có cơ duyên xuất hiện để gây tai họa.

Chuyện kể rằng, một thưở xa xưa, vì nghe theo lời vợ mình xúi giục, vị này tìm cách làm cho cha mẹ mình chết đi, đã đem xe chở cha mẹ mình vào rừng, giả vờ như bị bọn cướp tấn công rồi đánh đập song thân. Do tuổi già mắt kém không thấy mọi vật rõ ràng, hai vị không nhận ra chính con mình, cứ tưởng có bọn cướp thật, liền kêu lên:

– Con ơi, bọn cướp đang giết mẹ cha, vậy con hãy trốn đi.

Rồi họ chỉ than khóc vì con mình thôi.

Vị này liền nghĩ: “Dù cha mẹ ta bị ta đánh đập, hai vị chỉ vì ta mà than khóc đó thôi. Ta thật đã làm một việc đáng sĩ nhục”. Vì thế ông an ủi mẹ cha, giả vờ bảo bọn cướp đã bị đánh đuổi đi rồi, và vỗ về tay chân cha mẹ, bảo:

– Xin song thân chớ sợ, bọn cướp trốn cả rồi.

Sau đó ông đem cha mẹ về nhà.

Hạnh nghiệp này mãi từ lâu không tìm được cơ duyên, nhưng vẫn đợi thời, như lòng ngọn lửa ấp ủ dưới tro tàn, bùng dậy bắt lấy Tôn giả này khi tái sinh lần cuối, nên vị Trưởng lão mang nghiệp quá đã chín muồi ấy không thể nào bay lên không được nữa. Thần thông của Tôn giả này ngày xưa đã có lần nhiếp phục Nanda cùng Upananda hai Long vương và làm rung chuyển cả tối thắng điện Vejayanta ở Thiên cung, giờ đây vì chịu nghiệp quả phải suy yếu đi. Thế là tên cướp đập nát xương Tôn giả ra, bắt chịu thứ cực hình gọi là “rơm và bột”, rồi tưởng vị này đã chết, nên cùng đồng bọn bỏ đi.

Nhưng khi Trưởng lão này tỉnh lại liền dùng định lực bao phủ thân mình như đắp y bay lên không trở về yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ Ngài và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của con đã tận, con sắp tịch diệt.

Rồi được bậc Đạo Sư chấp thuận. Tôn giả nhập diệt ngay tại chỗ. Vào lúc ấy, sáu cõi thiên giới cùng nổi lên chấn động, chư thiên đồng nhau khóc:

– Đạo Sư của chúng ta đã tịch diệt!

Thiên chúng liền đem hương liệu, tràng hoa ngát mùi hương thiên giới cũng gỗ đủ loại đến và dàn hỏa táng được dựng lên bằng gỗ chiên đàn cùng chín mươi chín bảo vật.

Bậc Đạo Sư bảo Tăng chúng đặt kim thân Tôn giả này vào địa điểm hành lễ, trong lúc Ngài đứng ngay cạnh đó, và suốt trong khoảng một dặm đường quanh dàn hỏa táng, hoa trời rơi xuống như mưa sa, chư Thiên và loài người cũng đứng chen lấn nhau, dự Thánh lễ suốt bảy ngày. Bậc Đạo Sư bảo lượm xá lợi đầy đủ, và dựng đền thờ trong ngôi nhà có gác nhọn tại Trúc Lâm.

Vào lúc ấy trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đưa đề tài chuyện ấy ra, bảo nhau:

– Thưa các Hiền hữu, Tôn giả Xá lợi phất vì không diệt độ trong khi yết kiến Như Lai, nên không được hưởng lễ nghi trọng thể từ bàn tay đức Phật, còn Tôn giả Mục Kiền Liên, vì diệt độ cạnh bậc Đạo Sư nên đã được vinh dự cao cả như thế.

Bậc Đạo Sư đến nơi, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi đàm luận vấn đề gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa Mục Kiền Liên cũng nhận được đủ vinh dự từ bàn tay Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai phu nhân, vị quốc sư của hoàng gia. Sau mười tháng, Ngài sinh ra đời một sáng sớm kia. Lúc ấy một loạt đủ loại binh khí ở kinh thành Ba-la-nại sáng rực trong khoảng mười hai dặm đường. Vị quốc sư ấy, vào hôm hài nhi ra đời, bước ra khỏi cửa nhìn lên trời để tiên đoán số mạng của con và biết rằng hài nhi sinh ra theo một sự kết hợp các vì sao ở thiên giới, về sau chắc chắn sẽ làm thủ lạnh thiện xạ toàn cõi Diêm-phủ -đề.

Vì thế ông vội đi thật sớm đến hoàng cung vấn an vua. Khi vua phán:

– Này Đạo sư, làm sao trẫm an khang được, hôm nay một loạt vũ khí sáng rực lên trong cung.

Ông tâu:

– Xin Đại vương chớ sợ, không những chỉ trong cung mà khắp kinh thành đều thấy ánh sáng của binh khí. Đó là do một hài nhi ra đời trong nhà chúng thần.

– Này Đạo sư, việc ra đời của một hài nhi trong những cơ duyên như thế sẽ đem lại hậu quả gì?

– Tâu Đại vương, không hề gì cả, nhưng sau này hài nhi ấy là thủ lĩnh các thiện xạ trong cõi Diêm-phủ-đề.

– Tốt lành thay, này Đạo sư, hãy khéo chăm sóc hài nhi và khi nó lớn lên, hãy đem nó đến trình diện trẫm.

Nói xong, vua ra lệnh ban một ngàn đồng tiền để nuôi dưỡng hài nhi. Vị quốc sư nhận lãnhđem về nhà.

Vào ngày đặt tên hài nhi, ông gọi hài nhi là Jotipàla (Hộ Minh) vì có ánh sáng của đám binh khí trong lúc hài nhi ra đời.

Hài nhi được nuôi dưỡng rất sang trọng và đến năm mười sáu tuổi, chàng có dung sắc tuyệt hảo. Thân phụ chàng thấy tướng mạo khác thường như vậy liền bảo:

– Này con, con hãy đi đến thành Takkàsilà, và thọ giáo mọi môn học từ một vị danh sư tiếng tăm lẫy lừng thế giới.

Chàng tuân lệnh, đem theo học phí, giã từ song thân rồi lên đường đến đó. Chàng dâng lên một ngàn đồng tiền, làm lễ nhập học rồi bắt đầu thọ giáo, chỉ trong vòng bảy ngày đã đạt đến tuyệt đích.

Vị tôn sư kia hoan hỷ tặng chàng một bảo kiếm của mình, một chiếc cung sừng dê, và một bao đựng tên, cả hai được buộc vào nhau thật khéo, một áo giáp của ông cùng một chiếc mão, rồi bảo chàng:

– Này con Jotipàla yêu quí, ta đã già, vậy con hãy tập luyện đám môn đồ này.

Vị này lại trao cho chàng năm trăm môn đồ.

Bồ-tát nhận lãnh mọi vật xong, tạ từ sư phụ, trở về Ba-la-nại để thăm viếng song thân. Thân phụ nhìn thấy chàng cung kính đứng trước mặt liền hỏi:

– Này con đã học xong chưa?

– Thưa cha, đã.

Nghe chàng trả lời thế, người cha liền vào cung, và trình vua:

– Tâu Đại vương, con trai của tiểu thần đã học hành xong, bây giờ phải làm gì nữa?

– Đạo sư hãy đem chàng vào chầu Thiên tử.

– Tâu Đại vương, xin ban bổng lộc thế nào?

– Cứ ban cho chàng mỗi ngày một ngàn đồng tiền.

Vị quốc sư tuân lệnh ngay trở về nhà gọi con trai ra bảo:

– Này con, con phải vào chầu đức vua.

Từ đó mỗi ngày chàng hưởng một ngàn đồng tiền, và lo phụng sự nhà vua.

Các quan cận thần lộ vẻ bất mãn:

– Chúng ta không thấy Jotipàla làm gì cả, thế mà hưởng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, ta muốn xem chàng có biệt tài gì.

Vua nghe họ nói thế liền nói với quốc sư. Ông tâu:

– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh.

Rồi ông trở về nhà nói chuyện với con trai.

– Thưa thân phụ, thế thì tốt quá, vào ngày thứ bảy kể từ nay, con sẽ xin trình diễn tài nghệ, xin đức vua triệu tập tất cả xạ thủ trong nước về đây.

Vị quốc sư đi vào cung, tâu vua mọi chuyện chàng nói. Vua truyền lệnh đánh trống khắc kinh thành triệu tập các xạ thủ, khi họ đến đông đủ tính được tất cả là sáu mươi ngàn người. Vua nghe họ đã tề tựu, liền phán:

– Dân chúng khắp kinh thành hãy đến chứng kiến tài nghệ của Jotipàla.

Sau khi cho trống truyền tin ra, ngài ban lệnh chuẩn bị sân chầu, rồi được đám tùy tùng đông đảo theo hầu, ngài ngự lên bảo tọa nguy nga; vừa khi triệu tập mọi xạ thủ xong, ngài cho vời Jotipàla. Dưới lớp y trong, chàng mang cung, bao tên, áo giáp và mão, những vật đã được vị sư phụ tặng chàng trước kia. Chàng lại bảo mang thanh kiếm cho chàng và đến yết kiến vua trong bộ thường phục của chàng, rồi cung kính đứng sang một bên.

Các xạ thủ kia suy nghĩ: “Người ta đồn Jotipàla đến đây cho chúng ta thấy biệt tài của chàng, nhưng chàng đến mà không mang kiếm chứng tỏ chàng muốn nhận kiếm từ tay ta”. Thế rồi họ lại thỏa thuận với nhau sẽ không trao kiếm cho chàng. Vua bảo Jotipàla:

– Hãy cho ta thấy tài nghệ của khanh.

Thế là chàng tung ra một tấm màn giống túp lều quanh chàng, rồi đứng vào trong đó, cởi áo khoác ra, nịt áo giáp trong, xong mang áo giáp ngoài và buộc mão lên đầu. Sau đó, chàng lại giương sợi dây màn san hô trên chiếc cung sừng dê, buộc bao tên sau lưng và thanh kiếm bên sườn trái, chàng xoay tít mũi tên có đầu nhọn đính kim cương trên móng tay chàng, tung bức màn ra và xuất hiện như một vị Long vương vọt lên từ lòng đất với trang phục huy hoàng rực rỡ và đứng đãnh lễ vua.

Quần chúng thầy chàng liền nhảy lên reo hò vỗ tay vang dội. Vua bảo:

– Này Jotipàla, hãy trình diễn tài nghệ của khanh.

Chàng đáp:

– Tâu Đại vương, trong đám xạ thủ này có những người bắn nhanh như chớp, chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào một tiếng động mà không cần nhìn thấy, hoặc làm gãy một mũi tên đang rơi. Xin triệu bốn vị đó đến đây.

Vua liền triệu họ ngay.

Bậc Đại Sĩ dựng rạp trên một khoảng đất vuông trong sân chầu bốn góc chàng để bốn xạ thủ ấy đứng, mỗi vị được phát cho ba mươi ngàn mũi tên, bảo người đưa tận tay mỗi vị, còn chính chàng cầm mũi tên có gắn đầu kim cương ấy, đứng giữa rạp nói lớn:

– Tâu Đại vương, xin cho bốn xạ thủ này bắn tên đâm vào tiểu thần. Tiểu thần sẽ gạt hết tên bắn ấy ra ngoài.

Vua ra lệnh cho họ làm như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chúng thần bắn tên nhanh như chớp, lại chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào tiếng nói mà không cần nhìn thấy, hoặc bắn gãy mũi tên đang rơi, còn Jotipàla chỉ là chàng trai mới lớn, chúng thần không muốn bắn chàng.

Bậc Đại Sĩ bảo:

– Nếu các Ngài bắn được ta thì cứ bắn.

-Đồng ý.

Họ bảo và đồng loạt bắn tên.

Bậc Đại Sĩ gạt chúng tới tấp bằng mũi tên sắt của chàng, bằng đủ cách làm chúng rớt xuống đất, rồi xoay một vòng quanh chúng, chàng chất chúng lên thành một kho đầy tên xếp ăn khớp với nhau, cán khớp với cán, chuôi với chuôi, lông chim với lông chim, cho đến mọi mũi tên của đám xạ thủ được dùng hết cả, chàng thấy vậy mà không muốn đụng vào kho tên kia, chàng liền nhảy lên không đến trước vua.

Dân chúng reo hò vang dậy, la hét nhảy múa vỗ tay, ném cả áo quần đồ trang sức thành mộtđống của cải châu báu có một trăm mười tám triệu đồng. Lúc ấy vua hỏi:

-Này Jotibàla, khanh gọi xảo thuật này là gì?

-Tâu Đại vương, đó là cách đỡ tên.

-Có nhiều người biết cách ấy chăng?

-Tâu Đại vương, không có ai ngoài tiểu thần trong toàn cõi Diêm-phù-đề.

-Khanh hãy biểu diễn xảo thuật khác đi.

-Tâu Đại vương, bốn xạ thủ kia đứng bốn góc không đâm trúng tiểu thần được. Song nếu họ cứ đứng bốn góc ấy, thần sẽ đâm trúng cả bọn họ chỉ bằng một mũi tên thôi.

Bốn xạ thủ kia không dám đứng đó nữa, vì thế bậc Đại Sĩ dụng bốn cây chuối ở bốn góc, buộc mỗi sợi chỉ đó tía trên phần gắn lông chim của mũi tên rồi chàng bắn mũi tên, nhắm vào một cây chuối. Mủi tên đâm vào cây chuối xong qua đến cây thứ hai, cây thứ ba, thứ tư rồi trở lại cây đầu tiên mà nó đã xuyên thủng lần trước xong, trở về trong tay vị xạ thủ; đồng thời các cây chuối đứng vòng quanh theo sợi chỉ đỏ. Dân chúng lại vang hò reo dậy.

Vua hỏi:

-Xảo thuật này gọi là gì, Jotibàta hiền hữu?

-Tâu Đại vương, đó vòng tròn bị xuyên thủng.

-Thế khanh trổ thêm tài nghệ nữa đi.

Bậc Đại Sĩ liền trình diễn các kiểu bắn tên hình gậy, hình dây thừng, hình bện tóc, và biểu diễn các xảo thuật khác gọi là: bắn tên hình cái đài cao, tên hình ngôi đình, tên hình bức tường, tên hình cầu thang, tên hình hồ nước, và bắn tên hình hoa sen nở khiến chúng rơi rào rào như mưa sa.

Như vậy, chàng biểu diễn mười hai tài nghệ vô song và làm gãy bảy vật lớn vô địch. Chàngđâm thủng một tấm ván gỗ sung dày hai tấc, một tấm gỗ asana dày một tấc, một dĩa đồng dày năm phân, một dĩa sắt dày hai phân, và sau khi đâm thủng một trăm tấm ván ghép vào nhau, lần lượt chàng bắn mũi tên vào phía trước vào các toa xe đựng đầy rơm, cát và ván gỗ, rồi làm cho tên xuyên qua ngã sau; rồi lại bắn phía sau các toa xe, và làm cho tên xuyên qua phía trước.

Chàng bắn mũi tên xuyên qua một khoảng độ hai trăm mét dưới nước và hơn bốn trăm mét trên đất liền, chàng lại chẽ sợi tóc ở cách khoảng một trăm mét, ngay dấu hiệu đầu tiên nó vừa lay động theo gió. Khi chàng biểu diễn mọi kỳ công về tài nghệ này xong, mặt trời vừa lặn.

Lúc ấy, vua hứa ban cho chàng chức tổng lãnh binh và bảo:

– Này Jotipàla, nay đã tối rồi, ngày mai khanh sẽ nhận vinh dự làm đại tướng quân. Hãy đi trang điểm râu ria lại và tắm gội.

Cùng ngày ấy, vua ban cho chàng một trăm ngàn đồng tiền để chi tiêu. Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Đại vương, tiểu thần không cần tiền.

Rồi chàng ban một trăm tám mươi triệu đồng tiền ấy cho các vị lãnh chúa và các tùy tùng đi tắm, sau khi đã tô điểm râu tóc, và mặc xiêm y với đủ loại trang sức, chàng thưởng thức cao lương mỹ vị xong, chàng đến nằm nghỉ trên vương tọa, ngủ được hai canh, đến canh cuối cùng chàng thức giấc ngối xếp bằng trên vương tọa, suy nghĩ đến phần khởi đầu, phần giữa và phần cuối việc phô diễn kỳ công về tài nghệ của chàng.

Chàng nghĩ thầm: “Tài nghệ của ta hiển nhiên khởi đầu là chết chóc, phần giữa là thọ hưởng ái dục và cuối cùng là tái sinh vào địa ngục; vì hủy diệt mạng sống và buông lung phóng dật trong việc thọ hưởng dục lạc tội lỗi sẽ đưa đến tái sinh vào địa ngục. Vua ban ta chức đại tướng quân, và uy quyền cao trọng sẽ về tay ta. Ta sẽ có vợ con; nhưng nếu các dục lạc cứ tăng mãi thì thật khó thoát được dục tham. Ta muốn một mình xuất thế đi vào rừng, ta sống đời tu hành khổ hạnh là đúng lắm rồi”.

Bậc Đại Sĩ đứng lên khỏi vương tọa, và không cho ai biết cả, ngài bước xuống từ thượng lầu, ra đường bằng cửa hậu vào rừng một mình, đến một nơi trên bờ sông Godhàvari, gần rừng Kavittha, rộng chừng ba dặm.

Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nghe tin ngài xuất gia liền triệu sứ thần Vissakamma đến và bảo:

– Này Hiền hữu, Jotipàla đã xuất gia, và một hội chúng đông đảo sẽ hầu ngài. Vậy hãy dựng am ẩn sĩ bên bờ sông Godhàvari, trong rừng Kavittha và cung cấp đủ vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành.

Thiên sứ Vissa kamma tuân lệnh.

Còn bậc Đại Sĩ khi đến nơi, thấy con đường vừa cho một người đi bộ, nghĩ thầm: “Chắc đây là nơi dành cho các vị khổ hạnh trú thân”, rồi đi theo con đường đó, ngài không gặp ai, liền bước vào lều cỏ, chợt thấy vật dụng dành cho đời ẩn sĩ, ngài tự bảo: “Chắc Đế Thích Thiên chủ biết ta đã xuất gia”, rồi cỡi áo khoác, ngài đắp thượng y và hạ y bằng vỏ dà, khoác tấm da hươu lên một bên vai. Ngài buộc các cuộn tóc, khoác lên vai ba giạ thóc, cầm gậy khất sĩ, bước ra khỏi am, leo lên thềm đi đi lại lại.

Như vậy, ngài đã làm vinh quang ngôi rừng bằng vẻ cao đẹp của đời khổ hạnh và sau khi thực hành pháp môn thiền định Kàsina xong, vào ngày thứ bảy kể từ khi xuất gia, ngài chuyên tâm tu tập tám Thiền chứng và năm Thắng trí theo hạnh độc cư, chỉ dùng các thức ăn gì ngài kiếmđược và củ quả rừng.

Cha mẹ, thân bằng, bà con quyến thuộc ngài không thấy ngài đâu, đi tìm khắp nơi, lòng buồn phiền thất vọng. Sau đó một sơn nhân đã từng gặp và nhận ra bậc Đại Sĩ trong vùng am thất Kavittha kia, liền đi báo với song thân ngài và họ tâu trình vua. Vua phán:

– Này ta đi thăm chàng ngay.

Rồi cùng với song thân chàng và một đám tùy tùng theo hầu, vua đến bờ sông Goghàvarì theo con đường mà sơn nhân ấy đã chỉ dẫn.

Bồ-tát đến bờ sông, ngồi trên không thuyết Pháp cho hội chúng nghe, sau đó dẫn hội chúng về am, ngài cũng ngồi trên không, giảng rõ cho họ nỗi đau khổ vì tham đắm dục lạc, rồi dạy họ Chánh pháp. Tất cả cùng với vua xuất gia tu hành.

Bồ-tát vẫn tiếp tục sống ở đó cùng hội chúng tu hành chung quanh ngài. Tin ngài ẩn cư tại đó lan rộng khắp cõi Diêm-phù-đề. Vua chúa cùng đám quần thần đến đó sẵn sàng theo lệnh ngài và hội chúng dần dần lên đến hàng người. Hễ ai nghĩ đến tham dục, hay muốn hại người khác, bậc Đại Sĩ liền đi đến, ngồi trên không và thuyết pháp cho người ấy cùng dạy Pháp môn thiền Kàsina.

Bảy đại đệ tử của ngài là Sàlissara, Mendissara, Pabbata, Kàladevala, Kisavaccha, Anusissa va Nàrada. Các vị này nhờ tuân hành lời thuyết giáo của ngài, đều đạt Thiền chứng và đắc Thắng trí viên mãn. Dần dần vùng thảo am Kavittha trở nên đông đúc, không còn chỗ cho các vị ẩn sĩ sống nữa. Bậc Đạo Sĩ liền bảo Sàlissara:

– Này Sàlissara, nơi này không đủ cho các ẩn sĩ ở. Vậy hiền hữu đi cùng hội chúng này đến ẩn cư gần thị trấn Lambacùlaka thuộc thành trì của vua Candapajjota.

Vị này tuân lệnh ấy, đem theo hội chúng hàng ngàn người đến cư trú ở đó. Nhưng nhiều người vẫn đến gia nhập hội chúng khổ hạnh kia, nên thảo am lại đông dần như trước. Bồ-tát nói với Mendissara:

– Trên biên giới xứ Suratha có dòng sông Satodikà, bạn hãy đem chúng ẩn sĩ này đến cư trú trên bờ sông ấy.

Và ngài bảo vị ấy ra đi. Cũng cách ấy, lần thứ ba, ngài gọi Pabbata đến bảo:

– Trong đại lâm có núi Anjana, bạn hãy đến an trú tại đó.

Lần thứ tư, ngài gọi Kàladevala đến bảo:

– Phía nam quốc độ Avanti là núi Ghanasela, bạn hãy đến an trú gần đó.

Dần dần thảo am tại Kavittha lại đông đảo dù đã có năm hội chúng ẩn sĩ đi đến cư trú năm vùng khác nhau, tính được mấy ngàn người. Rồi Kisavaccha xin phép bậc Đại Sĩ đến cư trú trong ngự viên gần vị tổng tướng quân, tại kinh thành Kimbhavatì, trong quốc độ của vua Dandaki, ẩn sĩ Narada cư trú trong địa phận chính của dãy núi Aranjara, còn Anusissa ở lại cùng bậc Đạo Sĩ.

Vào thời ấy, vua Dandaki thất sủng một cung phi mà trước kia vua rất quý trọng, nên trong lúc buồn phiền, nàng đi ngao du đến ngự viên kia, khi thấy ẩn sĩ Kisavaccha, nàng liền nghĩ: “Chắc hẳn đây là kẻ mang vận xui. Ta phải vứt bỏ tội lỗi của ta trên người của kẻ này rồi đi tắm rửa”. Trước hết nàng cầm chiếc tăm xỉa răng rồi nhổ ra một đống nước bọt ngay trên nắm tóc bện lại của vị ẩn sĩ kia, nàng còn ném que tăm trên đầu vị này, rồi đi tắm.

Còn vua nhớ đến nàng, lại cho nàng phục chức như củ. Trong lúc lòng say sưa cuồng nhiệt, nàng kết luận rằng nàng phục hồi vinh dự ấy là do vứt bỏ được tội lỗi của mình trên con người xui xẻo kia. Không lâu sau đó, vua lại cách chức của vị tế sư hoàng gia, lão này cũng đi hỏi nàng cung phi kia, nhờ cách gì nàng được phục chức. Nàng kể lại đó là nhờ nàng vứt bỏ tội lỗi trên con người xui xẻo ở trong ngự viên.

Lão quốc sư cũng đi vứt bỏ tội lỗi của mình theo cách ấy, và cũng được vua phục chức như củ. Thời ấy dần dần có loạn ở biên giới, lão quốc sư đem một đoàn quân đi đánh trận. Lão quốc sưđang cuồng nhiệt hân hoan kia tâu vua:

– Tâu Đại vương, Đại vương muốn thắng hay bại?

Vua bảo:

– Thắng.

Lão liền nói:

– Thế thì có người xui xẻo đang trú ngụ trong ngự viên, xin Đại vương đem tội lỗi đến vứt lên đầu gã ấy.

Vua tán thành ý kiến ấy, phán:

– Đám binh sĩ cùng đi với trẫm đến ngự viên vứt bỏ tội lỗi lên con người xui xẻo kia.

Khi đến nơi, trước tiên vua ngậm chiếc tăm rồi nhổ nước bọt và thả chiếc tăm rơi trên đám tóc bện chặt của vị ẩn sĩ, sau đó còn làm được ướt đầu ngài, cả đám quân lính cũng làm theo như vậy.

Khi vua đi rồi, vị tổng tướng quân đến, thấy vị ẩn sĩ, liền lấy que tăm ra khỏi đám tóc và tắm gội vị này thật sạch sẽ, xong lại hỏi:

– Đức vua sau này sẽ ra sao?

– Thưa ngài, tâm ta không sân hận gì, nhưng chư Thần phẩn nộ nên vào ngày thứ bảy kể từ ngày nay, quốc độ của ngài sẽ tan tành, ngài nên nhanh chân tẩu thoát đi nơi khác.

Vị tướng quân vô cùng kinh hãi, về tâu ūa. Vua không tin, vì thế vị tướng quân đem vợ con trốn sang quốc độ khác. Bậc Đạo sư Sarabhanga (tức Bồ-tát Jotipàla ở đầu câu chuyện) nghe tin ấy, liền báo hai ẩn sĩ trẽ tuối đến mang Kisavaccha trên chiếc cáng bay về trên không. Còn vua đánh trận xong, đem đám phản loạn làm tù binh trở về thành.

Vào lúc vua trở về, trước hết chư thần làm mưa xuống, khi các xác chết được cơn mưa lũ cuốn trôi đi hết, lại có trận mưa hoa trời trên đỉnh cát trắng tinh khiết, trên hoa trời có mưa tiền nhỏ rơi xuống, sau đó có mưa tiền lớn, tiếp theo là trận mưa đầy châu báu cõi trời.

Dân chúng hân hoan lượm báu vật bằng vàng ròng. Sau đó rơi xuống trên người trần một trận mưa đủ loại binh khí, dân chúng bị phân thây tan tành. Kế đến là trận mưa than hồng nóng bỏng trên người họ, và trên các đám lửa cao như núi ấy rơi xuống một trận mưa cát mịn tràn ngập một khoảng rộng chừng sáu mươi cubit (01 cubit = 45cm). Một phần quốc độ rộng sáu mươi dặm bị tàn phá tan tành và tin trận hủy diệt này loan ra khắp toàn cõi Diêm-phù-đề.

Các lãnh chúa trong các xứ chư hầu, ba vị vua Kalinga, Atthaka và Bhìmaratha nghĩ thầm: “Ngày xưa, ở Ba-la-nại, vua xứ Kàsi là Kalàbu đã phạm tội với ẩn sĩ Khantivàdì, truyện kể rằng vua ấy bị nuốt vào lòng đất; cũng vậy vua Nàlikìra đem các ẩn sĩ cho chó ăn thịt; vua Ajjuna có ngàn cánh tay đã phạm tội với trị giá Angìrasa nên cũng chết cách như trên; nay vua Dandaki phạm tội với trí giả Kisavaccha, nên tương truyền cũng bị tan tành quốc độ, hủy diệt hết thảy. Chúng ta không biết các vị vua ấy tái sinh cõi nào; không ai trừ ngài Sarabhanga. Đạo sư của chúng ta có thể nói về điều này. Vậy chúng ta hãy đi hỏi ngài”.

Rồi cả hai ba vị vua theo lễ nghi trọng thể ngự đi hỏi chuyện này. Nhưng dù cả ba vị vua đã nghe tin đồn như vậy như kia, cũng không biết thực hư ra sao, mỗi vị cứ tưởng rằng chỉ riêng mình lên đường, nên khi không còn cách xa Goghàvari mấy, cả ba vị vua gặp nhau, cũng bước xuống các vương xa và ngự lên một chiếc vương xa duy nhất để cùng lên đường đến bờ sông Godhàvari.

Vào lúc ấy, Đế Thích Thiên chủ ngự trên ngai hoàng cẩm thạch, xem xét bảy vấn đề và tự nhủ thầm: “Ngoại trừ ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư, không có ai trên trần thế hay thiên giới có thể giải đáp các vấn đề trên. Vậy ta hãy đi hỏi ngài. Ba vị vua kia đã đi đến bờ sông Godhàvari để hỏi ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư. Ta cũng sẽ đến hỏi ngài vấn đề ba vị kia hỏi.

Sau đó được chư thiên của hai thiên giới hộ tống, ngài giáng trần. Ngay hôm ấy, ẩn sĩ Kisavaccha từ trần, nên lúc cử hành tang lễ, vô số hội chúng ẩn sĩ cư trú nhiều nơi khác nhau,đến dựng dàn hỏa táng bằng gỗ thiên đàn để hỏa thiêu ngài, và quanh chỗ hỏa thiêu khoảng chừng năm dặm, hoa trời rơi xuống như mưa.

Bậc Đại Sĩ, sau khi xem xét việc cất giữ phần di cốt của vị đệ tử xong, liền vào am cùng các ẩn sĩ theo hầu, và ngồi xuống. Khi các vua đến bờ sông, có tiếng nhạc quân hành trổi. Bậc Đại Sĩ nghe vậy, bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Ông hãy ra xem nhạc ấy có ý nghĩa gì?

Rồi cầm bình nước uống, ẩn sĩ đến đó, khi thấy ba vị vua, ngài ngâm vần kệ đầu để thăm hỏi:

  1. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
    Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
    Trân trọng kính chào chư đại tướng
    Danh gì, cho biết, giữa trần gian?

Nghe lời ngài, ba vị vua liền xuống xe đảnh lễ ngài. Trong ba vị, có vua Atthaka lên tiếng đáp lời ngài qua vần kệ thứ hai:

  1. Bhi-ma, danh đế Ka-lin-ga,
    Cùng trẫm, At-tha, chính hiệu ta,
    Yết kiến chư hiền nhân khổ hạnh,
    Đến đây tham vấn, đủ ba vua.

Nhà ẩn sĩ bảo ba vị vua:

– Thế thì tâu Đại vương, các ngài đã đến tận nơi các ngài muốn, sau khi tắm rửa, nghỉ ngơi, các ngài vào am, đảnh lễ hội chúng ẩn sĩ rồi đem vấn đề ra hỏi bậc Đạo sư.

Như vậy ngài chuyện trò thân mật cùng ba vị vua, rồi tung lên bình nước và lau hết những giọt nước rớt ra ngoài, ngài nhìn lên thấy Đế Thích Thiên chủ, được chư thiên hộ tống đông đảo, đang giáng trần ngự trên lưng Thiên tượng Eravana, nhà ẩn sĩ liền đối thoại với Thiên chủ qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
    Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
    Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
    Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.

Nghe thế, Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ thứ tư:

  1. Su-ja, danh tiếng ở trên trời
    Tên gọi Ma-gha ở cõi đời,
    Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế
    Thăm hiền nhân khổ hạnh bao người.

Lúc ấy ẩn sĩ Anusissa nói với ngài:

– Tâu Thiên chủ, xin ngài hãy theo chúng thần.

Rồi cầm bình nước, vị ẩn sĩ vào am, cất bình nước xong, liền đến báo tin cho bậc Đại Sĩ biết có ba vị vua cùng Thiên chủ giang lâm để hỏi ngài một số vấn đề. Lúc ấy hội chúng ẩn sĩ vây quanh Đạo sư Sarabhanga đang tọa giữa một khoảng rộng có rào che. Ba vị vua đến đảnh lễ chúng ẩn sĩ, rồi ngài ngồi xuống một bên. Còn Đế Thích Thiên chủ giáng hạ đến gần hội chúng chắp tay vái chào và tán thán hội chúng này qua vần kệ thứ năm:

  1. Chư hiền danh vọng đã lừng vang
    Uy lực thần cao cả sẵn sàng,
    Hoan hỷ ta chào mừng Thánh chúng
    Trí tài siêu việt đám người phàm.

Đế Thích Thiên chủ chào hội chúng như vậy xong liền ngồi riêng ra để tránh khỏi sáu cố tật lúc ngồi. Sau đó ẩn sĩ thấy ngài ngồi phía dưới hội chúng liền ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Thân thể của ngài lão Thánh nhân
    Bốc mùi hôi hám khắp không gian,
    Sak-ka Thiên chủ liền lùi bước
    Tránh các mùi chư Thánh nực nồng.

Nghe nói vậy Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ khác:

  1. Dù các Thánh nhân tuổi đã già
    Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
    Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
    Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra
    Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ;
    Chư Thiên chẳng ghét chuyện kia mà.

Nói vậy xong, ngài thêm:

– Này Tôn giả Anusissa, ta gắng công đến đây để hỏi một số vấn đề, xin hãy cho phép ta làm việc ấy.

Nghe lời Đế Thích Thiên chủ, ẩn sĩ Anusissa liền đứng dậy cho phép ngài xong, vị ẩn sĩ này liền ngâm hai vần kệ với hội chúng ẩn sĩ:

  1. Su-ja phu tướng. Ma-gha-va, (*)
    Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
    Dẹp lủ yêu tinh, Thiên đế ấy,
    Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.
  2. Ai đây trong các bậc hiền nhân
    Giải đáp vấn đề thật khó khăn
    Cho cả ba vua đang trị nước
    Và Sak-ka, chúa tể Thiên thần?

(*) Sujampati và Maghava: danh hiệu của Sakka – Thiên chủ.

Nghe vậy cả hội chúng ẩn sĩ đều bảo:

– Này Hiền giả Anusissa, bạn nói chẳng khác nào bạn không thấy quả đất bạn đang ở; ngòai trừ bậc Đạo sư Sarabhanga của chúng ta, còn ai xứng đáng để trả lời các vấn đề kia nữa?

Nói xong, các vị ấy liền ngâm vần kệ khác:

  1. Sa-ra-bha Thánh giả, chân hiền
    Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
    Pháp tử, tinh thông trì giới luật,
    Giải trừ nghi hoặc của nhân thiên.

Nói xong hội chúng bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Thưa Hiền giả, xin Hiền giả nhân danh Thánh chúng đến đảnh lễ bậc Đạo sư và tìm cơ hội thưa với ngài về vấn đề Đế Thích Thiên chủ đặt ra.

Vị này chấp thuận ngay rồi tìm được cơ hội, liền ngâm vần kệ khác nữa:

  1. Thánh chúng mong cầu bậc Đạo sư
    Kon-dan-na, xóa sạch nghi ngờ:
    Chủ đề này được nhiều người bảo
    Đè nặng các hiền trí lão gia.

Bậc Đại Sĩ liền chấp thuận và ngâm vần kệ sau:

  1. Cho phép người đem hỏi chuyện gì
    Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
    Đời này, đời kế, ta đều biết,
    Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.

Sau khi được bậc Đại Sĩ cho phép, Thiên chủ ra vấn đề ngài chuẩn bị hỏi.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ sự việc này:

  1. Thiên chủ tìm Chân lý pháp trần,
    Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
    Để ngài học những điều mong biết,
    Và bắt đầu tham vấn mọi phần.
  2. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn
    Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
    Và cái gì ta cần vứt bỏ
    Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
    Lời ai ta phải cần kham nhẫn
    Cho dẫu là thô lỗ tận cùng,
    Đây chính là điều ta ước muốn
    Kon-na Thánh giả nói cho thông.

*

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Sân hận là tâm phải diệt trừ
    Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
    Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
    Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
    Ta phải nhịn lời từ mọi phía
    Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
    Lòng kham nhẫn ấy, hiền nhân bảo,
    Đệ nhất ngôi cao quả thật là.

Thiên chủ:

  1. Những lời thô ác của hai người
    Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài:
    Là bậc trên, người cùng đẳng cấp;
    Song làm sao nhẫn nhịn bao lời
    Của người thấp kém hơn ta nữa,
    Là việc ta mong học hỏi ngài.

Bậc Đại Sĩ:

  1. Lời ác thô từ các bậc trên,
    Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
    Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng;
    Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn
    Là chính viên lòng thành nhẫn nhục,
    Như lời hiền Thánh vẫn thường khuyên.

Các vần kệ trên đây là những lời đối đáp giữa hai vị. Khi ngài nói xong, Đế Thích Thiên chủ bảo bậc Đại Sĩ:

– Thưa Thánh giả, trong phần đầu ngài bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của mọi người, đó là lòng kiên nhẫn tối thượng”, song nay ngài lại bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của kẻ dưới, người ta nói, đây mới là lòng kiên nhẫn tối thượng”; lời nói sau không ăn khớp với lời nói đầu tiên của ngài.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói với Thiên chủ:

– Thưa Thiên chủ, lời sau cùng này của ta dành cho một người nhẫn nhịn lối nói thô lỗ của một kẻ mà người ấy biết là thấp kém hơn mình, còn lời nói đầu tiên của ta là do khi chỉ nhìn bề ngoài, ta không thể biết chắc hoàn cảnh của người khác có thấp kém hơn ta hay không.

Rồi để nêu rõ thật khó khăn khi chỉ nhìn bề ngoài mà phân biệt người thấp kém hay cao sang, trừ phi là phải qua tiếp xúc thân mật, ngài liền ngâm kệ:

  1. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài
    Mà đoán hơn, thường hay giả dạng
    Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
    Vậy thì, bạn hỡi, ta khuyên nhủ
    Hãy nhịn lời thô của mọi người.

Khi nghe điều này, Đế Thích Thiên chủ đầy lòng tín thành, cầu xin ngài:

– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả thuyết giảng cho chúng ta biết lợi lạc của lòng nhẫn nhục này.

Bậc Đại Sĩ liền ngâm kệ:

  1. Sức mạnh quân vương đến bực nào
    Cũng không thắng lợi chốn binh đao
    Bằng hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn:
    Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.

Khi bậc Đại Sĩ đã thuyết giảng các công đức do nhẫn nhục tạo nên như vậy xong, các vị vua suy nghĩ: Đế Thích Thiên chủ hỏi vấn đề của riêng ngài, mà lại không để cho chúng ta có cơ hội hỏi vấn đề của chúng ta”.

Biết được ước vọng của các vua ấy, Thiên chủ để riêng bốn vấn đề ngài đã chuẩn bị trước đây qua một bên, và khi đưa ra mối hoài nghi của các vị vua kia, Thiên chủ ngâm kệ này:

  1. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Xin hỏi phận Dan-da chúa tể
    Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
    Cõi nào phải tái sinh đày đọa,
    Vì phá Thánh hiền thế giới đây.

Bậc Đại Sĩ ngâm năm vần kệ giải đáp các vấn đề trên:

  1. Thưở nọ tan tành cả quốc gia,
    Vì làm ô nhục Thánh Ki-sa
    Dan-da ngã xuống Ku-ku địa
    Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.
  2. Nà-li đầy hoảng hốt rơi vào
    Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
    Vì nhạo báng hiền nhân, đạo sĩ,
    Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.
  3. Cũng vậy Aj-ju-na giết ngay
    Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày,
    An-gi, nên bị xô đầu xuống
    Hành hạ thân trong chốn đọa đày.
  4. Ka-là-bu cháy tại Diêm cung
    Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
    Vì đã hại hiền nhân đức hạnh
    “Bậc thầy nhẫn nhục” tiếng vang lừng.
  5. Người trí nghe xong các chuyện trên
    Về miền địa ngục khổ triền miên,
    Chẳng hề hại Đạo Sư hiền trí,
    Nhờ Chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.

Khi bậc Đại Sĩ đã nêu rõ các cõi mà bốn vị vua kia phải thác sinh về, ba vị vua này giải tỏađược hết mối nghi ngờ. Rồi Đế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ để nêu lên bốn vấn đề của ngài:

  1. Lời ngài đáng quý trọng êm tai
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Ai được người đời xem “đức độ”?
    Thế nhân gọi “trí giả” là ai?
    Người trần xem kẻ nào “thành tín”,
    Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?

Bậc Đại Sĩ liền ngâm bốn vần kệ trả lời:

  1. Khẩu, hành chứng tỏ tự điều thân,
    Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
    Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
    Được xem “đức độ” giữa nhân quần.
  2. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
    Không làm điều ác độc, vô lương,
    Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
    Được mọi người xem đúng “trí nhân”.
  3. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
    Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
    Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
    Mọi người ca ngợi “kẻ tâm thành”.
  4. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
    Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
    Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
    Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.

Bậc Đại Sĩ trả lời bốn vấn đề trên như vậy, chẳng khác nào làm vầng trăng hiện lên bầu trời. Sau đó là những câu hỏi đáp khác nữa:

Thiên chủ:

  1. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
    Ao ước nghe thêm một chuyện này
    Đức hạnh, vận may, hiền trí thiện,
    Cái nào tối thắng giữa trần ai?
  2. Người thiện xem hiền trí tối cao,
    Như trăng che khuất các vì sao,
    Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
    Rõ ràng bậc trí phải theo mau.
  3. Lời người thân ái thật êm tai,
    Mong ước nghe thêm một chuyện này:
    Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
    Đường nào hành động phải theo hoài?
    Đâu là trí đạo xin cho biết
    Nhờ việc nào người có trí ngay?

Bậc Đại Sĩ:

  1. Kết bạn người uyên bác lão thành,
    Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
    Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
    Vì vậy con người trí tuệ sinh!
  2. Bậc trí nhìn tham dục giác quan
    Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
    Giữa tham, ưu não gây kinh hãi,
    An tịnh, hiền nhân dạ chẳng màng.
  3. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
    Tu tập từ bi vô lượng tâm,
    Với mọi hữu tình đều quý mến,
    Tâm thanh tịnh, đến Phạm thiên cung.

Trong khi bậc Đại Sĩ thuyết giảng như vậy về các tội lỗi do tham dục gây ra, ba vị vua cùng với đám quân sĩ đều đoạn trừ tham dục nhờ lấy đức tính từ bi để đối trị. Bậc Đại Sĩ biết được việc này, liền ngâm kệ tán thán cả ba vị vua:

  1. Nhờ thần lực nên chúa Bhi-ma
    Cùng với ngài, này chúa At-tha,
    Đại đế Ka-lin-ga hiển hách,
    Đến đây các vị đủ luôn ba,
    Xưa làm nô lệ cho tham dục,
    Nay được tự do giải thoát ra.

Nghe vậy cả ba vị Đại vương ngâm kệ tán thán bậc Đại Sĩ :

  1. Chính ngài là bậc tha tâm thông,
    Nhờ vậy, từ vua đến đạo quân
    Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
    Xin ngài ban bố một hồng ân
    Chúng ta quả thật đều mong ước
    Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.

Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ khác để ban cho các vị đặc ân này:

39 Ta ban điều các vị mong cầu
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.

Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:
40. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ
Đạt đến lạc an dạ ước hoài.

Sau đó bậc Đại Sĩ ban lệnh truyền đại giới cho đám quân sĩ của ba vị vua và bảo hội chúng khổ hạnh ra về qua vần kệ này:

  1. Vinh dự thay Đã viếng Ki-sa,
    Giờ đây chư vị hãy về nhà,
    Hỡi chư hiền Thánh danh lừng lẫy,
    Hãy trú an trong tịnh lạc kia,
    Niềm hỷ lạc trong đời Thánh hạnh
    Chính là Cực lạc tối cao xa.

Các Thánh nhân này tán đồng ý kiến của ngài bằng cách cung kính đảnh lễ ngài, rồi bay lên hư không trở về cư trú của mình. Còn Đế Thích Thiên chủ từ chổ ngồi chắp tay đảnh lễ bậc Đại Sĩ chẳng khác nào tôn kính vầng nhật, rồi cùng hội chúng ra về.

*

Thấy vậy, bậc Đại Sĩ ngâm các vần kệ sau:

  1. Nghe thuyết toàn Chân lý tối cao
    Bởi hiền nhân giọng điệu thanh tao,
    Chư Thiên trở lại miền thiên giới,
    An lạc, ân tình thắm thiết sao!
  2. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
    Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
    Ai tinh cần tập trung tâm trí
    Tầm tứ chuyên đề, sẽ thấy ngay:
    Đường nhập tịnh theo từng cấp bực,
    Thoát ly Thần Chết độc quyền oai.

Bậc Đạo Sư đã thuyết giáo như vậy đưa đến quả A-la-hán tối thượng và bảo:

– Không phải chỉ ngày nay, mà ngay cả ngày xưa nữa, cũng có trận mưa hoa trời nhân dịp lễ hỏa táng Thánh thể của Mục-kiền-liên.

Rồi Ngài giảng bày các Thánh đế và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Salissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là kassapa (Ca-diếp), Pabbata là Anuruddha (A-na-luật-đà), Devala là Kaccàyana (Ca-chiên-diên),Anussisa là ànanda, Kisavaccha là Kolita (tức Mục-kiền-liên), Sarabhanga là Bồ-tát, các ông phải hiểu Tiền thân này như vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện thiên nữ Alambusà (Tiền thân Alambusà)

Thiên chủ In-dra, đấng vạn năng…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc một Tỷ-kheo bị mê hoặc bởi người của thời kỳ phóng dật trước kia.

Toàn thể đề tài câu chuyện được kể lại đầy đủ trong Tiền thân Indriya số 432. Lúc ấy giờ bậc Đại

Sư hỏi vị Tỷ-kheo:

– Này Tỷ-kheo, có thật ông sinh tâm bất mãn chăng?

– Thưa vâng. Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Do ai gây nên?

– Bạch Thế Tôn, do người vợ cũ của con ngày trước.

-Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đã làm hại ông, chính vì kẻ đó mà trước kia ông đã mất Thiền lực, và phải nằm liệt suốt ba năm ròng trong trạng thái tán loạn tâm trí, đến khi hồi tỉnh, ông đã than khóc thảm thiết. Nói xong Ngài kể cho vị này câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở quốc độ Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông thạo mọi môn học thuật và sau đó ngài xuất gia vào rừng sống bằng củ quả rừng. Lúc bấy giờ, một con nai cái sống trong vùng thảo am của vị Bà La Môn này, ăn cỏ và uống nước suối có hòa lẫn tinh dịch của ngài, rồi lại sinh lòng say mê ngài đến độ nó mang thai và từ đó đến trú luôn ở nơi gần nhà của ẩn sĩ.

Bậc Đại Sĩ xem xét kỹ vấn đề và biết được sự thật của trường hợp trên. Về sau, nai cái sinh một nam nhi, và bậc Đại Sĩ chăm sóc hài nhi ấy với tình phụ tử. Hài nhi được đặt tên là Isisinga.

Khi chàng trai đến tuổi trưởng thành, ngài cho chàng thọ giới tu hành và khi ngài đã già, ngài dẫn chàng đến rừng Nàri và căn dặn :

– Này con yêu quý, ngay trong vùng Tuyết Sơn này có nhiều nữ nhân tươi đẹp như hoa, chúng thường đem tai họa tàn khốc cho những ai rơi vào uy lực của chúng; vậy con đừng để cho chúng chinh phục.

Chẳng bao lâu sau đó, ngài tử trần và sinh lên Phạm thiên giới. Còn ẩn sĩ Isisinga trong lúc tham thiền nhập định, an trú tại vùng Tuyết Sơn kia làm một nhà đại khổ hạnh khắc nghiệt, hành hạ xác thân đủ mặt.Vì uy lực công đức của ẩn sĩ này, cung của Đế Thích Thiên chủ xem xét tìm ra nguyên nhân và suy nghĩ: “Người này sẽ hạ ta xuống khỏi ngôi vị Thiên chủ, vậy ta quyết sai một Thiên nữ đi phá hoại công đức của vị này”.

Sau khi quan sát toàn thế giới chư Thiên, giữa đám hai mươi lăm triệu nàng thị nữ cõi trời, ngài thấy ngoại trừ Thiên nữ Alambusà, không có ai xứng hợp với công việc này hơn cả. Ngài liền triệu nàng đến, và ban lệnh cho nàng phải đi phá hoại công đức của Thánh nhân thanh tịnh kia.

*

Để giải thích vấn đề này, bác Đạo Sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Thiên chủ In-dra (*), đấng vạn năng,
    Xưa kia đã giết Va-tra thần,
    Triệu nàng Thiên nữ vào cung điện
    Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
  2. “Thiên nữ A-lam”, Đế Thích truyền:
    “Ở trên hội chúng của chư Thiên
    Bảo nàng đến gặp I-si nọ
    Quyến rũ chàng say đắm mối duyên”.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Đế Thích chủ phán bảo Alambusà:

– Nàng hãy tìm gặp Isisinga, dùng uy lực của nàng chinh phục chàng và phá hủy công đức của chàng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng
    Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
    Trong lúc đi tìm nguồn Cực lạc,
    Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.

Nghe nói vậy, nàng Alambusà đáp hai vần kệ:

  1. Giữa bao Thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
    Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
    Và bảo phận hèn đi quyến rũ
    Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?
  2. Vườn Nan-da, cực lạc thần tiên,
    Có biết bao Thiên nữ diệu huyền,
    Đến lượt một nàng trong đám ấy,
    Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.

Tiếp theo Đế Thích Thiên chủ ngâm ba vần kệ:

  1. Nàng nói đúng thay, ở Lạc viên
    Nan-da-na, trẫm biết vườn tiên
    Nhiều Thiên nữ diễm kều dung sắc
    Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.
  2. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
    Chẳng có ai dùng kế mỹ nhơn
    Điêu luyện như nàng, hàng quyến rũ
    Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.
  3. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
    Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
    Dùng lực thần kia là mỹ sắc
    Buộc hiền nhân nọ phục oai trời.

Nghe lời này, nàng Alambusà ngâm hai vần kệ:

  1. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
    Tiến bước lên đường phụng mệnh ban
    Song vẫn lo âu phần thiếp dám
    Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.
  2. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
    (Thiếp sợ run vì ý nghĩ này:)
    Làm hại Thánh hiền, nên phải đọa,
    Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.
  3. Thiên nữ A-lam nói vậy xong,
    Khởi hành, nàng lướt tóc như phong,
    Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy
    Vào các hạnh vi bất tịnh nhân.
  4. Đến cánh rừng kia nữa dặm sâu,
    Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
    I-si trú ẩn trong rừng ấy,
    Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.
  5. Tảng sáng tinh mơm chớm nắng đào,
    Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
    Nàng Thiên nữ đến gần hiền giả,
    Đang quét thảo am sạch biết bao!

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.

Lúc ấy, vị khổ hạnh ngâm kệ hỏi nàng:

  1. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
    Rõ ràng như thể ánh sao mai,
    Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
    Lấp lánh từ xa rực cả trời?
  2. Như phấn chiên-đàn, tỏa ngát hương,
    Huy hoàng chẳng khác ánh chiêu dương,
    Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng.
    Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng,
  3. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
    Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
    Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
    Làm ta say đắm cả tâm hồn!
  4. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
    Dài thẳng thon dần thật mảnh mai,
    Mông của nàng êm đềm xúc cảm
    Tròn như mặt gỗ để chơi bài.
  5. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
    Ta tưởng chừng tơ các ngó sen
    Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
    Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền!
  6. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
    Căng phồng, khoe cả cặp hình cầu,
    Săn dòn, cho dẫu không cây chống,
    Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu!
  7. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi
    Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
    Cổ dài như thể linh dương núi,
    Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi!
  8. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi.
    Trong sạch, luôn luôn giữ sáng ngời,
    Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới
    Chiếu đầy tia sáng, trắng tinh khôi!
  9. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình
    Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
    Khác nào đôi trái dâu đen láy,
    Tô điểm màu đo đỏ mép vành.
  10. Bím tóc mướt trơn, chẳng quá dài,
    Kết thành từng cuốn, gọn nhất đời,
    Điểm vàng đầu mút, mùi thơm ngát
    Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời!
  11. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
    Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
    Giữa bao hiền thánh đầy uy lực,
    Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.
  12. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
    Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
    Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
    Ta mong nàng thổ lộ cho tường.

Trong lúc vị ẩn sĩ tán tụng nàng Alambusa từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, không sót đường tơ kẻ tóc nào, nàng vẫn giữ lời yên lặng và khi nghe chàng nói lời lẽ dài dòng như vậy, nàng nhận thấy tâm trạng của chàng dao động biết dường nào, liền ngâm kệ này:

  1. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
    Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
    Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
    Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?
  2. Hãy vào am thất, chốn tu hành,
    Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh
    Ngàn thú giao hoan này khét tiếng
    Giữa người sùng báo đạo si tình.

Nói vậy xong, Thiên nữ Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta cứ đứng yên, chàng sẽ không đến gần cho ta được dịp quyển rũ chàng, vậy ta phải làm như thế sắp bỏ chạy”.

Rồi dùng mỹ nhân kế để làm dao động quyết tâm của vị ẩn sĩ, nàng bỏ chạy về hướng ban nãy nàng đã xuất hiện để đến gần chàng.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói xong Thiên nữ Lam-bu-sà
    Vội vã tạ từ cất bước xa
    Danh sĩ I-si, hòng quyến rũ
    Thánh nhân vướng phải nghiệp dâm tà.

*

Vị ẩn sĩ thấy nàng bỏ đi, liền kêu lên:

– Nàng đã đi rồi.

Và chàng nhanh nhẹn chận lối nàng, trong khi nàng đang chầm chậm bước ra, rồi lấy tay nắm tóc nàng lại.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Như gió, Thánh nhân lướt vội vàng
    Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
    Hăng say đeo đuổi theo Thiên nữ,
    Chụp lấy đầu, lôi mái tóc nàng.
  2. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
    Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
    Tức thì công hạnh chàng tiêu hết
    Trước lực thần mê hoặc đảo điên!
  3. Tư niệm nàng bay đến Ngọc cung
    Tại Nan-da Thượng uyển muôn trùng,
    Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,
    Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.
  4. Trang hoàng giăng trải đủ yên cương,
    Tô điểm cân đai phủ mấy tầng,
    Tại đó, Thánh nhân nằm khuất phục
    Trong tay Thiên nữ lắm ngày trường!
  5. Ba năm ròng rã lướt qua đầu
    Chẳng khác nào, giây lát bóng câu,
    Cho đến phút sau cùng, Thánh giả
    Trở mình thức khỏi cánh tay mầu!
  6. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
    Và chiếc bệ thờ cạnh đó thôi,
    Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi
    Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.
  7. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
    Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:
    “Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật
    Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.

36.Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng?
Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đấy báu vật
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?”

Nghe vậy, Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta không nói rõ, ắt chàng sẽ nguyền rủa ta, vậy ta phải nói cho chàng hay”. Rồi nàng hiện hình ra đứng bên cạnh chàng ngâm kệ:

  1. Thiên chủ Sak-ka phải đến đây,
    Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài;
    Dù vô tình thiếp không hay biết,
    Đã hại người trong cực lạc này.

Nghe nàng nói vậy, chàng liền nhớ lại lời cha dạy, rồi than khóc về việc chàng đã bị phá tan hết công hạnh chỉ vì bất tuân lời cha, và ngâm kệ:

  1. Thân phụ ta, Ca-diếp Đại nhân,
    Trí hiền khuyên nhủ trẻ buông lung:
    “Nữ nhân cũng giống hoa sen đẹp,
    Thận trọng, thiện nam, trước lực thần!”
  2. Đề phòng nữ sắc mê hồn,
    Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
    Do vậy, lòng nhân từ thúc đẩy
    Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.
  3. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua
    Những lời thông tuệ của cha già,
    Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
    Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!
  4. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
    Vâng lời cha dạy kể từ đây,
    Thà đành vong mạng còn hơn phải
    Trở lại đường xưa lối cũ này.

Sau đó, chàng từ bỏ dục lạc, và tham thiền nhập định. Còn Alambusà thấy rõ công đức tu tập của chàng biết rằng chàng đã đạt Thiền chứng, liền hoảng sợ cầu xin chàng tha tội.

*

Bậc Đạo Sư ngâm hai vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Bỗng chốc A-lam hiểu rõ ràng
    Lực chàng kiên định, thật can tràng,
    Vội quỳ đảnh lễ hiền nhân ấy,
    Lập tức nàng ôm lấy gót chàng.
  2. “Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
    Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
    Khi chư Thiên cõi trời vinh hiển
    Rúng động kinh hoàng nghe đại danh”.

*

Sau đó, chàng để Thiên nữ ra đi và bảo:

– Này Thiên nữ, ta tha tội cho nàng, thôi nàng hãy đi nơi nào tùy ý.

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Tam thập tam Thiên, hưởng phước lành
    Cùng Và-sa (*), chúa tể quần sinh,
    Và nàng Thiên nữ, xin từ giã,
    Nàng được tự do thỏa nguyện mình.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Từ tạ chàng xong, nàng trở về thiên giới trong chiếc xe vàng ấy.

*

Bậc Đạo Sư ngâm ba vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Ôm lấy đôi chân bậc trí nhân
    Đi về phía hữu, diễu quanh vòng,
    Chắp tay, dáng điệu cầu tha tội,
    Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.
  2. Nàng Thiên nữ lại cỡi xe vàng,
    Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
    Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
    Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.
  3. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
    Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
    Sak-ka Thiên chủ hân hoan phán:
    “Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban”.

Khi nhận được điều ước do ngài ban, nàng ngâm vần kệ kết thúc:

  1. Ví dầu Đế Thích, chúa chư Thiên
    Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
    “Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ
    Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền”.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thọai dành cho vị Tỷ kheo kia và giảng giải cho các Thánh Đế cùng nhận diện Tiền thân: – Khi cac Thánh Đế kết thúc, vị Tỷ kheo ấy đắc Sơ quả Dự lưu:

– Lúc bấy giờ Alambusà chính là người vợ trong những ngày phóng dật cũ, Isisinga là vị Tỷ kheo thối thất này và bậc đại Thánh, cha chàng, chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Samkhapàla (Tiền thân Samkhapàla)

Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh…,

Câu chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên quan đến các phận sự trong những ngày trai giới (Bố-tát giới).

Lúc bấy giờ, nhân dịp này bậc Đạo Sư tán thán một số cư sĩ hành trì trai giới và bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa đã từ bỏ cảnh giới huy hoàng của Long vương (Nàga) và hành trì trai giới.

Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ kheo, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa một vị vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị thành Ràjagaha (Vương Xá). Thời bấy giờ, Bồ-tát sinh làm vương tử của Chánh hậu, được đặt tên là Duyyodhana. khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông đạt các môn học thuật tại Takkasilà và trở về triều thăm vua cha, phụ vương liền truyền ngôi cho ngài và xuất gia tu hành tại ngự viên.

Cứ ba lần trong ngày, Bồ-tát đến yến kiến phụ vương thời bấy giờ được tôn kính và cung phụng trọng thể. Việc này gây trở ngại khiến vua cha không thể thực hành ngay cả những pháp môn làm phát khởi Thiền định, nên ngài suy nghĩ: “Ta đang hưởng đầy lợi dưỡng cùng với sự tôn sùng tột bực, nếu ta còn ở đây thì không thể nào đoạn trừ tham dục được. Vậy ta đừng nói gì với hoàng nhi cả, cứ việc bỏ đi nơi khác”.

Thế là không nói gì với một ai, ngài rời ngự viên và vượt qua biên giới của quốc độ Ma-kiệt-đà, ngài dựng một lều lá trong quốc độ Mahimsaka, gần núi Candaka, bên dòng sông Kannapenà uốn khúc, là nơi nó bắt nguồn từ hồ Samkhapàla. Ngài an trú tại nơi đó đến khi thành tựu các pháp môn làm phát khởi Thiền định, ngài tu tập các Thắng trí, và chỉ thọ thực những gì ngài kiếm được. Một vị Long vương loài Rồng Nàga, có danh hiệu Samkhapàla, sinh trưởng từ dòng sông Kannapennà cùng hội chúng đông đảo loài Rồng, thỉnh thoảng đến yết kiến vị ẩn sĩ này, nên ngài thuyết pháp cho Long vương.

Lúc bấy giờ vương tử nóng lòng gặp cha mà không biết hiện ngài ở đâu, nên thân hành đi tìm. Khi biết được nơi ngài đang cư ngụ như thế, vua cùng đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến ngài.

Sau khi dừng lại ở một đoạn đường ngăn cách nơi ấy, vua cùng một số cận thần đi về phía lều ẩn sĩ. Lúc ấy Long vương Samkhapàla đang cùng đám tùy tùng nghe thuyết pháp, nhưng khi thấy vua đến gần, liền đứng dậy vái chào bậc trí giả rồi từ tạ ra về.

Vua vái chào phụ vương và sau các nghi lễ thông thường của đôi bên trao đổi xong, vua hỏi:

– Bạch Tôn giả, vị vua nào vừa yết kiến Tôn giả?

– Này vương nhi, đó là Long vương Samkhapàla.

Vương tử liền mong ước viếng thăm cảnh giới Nàga vì vẻ huy hoàng vĩ đại ở đó. Khi ở lại cùng cha vài ngày, ngài cung cấp phụ vương đủ thực phẩm như thường lệ rồi trở về thành.

Nơi đó, ngài đã cho xây Bố thí đường tại bốn cổng thành, nhờ công đức bố thí ấy, ngài đã gây chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề. Vì ước nguyện lên cảnh giới Rồng Nàga, ngài luôn hành trì giới luật và giữ các phận sự trong ngày trai giới nên khi mạng chung, ngài tái sinh vào cảnh giới Rồng Nàga làm Long vương Samkhapàla.

Dần dần qua thời gian, ngài đâm chán cảnh huy hoàng này, nên từ khi ước nguyện tái sinh làm người, ngài lại hành trì các ngày trai giới; nhưng ở trong cảnh giới Rồng Nàga, việc hành trì giới luật không có kết quả gì, giới đức của ngài lại bị hao tổn.

Từ đó, ngài lìa bỏ cảnh giới Nàga và đến một nơi không xa dòng sông Kannapennà ấy, cuộn mình quanh tổ kiến giữa đường cái và đường mòn, ngài quyết tâm giữa ngày trai giới và thực hành giới đức. Và ngài bảo:

– Kẻ nào cần da thịt ta thì cứ lấy hết đi.

Và như vậy theo hạnh bố thí, ngài hy sinh thân mình, nằm trên tổ kiến, an nghỉ tại đó trong các ngày mười bốn và rằm giữa tháng, cứ hai tuần ngài trở về cảnh giới Nàga.

Một ngày kia, khi ngài đang nằm đó, thực hành giới luật xong, có một đám mười sáu nam nhân từ làng bên cạnh, thèm ăn thịt nên lang thang vào rừng, cầm vũ khí trong tay. Khi trở về chẳng kiếm được thú vật gì, chúng thấy ngài nằm trên tổ kiến liền nghĩ: “Hôm nay ta chẳng bắt được một con tắc kè nhỏ nào nữa, vậy ta phải giết rắn chúa này mà ăn thịt”.

Nhưng vì sợ thân mình ngài quá to lớn, dù chúng có bắt được ngài, ngài cũng sẽ thoát ra, nên chúng nghĩ rằng phải đâm ngài bằng các cây cọc ngay khi ngài đang nằm cuộn mình ở đó và sau khi gây thương tích cho ngài như vậy, chúng sẽ bắt ngài đi. Thế là chúng cầm cọc tiến đến gần ngài.

Lúc bấy giờ Bồ-tát biến hình to lớn như chiếc thuyền rộng cực kỳ xinh đẹp tựa vòng hoa làiđặt trên mặt đất, đôi mắt như quả Gunja, chiếc đầu như đóa hoa Jayasumana.

Khi nghe tiếng chân của mười sáu người kia, ngài ngẩng đầu lên từ thân thể cuộn tròn, mở tođôi mắt rực lửa nhìn cả bọn đi đến cầm cả cọc trong tay. Ngài suy nghĩ: “Hôm nay ước nguyện của ta sẽ thành tựu trong lúc ta nằm ở đây, vậy ta phải nhất tâm cao độ và hy sinh thân mạng ta cho bọn chúng, khi chúng lấy dao đâm ta, gây thương tích đầy mình mẩy ta, ta cũng không được mở mắt ra căm hận nhìn chúng”. Rồi để giữ vững quyết tâm này vì sợ phạm giới luật, ngài dấu đầu vào giữa đám mào và nằm yên. Bọn người kia đến gần ngài nắm ấy đuôi kéo lê đi trên mặt đất. Sau đó lại thả ngài xuống, chúng dùng cọc nhọn đâm vào tám chỗ trên thân ngài rồi lấy gậy tre màu đen, gai nhọn đủ thứ đâm vào các vết thương đang nứt nẻ, xong lại tiến bước, lôi ngài theo bằng dây thừng buộc vào tám chỗ ấy.

Bậc Đại Sĩ từ lúc bị thương tích bởi cọc nhọn kia, chẳng hề mở mắt hay căm hận nhìn chúng, song khi ngài bị kéo lê đi bằng tám sợi dây ấy, đầu ngài chúc xuống, đập vào đất. Vì thế khi chúng thấy đầu ngài rủ xuống, chúng đặt ngài trên con đường dốc cao, đâm qua mũi ngài một chiếc cọc mỏng, nhấc đầu ngài lên, luồn sợi dây vào mũi, và sau khi buộc đầu dây xong, chúng lại nhấc đầu ngài tiếp tục kéo đi.

Vừa lúc ấy một vị điền chủ tên gọi là Alàra ở trong thành Mithila thuộc quốc độ Videha, đang ngồi trong một cỗ xe sang trọng du hành cùng năm trăm cỗ xe nữa, trông thấy bọn ác nhân đang cố lôi Bồ-tát trên đường, liền cho cả mười sáu người trong bọn chúng mỗi người một con bò, một nắm tiền vàng, đầy đủ y phục bên trong lẫn bên ngoài, lại cho vợ con chúng đồ kim hoàn để đeo, xong bảo chúng thả ngài ra.

Bồ-tát liền trở về cung điện Nàga, lập tức đem theo đám tùy tùng đông đảo, đến gặp Alàra, và sau khi tán dương cảnh đẹp của Long cung Nàga, ngài đem ông về đó.

Ngài ban tặng đại vinh hoa phú quý cho ông, cùng với ba trăm Long nữ và mời thọ hưởng đủ lạc thú thiên giới. Alàra sống một năm tròn tại cung thất Nàga hưởng mọi thiên lạc xong, liền bảo Long vương:

– Này hiền hữu, ta muốn trở thành ẩn sĩ tu hành.

Rồi đem theo đủ mọi thứ cần dùng cho đời ẩn sĩ, ông rời Long cung Nàga đi đến vùng Tuyết Sơn tu hành, an trú tại đó một thời gian dài. Dần dần, ngài tiếp tục ra đi đến gần thành Ba-la-nại và an trú trong ngự viên.

Hôm sau ngài vào thành đi khất thực, tiến vào cung. Vua Ba-la-nại thấy diện mạo ngài quả thật uy nghi liền cho gọi ngài vào yết kiến, đặt ngài lên chiếc bảo tọa đặc biệt và ban đủ cao lương mỹ vị. Còn vua ngồi trên chiếc bảo tọa thắp hơn, đảnh lễ ngài xong, lại đàm đạo với ngài, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh,
    Chắc con dòng thế phiệt trâm anh,
    Niềm vui thế tục sao rời bỏ,
    Khoác áo tu, theo luật Thánh hành?

Các vần kệ sau đây là những lời đối đáp xen kẽ giữa vị ẩn sĩ khổ hạnh và vua:

Ẩn sĩ Alàra:

2.Tâu Chúa công, ta nhớ rõ rành
Cung Long vương nọ, dáng oai linh,
Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,
Nên nguyện khoác áo Thánh hành.

Đức vua:

  1. Chẳng mối hãi kinh hoặc dục, sân
    Khiến hiền nhân phải bỏ lời chân:
    Nói cho ta rõ điều mong biết,
    Tịnh tín tâm ta phát triển dần.

Ẩn sĩ Alàra:

  1. Tâu Đại vương, trong bước hải hồ,
    Trên đường ta thấy lũ côn đồ
    Đang lôi Rồng lớn, dây xiềng trói,
    Chiến thắng
    cười vui trở lại nhà.
  2. Chúa thượng, ta liền đến hét to:
    – Kinh hoàng, ta sửng sốt không ngờ
    “Các ngài, lôi quái long đâu đó,
    Ác đàng, làm gì nó nữa được?”

Ác đảng:

  1. Rồng lớn ngài đang thấy trói vầy
    Dị hình, cho thực phẩm ta đây
    A-là-ra, chẳng còn mơ ước
    Hưởng món ngon hơn mỹ vị này.
  2. Từ đây ta vụt thẳng về nhà
    Mỗi đứa dùng dao xẻ thịt ra,
    Thưởng thức thịt ngon, vì phải biết,
    Từ thủ rồng rắn chính nhà ta.

Alàra:

  1. Vì Rồng này mới bắt trong rừng
    Đang bị kéo về nấu món ăn,
    Ta tặng mỗi bò cho một vị,
    Các ngài thả nó khỏi dây chăng?

Ác đảng:

  1. Thịt bò nghe quả thật bùi tai,
    Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,
    Lời ấy, A-là, ta chấp thuận,
    Từ đây, tình bạn sẽ lâu dài.

Alàra:

10 Chúng thả ngài ra khỏi sợi dây
Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,
Chúa Rồng thoát được vòng tù tội
Hướng mặt về đông, nghỉ lát giây.

  1. Vẫn nhìn đông, đã sẵn sàng bay,
    Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,
    Trong lúc ta nhìn theo hướng ấy,
    Như người cầu nguyện chắp đôi tay:
  2. “Nhanh chân chạy trốn, hỡi thân bằng,
    E lại sa vào lũ địch nhân,
    Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,
    Nếu không, ắt phải họa vào thân”.
  3. Ngài vội đến hồ nước đẹp trong,
    Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,
    Trong lòng hoan hỷ, không còn sợ,
    Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng.
  4. Vừa khi biến mất, vị Long vương
    Hiển lộ thần thông thực rõ ràng,
    Thái độ ân cần, đầy tin cẩn,
    Lời tri ân cảm động can tràng.

Long vương:

  1. Ngài thân thiết vượt đấng sinh thành,
    Đã cứu đời ta, bạn chí tình
    Đến tận tay xương, nhờ chính bạn
    Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,
    A-là, ngài viếng nơi ta ngự,
    Cung điện đầy kho thực phẩm lành.
    Chẳng khác In-dra thành thượng giới,
    Ma-sak-ka, xứ sở lừng danh.

– Tâu Đại vương, sau khi nói xong những lời này, Long vương còn ca tụng thêm cảnh giới của ngài qua các vần kệ:

Long vương:

  1. Quốc độ ta bao cảnh tuyệt vời
    Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi
    chẳng vươn cát bụi trên đường lộ,
    chốn ấy, ly sầu, hưởng lạc thôi.
  2. Sân bằng, tường ngọc bích bao quanh,
    Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,
    Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,
    Bốn mùa thay đổi suốt năm lành.
  3. Giữa rừng xoài ấy, điện bằng vàng
    Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,
    Rực rỡ cung đình kia nổi bật
    Hơn làn chớp lóe giữa không gian.
  4. Tô điểm bảo châu, đẹp dị thường
    Biết bao tranh vẽ quý trang hoàng,
    Bầy tiên phục sức xa hoa quá,
    Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng.

Alàra:

  1. Sam-kha đại đế ngự lên mau
    Lầu thượng, quyền uy thật tối cao
    Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,
    Ấy cung hoàng hậu được ngài giao.
  2. Nhanh nhẹn một tiên nữ giữa bầy,
    Cầm viên ngọc báu ở trong tay
    Ngọc lam quý hóa đầy thần lực,
    Tự ý mời ta một chiếc ngai.
  3. Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi
    Sừng sững cao sang, một chiếc ngai:
    “Xin ngài an tọa, ta ngồi cạnh
    Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!”.
  4. Thêm một nàng theo kịp lệnh ngài
    Đến cùng bình nước ở trong tay,
    Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo
    Như chánh hậu chầu Long đế đây.
  5. Thêm nàng tiên nữa thật nhanh chân
    Dâng chén vàng cơm thập cẩm ngon
    Gia vị thơm nồng càng cám dỗ
    Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương.
  6. Trỗi nhạc lên- vì chàng hiểu rằng
    Đó là ý chúa – Chúng hằng mong
    Chiếm lòng ta, cũng như Long đề
    Đem thù thần tiên để tấn công.

Rồi vị chúa rồng đến gần ta ngăm thêm vần kệ:

  1. Ba trăm tỷ thiếp, hỡi A-là,
    Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,
    Tất cả đều lưng thon yểu điệu,
    Yêu kiều dung sắc vượt liên hoa,
    Kìa xem! Chúng chỉ chiều tôn ý,
    Xin nhận lời ban tặng của ta.

Alàra nói tiếp:

  1. Một năm thiên lạc hưởng tràn đầy,
    Ta hỏi Long vương một chuyện này:
    “Sao được tiên cung làm nội thất,
    Làm sao cung điện đến phần ngài?
  2. Tiên cảnh này thành tựu ngẫu nhiên,
    Được ngài xây? Tặng vật chư Thiên?
    Long vương xin nói điều chân thật,
    Sao đến an nhàn ở cảnh tiên?

Sau đây là các vấn kệ đối đáp nhau giữa đôi bên:

Long vương:

  1. Chẳng phải tình cờ, chẳng tự nhiên,
    Chẳng do ta tạo, hoặc chư Thiên,
    Chính nhờ thiện nghiệp ta, ngài biết,
    Nhờ đức hạnh, ta hưởng cảnh tiên.

Alàra:

  1. Hạnh nguyện gì, đâu Thánh đạo cao,
    Đức gì tích trữ phước ngày sau?
    Long vương, xin nói, ta mong biết
    Ngài huởng tiên cung bởi cách nào?

Long vương:

  1. Ta nguyện lời kia, sống trọn đời
    Tu nhân tích đức góp gom hoài,
    Cung này, nhờ đó, sau cùng hưởng,
    Thực phẩm tràn đầy chứa khắp nơi.

Alàra:

  1. Cuộc đời dù sáng rực bao ngày,
    Vũ khúc, hoan ca chẳng kéo dài,
    Kẻ yếu hại ngài vì đại lực,
    Lũ hèn làm dũng sĩ xa bay:
    Răng thần sao đấu không cân sức,
    Ngài chịu thua bầy hạ tiện vầy?
  2. Ngài chịu đau vì quá hãi hùng?
    Do đâu nọc độc đã tiêu vong?
    Sao ngài thần lực đầy răng ấy,
    Mà phải chịu đau bởi ác nhân?

Long vương:

  1. Ta chẳng thua vì quá hãi hùng,
    Chẳng ai làm đại lực tiêu vong,
    Mọi người thừa nhận bao công đức
    Như biển bờ cao, chẳng ngập tràn.
  2. Ngày trai mỗi tháng giữ hai lần,
    Chính buổi kia ngăn chặn bước đàng,
    Mười sáu chàng trai, tay nắm đủ
    Dây thừng, thòng lọng cực kỳ sang.
  3. Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta
    Xuyên dây thừng ấy, kéo ta qua,
    Đớn đau, ta chịu, ôi đành phận,
    Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà.

Alàra:

  1. Thấy trên đường vắng, trải giăng dài
    Hình đẹp, khổng lồ, đại lực oai:
    “Bậc trí hiển vinh”, ta thét lớn,
    “Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa ngài?”

Long vương:

  1. Ta chẳng cầu con, chẳng ước giàu,
    Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,
    Song trên nhân thế ta mong sống
    Nỗ lực anh hùng đạt đích cao.

Alàra:

  1. Tóc râu chải chuốt, dáng oai hùng,
    Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,
    Đỏ thắm chiên-đàn, ngài rực rỡ
    Xa xa, nào khác Nhạc thiên thần.
  2. Hưởng bao ân huệ lộc trời cho,
    Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,
    Ta hỏi Long vương, xin nói thật,
    Cõi người sao lại muốn an cư?

Long vương:

  1. Không đâu trừ thế giới người đời
    Thanh tịnh, điều thân được thấy rồi,
    Chỉ sống giữa đời người thế tục
    Đọan trừ sinh tử kiếp sau thôi.

Alàra:

  1. Dù hưởng đầy hoan lạc dị thường,
    Cùng Long vương sống suốt năm trường,
    Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mãu,
    Không ở nữa, vì xa cố hương.

Long vương:

  1. Thê nhi trẫm với lũ cung nhân
    Được luyện hầu ngài, lệnh phục tuân,
    Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,
    Vì ngài, trẫm thấy rất thương thân.

Alàra:

  1. Đủ mặt mẹ cha thắm thiết tình,
    Hân hoan tràn ngập cả gia đình,
    Còn nhiều người quý yêu con trẻ,
    Song lạc tối cao giữa chúng sinh
    Ta được thấy đây, Long đế hỡi,
    Vì ngài đầy thắm thiết bên mình.

Long vương:

  1. Bảo châu trẫm có điểm hồng vân
    Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,
    Nhận lấy về nhà, khi phú quý,
    Xin đưa trả ngọc lại Long quân.

Ẩn sĩ sau khi nói xong những lời này, liền tiếp tục như sau:

– Tâu Đại vương, sau đó ta đáp lời Long vương: “Tâu Đại đế, ta không mang giàu sang, ta chỉ muốn xuất gia tu hành”.

Sau khi xin ban đủ mọi vật cần thiết cho đời sống tu hành ẩn sĩ, ta từ giã cảnh giới Nàga cùng với Long vương, và khi đã mời ngài trở lui về, phần ta vào vùng Tuyết Sơn tu tập.

Nói xong, ẩn sĩ này lại thuyết giáo cho vua Ba-la-nại và ngâm thêm hai vần kệ :

  1. Dục tham trần thế thoáng qua nhanh
    Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,
    Thấy khổ phát sinh từ ái dục,
    Tín tâm dẫn bước đến tu hành.
  2. Người tàn như trái rụng, tiêu vong,
    Già trẻ, muôn loài rã mục thân,
    Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,
    Tối ưu là Thực thể thuần chân.

Nghe lời này, vua ngâm kệ đáp lời:

  1. Bậc hiền có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu Thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ngài dạy, cùng Long đế,
    Trẫm thực hành toàn nghiệp thiện chân.

Vị ẩn sĩ muốn khuyến khích tinh tấn lực của vua, liền ngâm kệ kết thúc:

  1. Bậc hīền, có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ta dạy, cùng Long đế,
    Chúa thượng thực hành nghiệp thiện chân.

Vị này thuyết giáo như vậy với vua và sau khi ở lại đó bốn tháng mùa mưa, liền trở về Tuyết Sơn sống và tu tập Tứ Vô lượng tâm đến khi mạng chung, được tái sinh Phạm thiên giới.

Còn vua Samkhapàla. trong suốt quãng đời còn lại, chuyên tâm hành trì các ngày trai giới, bố thí, cùng nhiều thiện sự khác, nên sau khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư nhận diện tiền thân:

Thời bấy giờ, vị vua cha trở thành ẩn sĩ khổ hạnh chính là Kassapa (Ca-diếp), vua Ba-la-nại là Ànanda (A-nan), ẩn sĩ Alàra là Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Long vương Samkhapàla chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tiểu Sutasoma (Tiền thân Culla-Sutasoma)

Hiền hữu, thần dân thụ họp đây..,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự tu tập viên mãn hạnh xuất gia của Ngài.

Phần đầu câu chuyện tương ưng với phần đầu của Tiền thân Mahànàrada Kassapa số 544, tập VII.

*

Ngày xưa tại thành Bà-la-nại, ngày nay là kinh thành Sudassana, có vua Brahmadatta trị vì. Chánh hậu của ngài sinh ra Bồ-tát. Khuôn mặt ngài sáng rực như trăng rằm, vì thế ngài được đặt tên Somakumàra (Nguyệt Cung Vương tử). Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vì ngài thích uống nước trái cây Soma và hay có thói quen tưới rượu lễ vào đó nên ngài được mệnh danh Sutasoma (người làm rượu Soma).

Đến tuổi khôn lớn, ngài được truyền dạy các môn học thuật tại Takkasilà và khi trở về nhà, ngài được vua cha ban chiếc lọng trắng. Ngài trị vì quốc độ rất đúng pháp, cai quản cả một lãnh thổ rộng lớn cùng mười sáu ngàn cung tần, với nàng Candadevi làm chánh hậu. Dần dần hoàng gia càng thêm đông đúc, ngài đâm nhàm chán với cuộc sống gia đình nên lui vào rừng, mong ước thọ trì giới luật tu hành. Một ngày kia, ngài triệu người hớt tóc vào phán bảo:

– Khi nào khanh thấy sợi tóc bạc trên đầu trẫm, khanh phải nói cho trẫm biết.

Người hớt tóc tuân lệnh, sau đó thấy một sợi tóc bạc, liền tâu với ngài ngay. Vua bảo:

– Vậy khanh hãy nhổ ra và đưa cho trẫm.

Ngừơi hớt tóc lấy cái nhíp vàng nhổ ra và đặt vào tay ngài. Bậc Đại Sĩ thấy sợi tóc bạc, kêu to:

– Thân ta sắp bị tuổi già tàn phá.

Rồi ngài kinh hoảng cầm sợi tóc bạc bước xuống lầu, ngự lên ngai đặt trước thần dân.

Sau đó, ngài triệu tám mươi ngàn triều thần do vị đại tướng cầm đầu và sáu mươi ngàn Bà-la-môn do vị tế sư của triều đình lãnh đạo, cùng nhiều cận thần và dân chúng đến bảo:

– Tóc bạc đã xuất hiện trên đầu trẫm, trẫm đã già rồi, các khanh phải biết rằng trẫm muốn thành ẩn sĩ.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Hiền hữu, thần dân tụ tập đây,
    Quân sư tin cẩn, hãy nghe vầy:
    Giờ đầu tóc bạc ta dần hiện,
    Ta muốn trở thành ẩn sĩ ngay.

Nghe vậy, mỗi người trong đám kia đều thất vọng ngâm vần kệ này:

  1. Bất xứng lời kia đã thốt ra,
    Mũi tên Hoàng thượng thấu tim ta:
    Bảy trăm cung nữ, tâu Hoàng thượng,
    Sẽ thế nào khi chúa xuất gia?

Tiếp theo, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Kẻ khác sẽ khuyên chúng hết buồn,
    Chúng đều kiều diễm, tuổi thanh xuân,
    Còn ta hướng đích lên thiên giới,
    Nên muốn làm tu sĩ ẩn thân.

Các vị quân sư không thể nào đáp lời vua được liền đi yết kiến Thái hậu và trình câu chuyện với bà. Thái hậu liền vội vã đi đến hỏi vua:

– Này vương nhi, quần thần bảo rằng vương nhi muốn làm ẩn sĩ, có đúng chăng?

Bà lại ngâm hai vần kệ:

Than ôi! Ngày bất hạnh như vầy,
Ngày được vương nhi gọi mẹ đây:
Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
Con đành làm ẩn sĩ từ nay.

  1. Bạc phận, than ôi, quả đúng thời
    Sơ-ma yêu quí đã chào đời!
    Vô tình trước lệ sầu cay đắng
    Con quyết tu hành, vương tử ôi!

Trong khi Thái hậu than khóc như vậy, Bồ-tát không thốt lên lời nào. Thái hậu vẫn ngồi một mình khóc lóc mãi. Sau đó quần thần tâu với phụ hoàng. Ngài đi đến ngâm kệ sau:

  1. Pháp nào đây hướng dẫn vương nhi
    Mong ước rời vương quốv biệt ly,
    Bỏ mặc lão thân đời quạnh quẻ,
    Ẩn am tìm đến để tu trì?

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ liền trấn an ngài. Phụ vương lại bảo:

– Này vương nhi Sutasoma, cho dù con không thương tiếc gì đến song thân nữa, con vẫn còn nhiều vương tử, công chúa lắm. Chúng không thể nào sống thiều con được. Vậy đợi đến khi chúng trưởng thành rồi vương nhi hãy xuất gia tu hành có được chăng?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Vương nhi nhiều ấu tử, e rằng:
    Hết thảy còn đang độ búp măng,
    Đến lúc vương nhi vừa vắng bóng
    Nỗi buồn nào sánh chúng hay chăng?

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Quả thật, thần nhi có lắm con,
    Chúng còn đang độ tuổi măng non,
    Dù bao năm sống gần bên chúng,
    Con phải giờ đây vĩnh biệt luôn.

Thế là bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho phụ vương và khi nghe ngài thuyết Pháp, vua cha bình tâm lại, rồi quần thần thông báo cho bảy trăm cung phi. Họ từ trên thượng lầu bước xuống yết kiến ngài, ôm lấy chân ngài và ngâm vần kệ:

Lòng ngài chắc phải vỡ vì buồn,
Hoặc giả ngài không biết xót thương,
Nên ước nguyện theo đời ẩn sĩ,
Để cung tần khóc nỗi cô đơn!

Bậc Đại Sĩ nghe họ khóc than như vậy trong lúc họ ngã mình dưới chân ngài và gào thét, liền ngâm thêm một vần kệ:

  1. Lòng ta không thể vỡ vì buồn
    Dẫn thấy đau vầy, cũng xót thương,
    Song việc tu hành ta đã quyết
    Để ta hưởng cực lạc thiên đường.

Sau khi, quần thần trình lên chánh cung hoàng hậu. Bà đang mang thai nặng nhọc vì ngày sinh cận kề, bà liền đến gần bậc Đại Sĩ, đảnh lễ ngài và kính cẩn đứng qua một bên rồi ngâm ba vần kệ:

  1. Than ôi! bất hạnh chính là ngày
    Thiếp được xe duyên Chúa thượng đây,
    Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
    Đại vương quyết chí xuất gia ngay.
  2. Bạc phận, than ôi, đó chính ngày
    Cùng So-ma kết tóc xe dây,
    Vì chàng để mặc ai sầu chết,
    Quyết chí theo đời ẩn sĩ đây.
  3. Mãn nguyệt khai hoa đã kế gần,
    Mong chàng ở lại, hỡi vương quân,
    Khi con sinh hạ, ngày sầu thảm
    Thiếp biết từ đây mất Chúa công.

Đến lượt bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đáp:

  1. Mãn nguyệt khai hoa đã tới hồi,
    Ta chờ đến lúc trẻ ra đời,
    Rồi ta từ giả ngay vương tử,
    Xuất thế, ta thành ẩn sĩ thôi!

Nghe ngài nói vậy, bà không thể nào kiềm chế nỗi sầu thảm được nữa, liền lấy hai tay ôm ngực, bảo ngài:

– Tâu Chúa thượng, từ nay cảnh vinh quang của đôi ta không còn nữa.

Rồi lau dòng lệ xong, bà lại than khóc thảm thiết.

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ an ủi bà:

  1. Vương hậu mắt huyền hoa mượt mà,
    Xin nàng đừng khóc nữa vì ta,
    Nguyệt Nga, lên thượng lầu an nghỉ,
    Ta sẽ đi, lòng chẳng thiết tha!

Không thể nào chịu đựng nổi lời nói của ngài được nữa, bà vội bước lên thượng lầu ngồi khóc một mình. Lúc ấy vị thái tử của Bồ-tát thấy vậy, hỏi bà:

– Tại sao mẫu hậu ngồi khóc ở đây?

Và chàng ngâm kệ này hỏi mẹ:

  1. Mẫu hậu có ai khiến mẹ buồn,
    Cớ sao mẹ khóc, lại nhìn con?
    Ai trong hoàng tộc lòng vô đạo,
    Vì mẹ, con đành giết sạch luôn.

Hoàng hậu liền ngâm vần kệ đáp:

  1. Không ai dám hại đến người kia,
    Người khiến ta sầu khổ não nề,
    Vì chính phụ vương con đã nói:
    “Ta không đoái tưởng, sẽ ra đi”.

Nghe lời mẹ, thái tử nói:

– Tâu mẫu hậu, sao mẫu hậu lại nói thế? Nếu quả vậy thì chúng con thật bơ bơ.

Chàng liền than khóc và ngâm kệ:

  1. Có lần ta dạo khắp hoa viên
    Nhìn lũ voi giao đấu trận tiền,
    Vì thử phụ vương thành ẩn sĩ
    Ta làm gì, hỡi kẻ vô duyên?

Sau đó, một vị vương tử vừa lên bảy, thấy anh và mẹ đang khóc, liền đến gần mẹ hỏi:

– Mẫu hậu và hoàng huynh ơi, cớ sao lại than khóc?

Và khi nghe duyên cớ, cậu bé bảo:

– Thôi được, đừng khóc nữa, con sẽ không để phụ vương xuất gia đâu.

Rồi vương tử an ủi hai vị, xong cùng nhũ mẫu bước xuống khỏi thượng lầu, đến yết kiến phụ vương và thưa:

– Tâu phụ vương, thần nhi nghe nói phụ vương sắp rời bỏ chúng con mà xuất gia, mặc dù chúng con không muốn, vậy con không chịu để phụ vương đi tu đâu.

Rồi ôm chặt lấy cổ vua cha, vương tử ngâm vần kệ:

  1. Mẫu hậu đang ngồi khóc nỉ non,
    Vương huynh cũng muốn giữ cha thương,
    Con ôm vương phụ bằng tay vậy,
    Chẳng để cha đi trái ý con.

Bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Thằng bé này thật là mối nguy hiểm cho ta, ta làm thế nào để thoát được nó đây?”. Rồi nhìn người nhũ mẫu, ngài bảo:

– Này hiền nhũ mẫu, hãy nhìn viên ngọc trang sức này, ta cho ngươi đấy, chỉ việc đem đứa bé này đi nơi khác, đừng để nó cản trở ta.

Vì ngài không thể tránh được cậu bé đang nắm chặt lấy tay ngài, ngài hứa ban thưởng cho nhũ mẫu ấy và ngâm kệ:

  1. Gắng nuôi vương tử lớn lên dần,
    Đem trẻ vui đùa chốn khác hơn,
    E trẻ phá tan niềm hỷ lạc,
    Cản chân ta vội đến thiên đường.

Nhủ mẫu nhận món quà thưởng và dỗ dành cậu bé rồi dẫn đi nơi khác, bà vừa than khóc vừa ngâm kệ:

  1. Vì ta từ khước hạt minh châu,
    Ta chẳng màng chi – sẽ thế nào?
    Vì Chúa thượng ta làm ẩn sĩ
    Bảo châu còn có nghĩa gì đâu?

Lúc ấy vị đại tướng của ngài suy nghĩ: “Chắc đức vua tưởng ngài chỉ có rất ít bảo vật trong cung thôi. Vậy ta sẽ cho ngài biết có vô số kể”. Vì thế vị này đứng lên đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương đầy ắp mọi kho tàng,
    Chúa thượng tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Chớ làm ẩn sĩ, sống thư nhàn.

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Kho tàng đầy ắp các kim ngân,
    Ta đã tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Nay làm ẩn sĩ, bỏ phàm trần!

Khi ấy một vị đại phú thương vừa đi đến, có tên là Kulavaddhana, nghe lời liền đứng lại, đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương, thần tột đỉnh giàu sang,
    Chẳng đếm làm sao xiết bạc vàng,
    Xin ngắm hạ thần dâng tất cả,
    đứng làm ẩn sĩ, sống thư nhàn!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Này hỡi Ku-la, vẫn biết rằng
    Khanh mong dâng hiến cả kho tàng
    Song ta hướng dịch về thiên giới
    Nên khước từ nhân giới dục tham.

Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp như vậy cho dân chúng rồi bước lên thượng lầu của Cung Vạn Hoa, ngài đứng trên tầng thứ bảy, cắt búi tóc và bảo:

– Bây giờ ta không là gì nữa đối với các ngươi, vậy các ngươi hãy chọn một vị vua khácđi.Cùng với những lời này, ngài ném búi tóc của ngài, khăn đội đầu, cùng các bảo vật khác xuống giữa đám quân thần dân chúng. Quần thần cầm lấy búi tóc, lăn lóc trên mặt đất, kêu gào thảm thiết, rồi một đám bụi từ nơi ấy tung lên cao, dân chúng đứng lùi lại nhìn theo bảo nhau:

– Có lẽ đức vua đã cắt búi tóc và ném xuống cùng khăn đội đầu đủ cả vào đám dân chúng, cho nên mới có đám bụi tung lên gần cung điện.

Rồi họ khóc than ngâm kệ:

  1. Nhìn đám bụi kia chợt tỏa cao
    Gần hoàng cung đại Vạn Hoa Lầu,
    Chắc rằng Minh đế lừng danh vọng
    Đã cắt tóc ngài với bảo đao!

Còn bậc Đại Sĩ truyền gọi một quân hầu tìm đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ đem đến cho ngài, lại bảo người thợ hớt tóc cạo sạch râu tóc ngài, ném chiếc hòang bào rực rỡ xuống bảo tọa, ngài cắt bỏ mọi dải lụa màu, đắp lên người những miếng vải nối lại màu vàng, buộc cái chén đất lên đầu vai trái, rồi cầm chiếc gậy hành khất trong tay, ngài đi lui đi đi tới trên thượng lầu, sau đó bước xuống lầu đi ra đường, song không ai nhận ra ngài khi ngài đi xuông cả.

Còn bảy trăm cung tần bước lên thượng lầu không tìm thấy ngài, mà chỉ thấy đống xiêm y của ngài; liền bước xuống bảo mười sáu ngàn cung phi khác:

– Đại đế Sutasoma, Chúa thượng tôn quý của ta đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Và họ than khóc bước ra. Vừa lúc ấy dân chúng hay tin ngài đã làm ẩn sĩ, cả kinh thành chấnđộng hẳn lên, dân chúng bảo nhau:

– Người ta bảo đức vua đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Họ đều tụ tập tại cung môn, kêu lên:

– Chúa thượng chắc đang ở một nơi nào đó.

Rồi họ đổ xô ra khắp nơi ngài thường lui tới, song không tìm được ngài, họ đi lang thang đây đó vừa than khóc, vừa ngâm kệ:

  1. Này đây, cung điện, tháp lầu vàng,
    Lủng lẳng vòng hoa tỏa ngát hương,
    Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự du thường.
  2. Giăng mắc vòng hoa, dát ngọc vàng,
    Ta nhìn cung điện nóc cao sang
    là nơi hoàng tộc chầu bên cạnh,
    Đại đế kiêu hùng bước dọc ngang.
  3. Đây vườn thương uyển rực muôn hoa,
    Thay đổi quanh năm với các mùa,
    Rộn rịp bao cung tần mũ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự loan xa.
  4. Hồ kia phủ khắp đám sen xanh.
    Nơi chốn chim muông đến lượn quanh,
    Tất cả hoàng gia chầu cạnh đó,
    Ngày xưa Chúa thượng vẫn du hành.

Cứ thế dân chúng vừa đi khắp nơi vừa than khóc rồi trở lại sân chầu, họ ngâm kệ:

  1. Thật buồn thay Chúa thượng So-ma
    Đã bỏ ngai vàng để xuất gia,
    Mặc chiếc hoàng y, ngài rảo bước
    Như voi đơn độc lạc đường xa.

Rồi họ ra đi, bỏ hết nhà cửa đồ đạc, dắt theo con cái đi tìm Bồ-tát và cha mẹ, cháu chắt họ cùng đi theo với mười sáu ngàn cung phi ca múa. Cả kinh thành như bãi sa mạc vì dân chúngđi theo nhau cả. Bồ-tát và dân chúng chiếm cứ một vùng mười hai dặm về núi Tuyết Sơn.

Lúc ấy Đế Thích Thiên chủ, chú tâm đến Đại sự Xuất thế của ngài, liền bảo Vissakamma:

– Này hiền hữu Vissakamma, vua Sutasoma đã từ bỏ thế tục. Ngài phải có nơi ẩn cư, vì dân chúng tụ tập quanh ngài đông lắm.

Ngài lại triệu vị này đến bảo:

– Hãy đi dựng am thất ẩn sĩ dài mười ba dặm, rộng năm dặm trên bờ sông Hằng ở vùng núi Tuyết Sơn.

Vị này tuân lệnh, cung cấp các lều ẩn sĩ đầy đủ mọi vật dụng cần thiết và lại làm một conđường dẫn đến đó, rồi trở về thiên giới.

Bậc ĐạI sĩ theo đường này đến vùng am tranh, sau khi ngài thọ đại giới, ngài lại truyền giới cho đám dân chúng, dần dần đa số được thọ giới nên khu vực mười ba dặm này đông đảo người tu. Lúc bấy gờ, việc Vissakamma xây am ẩn sĩ ra sao, đại chúng được truyền giới như thế nào, vùng am thất của Bồ-tát được sắp đặt ra sao, đều được hiểu theo như kiểu trong Tiền thân Hatthipàla số 509, Tập V. Ở đây, nếu có một dục tưởng hay tà kiến nào khởi lên trong tâm bất cứ người nào, bậc Đại Sĩ liền đến gần người đó ở trên không, ngồi kiết già giữa không gian và thuyết pháp qua hai vần kệ :

  1. Quên đi chuyện ái dục ngày xưa
    Khi vẻ mặt người vẫn cợt đùa,
    Kẻo sợ kinh thành hoan lạc ấy
    Làm bừng dục vọng, phải tiêu ma.
  2. Thoát người tham đắm, tự điều thân,
    Thiện ý ngày, đêm với thế nhân,
    Ngươi sẽ hưởng ngôi nhà thượng giới,
    Nơi người hành thiện đến chung phần.

Hội chúng Thánh nhân này hành trì lời giáo huấn của ngài, nên được tái sinh lên Phạm thiên giới, câu chuyện được kể giống hệt như trong Tiền thân Hatthipàla.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt thời Pháp thọai, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã làm Đại sự Xuất thế.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, song thân là vương phụ và mẫu hậu trong triều đình, Candà là mẹ Ràhula (La-hầu-la), Thái tử là Sàriputta (Xá-lợi-phất), tiểu vương tử là Ràhula, nhũ mẫu là Khujjutarà, vị phú thương Kulavaddhana là Kassapa (Ca-diếp), vị đại tướng là Moggallàna (Mục-kiền-liên), hoàng đệ Somadatta là Ànanda (A-nan) và vua Surasoma chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVIII

Phẩm Năm Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện công chúa Nalinikà (Tiền thân Nalinikà)

Nhìn kia! Mặt đất cháy khô cằn…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc một Tỳ kheo bị người vợ của thời kỳ phóng dật cũ cám dỗ.

Khi kể chuyện này, Ngài hỏi vị Tỳ kheo vì ai ông đã lạc đường. Ông đáp:

– Vì người vợ cũ.

Bậc Đại Sư bảo:

– Quả vậy, này Tỳ kheo, nữ nhân ấy đã làm hại ông. Ngày xưa chính vì nàng ấy mà ông đã sa đọa mất hết Thiền lực và bị sụp đổ hoàn toàn.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Khi ngài khôn lớn, và đã được huấn luyện đủ môn học thuật, ngài xuất gia làm ẩn sĩ. Sau khi đạt được thần lực nhờ tu tập Thiền định, ngài vào trú ẩn tại Tuyết Sơn.

Giống như câu chuyện được kể trong Tiền thân Alambusà (số 523), một con nai cái đã thụ thai vì ngài và hạ sinh một nam tử được đặt tên là Isisinga. Khi cậu bé lớn khôn, cha cậu truyền giới cho cậu và dạy cậu đủ mọi pháp môn dẫn đến Thiền định.

Nhờ pháp môn này chẳng bao lâu chàng đạt được thần lực và hưởng thú cực lạc trong miền Tuyết Sơn, rồi nhờ pháp khổ hạnh, chàng trở thành một bậc Hiền trí chuyên tu khổ hạnh đến độ cung của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ bị rúng động vì đức độ của chàng.

Thiên chủ suy xét, tìm ra nguyên nhân liền suy nghĩ: “Ta phải tìm cách phá tan công hạnh vị này”. Trong khoảng ba năm liền, trời ngưng đổ mưa xuống quốc độ Kàsi, xứ sở này thành khô cằn nứt nẻ, không một vụ mùa nào kết quả cả. Dân chúng bị nạn đói bức bách liền tụ tập trước sân chầu và oán trách vua.

Đứng trước cửa sổ mở rộng vua hỏi họ có việc gì. Dân chúng tâu:

– Tâu Thánh thượng, trong ba năm liền, mưa trên trời không rơi xuống, cả nước bị khô cháy, dân chúng vô cùng khổ sở, xin Thánh thượng hãy cầu trời mưa.

Vua thề nguyền giữ đức độ, hành trì ngày trai giới, nhưng vẫn không có mưa xuống.

Rồi chính vào lúc nữa đêm, Thiên chủ Đế Thích giáng hạ tại hoàng cung, chiều sáng lòa khắp vùng vừa đứng trên không. Vua thấy ngài liền hỏi:

– Ngài là ai?

Ngài đáp:

– Ta là Đế Thích Thiên chủ.

– Tại sao ngài giáng thế?

– Này Đại vương, mưa có rơi trên quốc độ của ngài chăng?

– Không có mưa rơi.

– Thế ngài có biết tại sao chăng?

– Trẫm không biết.

– Trên vùng Tuyết Sơn, này Đại vương, có một ẩn sĩ tên là Isisinga, Vị này hành trì khổ hạnh hết sức khắc nghiệt, khi trời sắp mưa, ông giận dữ nhìn lên trời khiến mưa ngưng lại.

– Vậy phải làm sao đây?

– Nếu công hạnh vị này sụp đổ thì mưa sẽ rơi xuống.

– Nhưng ai có thể chiến thắng đức độ của vị ấy?

– Này Đại vương, công chúa Nalinikà của ngài có thể làm được việc này. Xin hãy triệu nàng đến đây và bảo nàng đến nơi đó phá tan công hạnh của vị ẩn sĩ kia.

Sau khi khuyên bảo vua như thế xong, Đế Thích Thiên chủ trở về cõi của ngài. Ngày hôm sau, vua hội ý với quần thần và triệu công chúa đến bảo nàng qua vần kệ đầu:

  1. Nhìn kia mặt đất cháy khô cằn,
    Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,
    Con hỡi, Na-li, đi đến đó,
    Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

Nghe lời này, nàng đáp vần kệ thứ hai:

  1. Làm sao con chịu được gian nan,
    Khi giữa bầy voi lạc bước đàng
    Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,
    Làm sao cất bước được bình an?

Vua cha lại ngâm hai vần kệ:

  1. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,
    Rồi từ đấy phải vội rời chân
    Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,
    Ngự giá công nương tiến thẳng đường.
  2. Chiến mã tượng, cùng với bộ binh
    Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,
    Với mê hồn sắc con cần kíp
    Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

Như vậy, vì muốn bảo vể quốc độ, vua đã nói với công chúa những việc không nên nói bằng lời như trên. Còn nàng sẵn sàng tuân theo lệnh cha. Thế là sau khi cung cấp cho nàng đủ mọi thứ cần thiết, bảo nàng lên đường cùng đám cận thần kia.

Họ đi đến gần biên giới và sau khi đóng trại ở đó, họ truyền đưa công chúa đi theo con đường do các sơn nhân chỉ dẫn. Rạng ngày hôm sau, họ vào đến vùng Tuyết Sơn, tiến sát vùng ẩn am ấy. Ngay lúc bấy giờ, Bồ-tát để con trai ở lại thảo am, còn ngài đã vào rừng hái quả dại. Các sơn nhân đến gần vùng thảo am, đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ, vừa chỉ lều cho Nalinikà vừa ngâm kệ:

  1. Nổi bật với hàng chuỗi lá xanh,
    Giữa Bhur-ja khóm lắm cây cành,
    Nhìn xem, lều của I-si đấy,
    Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.
  2. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia
    Phát xuất từ trong lửa tỏa ra
    Được ấp ủ nhờ tay bậc trí
    Nổi danh thần lực thật cao xa.

Đúng lúc Bồ-tát đã đi vào rừng, đám cận thần của vua đã vào bay vây vùng ẩn cư ấy và canh chừng kỹ, họ cho công chúa giả dạng một ẩn sĩ khỗ hạnh, khoát lên mình nàng đủ y trong y ngoài bằng võ cây đẹp có tô điểm mọi thứ trang sức, rồi bảo nàng cầm một quả cầu được vẽ màu, buột vào một sợi dây và đưa nàng vào vùng am tranh kia, còn chính họ đứng canh bên ngoài. Thế là vừa chơi quả cầu, nàng vừa tiến vao am thất ấy.

Lúc bấy giờ, Isisinga đang ngồi trên trường kỷ đặt tại cửa lều, thoạt trông thấy nàng tiến đến, chàng kinh hoảng đứng dậy chạy trốn vào trong. Nàng cứ tiến gần cửa lều và tiếp tục chơi quả cầu.

Bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ đễ làm sáng tỏ việt này:

  1. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,
    Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,
    I-si tội nghiệp liền kinh hoảng
    Vội bước vào am, chốn ẩn thân.
  2. Lúc đứng trước thềm của đạo quân,
    Công nương đùa với quả cầu tròn,
    Thân hình diễm lệ nàng phô diển
    Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.
  3. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,
    Tứ trong, chàng vội phóng ra ngay,
    Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy
    Chàng thốt ra lời lẽ thế này:
  4. “Quả cây gì đó,dám thưa ngài?
    Dù có tung xa tít tận trời,
    Cũng sẽ quay về ngài như vậy,
    Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?

Nàng đáp vần kệ này, tả cho chàng biết về cây kia:

  1. Đỉnh Hương sơn nọ, chính quê nhà,
    Vốn tự hào khoe chốn tệ gia
    Có thật nhiều cây sinh quả ấy,
    Dù tung cao vút tận trời xa
    Vẫn còn trở lại tay lần nữa,
    Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

Nàng nối dối như vậy, nhưng chàng tin nàng ngay, Và cứ tưởng đấy là một vị tu khổ hạnh, nên chàng ân cần chào đón nàng và nhâm vần kệ này:

  1. Xin vào an tọa, hỡi hiền nhân,
    Nhận thức ăn và nước rửa chân,
    An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng
    Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

Chàng trai trẻ thanh tân này chưa từng thấy nữ nhân bao giờ cả, nên chàng bị lung lạc liền tin ngay câu chuyện lạ thường nàng vừa kể cho chàng nghe; rồi công hạnh của chàng bị đánh bại vì các trò quyến rũ của nàng và Thiền lực của chàng tiêu tan cả. Sau khi chơi đùa với nàng đến độ mệt mỏi, cuối cùng chàng đứng xuống hồ tắm rửa và khi đã hết cơn mệt, chàng trở vế ngồi trong lều, vẫn còn tưởng là một ẩn sĩ, một lần nữa chàng hỏi nàng ở nơi đâu và ngâm kệ này:

  1. Ngài đã đến đây bởi lối nào?
    Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao?
    Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,
    Song thú săn mồi tránh được sao?

Tiếp theo, Nalinikà đáp bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa
    Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,
    Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,
    Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.
  2. Đây xoài, Ti-lak với sà la,
    Nở rộ hoa kèn với quế hoa,
    Khúc hát yên tỉnh văng vẳng lại,
    Thưa ngài nơi ấy thấy nhà ta.
  3. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,
    Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,
    Một nơi vui, đẹp và thơm ngát,
    Đã lọt phần ta chiếm hết rồi!
  4. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn ,
    Ngọt ngào tươi đẹp ngát hương lan,
    Song ta sợ lũ cường gian đến
    Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

Chàng ẩn sĩ nghe nói vậy, muốn cầm chân nàng lại cho tới khi thân phụ chàng về, liền ngâm kệ này:

  1. Thân phụ đi tìm quả thật xa,
    Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,
    Khi người trở lại từ rừng ấy,
    Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

Lúc ấy nàng suy nghĩ: “Chàng trai này sinh trưởng trong rừng nên không biết ta là nữ nhân, chứ cha chàng sẽ biết ngay điều đó khi vừa thấy ta, và sẽ hỏi ta có việc gì mà đến đây, ngài sẽđánh vỡ đầu ta với cái đòn gánh của ngài. Thôi, chắc ta phải chạy trốn trước khi ngài trở về, vì mục đích ta đến đây đã hoàn thành”. Rồi dặn chàng cách tìm đường đi đến nhà nàng, nàng ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,
    Song tại nơi này, lắm Thánh nhân,
    Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,
    Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

Khi nàng nghĩ ra một kế để thoát thân như vậy, nàng liền rời vùng thảo am, và bảo chàng cứ ở lại nơi này, trong lúc chàng khao khát nhìn theo, nàng trở về gặp các triều thần theo đúng con đường nàng đã đến trước kia, rồi họ đưa nàng về trại và vượt quan nhiều trạm đường, họ đãđến thành Bà-la-nại.

Ngay hôm ấy, Đế Thích Thiên chủ đẹp ý đến độ ngài làm mưa rơi xuống trên khắp quốc độ này.

Nhưng cũng ngay khi nàng từ giã ẩn sĩ Isisinga, chàng bỗng dưng nổi cơn sốt khắp toàn thân và chàng run rẩy bước vào trong lều đắp thêm y ngoài bằng vỏ cây, rồi nằm xuống rên rĩ.

Buổi chiều thân phụ chàng về, không thấy chàng, liền tự hỏi: “Con ta đi đâu rồi?”. ngài vội đặt đòn gánh, bước vào trong am và khi thấy chàng nằm đó liền hỏi:

– Này con thân, con đau gì vậy?

Và vừa xoa bóp lưng con, ngài vừa ngâm các vần kệ:

  1. Bổ củi không, nước chẳng gánh về,
    Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,
    Này con sao trẻ người non dạ,
    Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?
  2. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,
    Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,
    Sắp sẵn tọa sàng rồi lấy nước,
    Con làm bổn phận thật vui vầy.
  3. Nay củi không, mà nước cũng không,
    Lửa không; thức nấu kiếm hoài công,
    Sao con chẳng đón mừng cha nữa,
    Con mất gì? Sao phải nhọc lòng?

Nghe cha hỏi, chàng liền ngâm các vần kệ giải đáp việc này:

  1. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,
    Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,
    Chàng không thấp quá, không cao quá,
    Làn tóc đen sao tựa hạt huyền!
  2. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,
    Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,
    Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm
    Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.
  3. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai
    Có một vành khuyên lủng lẳng cài,
    Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng
    Hào quang, khi chuyển nhẹ đôi hài.
  4. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn
    Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,
    Chàng đi mỗi buớc đều rung nhạc,
    Ríu rít như chim gặp nước tràn.
  5. Chẳng áo vỏ cây, dáng đạo nhân,
    Chẳng dây đai cỏ, thắt vào thân,
    Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,
    Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.
  6. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai
    Mềm mại, không nhành, chẳng có gai
    Bên áo kết vào, buông lủng lẳng
    Chạm vào nhau lách tách rung hoài.
  7. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường
    Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,
    Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,
    Tóc con cũng ước chải như chàng!
  8. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,
    Bao vẻ yêu kiều giữ gió bay,
    Sực nức lều ta miền thảo dã
    Như mùi sen thoảng gió lung lay!
  9. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,
    Thân chàng cao thật khác thân con,
    Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn
    Như khóm hoa hè nở ngát hương.
  10. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,
    Trên đất, dù chàng ném thật cao,
    Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,
    Trái gì, con muốn hỏi cha nào.
  11. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,
    Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,
    Chàng hé đôi môi: ôi quyến rũ!
    Thức chàng ăn khác củ, rau rừng!
  12. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,
    Vào tai âm, hưởng tận trong lòng
    Xuyên vào tim, thật du dương điệu,
    Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng!
  13. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,
    Con chắc dành ngâm tụng chú thần,
    Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,
    Cùng chàng, con ước kết thân bằng.
  14. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân
    Như chớp bao lần cuộn lấy thân,
    Được phủ lông tơ mềm, các ngón
    Như san hô đỏ ửng, tròn dần.
  15. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,
    Các móng tay tô đỏ, thật dài,
    Với cánh tay mềm ôm siết chặt,
    Trai xinh tạo khoái lạc cho đời!
  16. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang
    Như tấm gương vàng phản ánh dương,
    Chạm nhẹ làm con bừng rúng động
    Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.
  17. Tọa sàng bằng lá kết, giày vò
    Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,
    Rồi đến hồ kia con tắm mát,
    Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.
  18. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,
    Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,
    Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,
    Đến khi con gặp lại chàng trai!
  19. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,
    Nơi chốn đạo nhân ỡ cõi trần,
    Con muốn phi thân ngay đến đó,
    Bằng không, con chết tại tiền đường!
  20. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,
    Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,
    Con muốn phi thân nhanh đến đó,
    Bằng không, con chết ngay tại đây mà!

Bậc Đại Sĩ nghe chàng trai nói lảm nhảm như vậy, thì hiểu ngay chàng đã đánh mất công hạnh vì một nữ nhân nào đó, nên ngài ngâm sáu vần kệ để giáo huấn con mình:

  1. Ngôi nhà xưa của các hiền nhân
    Ở giữa rừng này ngập ánh quang,
    Nơi ẩn của chư Thần, Thánh nữ,
    Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.
  2. Tình bạn phát sinh, sẽ diệt vong;
    Mọi người yêu mến đám thân nhân,
    Song kẻ đáng thương nào có biết
    Nhờ ai, có gốc rễ, tình thân.

46-47. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,
Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong.
Nếu con nhìn lại chàng trai ấy
Như trước, cùng trò chuyện thiết thân,
Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,
Công năng đức hạnh bại vong dần.

  1. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,
    Thiên hình giả dạng! Hãy coi chừng!
    Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,
    Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Nghe những lời cha dạy, chàng trai suy nghĩ: “Cha ta bảo nàng ấy là một con quỷ cái!”. Sau đó chàng xin cha tha lỗi và nói:

– Thưa thân phụ, xin hãy tha tội cho con, con sẽ không rời nơi này đâu.

Cha chàng liền an ủi chàng, ngài bảo:

– Này con thân, con hãy tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Và ngài thuyết giảng cho chàng pháp môn chứng đắc Tứ Vô lượng tâm này.

Từ đó chàng trai thực hành theo lời dạy bảo trên và tu tập Thiền định như trước.

*

Khi đã chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư thuyết giảng các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, người vợ trong những ngày phóng dật cũ của kẻ này là Nalinikà, Tỷ kheo thối thất là Isisinga và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện kỹ nữ Ummadantì (Tiền thân Ummadantì)

Kia nhà ai đó, hỡi Su-nan?…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện rằng, một ngày kia, trong khi đi quanh thành Savatthi (Xá-vệ) để khất thực, ông chợt trông thấy một nữ nhân tuyệt sắc, với xiêm y diễm lệ, liền sinh lòng mê mẫn nàng ấy. Khi trở về Tịnh xá, ông không thể nào xua tan hình bóng nàng khỏi tâm tư. Từ lúc ấy, như thể trúng mũi tên độc của dục tình, ông mắc bệnh tương tư, gầy gò như chú nai rừng, gân xanh nổi khắp mình mẩy và mong manh như cành liễu rũ.

Ông không tìm thấy an lạc trong bất cứ pháp nào của tứ oai nghi, cũng không ham thích trầm tư, nhưng một khi xao lãng phận sự đối với vị Giáo thọ, ông xao lãng luôn cả việc học hỏi, suy tư và tham thiền nhập định. Các bạn đồng Phạm hạnh bảo:

– Này Hiền giả, trước đây bạn an tịnh và tự tại trong tứ oai nghi, sao giờ đây không như vậy nữa. Vì cớ gì?

Ông đáp:

– Này các Hiền giả, ta chẳng còn ham thích gì nữa.

Tăng chúng khuyên ông giữ an lạc và bảo:

– Sinh ra làm Đức Phật thật khó lắm thay; được nghe Chánh pháp và làm người là chuyện cũng khó vậy. Song trước đây Hiền giả đã được điều này, và vì mong ước đoạn trừ phiền não, bạn đã mặc thân nhân khóc lóc, và trở thành người tu hành sống đời sống ẩn sĩ. Tai sao nay Hiền giả lại rơi vào vòng tham dục? Những tham dục xấu xa này rất thông thường đối với mọi chúng sinh si ám, từ loài sâu bọ trở lên, những tham dục này có gốc ở sắc pháp hữu vi, vì thế chúng rất đáng nhàm chán, tham dục đầy phiền não, khổ ưu ở đây lại tăng trưởng nhiều hơn nữa. Tham dục giống như xương khô, như miếng thịt. Tham dục như bó đuốc làm bằng cỏ khô hay lửa than hồng. Tham dục tan biến như cơn mơ hay của nợ, hoặc như trái cây. Tham dục làm đau đớn như mũi giáo nhọn hay chiếc đầu rắn. Thế mà Hiền giả thật vậy, sau khi đã thọ trì Giáo pháp sáng ngời như thế này và xuất gia tu tập, giờ đây lại rơi vào vòng tham dục tai hại kia.

Khi thấy những lời khuyến giáo của Tăng chúng không làm ông hiểu được ý nghĩa, Tăng chúng đưa ông đến yết kiến Đức Thế Tôn tại Chánh pháp đường. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, tại sao các ông đem người này lại đây dù người đó không muốn?

Tăng chúng đáp:

– Hội chúng bảo rằng vĩ Tỷ-kheo này thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi xem có đúng chăng, khi nghe ông thú nhận quả đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, các bậc trí nhân ngày xưa, dù đang trị vì một quốc độ, vậy mà hễ khi nào tham dục khởi lên trong tâm cũng phải bị chi phối một thời gian, nhưng rồi đã cố điều phục nhưng tâm tư tán loạn ấy và không còn phạm vào tà hạnh bất xứng nữa.

Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong kinh thành Aritthapura của quốc độ dân Sivi, có vị vua trị vì mệnh danh là Sivi. Bồ-tát sinh ra làm con của Chánh hậu và được đặt tên là vương tử Sivi. Vị đại tướng trong triều cũng sinh con trai đặt tên là Ahipàraka. Hai thiếu nhi lớn lên trở thành thân hữu, khiđược mười sáu tuổi, hai vị đến thành Takkasilà học tập thành tài xong liền trở về nhà. Vua giao vương quốc cho vương tử, tân vương này phong bạn Ahipàraka làm đại tướng và cai trị rất đúng pháp.

Trong kinh thành có một phú thương tên gọi Tiritavaccha, gia sản đến tám trăm triệu đồng, sinh được một con gái rất yêu kiều diễm lệ, thân nàng có đủ mọi tướng tốt của phúc phận mai sau, đến ngày lễ đặt tên, nàng được gọi là Ummadantì (Người làm điên đảo say mê). Khi đến mười sáu tuổi, nàng đẹp như tiên nữ với một dung sắc siêu phàm.

Mọi phàm nhân chiêm ngưỡng nàng đều không thể nào chế ngự được lòng mình, và đều say mê nàng như thể say rượu nồng và mất hẳn tính tự chủ, vì thế thân phụ nàng đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Thánh thượng, nhà hạ thần có một nữ báu thật xứng đáng tiến cung hầu hạ Thánh thượng, xin hãy triệu các tiên tri vào, những vị này biết cách xem quý tướng trên thân người, để các vị ấy thử xét đoán nàng xong, xin Thánh thượng cứ tuyển dụng nàng tùy thích.

Vua chấp thận cho triệu các vị Bà-la-môn. Rồi họ đến nhà phú thương ấy, được tiếp đón rất trọng thể linh đình và dự tiệc bánh sữa. Vào lúc ấy Ummadantì ra tiếp kiến quan khách với xiêm y lộng lẫy. Thoạt trông thấy nàng, họ đều mất hết tự chủ, chẳng khác nào bị say rượu mạnh, họ quên mất rằng đang ăn tiệc dở dang. Có người cầm chiếc bánh lên, nghĩ mình sẽ ăn bánh, lại đặt bánh lên đầu! Có người để rớt bánh trên hông, có người lại ném bánh vào tường. Mọi người đều như mất trí.

Nàng thấy bọn họ như vậy, liền bảo:

-Thế mà họ bảo ta rằng các người này đến đây để xem xét các đặc điểm của ta.

Nàng ra lệnh nắm gáy cả bọn ném ra ngoài đường. Họ rất bực tức trở về cung với lòng uất hận Ummadantì và trình:

-Tâu Thánh Thượng, nữ nhân này không xứng với Thánh Thượng, đó là một tay phù thủy.

Vua nghĩ thầm: “Họ bảo ta nàng ấy là một phù thủy”.

Vì thế vua không triệu nàng vào.

Nghe được việc ấy, nàng bảo:

-Ta không được vua tuyển vào làm vương hậu vì họ bảo ta là phù thủy, như vậy bọn phù thủyđều giống ta. Được lắm, nếu ta có dịp vào yết kiếm vua, ta sẽ biết cách hành động.

Nàng lại sinh lòng thù oán vua.

Sau đó cha nàng đem gả nàng cho Ahipàraka, và nàng rất được vị phu quân yêu quí say mê. Nguyên nhân gì khiến nàng thành diễm lệ như vậy? Đó là nhờ một chiếc áo đỏ. Ngày xưa đã có một đời nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ ở Ba-la-nại. Vào một ngày lễ, nàng trông thấy một vài nữ nhân cao quý phục sức lộng lẫy trong những chiếc y rực rỡ nhuộm màu hoa cúc đỏ thắm đang vui đùa, nàng nói với cha mẹ là nàng cũng muốn mặc áo như vậy và chơi đùa.

Họ bèn bảo:

-Này con, nhà ta nghèo lắm, làm sao kiếm ra áo ấy cho con được?

Nàng đáp:

-Vậy thì cha mẹ hãy cho con đi làm kiếm tiền ở một gia đình giàu có, khi nào họ biết đến công lao của con, họ sẽ thưởng con một chiếc áo.

-Được.

Cha mẹ chấp thuận. Nàng liền đến một gia chủ xin làm việc phục dịch để lấy một chiếc áo đỏ, họ bảo:

-Sau khi làm việc cho ba năm, ta sẽ trả công cho nàng một chiếc áo.

Nàng bằng lòng ngay, bắt đầu làm cho họ. Trước khi mãn hạn ba năm, họ đã thưởng công nàng một chiếc áo nhuộm màu hoa cúc đỏ thật dày cùng với một chiếc xiêm khác và đưa nàng ra về, họ bảo:

-Hãy đi tìm các bạn nàng và sau khi tắm gội xong, hãy mặc các xiêm y này.

Thế là nàng cùng đám bạn ra đi tắm dưới sông, để chiếc áo đỏ trên bờ. Lúc ấy, một vị đệ tử của Đức Phật Kassapa(Ca-diếp), vừa bị cướp mất y, đang mặc những mảnh lá cây dùng làm y trong và y ngoài, đang đi đến chỗ này.

Thấy vị này, nàng nghĩ:

-Vị Thánh nhân này chắc bị cướp mất y. Ngày xưa ta cũng vậy, vì không có ai cho y nên thật khó kiếm ra một chiếc.

Nàng liền quyết định chia chiếc y làm đôi, cho vị này một nửa, vì vậy nàng bước lên bờ mặc chiếc áo cũ vào xong bảo:

-Xin Thánh giả nán lại.

Nàng đảnh lễ vị Tỷ-kheo và xé chiếc y làm đôi, tặng vị kia một nửa.

Sau đó vị này đứng nghiêng một bên trong một nơi kín đáo, ném chiếc y bằng lá cây ra, lấy một mảnh áo làm y trong và mảnh kia làm y ngoài, rồi bước ra giữa khoảng không, cả người chói rực lên nhờ màu sắc huy hoàng của chiếc áo, như thể vầng dương mới xuất hiện.

Thấy vậy nàng suy nghĩ: “Vị Thánh nhân này trước đây trông chẳng sáng chói, thế mà bây giờ ngài rực rỡ như vầng dương mới xuất hiện. Thôi để ta cúng dường ngài thêm cái này nữa”.

Nàng liền cúng nửa áo kia và phát nguyện:

-Thưa Thánh giả, con xin nguyện kiếp sau sẽ được sắc đẹp tuyệt trần, hễ ai thấy con đều không tự chủ được, và không nữ nhân nào đẹp hơn con cả.

Vị Tỷ-kheo cảm tạ nàng và ra đi, sau một kiếp luân hồi trong Thiên giới, nàng tái sinh vào thành Aritthapura và diễm lệ như đã được tả trên đây.

Lúc bấy giờ trong kinh thành dân chúng mở hội Kattika,vào ngày rầm trăng tròn tháng mười âm lịch, họ trang hoàng cả kinh thành.

Khi Ahipàraka ra đi đến trạm canh phòng, chàng dặn dò nàng:

– Phu nhân Ummadantì, hôm nay là ngày hội Kattika, đức vua dự đám rước linh đình khắp kinh thành, trước tiên sẽ đến trước cửa nhà ta. Vậy phu nhân đừng lộ diện e ngài thấy phu nhân, sẽ không chế ngự được tâm tư ngài.

Trong lúc chàng từ giã nàng, nàng đáp:

– Thiếp xin lưu tâm việc ấy.

Vừa khi chàng đi khuất, nàng liền ra lệnh nữ tỳ phải báo cho nàng biết ngay khi vua tới cổng nhà nàng. Thế rồi vào lúc mặt trời lặn, mặt trăng hiện lên, đèn đuốc sáng rực khắp kinh thành vừa được trang hoàng như thể một kinh thành của chư Thiên, đức vua phục sức vô cùng lộng lẫy, ngự trên vương xa thật đẹp do các tuần mã kéo, cùng đám quần thần theo hầu, đi vòng quanh kinh thành với vẻ uy nghi cao cả, trước tiên ngài đến thăm cửa nhà Ahipàraka.

Lúc bấy giờ ngôi dinh thự này đứng trong bức tường bao quanh màu son đỏ thắm với các cổng cao và tháp canh được trang hoàng rất sang trọng rực rỡ. Vừa khi ấy nữ tỳ đưa tin hoàng thượng giáng lâm, nàng Ummadantì ra lệnh đem đến một giỏ hoa, nàng lại đứng gần bên cửa sổ ném hoa xuống khắp mình vua với tất cả dáng điệu mê hồn của một Thiên thần.

Thoạt nhìn lên thấy nàng, vua như ngây ngất điên cuồng và không thể nào tự chủ được tâm trí, nên ngài không còn nhận ra nơi đây là tư thất của đại tướng quân Ahipàraka. Vì vậy ngài ngâm hai vần kệ hỏi người quản xa:

  1. Kia, nhà ai đó, hỡi Su-nan,
    Bao bọc thành cao tỏa ánh vàng?
    Bảo vật này như sao sáng rực,
    Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?
  2. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
    Chính chủ nhà? Hay vợ cậu tôn?
    Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
    Có chồng, hay chửa được cầu hôn?

Người quản xa đáp lời vua qua hai vần kệ:

  1. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần
    Đôi bên cha mẹ, thảy am tường;
    Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn
    Phụng sự quân vương đủ mọi đường.
  2. Đại thần này chính của Anh quân,
    Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
    Mệnh phụ A-li lừng lẫy ấy,
    Lọt lòng được gọi Um-ma-dan.

Nghe vậy, vua ngâm kệ tán tụng tên nàng:

  1. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
    Song thân nàng đã đặt cho nàng,
    Um-ma, từ lúc nàng nhìn trẫm,
    Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng!

Trông thấy vua dao động như thế, nàng vội đóng cửa sổ lại và đi thẳng vào khuê phòng. Còn vua, từ lúc trông thấy nàng, chẳng còn thiết gì đến việc đi dự đám rước linh đình quanh kinh thành nữa. Ngài bảo người quản xa:

– Này hiền hữu Sunanda, hãy dừng xe lại. Ðám hội này không hợp với ta nữa, nó chỉ hợp với Ahipàraka, đại tướng quân của ta thôi. Ngai vàng cũng xứng đáng với vị ấy hơn ta. Và khi vương xa dừng lại, ngài ngự lên hoàng cung vào nằm nghỉ trên long sàng và nói huyên thuyên mê mẩn:

  1. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
    Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
    Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
    Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền!
  2. Thu ba gợn sóng mắt long lanh
    Quyến rũ hồn như sét ái tình,
    Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
    Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình!
  3. Tố nga huyền bí, thật cao vời,
    Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
    Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
    Rụt rè như vẻ một con nai.
  4. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
    Chiên- đàn tỏa ngát, dịu đôi tay
    Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
    Ðến thuở nào cười với trẫm đây
  5. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
    Trước ngực phô trương món bội hoàn,
    Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt
    Khác nào cát lũy bám cây rừng?
  6. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
    Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
    Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
    Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền!
  7. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng
    Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
    Không còn tự chủ lòng ta nữa,
    Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan!
  8. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Um-ma,
    Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
    Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
    Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta!
  9. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền:
    Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
    Hưởng đời cùng với Um-ma ấy,
    Ðể tướng A-hi trị nước liền.

Sau đó các vị cận thần nói với tướng Ahipàraka:

– Thưa Chủ tướng, đức Thánh thượng đang lúc dự đám rước linh đình khắp kinh thành, đã đi đến cửa dinh ngài rồi trở về cung ngay.

Ahipàraka liền về nhà hỏi Ummadanti xem nàng có xuất hiện trước mắt vua không.

Nàng bảo:

– Thưa phu quân, có một lão bụng bự, răng hô đứng trên vương xa đến đây. Tiện thiếp không biết là đức vua hay vương tử, nhưng nghe bảo đó cũng là một vị vương gia nào đó, nên tiện thiếp đang lúc đứng trên cửa sổ liền ném hoa xuống người ấy. Sau đó người ấy liền quay xe bỏ đi mất.

Nghe nói vậy, chàng bảo:

– Thôi nàng đã hại ta tàn đời rồi!

Sáng sớm hôm sau lên đến cung vua, chàng đứng trước cửa vương thất và nghe vua đang nói huyên thuyên về nàng Ummadantì, chàng suy nghĩ: “Ðức vua đang si tình Ummadantì, nếu không chiếm được nàng, ngài sẽ chết mất, vậy bổn phận ta là phải cứu sống ngài, nếu ta làm việc ấy mà không gây tội lỗi cho ngài hoặc cho ta”.

Thế là chàng trở về nhà, gọi một tên gia nô bạo gan đến và bảo:

– Này hiền hữu, ở chốn kia có một gốc cây thân rỗng, trong ấy là đền thờ thần. Hiền hữu đừng cho ai biết cả, đợi lúc sẩm tối hãy đến ngồi trong bộng cây ấy. Ta sẽ đến đó cúng lễ dâng thần thánh và sẽ cầu nguyện như vầy: “Tâu Thiên vương, đức vua của chúng thần, trong lúc đám rước đang diễn hành, ngài đã không dự vào lại về cung thất nằm nói lảm nhảm không đâu; chúng thần chẳng hiểu cớ gì. Ðức vua đã từng làm đại ân nhân của chư thần, hằng năm đã chi tiêu vào việc cúng tế cả ngàn đồng tiền vàng. Xin Thiên vương cho biết tại sao đức vua lại nói nhảm như vậy và xin ban cho chúng thần một điều ước để cứu mạng ngài”, ta sẽ khấn như vậy và hiền hữu hãy nhớ lập lại những lời này: “Này Ðại tướng, đức vua chẳng bệnh tật gì cả, song ngài đang si tình phu nhân Ummadanti đấy. Nếu ngài chiếm được nàng, ngài sẽ sống, bằng không, e ngài phải chết. Nếu Ðại tướng muốn cho ngài sống, thì hãy dâng nàng Ummadanti cho ngài”. Hiền hữu nhớ nói như vậy.

Sau khi dặn dò gã ấy xong, chàng bảo gã ra đi. Thế là hôm sau, người gia nô đến ngồi trong bộng cây kia và khi vị đại tướng đến nơi cầu khấn, gã ấy đọc lại đủ điều đã đã học trên. Ðại tướng bảo:

– Tốt lắm.

Rồi đảnh lễ vị thần xong, đại tướng đến kể chuyện với các vị đại thần của vua; sau đó vào cung, gõ cửa cung thất của vua.

Vua đã hồi tỉnh và hỏi ai đó.

– Tâu Thánh thượng, chính hạ thần là Ahipàraka.

Rồi chàng mở cửa cung thất, bước vào làm lễ triều kiến vua và ngâm vần kệ:

  1. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
    Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
    – “Um-ma mê hoặc lòng kim thượng”-
    Mong chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng!

Vua liền hỏi:

– Này hiền hữu Ahipàraka, ngay các vị thần Dạ xoa cũng biết trẫm đang nói ngông cuồng vì say mê nàng Ummadanti đấy ư?

– Tâu Thánh thượng, quả vậy.

Vua nghĩ thầm: “Việc hèn hạ xấu xa kia của trẫm đã bị khắp thế gian biết cả rồi”. Và ngài cảm thấy hổ thẹn khôn cùng. Vừa khi lấy lại được lòng chân chính, vững vàng, ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
    Thế giới đều hay đại tội ta,
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chẳng gặp lại Um-ma
    .

Các vần kệ sau đây là do hai vị đối đáp xen kẽ:

Ðại tướng:

  1. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
    Việc kia, ai biết giữa trần gian?
    Um-ma, tặng vật xin dâng chúa,
    Phỉ nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Kẻ ác nghĩ:?Không một thế nhân
    Hẳn từng chứng kiến tội ta làm?.
    Song toàn việc ấy, đều hay biết
    Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.
  2. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chăng gặp lại phu nhâ
    n.

Ðại tướng:

  1. Nàng quý yêu như mạng sống mình
    Thực là vợ thắm thiết bao tình,
    Song hoàng thượng đến Um-ma gấp,
    Như hổ, sư về thạch động nhanh.

Quân vương:

  1. Bậc trí, dù đau khổ ngập tràn
    Cũng không bỏ việc tạo bình an,
    Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc
    Tội lỗi thế kia, chẳng dám làm!

Ðại tướng:

  1. Tâu Ðại vương là dưỡng phụ thân,
    Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
    Thê nhi, xin hiến làm nô lệ,
    Thánh thượng Si-vi hãy đẹp lòng!

Quân vương:

  1. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
    Bảo: “Chính đây là chúa vạn năng?,
    Chỉ nửa đời thôi, e khó sống,
    Thánh thần thấy vậy, chẳng bằng lòng.

Ðại tướng:

  1. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng
    Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
    Vậy người đem tặng cùng người nhận
    Làm việc thành công, quả vạn toàn.

Quân vương:

  1. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.

Ðại tướng:

  1. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
    Thật nàng là vợ quý vô ngần,
    Um-ma, tặng vật, xin dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
    Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
    Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
    Như mình, chẳng biết chánh chân rồi!

Ðại tướng:

  1. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
    Thật nàng được ái luyến khôn lường,
    Thần dâng bảo vật, không hoài của,
    Như vậy, người cho đã hưởng phần
    .

Quân vương:

  1. Ta có thể làm hại bản thân
    Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
    Song ta quyết chăng bao giờ dám
    Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.

Ðại tướng:

  1. Ví thử Minh quân phải khước từ
    Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
    Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
    Xin triệu nô tỳ vời chiếu thư!

Quân vương:

  1. Ví dù đại tướng hại thân mình,
    Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
    E phải chịu bao lời khiển trách,
    Chẳng hề ai nói đúng công bình.

Ðại tướng:

  1. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
    Ðể mặc lời bình phẩm, ngợi khen,
    Trút xuống hạ thần như ý muốn,
    Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền!

Quân vương:

  1. Kẻ không màng đến việc khen, chê,
    Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
    Tài sản, vinh quang đều biến mất,
    Như cơn lũ rút, đất khô đi.

Ðại tướng:

  1. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,
    Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
    Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
    Như đất khoan dung cả dữ, lành.

Quân vương:

  1. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
    Làm càn, cho bạn phải ưu sầu,
    Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
    Chân chánh, không làm vướng bận nhau.

Ðại tướng:

  1. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
    Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
    Tặng vật Um-ma, thần cống hiến
    Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.

Quân vương:

  1. Khanh đối cùng ta thật chí thành
    Khanh và hiền nội, bạn chân tình;
    Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách
    Nguyền rủa, ta mang mãi nặng mình.

Ðại tướng:

  1. Thần chắc dân quê đến thị dân
    Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
    Vì Um-ma, chính thần dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại thần.

Quân vương:

  1. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
    Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
    Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
    Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.

Ðại tướng:

  1. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần
    Những gì thần ước, đại ân nhân,
    Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
    Xin nhận Um-ma, của biếu không.

Quân vương:

  1. Tri kỷ A-hi, quả thật tình,
    Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
    Ðâu còn ai nữa trong nhân thế
    Nỗ lực cho ta được tốt lành?

Ðại tướng:

  1. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
    Thông hiểu chánh hành, đại trí nhân,
    Vạn tuế Pháp vương, đầy chánh hạnh,
    Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.

Quân vương:

  1. Ðến đây, Ðại tướng A-hi-pà,
    Hãy lắng nghe lời nói của ta,
    Ta sẽ dạy thanh toàn chánh đạo
    Thực hành bởi các thiện nhân xưa:
  2. Vua cầu Chánh pháp, được ân trời,
    Bậc trí tối ưu giữa mọi người,
    Không phản bạn lành là thiện hảo,
    Tránh đường tà, cực lạc cao vời!
  3. Dưới quyền đức độ của minh quân
    Như bóng cây che nắng trú thân,
    Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
    Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.
  4. Việc ác, nào ta có tán đồng,
    Dù là vô ý vẫn sai lầm:
    Ngu si là tội ta khinh ghét,
    Nghe ví dụ này, khắc tận tâm.
  5. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc bước luôn,
    Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
    Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
    Cả đoàn thấp kém, liền theo gót,
    Cả nước than thời loạn nhiễu nhương.
  6. Song nếu bò cha lái đúng dòng,
    Ðoàn bò thẳng tiếp bước sau lưng;
    Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
    Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
    Thanh tịnh an bình liền phát khởi
    Khắp miền cương thổ với non sông.
  7. Ví dầu trẫm được cả trần gian
    Cũng chẳng làm sao, hỡi Tướng quân,
    Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp
    Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.
  8. Nhũng gì quý giá giữa nhân gian,
    Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
    Thuấn mã, xiêm y, kho của cải,
    Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,
    Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
    Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
    Trẫm vốn Si-vi dòng quý tộc,
    Người cai trị chính đáng công bằng!
  9. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
    Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
    Trẫm quyết trị dân theo Chánh đạo,
    Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.

Ðại tướng:

  1. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành!
    Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh!
    Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
    Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh!
  2. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
    Vì Ðại vuơng chân chánh nhiệt tâm,
    Các bạo chúa nào quên Chánh đạo
    Từ nay ắt phải mất ngai vàng.
  3. Với xuân huyên là đấng song thân,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  4. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
    Xin thực hành chân chánh Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  5. Với bao bằng hữu, đám triều thần,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  6. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
    Xin Ðại vương chân chính thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  7. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
    Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  8. Mọi miền quốc độ, khắp giang sơn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  9. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  10. Với loài súc vật, các chim muông,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên dường.
  11. Thực hành chân chánh, tấu quân vương,
    Do đấy, nguồn ân phước tưới tràn,
    Nhờ tiến bước theo đời Chánh hạnh,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đàng.
  12. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
    Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
    Giáo sĩ, chư Thiên và Ðế Thích
    Từ xưa đã đạt đến thiên đường.

Khi vua đã nghe đại tướng Ahipàraka của ngài thuyết giảng Chánh pháp như vậy xong, ngài đoạn trừ hết lòng tham đắm đối với nàng Ummadantì.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: vào đoạn kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

– Thời bấy giờ, Ànanda là người lái xe Sunanda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là tướng Ahipàraka, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là nàng Ummadantì, các đệ tử của đức Phật là đám triều thần và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả đại Bồ đề (Tiền thân Mahà-Bodhi)

Ý nghĩa gì chăng những vật này …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân số 546. Mahà Ummagga, Tập VII. Vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả xưa kia nữa, Như Lai cũng đã sáng suốt đánh bại mọi kẻ tranh chấp biện luận.

Cùng với các lời nói này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong triều vua Brahmadatta, Bồ-tát được sinh tại Ba-la-nại trong vương quốc Kàsi vào một gia đình Bà-la-môn miền Bắc có thế lực, của cải lên đến tám trăm triệu, cha mẹ đặt tên ngài Nam tử Bodhi (Ðại trí). Khi ngài lớn khôn, ngài được dạy đủ các môn học thuật tại Takkasilà, rồi trở về nhà ngài sống trong sự săn sóc nuông chiều của gia đình.

Dần dần ngài đoạn trừ mọi ác dục thế gian và lui về sống ở vùng Tuyết Sơn, bắt đầu cuộc đời tu hành của một du sĩ khất thực. Ngài ở đó một thời gian thật lâu, ăn toàn củ và trái rừng. Vào mùa mưa ngài hạ sơn đi khất thực dần dần đến gần thành Ba-la-nại.

Tại đấy ngài trú ngụ trong vườn ngự uyển, hôm sau ngài đi vào kinh thành khất thực, vời tư cách của một vị khất sĩ, ngài đến gần hoàng môn. Vua đứng bên cửa sổ trông thấy ngài, và rất hoan hỷ trước dáng điệu thanh thản của ngài, liền mời ngài vào cung và ngồi trên vương tọa.

Sau một hồi đàm đạo thân hữu, vua được nghe ngài thuyết Pháp rồi tiếp đãi cúng dường ngàiđủ thứ cao lương mỹ vị. Bậc Ðại Sĩ nhận vật thực và suy nghĩ: “Thật ra vương triều này đầy hận thù và cừu địch. Ta không biết ai sẽ giải thoát cho ta khỏi nỗi lo sợ đang khởi lên trong lòng ta”.

Vừa nhìn thấy con chó săn màu hung được vua cưng quý đang đứng gần đó, ngài lấy một miếng thịt tỏ vẻ muốn cho con chó. Vua thấy thế liền truyền đem dĩa của con chó lại và bảo ngài lấy thức ăn cho con chó. Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh và cũng vừa chấm dứt buổi ăn.

Vua xin ngài chấp nhận việc xây một túp lều tranh cho ngài trong ngự viên của hoàng thành, truyền ban tặng ngài đủ vật dụng của một ẩn sĩ, và mời ngài an trú tại đó. Mỗi ngày hai ba lần, vua đến thăm, tỏ lòng cung kính đối với ngài. Ðến giờ cơm, bậc Ðại Sĩ liên tục được ngồi vào vương tọa thọ dụng các thức ngự thiện cùng với vua. Cứ thế mười hai năm liền trôi qua.

Lúc bấy giờ, vua có năm vị cố vấn đã dạy ngài các thế pháp cũng như thánh sự. Một vị trong số đó không chấp nhận thuyết Nghiệp nhân. Một vị khác tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao sắp đặt. Một vị thứ ba chủ trương thuyết Tiền nghiệp. Vị thứ tư tin vào sự Ðoạn diệt sau khi chết. Vị thứ năm chủ trương thuyết Giai cấp Sát-đế-lỵ. Vị không chấp nhận Nghiệp nhân dạy dân chúng rằng con người trong thế gian này sẽ được thanh tịnh hóa nhờ luân hồi. Vị tin vào hành động của Ðấng tối cao dạy rằng thế giới này do vị tối cao ấy sáng tạo. Vị tin vào kết quả của Tiền nghiệp dạy rằng mọi ưu lạc ở đời này là kết quả của một nghiệp quá khứ. Vị tin vào thuyết Ðoạn diệt dạy rằng không ai ở đời này tái sinh vào một thế giới khác, vì thế giới này sẽ bị đoạn diệt. Vị chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ dạy rằng quyền lợi của cá nhân mình phảiđược thỏa mãn cho dù phải giết cả cha mẹ mình.

Năm vị này được vua chỉ định ngồi xử án trong triều và vì tham muốn của hối lộ, họ đã tướcđoạt tài sản của những người chủ nhân chính đáng. Một ngày kia, có một kẻ bị sạp nghiệp vì một vụ xử án sai lầm, thấy bậc Ðại Sĩ đi vào cung khất thực liền đảnh lễ và than thở vào tai ngài:

Thưa Tôn giả, tại sao ngài thọ thực trong cung điện, mà lại thờ ơ trước những việc do những vị phán quan cầm cân nẩy mực của Thánh thượng đang làm tan gia bại sản mọi người vì muốn ăn hối lộ? Ngay bây giờ đây năm vị kia nhận của hối lộ từ tay một người vu cáo nên đã tước đoạt hết tài sản của tôi một cách vô lý.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ động lòng thương hại, đi vào triều xử bản án lại cho đúng và trả quyền tài sản cho người kia. Dân chúng đồng tình hoan nghênh ngài nhiệt liệt.

Vua nghe tiếng ồn ào liền hỏi có việc gì, khi nghe nói vậy, vừa lúc bậc Ðại Sĩ dùng cơm xong, đến ngồi cạnh ngài và hỏi:

– Này Tôn giả, có thực là ngài vừa xử án như dân chúng đồn chăng?

– Tâu Ðại vương, quả vậy.

Vua bảo:

– Nếu ngài xử án, ngài sẽ đem lợi lạc cho dân chúng, vậy từ nay ngài cần phải xử án.

Ngài đáp:

– Chúng thần là những kẻ tu khổ hạnh, việc này không phải là việc của chúng thần.

– Này Tôn giả, ngài phải làm việc đó vì từ tâm đối với dân, ngài không cần xử án suốt ngày, mà chỉ khi nào ngài từ vườn ngự uyển đến đây thì hãy đến công đường từ sáng tinh sương để xử bốn vụ án; rồi trở về ngự viên, sau khi thọ dụng thức ăn xong, lại xử bốn vụ nữa, như vậy dân chúng sẽ được lợi lạc.

Sau khi nghe nài nỉ nhiều lần, ngài nhận lời và từ đó xử án như vậy.

Những kẻ lừa đảo không còn cơ hội làm ăn nữa, các vị cố vấn kia không nhận hối lộ được, lâm vào cảnh khốn đốn, nghĩ thầm: “Từ khi có gã khất thực Bodhi bắt đầu xử án, chúng ta chẳng được gì cả”. Bọn họ gọi ngài là thù địch của vua và bảo nhau:

– Này, chúng ta phải vu cáo nó và làm cho nó chết đi.

Họ liền đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, gã khất thực Bodhi muốn làm hại Ðại vương.

Vua không tin họ và phán:

– Không đâu, ngài là bậc thiện nhân uyên bác, ngài không làm thế được.

Họ lại bảo:

– Tâu Ðại vương, dân chúng đều là người của gã cả, chỉ có năm chúng thần là không ở trong tay gã thôi. Nếu Ðại vương không tin chúng thần, thì lần sau khi gã đến đây, xin Ðại vương để ý đến đám tùy tùng của gã.

Vua ưng thuận, khi đứng bên cửa sổ nhìn ngài đi đến, vua thấy đám người thưa kiện theo sau ẩn sĩ Bodhi mà ngài không biết, vua tưởng đó là tùy tùng của ngài, liền có thành kiến với ngài ngay, nên triệu tập đám quốc sư vào hỏi:

– Ta phải làm sao đây?

Chúng đáp:

– Xin Ðại vương ra lệnh bắt gã lại.

Vua đáp:

– Nếu ta không thấy gã vi phạm lỗi lầm nào hiển nhiên, làm sao ta bắt gã được?

– Vậy thì xin Đại vương giảm bớt ân huệ thường dành cho gã, khi gã thấy vinh dự sa sút, là một khất sĩ khôn ngoan, gã sẽ tự ý bỏ đi không hé răng điều gì với ai đâu.

Vua chấp thuận lời đề nghị ấy và dần dần giảm bớt mọi sự tôn trọng đối với ngài. Ngày đầu tiên sau đó bọn họ mời ngài ngồi trên một tọa sàng không có nệm. Ngài nhận thấy thế hiểu ngay là đám kia đã vu cáo ngài với vua, nên khi trở về ngự viên, ngài định ra đi ngay hôm đó, song ngài lại suy nghĩ: “Khi nào biết chắc chắn ta sẽ ra đi”, nên ngài không bỏ đi.

Ngày hôm sau khi ngài ngồi vào tọa sàng không nệm lót, quân hầu dâng ngự thiện dành cho vua cùng nhiều thực phẩm khác, và đem cho ngài thực phẩm trộn lẫn cả hai thứ trên.

Ngày thứ ba quân hầu không để ngài đến gần bệ rồng mà đặt ngài ngồi ở đầu bệ, rồi chúng đem đến ngài các thức ăn trộn chung lại. Ngài nhận lấy và trở về ngự viên tự làm thức ăn cho mình tại đó.

Ngày thứ tư họ đặt ngài trên hiên nhà phía dưới và đem cho ngài cháo bột gạo, ngài cũng đem về ngự viên tự dọn thức ăn lấy. Vua bảo:

– Mặc dù mọi vinh quang dành cho gã đã giảm sút, khất sĩ đại trí vẫn không bỏ đi. Vậy ta phải làm sao đây?

– Tâu Ðại vương – Họ bảo – không phải gã đến đây để khất thực mà vì gã muốn tranh quyền bá chủ. Nếu gã đến đây để khất thực thì gã đã bỏ đi ngay hôm đầu tiên gã bị coi khinh.

– Vậy ta phải làm gì đây?

– Xin Ðại vương truyền lệnh giết gã ngày mai.

Vua đáp:

– Ðược lắm.

Vua trao kiếm vào tay các vị kia, vừa bảo:

– Ngày mai khi gã đến đứng trong cửa, hãy chặt đầu gã và phanh thây gã ra, chẳng cần nói gì với ai cả, cứ ném xác gã vào đống phân, rồi tắm rửa và trở về đây.

Bọn họ sẵn sàng tuân lệnh ngay và tâu:

– Ngày mai chúng thần xin đến làm như thế.

Sau khi sắp đặt công việc với nhau, họ trở về tư thất. Còn vua sau buổi ăn tối nằm trên vương tọa nhớ lại mọi công đức của bậc Ðại Sĩ, nỗi ưu phiền đột nhiên kéo đến trong tâm, mồ hôi đổ ra khắp thân thể và không thể nào nằm yên trên giường, vua cứ trằn trọc mãi.

Lúc bấy giờ chánh hậu nằm bên cạnh vua, song vua chẳng thốt ra một lời nào với bà. Vì vậy bà hỏi vua:

– Tâu Thánh thượng, tại sao Thánh thượng không nói gì với thần thiếp? Thần thiếp có làm điều gì xúc phạm đến Thánh thượng chăng?

Không đâu ái hậu – Vua bảo – nhưng chúng bảo khất sĩ Bodhi trở thành kẻ thù địch của ta rồi, nên ta đã ra lệnh cho năm vị cố vấn ngày mai phải giết gã đi, giết xong phải phanh thây gã mà vứt vào đống phân. Nhưng trong suốt mười năm trường gã đã giảng dạy ta biết bao chân lý. Trước đây ta không hề thấy gã có một điều xúc phạm mảy may nào mà chỉ vì do sự xúi giục của kẻ khác, ta đã ra lệnh giết gã đi, vì thế ta rất ưu phiền.

Lúc ấy bà vội an ủi vua:

– Tâu Thánh thượng, nếu gã là kẻ thù của ta, tại sao Thánh thượng lại buồn rầu khi giết gã? Phải giữ gìn thánh thể an khang, dù cho kẻ thù phải giết đi chính là vương tử của Thánh thượng. Xin Thánh thượng đừng bận tâm làm gì.

Lời bà khiến vua an tâm và ngủ thiếp đi. Vào lúc ấy con chó săn màu hung được cưng quý kia nghe được câu chuyện nghĩ thầm: “Ngày mai ta phải dùng sức mạnh của ta để cứu người này”.

Thế là sáng sớm hôm sau, con chó từ hiên nhà đi xuống cửa lớn đặt đầu trên bực thềm, canh chừng con đường từ đó bậc Ðại Sĩ đi đến. Nhưng năm vị quốc sư cầm kiếm trong tay đã đến từ tảng sáng và đứng bên trong cửa lớn.

Ẩn sĩ Bodhi thấy đúng giờ, từ ngự viên đi đến cửa cung. Lúc ấy, con chó thấy ngài liền há miệng nhe bốn răng thật lớn ra và suy nghĩ: “Thưa Tôn giả, tại sao Tôn giả không đi khất thực nơi khác ở cõi Diêm-phù-đề? Ðức vua đã sắp đặt cho năm quốc sư cầm kiếm đứng bên trong cửa chực giết ngài. Xin đừng đến cam phận chịu chết, mà phải nhanh chân tẩu thoát”. Rồi nó sủa lớn tiếng.

Nhờ biết rõ ý nghĩa mọi thứ âm thanh nên ẩn sĩ Bodhi hiểu có chuyện chẳng lành, liền trở về ngự viên thu dọn mọi vật cần thiết để lên đường.

Nhưng vua đứng bên cửa sổ, thấy ngài không đến, liền nghĩ: “Nếu người này là kẻ thù của ta thì gã sẽ trở về ngự viên thu thập mọi lực lượng để sẵn sàng hành động. Còn nếu không, chắc chắn gã sẽ lấy mọi thứ cần dùng và chuẩn bị ra đi. Ta muốn đi xem gã sắp làm gì”.

Khi đến ngự viên, vua thấy bậc Ðại Sĩ bước ra khỏi am tranh cùng mọi vật dụng cần thiết đặt ở cuối lối đi trong am thất, sắp sửa lên đường, vua đảnh lễ ngài rồi đứng qua một bên và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Có nghĩa gì chăng các vật này,
    Lọng, giầy, y, gậy lại cầm tay?
    Thượng y, bình bát, cùng dao quắm,
    Ta muốn hiểu ra cớ sự vầy,
    Ðến xứ sở nào xa cách lắm,
    Sao ngài nóng vội bỏ đi ngay?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Ta chắc vua không hiểu mình đã làm gì. Ta muốn cho vua biết”. Ngài liền ngâm hai vần kệ này:

  1. Tâu Ðại vương, hơn một thập niên,
    Hạ thần an trú chốn hoa viên,
    Từ nay về trước, chưa hề thấy
    Con chó này cất tiếng sủa lên.
  2. Hôm nay chó nọ lại nhe răng
    Trắng nhởn, kiêu căng thật dữ dằn,
    Vì đã nghe ngài cùng chánh hậu,
    Báo cho thần biết, sủa vang rần!

Lúc ấy vua đành nhận tội, và ngâm vần kệ thứ tư xin ngài tha thứ:

  1. Tội ấy của ta thật đúng phần,
    Ðích ta đà nhắm giết Tôn nhân,
    Song nay ân huệ ban lần nữa,
    Mong ước Tôn nhân hãy nán chân.

Nghe lời trên, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, các bậc trí không ở cùng với một người chẳng nhìn thấy sự việc chính mắt mình, mà lại nghe theo lời chỉ dẫn của kẻ khác.

Nói xong, ngài vạch rõ cách xử thế sai lầm của vua như sau:

  1. Thực phẩm ngày xưa sạch, trắng ngần,
    Kế theo màu sắc tạp nham dần,
    Ðến nay đã hóa thành nâu sẫm,
    Chính lúc này ta phải rút chân.
  2. Buổi đầu tọa thực ở trên ngai,
    Kế đó cầu thang, cuối bệ dài,
    Trước lúc ta chờ dài cổ họng,
    Ta đành tử giã chốn này thôi.
  3. Ngài chớ mến yêu bạn bất trung:
    Khác gì đâu cái giếng khô cùn,
    Dù đào sâu đến bao nhiêu mẫu,
    Dòng nước tuôn ra cũng đục bùn.
  4. Phải lo kết nghĩa bạn trung can,
    Hãy tránh xa liền bạn bất nhân,
    Như kẻ khát đi tìm suối nước,
    Bạn vàng trung tín phải theo gần.
  5. Lưu luyến bạn thân luyến ái ngài,
    Ðem tình ngài đáp lại tình ai,
    Kẻ ruồng bỏ bạn vàng trung tín
    Ðược kể là người đốn mạt thôi.
  6. Kẻ chẳng luyến lưu bạn thủy chung,
    Chẳng đem tình đáp lại tình thân,
    Giữa đời là kẻ đê hèn nhất,
    Ðịa vị không hơn lũ khỉ rừng.
  7. Gặp gỡ quá nhiều cũng xấu xa,
    Khác nào chẳng gặp gỡ bao giờ.
    Hỏi xin ân huệ nào nhanh quá
    Cũng khiến tình thân hóa nhạt nhòa!
  8. Viếng bạn, song đừng đến viếng luôn,
    Cũng không nấn ná bước dừng chân,
    Ðúng thời, ta mới cầu ân huệ,
    Nhờ thế tình thân chẳng lụi dần.
  9. Ai cứ kéo dài cuộc trú chân,
    Thấy thường bằng hữu hóa cừu nhân;
    Trước khi ta mất tình bằng hữu,
    Xin giã biệt ngay, tiến bước đường.

Vua bảo:

  1. Dù trẫm chắp tay khẩn thiết nài,
    Ngài không muốn để lọt vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho quần chúng
    Tha thiết cầu ân đức của ngài,
    Trẫm khát khao ngài ban tối huệ
    Xin về đây viếng trẫm nay mai.

Bồ-tát đáp:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Ví thử ngài, ta, Ðại đế ôi!
    Còn sống, hỡi người-nuôi-quốc-độ,
    Ta bay về lại chốn này thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Bậc Ðại Sĩ nói thế xong còn thuyết giáo cho vua, ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy luôn tỉnh giác.

Sau khi rời ngự viên và đi một vòng khất thực trong khu phố của ngài, ngài rời thành Ba-la-nại và dần dần đi đến một chỗ trong vùng Tuyết Sơn, trú tại đó một thời gian rồi ngài hạ sơn, đến trú trong một khu rừng gần một thôn làng vùng biên địa.

Khi ngài vừa ra đi, các cố vấn lại ngồi xử án, bóc lột dân chúng và suy nghĩ: “Nếu gã Ðại Bồ-đề khất sĩ trở lại đây, ta sẽ mất kế sinh sống, vậy ta phải làm gì để ngăn cản gã ấy trở lại?”. Rồi họ nghĩ đến điều này: “Những người như vậy không thể rời vật mà họ lưu luyến; vậy vật gì làm gã lưu luyến đây?”. Khi thấy chắc chắn đó phải là bà chánh hậu của vua, họ suy nghĩ: “Ðây là lý do khiến gã ấy trở về đây. Ta phải nhanh tay với bọn họ và khiến bà ta phải chết”.

Họ liền nói lại điều này với vua:

– Tâu Ðại vương, hôm nay có một lời đồn đại lan khắp kinh thành.

– Ðồn đại việc gì?

– Khất sĩ Ðại Bồ-đề và chánh hậu vẫn gửi tin tức cho nhau.

– Với mục đích gì?

– Dân chúng bảo, vị ấy nhắn tin với Chánh hậu như vầy: “Lệnh bà có đủ khả năng giết đức vua và trao chiếc long trắng cho ta chăng?”. Chánh hậu nhắn lại vị kia: “Việc giết vua đúng là trọng trách của ta, vậy ngài phải đến đây gấp”.

Bọn họ cứ nói đi nói lại mãi điều này cho đến khi vua tin đó là sự thật liền hỏi:

– Vậy phải làm gì bây giờ?

Họ bảo:

– Ta phải giết chánh hậu đi.

Rồi không cần tìm hiểu sự thật của chuyện này ra sao, vua phán:

– Vậy thì giết chánh hậu đi, rồi phanh thây bà ném vào đống phân.

Họ tuân lệnh ngay, và tin hoàng hậu chết chấn động khắp kinh thành.

Lúc ấy bốn vương tử bảo nhau:

– Mẫu hậu ta dù vô tội, đã bị hành hình do lệnh người này.

Và bọn họ trở thành cừu địch của vua. Và vua vô cùng kinh hãi. Bậc Ðại Sĩ lúc ấy đã hay tin sự việc xảy ra liền suy nghĩ: “Lúc này không có ai ngoài ta có thể làm dịu lòng các vương tử này và khuyên họ tha tội phụ vương, ta sẽ về cứu mạng vua và giải thoát các vương tử khỏi mục đích tội lỗi của họ”.

Vì thế ngày hôm sau, ngài đi vào ngôi làng ở biên địa, sau khi ăn thịt khỉ do dân làng cúng dường, ngài xin miếng da khỉ đem về phơi khô trong am tranh cho đến khi hết mùi hôi rồi làm thành y trong, y ngoài và khoác lên vai. Tại sao ngài làm thế, ngài có thể bảo:

– Nó rất hữu ích vào ta.

Khoác tấm da lên, ngài đi dần vào thành Ba-la-nại, tiến lại gần các vương tử, và bảo họ:

– Giết phụ thân là một việc ác khủng khiếp, các vương tử không nên làm vậy; làm người không ai thoát khỏi mạng vong chết chóc. Ta phải đến đây để hòa giải các vị; khi ta nhắn tin, chư vị phải đến gặp ta.

Sau khi khích lệ các vương tử xong, ngài đi vào ngự viên trong kinh thành, ngồi trên phiến đá trải miếng da khỉ lên trên.

Khi người giữ vườn thấy thế, liền vội phi báo cho vua. Vua nghe xong lòng đầy hoan hỷ, bảo năm vị cố vấn cùng đi với vua đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ, rồi ngồi xuống để chuyện trò vui vẻ cùng ngài.

Bậc Ðại Sĩ chẳng hề đáp lễ thân mật gì cả, cứ tiếp tục vuốt tấm da khỉ. Vua hỏi:

– Này Tôn giả, tại sao không nói một lời nào với trẫm lại cứ vuốt tấm da, vậy nó ích lợi cho ngài hơn trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, chính thế, con khỉ này thật hữu dụng bậc nhất cho bần đạo, khi bần đạo đi đây đó, thường ngồi trên lưng nói. Nó mang bình nước cho bần đạo, nó quét sạch chỗ ở của bần đạo. Nó làm đủ mọi việc lặt vặt cho bần đạo, vì tính khờ khạo của nó, bần đạo đã ăn thịt nó, lấy da phơi khô rồi trải ra, nằm lên trên; thật nó rất ích lợi cho bần đạo.

Ngài nói vậy để đánh tan luận điệu của đám tà đạo kia, gán mọi việc làm của một con khỉ vào tấm da khỉ và với mục đích này, ngài đã nói như trên.

Từ việc khoác tấm da khỉ, ngài bảo:

– Khi bần đạo đi đây đó thường ngồi trên lưng khỉ.

Từ việc đắp da lên vai và mang bình nước, ngài bảo:

– Nó mang bình nước.

Từ việc quét nhà bằng tấm da, ngài bảo:

– Nó quét nhà.

Khi ngài nằm, lưng ngài đụng vào tấm da, khi ngài bước lên tấm da, bàn chân ngài đụng vào nó, ngài bảo:

– Nó làm đủ mọi việc cho bần đạo.

Khi ngài đói lòng, ngài đã ăn thịt nó, nay ngài bảo:

– Nó khờ khạo như thế nên bần đạo đã ăn thịt nói rồi.

Nghe vậy, các quốc sư suy nghĩ: “Người này mang tội sát sinh. Hãy xem hành vi của ẩn sĩ này; gã bảo gã giết con khỉ, ăn thịt nó rồi đi khắp nơi mang theo da khỉ”, họ vỗ tay cười chê ngài.

Bậc Ðại Sĩ thấy họ làm như vậy tự bảo: “Bọn này không biết ta đến đây với tấm da này để đánh bại các tà thuyết của chúng. Ta không bảo cho chúng biết đâu”. Khi nói chuyện với kẻ không chấp nhận nghiệp nhân, ngài hỏi:

– Tại sao Tôn giả khiển trách ta?

– Vì ngài đã phạm tội phản bạn và sát sinh.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ bảo:

– Nếu người ta tin vào Tôn giả và giáo lý của, rồi hành động theo đó, thì còn gây tội lỗi nào nữa?

Rồi để đánh bại tà thuyết của lão, ngài nói:

  1. Nếu thuyết ngài cho “thiện, ác hành”
    Ðều do duyên cớ tự nhiên sinh,
    Thì trong các việc làm vô ý,
    Tội lỗi làm sao thấy chỗ mình?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm
    .

Bậc Ðại Sĩ đã chỉ trích lão như vậy khiến lão phải im lặng. Vua cảm thấy buồn bực ngồi xuống; còn bậc Ðại Sĩ, sau khi đánh bại tà thuyết của lão ấy, lại nói với kẻ tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao tạo ra, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài khiển trách ta khi ngài thực sự tin vào lý thuyết cho rằng mọi vật đều do một Ðấng tối cao tạo nên?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nếu có Chúa trời đủ vạn năng
    Cho người thiện, ác, lạc, ưu tràn,
    Ðấng kia quả thật mang đầy tội,
    Người theo ý chúa, chỉ chuyên làm.
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy, chẳng khác nào một người đánh ngã cây xoài bằng chính cái gậy chặt ra từ cây xoài ấy, ngài đã đánh bại người tin vào hành động của một Ðấng tối cao bằng chính lý thuyết của lão ta; rồi ngài lại nói với người tin vào các nghiệp quá khứ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài chê trách ta khi ngài tin vào lý thuyết cho rằng các nghiệp đã có sẵn trong quá khứ?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Lạc, ưu, khởi tự nghiệp duyên xưa,
    Khỉ ấy nay đền tội đã qua,
    Mỗi nghiệp ta làm đều trả nợ,
    Vậy thì tội lỗi ở đâu ra?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Sau khi bác bỏ tà thuyết của người này, ngài quay lại kẻ tin vào thuyết đoạn diệt và bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là không có thưởng phạt, mọi chúng sinh đều phải đoạn diệt ở đời này và không ai tái sinh vào đời sau. Vậy tại sao ngài lại trách ta?

Và ngài ngâm kệ bác bỏ kẻ ấy:

25-26. Tứ đại họp thành mỗi loại sinh,
Mạng chung, mọi bộ phận tan tành,
Mất đi, người chết còn đâu nữa,
Người sống vẫn theo cuộc sống mình,
Ví thử thế gian đều hủy diệt,
Người ngu, bậc trí thảy đi nhanh,
Chẳng ai tội lỗi đầy ô uế
Giữa cõi trần gian đã hoại hình.

  1. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  2. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như thế ngài bác bỏ tà thuyết của kẻ này nữa và tiếp theo với kẻ chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là con người phải phục vụ quyền lợi riêng của mình dù phải giết cha mẹ mình đi nữa. Nếu ngài đi truyền bá thuyết này, tại sao ngài còn trách ta?

Và ngài ngâm vần kệ này:

  1. Sát-đế-lỵ kia vẫn bảo rằng:
    – Lũ ngu lại tưởng chúng khôn ngoan-
    Mẹ cha cũng giết, tùy cơ hội,
    Anh chị, vợ con, nếu có cần.

Như vậy ngài đã chống lại quan điểm của kẻ kia và nêu ra quan điểm của ngài:

  1. Bóng mát ta ngồi xuống nghỉ chân,
    Cành cây ta chặt đứt lìa thân,
    Tội kia bội nghĩa vong ơn đấy,
    Bằng hữu dối gian, hãy ghét căm.
  2. Song nếu do cơ hội nảy sinh,
    Thì ta chặt gốc, rễ cây cành,
    Vì cần phục vụ nhu cầu đó,
    Nên giết khỉ kia cũng hợp tình.
  3. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  4. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy ngài đã bác bỏ luận thuyết của người này nữa; lúc bấy giờ cả năm vị tà sư ngoại đạo kia đều câm lặng, bối rối. Ngài lại bảo vua:

– Tâu Ðại vương, những kẻ mà Ðại vương đang thân cận đó là những tên đại đạo tặc đang cướp bóc toàn quốc độ của Đại vương. Ôi! Đại vương thật ngu si quá, một người thân cận với những kẻ ác như thế kia sẽ phải gặp đại khổ não trong đời này lẫn đời sau.

Nói vậy xong, ngài dạy vua Chánh pháp :

  1. Người này quả quyết:”Chẳng nguyên nhân”.
    Kẻ khác:”Có trời, Đấng chí tôn”.
    Kẻ nói:”Nghiệp này do nghiệp trước”.
    Người thì:” Thế giới thảy tiêu vong”.
  2. Sát-đế-lỵ cùng ngoại đạo sư,
    Tưởng mình có trí, cả bầy ngu,
    Ác nhân gây tội, khuyên làm ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ ưu.

Rồi ngài giảng rộng bài thuyết Pháp bằng các ví dụ chứng minh:

  1. Sói đội lốt cừu một thuở xưa,
    Đến gần chuồng nọ chẳng ai ngờ
    Giết đàn cừu hoảng hồn kinh vía,
    Xông tới đồng xanh chạy thẳng giò!
  2. Cũng vậy, Sa-môn hoặc đạo nhân
    Thường dùng chiếc áo gạt lương dân,
    Kẻ nằm trên đất, mình dơ bẩn,
    Chồm hổm người ngồi, kẻ nhịn ăn.

38-39. Bọn thì không uống, bọn thì ăn
Theo luật, tạo ra vẻ thánh thần,
Bọn chúng đều là phường bất thiện,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân.
Bọn này không những gây bao tội,
Chúng lại khuyên người khác lỗi lầm.
Truyền bá ác hành luôn tạo quả
Khổ đau và hoạn nạn muôn phần.

  1. Bảo rằng: “Mọi vật chẳng nguồn căn”,
    Chúng phủ nhận luôn mọi nghiệp nhân,
    Xem nhẹ nghiệp mình cùng kẻ khác
    Như là huyễn hoặc, hỡi vương quân.
  2. Bọn chúng đều là lũ bất lương,
    Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân,
    Chúng gây tội lỗi, còn khuyên ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ thân.
  3. Nếu chẳng nghiệp nhân ở chốn nào,
    Cũng không có thiện, ác hành, sao
    Vua thường tuyển thợ đầy tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhờ kỷ xảo cao?
  4. Vậy cũng chính vì có nghiệp nhân
    Thiện hành, ác nghiệp có thông thường,
    Nên vua chúa tuyển người tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhiều bởi kỹ năng.
  5. Ví thử trăm năm chẳng có mưa,
    Tuyết sương chẳng rớt đúng theo mùa
    Ở trong thế giới suy tàn cả
    Dân chúng diệt vong chẳng kẻ chừa.
  6. Song có mưa rơi, với tuyết sương,
    Bốn mùa thay đổi luật thông thường
    Làm cho thóc lúa dần dần chín,
    Ðất nước trải bao thế kỷ trường.
  7. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc hướng luôn,
    Vậy trưởng đoàn theo đường hiểm trở,
    Ðưa bầy thuộc hạ đến đường cùng,
    Và toàn quốc độ đều ân hận,
    Thời đại buông lung phóng dật tràn.
  8. Kẻ hái trái còn quá nhỏ nhoi
    Trước khi trái ấy chín cho muồi,
    Chính là hủy hoại bao mầm hạt,
    Chẳng thể biết đâu quả ngọt bùi.
  9. Cũng vậy người nào tri quốc dân
    Bằng nền cai trị chẳng công bằng,
    Chẳng hề thưởng thức bao mùi ngọt
    Phát xuất từ đường lối chánh chân.
  10. Nhưng kẻ nào hay để trái tươi
    Trên cây, khi trái chín cho muồi,
    Là người giữ được bao mầm hạt,
    Biết hưởng trái ngon ngọt tuyệt vời.
  11. Cũng vậy, người nào trị quốc dân
    Bằng đường chân chánh giữ giang sơn,
    Trái cây công lý bao ngon ngọt,
    Có thể hưởng cho thật vẹn tròn.
  12. Quốc vương cai quản cả giang san
    Dùng bạo quyền trị nước bất công,
    Phải chịu mất đi nhiều thảo mộc
    Dù cho đất kết quả bao phần.
  13. Nếu vua làm hại đám thần dân,
    Có đủ tài sinh lợi bán buôn,
    Khi lợi tức kia đà giảm sút,
    Kho tàng vua cũng cạn vơi dần.
  14. Nếu vua quấy nhiễu đám hùng anh
    Có tài điều khiển việc đao binh,
    Ðội quân sẽ giã từ vua ấy
    Và tước của vua mọi bạo hành.
  15. Nếu làm sai, với Thánh hiền nhân
    Vua ấy về sau hưởng xứng phần,
    Dù quý tộc mà gây tội lỗi,
    Cũng đều phải mất cảnh thiên đàng.
  16. Nếu hôn quân giết một vương phi
    Dầu chẳng hề gây tội lỗi gì,
    Vua liền bị khổ đau xâu xé
    Bởi các con cùng địa ngục kia.
  17. Hãy xử công bằng với quốc dân,
    Ân cần tử tế với toàn quân,
    Với thê nhi hãy đầy thân ái,
    Ðể các hiền nhân an trú chân.
  18. Vị vua như vậy, hỡi Vương quân,
    Giải thoát được bao nỗi hận sân,
    Chẳng khác In-dra, Thiên chủ ấy,
    Tạo nên khiếp phục giữa quần thần.

Bậc Ðại Sĩ, sau khi giảng Chánh pháp cho vua xong, liền triệu bốn vương tử lại và dạy bảo họ, giải thích cho họ hiểu hành động của vua, rồi ngài nói:

– Hãy xin vua cha tha tội.

Sau khi thuyết phục vua tha thứ cho họ, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, từ nay xin Ðại vương đừng nghe lời các kẻ vu cáo mà không cân nhắc thực hư, cũng đừng phạm các tội bạo hành tương tự như thế nữa; còn các vương tử, xin đừng phản bội vua cha.

Như vậy, ngài đã thuyết giáo cho tất cả hoàng tộc. Lúc ấy, vua bảo:

– Thưa Tôn giả, chính vì những kẻ này mà trẫm phạm tội với ngài cùng hoàng hậu, chính vì nghe lời chúng mà trẫm gây tội ác, trẫm muốn xử tử chúng luôn cả năm tên.

– Xin Ðại vương đừng làm vậy.

– Thế thì trẫm sẽ ra lệnh chặt tay chân chúng đi.

– Xin cũng đừng làm việc đó.

Vua ưng thuận bảo:

– Thôi cũng được.

Rồi vua tước bỏ mọi tài sản của họ và hạ nhục họ bằng nhiều cách như: buộc tóc họ thành năm chòm, xiềng họ lại và rảy phân bò lên người họ rồi đuổi ra khỏi nước.

Còn Bồ-tát sau khi ở lại vài ngày nữa để thuyết giáo vua, khuyên vua phải tỉnh giác đề phòng xong lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn tu tập thần thông phát xuất từ Thiền định, và suốt đời ngài thực hành Tứ Vô lượng tâm nên được tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã có đại trí đánh bại mọi kẻ tranh luận.

Rồi ngài nhân diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, năm vị tà sư đó là: Puràna Kassapa, Makkhali Gosala, Pakudha Kaccàna, Ajita Kesa-kambali, Nigantha Nàthaputta, con chó màu hung là Ànanda, và khất sĩ Ðại Bồ-đề chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XIX

Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Hiền giả Sonaka (Tiền thân Sonaka)

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc Ngài ngụ tại Kỳ Viên, về Ðại Sự Xuất thế viên mãn của Ngài.

Vào dịp này, bậc Chánh Giác ngồi ở Chánh pháp đường giữa các Tỷ-kheo trong lúc Tăng chúng đang tán thán công hạnh viên mãn của việc Ngài xuất thế, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã thật sự thoát tục và làm Ðại sự Xuất thế.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vua Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị tại thành Rajàgaha (Vương Xá). Bồ-tát sinh làm con Chánh hậu, vào ngày đặt tên, hoàng gia gọi ngài là vương tử Arindama. Chính ngày ngài ra đời, một cậu trai khác cũng ra đời tại nhà vị quốc sư, được cha mẹ đặt tên là Sonaka.

Hai cậu bé lớn lên khi đến tuổi khôn lớn đều cực kỳ xinh đẹp lạ thường, hình dáng thật khó phân biệt nhau; họ cùng đến Takkasilà, sau khi luyện tập xong đủ các học thuật, họ ra đi với ý định học các nghề thực dụng và xem các tập tục địa phương, dần dần đi du hành đến tận Ba-la-nại.

Tại đó họ cư ngụ trong ngự viên và hôm sau đi vào kinh thành; chính ngày hôm ấy, một số người dự định cúng dường thực phẩm cho các vị Bà-la-môn, đem ra món cháo và sắp đặt ghế sẵn, khi trông thấy hai vị nam tử này đến gần, liền mời họ vào nhà ngồi trên các ghế đã soạn ra. Trên ghế dành cho Bồ-tát có trải tấm vải trắng, còn ghế dành cho Sonaka trải tấm thảm len đỏ.

Khi thấy điềm ấy, Sonaka hiểu ngay là ngày hôm ấy Arindama, bạn chàng sẽ lên ngôi vua tại Ba-la-nại và phong cho chàng chức đại tướng. Sau khi ăn xong, hai vị cùng trở về ngự viên. Lúc bấy giờ đã đến ngày thứ bảy từ khi vua Ba-la-nại băng hà, hoàng gia không có người kế vị. Vì thế các quân sư cùng hoàng tộc sau khi tắm rửa đầu mình xong, tụ tập nhau lại và bảo:

– Các người hãy đến nhà người xứng đáng lên ngôi vua.

Họ bắt đầu đánh xe hoa ra đi.

Khi rời thành, xe đi dần đến ngự viên và dừng tại cổng ngự viên, sẵn sàng đợi một người bước lên xe. Bồ-tát đang nằm nghỉ với y ngoài đắp quanh đầu, trên phiến đá dành cho vua, trong khi nam tử Sonaka ngồi bên cạnh. Khi nghe tiếng nhạc cụ, Sonaka nghĩ thầm: “Ðây là xe hoa đến đón Arindama, hôm nay ngài sẽ lên ngôi vua và phong ta chức đại tướng. Song thật ra ta không muốn trị dân; khi ngài đi rồi, ta sẽ rời thế tục và làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Thế rồi ngài đứng ẩn mình sang một bên. Vị quốc sư đi vào ngự viên thấy bậc Ðại Sĩ nằm đó, liền ra lệnh thổi kèn lên. Bậc Ðại Sĩ thức dậy quay mình nằm thêm một lát rồi ngồi xếp chân trên phiến đá. Lúc ấy vị quốc sư giơ tay ra cầu khẩn ngài:

– Tâu Ðại vương, quốc độ này thuộc quyền ngài.

– Sao thế, không có kẻ thừa kế ngai vàng ư?

– Quả vậy, tâu Ðại vương.

– Thế thì được. Ngài bảo.

Họ liền làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu) cho ngài lên ngôi vua ngay tại đó. Rồi để ngài lên xe hoa xong, họ rước ngài vào thành cùng đám tùy tùng rầm rộ. Sau lễ rước ngài thật trọng thể quanh kinh thành, ngài đi lên hoàng cung, trong cảnh đại huy hoàng vinh quang ấy, ngài quên bẳn người bạn trẻ Sonaka.

Nhưng khi vua đi rồi, Sonaka trở lại ngồi trên phiến đá, và chính một ngọn lá úa của cây Sà la lìa cành rơi trước mặt ngài, khiến ngài trông thấy, liền kêu lên:

– Thân ta rồi cũng bị hư hoại như chiếc lá này!

Và khi chứng đạt được Thắng trí nhờ Ngài quán sát tính vô thường của các pháp, Ngài đắc quả vị Ðộc Giác Phật và ngay lúc ấy những đặc tính của con người thế tục trong ngài biến mất đi, và những dấu hiệu của một bậc chân tu hiện rõ ra, Ngài bảo:

– Ta không còn tái sinh vào đời sau nữa.

Trong khi thốt lên ý nguyện này, Ngài khởi hành tiến về hang Nandamùla.

Còn bậc Ðại Sĩ, sau bốn mươi năm trôi qua, chợt nhớ đến Sonaka và nói:

– Sonaka nay ở đâu trên đời này?

Dần dần mỗi khi nhớ lại thân bằng, vua không thấy ai báo cho ngài biết: “Hạ thần có thấy vị ấy, hạ thần có nghe nói đến vị ấy”.

Khi lên ngồi xếp bằng trên ngai vàng đặt trên chiếc bệ nguy nga có đám nhạc công và vũ nữ ca kịch vây quanh, tận hưởng cảnh vinh hoa phú quí ấy, vua bảo:

Bất kỳ ai nghe được có người nói Sonaka đang ở nơi này nơi nọ và báo tin cho trẫm, trẫm hứa sẽ ban tặng một trăm đồng tiền; còn ai thấy chàng tận mắt và báo cho trẫm, trẫm hứa tặng một ngàn đồng tiền.

Rồi để làm cho lời cảm khái này được linh động thêm thành một bài ca, ngài ngâm kệ đầu:

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
Biết So-na ấy chút tăm hơi.

Lúc ấy một vũ nữ bắt được điệu hát từ miệng vua, liền hát lên khúc ca ấy rồi dần dần một người khác, rồi một người nữa hát lên cho đến khi khắp cả hậu cung cho rằng đó là điệu hát được vua ưa chuộng, nên đồng hát lên.

Dần dần dân chúng khắp thị thành đến thôn quê đều hát bài ấy và chính vua cũng thường hát bài ấy. Sau năm mươi năm, vua đã sinh hạ nhiều vương tử và công chúa, vị thái tử tên là Dighàvu.

Vào lúc ấy vị Độc Giác Phật nghĩ thầm: “Vua Arindama rất nóng lòng gặp lại ta. Vậy ta muốnđi giải thích cho ngài hiểu nỗi khổ đau của tham dục và công đức của việc xuất gia, ta sẽ chỉ cho ngài con đường tu hành ẩn sĩ”.

Rồi nhờ thần lực, Ngài đến đó ngay và an tọa trong ngự viên. Lúc bấy giờ một đứa bé lên bảy để tóc năm chòm, được mẹ sai đến đây vừa lượm củi khô vừa hát đi hát lại bài ấy. Ngài Sonaka gọi cậu bé lại và hỏi:

– Này con, sao con cứ hát mãi bài ấy mà chẳng hề hát bài nào khác, con không biết bài nào khác hay sao?

– Thưa Tôn giả, con biết nhiều bài khác, nhưng bài này đức vua yêu thích lắm, vì thế con cứ hát hoài.

– Thế có ai hát điệp khúc của bài này không?

– Thưa Tôn giả, không.

– Vậy ta muốn dạy con một điệp khúc rồi con đi về hát cho đức vua nghe.

– Thưa vâng.

Thế là Ngài dạy câu bé điệp khúc “Một ngàn đồng” và cả đoạn sau, đến khi cậu bé hát thật thông thạo, Ngài để cậu bé về và bảo:

– Này con, con hãy đi về hát điệp khúc này trước đức vua, ngài sẽ ban cho con nhiều quyền thế. Con cần gì phải lượm củi khô nữa? Thôi hãy đi về hết sức nhanh lên.

– Thế thì tốt lắm.

Cậu bé đáp sau khi đã thông thạo khúc hát, liền từ tạ Tôn giả Sonaka:

– Thưa Tôn giả, xin Ngài ngồi lại đây cho đến khi con thỉnh đức vua đến.

Nói xong, cậu vội vàng chạy thật nhanh về gặp mẹ và bảo:

– Mẹ hãy tắm rửa cho con và mặc áo quần vào thật đẹp, hôm nay mẹ con ta sẽ thoát cảnh nghèo hèn.

Sau khi cậu đã tắm rửa, ăn mặc lịch sự xong, cậu đến cửa cung bảo:

– Này ông lão canh cổng, xin hãy đi trình Ðại vương biết: “Có một cậu bé đến đây, đang đứng ở cửa, chuẩn bị ca một bài dâng lên Thánh thượng”.

Người giữ cổng vội phi báo với vua. Vua triệu cậu bé vào yết kiến và bảo:

– Này hiền hữu muốn hát đối cùng trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, đúng thế.

– Vậy thì hát đi.

– Tâu Ðại vương, con không muốn hát ở đây, mà con muốn xin cho tiếng trống đánh lên khắp kinh thành báo hiệu dân chúng tụ tập tại đây, con mong muốn hát trước mặt dân chúng.

Vua ra lệnh làm như vậy, rồi ngự giữa bảo tọa dưới một ngôi đình thật lộng lẫy và dành một chỗ ngồi xứng đáng cho cậu bé, ngài bảo:

– Bây giờ hãy hát đi.

Cậu bé đáp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương hát trước rồi con sẽ xin hát điệp khúc của bài đó.

Vua liền hát trước tiên vần kệ này:

  1. Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
    Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
    Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
    Biết So-na ấy chút tăm hơi.

*

Lúc ấy bậc Ðạo Sư, muốn làm sáng tỏ việc cậu bé còn để tóc năm chòm này ca điệp khúc do vua khởi xướng; và với Trí tuệ Tối thắng Ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Rồi cậu bé kia bỗng nói rằng:
    – Trên đầu còn để tóc năm chòm –
    “Ngàn đồng xin tặng cho con thấy,
    Và đã nghe xin tặng một trăm,
    Con sẽ đưa tin Tôn giả ấy
    Bạn thân ngày trước của Minh quân
    .

*

Các vần kệ sau đây, được hiểu theo tương quan diễn tiến của câu chuyện:

Ðức vua:

  1. Thành thị, thôn quê, quốc độ gì
    Mà con lê mãi bước chân đi,
    Thấy đâu hiền hữu So-na ấy,
    Con hãy vui lòng nói trẫm nghe?

Tiểu nhi:

  1. Trong quốc độ này, chính ngự viên,
    Nhiều Sà la lớn mọc đua chen
    Xanh tươi cành lá, thân cao vút,
    Phong cảnh đẹp sao trước mắt nhìn.
  2. Cành lá giao nhau, kết thật dày,
    Vươn lên trời tựa các vầng mây,
    So-na nằm dưới gốc, thiền định,
    Ly dục, tâm an, thanh tịnh đầy.

Bậc Ðạo Sư:

6 – 7 . Vua liền khởi sự quyết lên đàng,
Rẽ lối tiến ngay, thực vội vàng
Ðến chốn So-na-ka trú ngụ,
Quẩn quanh vườn ngự rộng thênh thang,
Thân bằng, ngài thấy đà ly dục,
Thánh hạnh an nhiên hỷ lạc tràn.

Vua không đảnh lễ ngài, mà chỉ ngồi xuống một bên, và bởi lẽ bản thân vua đã đắm mình vào ác dục, nên cứ tưởng vị cố bằng hữu này là một kẻ khốn khổ bần hàn lắm, liền ngâm kệ bảo bạn:

  1. Trọc đầu, mất cả mẹ cùng cha,
    Trẫm thấy người kia khoác áo dà,
    Kẻ khó tu hành đang nhập định,
    Trải mình đây, dưới gốc Sà-la.
  2. Nghe thế, So-na-ka bảo rằng:
    “Chẳng là khốn khổ, tấu Vương quân,
    Kẻ nào biết rõ trong hành động
    Luôn hướng về điều phải, lẽ chân”.
  3. Khốn hèn là kẻ bỏ điều chân,
    Và lại thực hành chuyện bất nhân,
    Với kẻ ác kia, ngài phải biết,
    Khổ đau mạt vận để dành phần.

Ngài đã khiển trách Bồ-tát như vậy, còn vua giả vờ không biết mình bị khiển trách, cứ làm vẻ thân hữu trò chuyện cùng Ngài, nêu rõ danh tánh, gia tộc qua vần kệ:

  1. Vua Kà-si nọ chính là ta,
    Ta mệnh danh là A-rin-da,
    Từ lúc đến đây, thưa Thánh giả,
    Có điều chi đáng để phiền hà?

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp:

– Không chỉ khi an trú nơi đây, mà bất cứ ở nơi nào khác, ta cũng không gặp điều gì phiền phức cả.

Rồi Ngài bắt đầu ngâm kệ nêu lên các niềm phước lạc của bậc tu hành:

  1. Một kẻ xuất gia chẳng bạc tiền,
    Ðược bao phước lạc, kể đầu tiên,
    Trong bình hay vựa, không tồn trừ,
    Chỉ muốn vật thừa, sống thản nhiên.

13-14. Phước lạc tiếp theo, đáng tán đồng:
Vị này thọ thực chẳng sai lầm,
Thứ ba, hạnh phúc hằng ngày được
Thọ thực an vui, chẳng mếch lòng.

15-16. Phước lạc thứ tư, chốn đến đi,
Thong dong chẳng biết luyến lưu gì,
Thứ năm ví thử thành kia cháy,
Người chẳng thiệt thòi, chẳng mất chi.

  1. Thứ sáu là điều hạnh phúc đây,
    Người tu tính để phận riêng tây:
    Ví dù quốc độ điêu tàn cả,
    Người ấy chẳng hề thiệt mảy may.
  2. Thứ bảy là điều hạnh phúc kia:
    Vì chưng nghèo khó chẳng còn gì,
    Dù bầy cướp chận đường vây hãm,
    Cừu địch dù bao kẻ hiểm nguy,
    Bình bát, hoàng y, người Phạm hạnh
    Bình an vẫn cứ bước chân đi.
  3. Còn đây là hạnh phúc sau cùng:
    Vị ấy lang thang khắp mọi vùng,
    Không cửa không nhà, và khốn khó,
    Lên đường chẳng luyến tiếc băn khoăn.

Như thế vị Ðộc Giác Phật Sonaka đã nêu lên tám phước lạc của một tu sĩ, rồi hơn thế nữa, Ngài có thể kể cả trăm cả ngàn vô lượng phước lạc, nhưng vì vua đang tham đắm dục lạc nên vội ngắt ngang lời Ngài, bảo:

– Trẫm không màng các phước lạc của đời tu hành kia.

Và để làm sáng tỏ việc mình mê đắm dục lạc ra sao, vua ngâm kệ:

20-21. Phước lạc ngài ca, trẫm chẳng màng,
Trẫm truy tầm lạc thú trần gian
Nhân, thiên lạc, trẫm đều yêu thích
Ðạt cả hai ngay, hãy chỉ đàng.

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp lời:

  1. Ai cử tham lam muốn hưởng tràn
    Biết bao dục lạc cõi trần gian,
    Tạo nên ác nghiệp trong đời sống,
    Sau phải tái sinh cõi khổ buồn.
  2. Bỏ ái dục kia lại phía sau,
    Suốt đời vô úy tiến lên mau,
    Tham thiền đạt đến tâm thanh tịnh
    Chẳng phải luân hồi cõi khổ đau.
  3. Ta nói Ðại vương ví dụ này,
    A-rin-da hãy lắng nghe đây:
    Những người hiền trí nhờ lời dụ,
    Ý nghĩa cao siêu sẽ hiểu ngay.
  4. Trên sông Hằng sóng thủy triều dâng
    Kìa chú quạ ngu thấy cuốn phăng
    Một xác vật gì to quái lạ,
    Tự nhủ thầm khi nó nổi gần:
  5. “Vật kia tìm được lớn lao thay,
    Ôi thật là kho thực phẩm đầy
    Ðể tận hưởng bao niềm khoái
    Ðây ta sẽ ở suốt đêm ngày”.
  6. Như thế thịt voi, quạ cứ ăn,
    Uống thêm nước mát tự sông Hằng
    Trong khi trôi nổi, không hề thấy
    Rừng miếu thoáng qua giấc mộng vàng
  7. Cứ vậy buông lung chú quạ trôi
    Ðắm mình trên xác chết tanh hôi,
    Sông Hằng cuốn chú lao đầu thẳng
    Vào chốn hiểm nguy của biển khơi.
  8. Song lúc thức ăn đã cạn đi,
    Ôi, chim tội nghiệp cố bay về,
    Ðông Tây, Nam, Bắc nào đâu hướng,
    Chẳng thấy đất đai, biển bốn bề!
  9. Xa giũa trùng dương, đã mệt phờ,
    Trước khi chú quạ đến bên bờ,
    Giữa muôn vàn hiểm nguy trên biển,
    Ngã xuống, không bay nữa bấy giờ.
  10. Nơi chú chim kia khốn khổ rơi,
    Cả đàn sấu, thủy quái đang bơi
    Chung quanh, vội đến và xâu xé,
    Tan xác run run của quạ mồi.
  11. Cũng vậy, Ðại vương với những người
    Tham lam tìm lạc thú kia hoài,
    Tưởng mình có trí như chim quạ,
    Cho đến khi lìa bỏ cuộc đời.
  12. Ví dụ ta bày tỏ thật chân,
    Ðại vương hãy thận trọng quan tâm,
    Danh thơm có được hay danh xấu,
    Tùy thuộc hành vi của Ðại quân.

*

Như vậy nhờ ví dụ kia, Ngài đã khuyến giáo vua và để cho vua ghi nhớ mãi điều này, Ngài ngâm kệ:

  1. Vì từ tâm nói một hai lần,
    Nhắc nhở đôi lời để hộ thân,
    Song chớ nhắc đi nhắc lại mãi,
    Giống gia nô trước chủ nhân ông!
  2. Với trí vô biên, bậc Ðại nhân,
    So-na Giác giả dạy vương quân
    Vừa xong, Ngài thẳng đàng bay biến
    Trong khoảng không gian rộng mịt mùng.

Ðây là vần kệ phát xuất tứ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Bồ-tát đứng ngắm Ngài bay qua không gian trong lúc còn nhìn thấy hình bóng Ngài, song khi Ngài đã khuất dạng, Bồ-tát vô cùng xúc động nghĩ thầm: “Người Bà-la-môn này thuộc dòng giống thấp kém thế, mà sau khi phủi bụi bặm trên bàn chân lên đầu ta, một người xuất thân từ quý tộc được kế tục từ đời này qua đời khác, đã biến mất trong bầu trời; vậy hôm nay ta phải giã tứ thế gian và thành người tu khổ hạnh ngay”. Trong niềm ước mong làm ẩn sĩ, và rời quốcđộ, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Các quản xa nay được lệnh ban
    Ði tìm đâu được đấng minh hoàng?
    Trẫm không muốn ngự trên ngai nữa,
    Trẫm giã từ ngay chiếc miện vàng.
  2. Ta chết ngày mai, ai có hay
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục cuốn lôi, trẫm đọa đày.

Nghe vua muốn thoái vị như vậy, các quốc sư tâu:

  1. Ðại vương có Thái tử Dì-ghà
    Vương tử đẹp tươi quả thật là,
    Quán đảnh suy tôn lên bảo tọa
    Sẽ làm Ðại đế của triều ta.

Tiếp theo đây, khởi đầu bằng vần kệ do vua ngâm, các câu sau tuần tự được hiểu theo diễn tiến câu chuyện:

  1. Mau triệu Dì-ghà-vu đến đây,
    Hoàng nhi này thật tốt tươi thay,
    Sắc phong quán đảnh lên vương vị,
    Ấy chính là vua quốc độ này.
  2. Khi quần thần dẫn đến Digha
    Chúa tể tương lai của nước nhà,
    Vương phụ bảo cùng hoàng thái tử,
    Con yêu độc nhất quả chàng là.

Phụ vương:

  1. Thôn làng sáu vạn ấy ngày xưa
    Trẫm đã phán rằng:”Chính của ta”,
    Hãy nhận chúng đi, này Thái tử,
    Từ nay trẫm giã biệt sơn hà.
  2. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  3. Kìa xem! Vương tượng sáu mươi ngàn
    Ðược điểm tô bao vẻ rỡ ràng,
    Với đủ cân đai vàng chói lọi
    Trang hoàng bảo vật sáng huy hoàng.
  4. Quản tượng ngồi lên cỡi mỗi con,
    Tay cầm giáo có móc câu tròn,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Con, kẻ lên ngôi trị nước non.
  5. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  6. Kìa xem, vương mã sáu mươi ngàn!
    Tô điểm yên cương sáng rỡ ràng,
    Tuấn mã Sindh đều dòng giống quý,
    Bộ binh hùng hậu cả quân đoàn.
  7. Chúng đều mang quản mã oai hùng
    Ðầy đủ trong tay với kiếm, cung,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Cho con, người ngự trị toàn dân.
  8. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  9. Vương xa sáu vạn đủ yên cương,
    Cờ xí tung bay ngập bốn phương
    Da cọp, da beo bao phủ khắp,
    Kìa xem quang cảnh thật huy hoàng!
  10. Quản xa điều ngự, giáp bào mang,
    Cung tiễn cầm tay, thảy vũ trang,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Vì con, người ngự trí giang san.
  11. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.
  12. Sáu vạn bò tơ sắc đỏ hồng,
    Cùng đàn bò đực ở bên lưng,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Vì chính con cai trị quốc dân.
  13. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  14. Sáu vạn cung phi đẹp nõn nà
    Ðứng kia xiêm áo thật xa hoa,
    Ðầy tay vòng ngọc, hoa tai điểm,
    Cha tặng con, người trị quốc gia.
  15. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

Thái tử:

  1. Chúng bảo con: “Vương mẫu mất rồi”
    Ðáng thương ai tử nọ! Than ôi!
    Làm sao con sống không vương phụ,
    Con đã lìa sinh thú ở đời.
  2. Như ở sau lưng, sát với cha,
    Voi con thường thấy kế voi già,
    Xuyên đèo, xuyên núi hay rừng rậm,
    Bằng phẳng, gồ ghề, cũng vượt qua.
  3. Bình bát trong tay, con bước sau,
    Theo cha dẫn lối bất kỳ đâu,
    Cha không thấy gánh con làm nặng,
    Hay phải nuôi con khó nhọc nào
    .

Phụ vương:

  1. Như thương nhân, chủ các con tàu,
    Kiếm lợi dù cho với giá nào,
    Thường bị cuốn trôi vào vực xoáy,
    Cả thuyền, thủy thủ, thảy tiêu hao.
  2. Sợ rằng ta gặp bước gian nan,
    Con trẻ gây phiền lụy cản đàng,
    Làm lễ phong vương trong bảo điện,
    Cho con hưởng lạc thú trần gian.
  3. Cả bầy cung nữ vuốt ve chàng
    Ngời chói đôi tay với ngọc vàng,
    Như Ðế Thích cùng bầy thị nữ
    Từ đây chàng sẽ được hân hoan.
  4. Họ rước Di-ghà, Thái tử này
    Vào cung điện, chốn lạc hoan đầy,
    Vừa nhìn vương tử, đoàn thanh nữ
    Kiều diễm, liền thưa gửi giải bày:
  5. -“Chàng là ai? Nhạc sĩ, Thiên thần,
    Hay Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Bố thí của tiền khắp thị trấn,
    Xin cho tiện thiếp biết danh xưng?.
  6. “Ta không Nhạc sĩ, chẳng Thiên thần,
    Chẳng Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Vua xứ Kà-si, ta kế vị,
    Di-ghà Thái tử, ấy danh xưng,
    Hãy yêu ta nhé và an lạc,
    Ta sắc vương phi đủ mọi nàng!
  7. Rồi với Di-ghà, vị chúa công,
    Các nàng kiều nữ lại thưa rằng:
    “Thượng hoàng tìm chỗ nào an trú,
    Và kể tử nay sẽ ẩn thân?”.

Thái tử:

  1. – “Phụ vương đã tránh chốn bùn nhơ,
    Ngài đã bình an ở đất khô,
    Thoát khỏi chông gai rừng rậm rạp,
    Cuối cùng ngài đã thấy đường to.
  2. Còn ta mới cất bước lên đường
    Dẫn đến nơi đầy rẫy khổ buồn,
    Qua đám chông gai, rừng rậm rạp
    Tiến lên tìm số phận kinh hoàng”.

Cung phi:

68.- “Cung nghênh Thánh thượng đến hoàng cung,
Như hổ tìm con ở động hang,
Thánh thượng từ đây lên ngự trị,
Chánh chân thừa kế chiếc ngai vàng”.

*

Nói xong cả đoàn cung nữ cùng đánh nhạc cụ vang lừng và biểu diễn đủ loại ca múa, cảnh vinh quang huy hoàng tuyệt diệu đến độ Thái tử say mê quên hết mọi sự về phụ vương.

Nhưng sau đó chàng cai trị đúng Chánh pháp, rồi đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ-tát tu tập Thiền định làm phát khởi Thắng trí và khi mạng chung, ngài sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

Vào thời ấy, vị Ðộc Giác Phật chứng đắc Niết Bàn, vương tử là Ràhula (La-hầu-la) và vua Arindama chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả Samkicca (Tiền thân Samkicca)

Vừa thấy Brahmà, bậc Ðế vương…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong khi trú vườn xoài của Jivaka, về việc mưu sát phụ vương vua Ajàtasattu (A-xà-thế). Theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vua ấy đã nhờ vị này sát hại phụ vương.

Nhưng khi bệnh tật tràn lan trong đám giáo hội ly khai tiếp theo sau sự chia rẽ trong Tăng chúng, Ðề-bà-đạt-đa quyết đính ra đi và xin đức Như Lai thứ tội trong lúc đi đường đến Sàvatthi (Xá-vệ), trên một chiếc cáng, vị này bị nuốt vào lòng đất ngay tại cổng Kỳ Viên. Khi được tin trên, vua A-xà-thế suy nghĩ: “Vì Ðề bà-đạt-đa thù nghịch với đức Thế Tôn nên phải bị mất xác vào lòng đất và đọa vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Vì lão ấy mà ta đã can tội giết hại phụ vương thánh thiện, vị vua của công lý, chắc chắn ta cũng sẽ bị nuốt vào lòng đất”.

Vì thế vua kinh hoàng đến độ không còn hứng thú an hưởng cảnh vương giả trong triều đình và trong khi tưởng rằng chỉ nằm nghỉ ngơi chốc lát, vua đã ngủ thiếp dần, rồi thấy mình dường như rơi vào một cảnh giới toàn bằng sắt dày chín dặm, bị đâm bằng cọc sắt nhọn và bầy chó xâu xé, chúng cứ nhe răng dọa nạt ông, làm ông kêu lớn và giựt mình tỉnh dậy.

Vì vậy vào ngày lễ hội Rằm trăng tròn tháng Mười, khi được đám đông quần thần vây quanh, ông nghĩ đến cảnh vinh quang của mình, lại thấy cảnh vinh quang của phụ vương còn vượt xa hơn mình nữa, mà chỉ vì Ðề-bà-đạt-đa, ông đã giết một vị vua chân chính như vậy, trong khi nghĩ đến điều này, một cơn sốt nổi lên khắp thân thể, mồ hôi đổ ra như tắm.

Rồi ông xem xét ai có thể xua tan nỗi sợ hãi này khỏi lòng mình, ông kết luận là ngoại trừ đấng Thập Lực (danh hiệu của đức Phật), không còn ai nữa, ông suy nghĩ: “Ta đã có tội lớnđối với đức Như Lai, vậy ai có thể đem ta đến yết kiến đức Thế Tôn? 

Và xem ra không còn ai ngoài Jìvaka, ông tìm cách mời vị này cùng đi đến yết kiến đức Phật.

Vua thốt ra một tiếng kêu vui mừng:

– Này Hiền khanh, đêm nay trăng sáng đẹp quá – Vua bảo – hôm nay ta muốn đi cúng dường đảnh lễ một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, có nên chăng?

Khi nghe các công đức của Puràna và các vị Đạo Sư khác được các đệ tử của họ tán thán, vua không quan tâm mà chỉ hỏi lại Jìvaka, và khi nghe vị này kể các công đức của Như Lai cùng kêu lên:

– Xin Thánh thượng, hãy đi đảnh lễ đấng Thế Tôn.

Vua ra lệnh cho các tượng xa chuẩn bi đi đến vườn xoài của Jìvaka.

Khi đến gần đức Như Lai, vua đảnh lễ và được đức Phật thân ái đáp lễ lại, vua hỏi đức Phật về công quả của việc tu hành trong đời này, và sau khi nghe được bài thuyết Pháp êm dịu về vấn đề này từ đức Như Lai, cuối cùng vua xin làm đệ tử đức Phật, và ra về sau khi đã được hòa hợp với đức Phật.

Từ đó thực hành bố thí và trì giới, vua thường kề cận đức Như Lai, nghe Ngài thuyết Pháp êm dịu và nhờ thân cận bậc thiện hữu tri thức, nỗi lo sợ giảm bớt và cảm giác kinh hoàng của ông dần dần biến mất, ông đã được an tâm trở lại và hân hoan tu tập Tứ Nhiếp pháp.

Một ngày kia, Tăng chúng bắt đầu bàn luận tại Chánh pháp đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, sau khi giết phụ vương, vua A-xà-thế quá kinh hoàng không còn muốn hưởng cảnh vương giả nữa, cứ luôn luôn bị cảm giác khổ đau trong mọi hành động. Sau đó vua tìm đến đức Như Lai, và nhờ thân cận với bậc thiện hữu, vua đã quên mất hết mọi nỗi lo âu và an hưởng vinh hoa hạnh phúc của đời vương giả.

Bậc Đạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận vấn đề gì?

Và khi nghe các vị ấy nói vấn đề kia, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, người này sau khi giết cha mình, đã nhờ ta mà phục hồi sự thanh thản tâm trí.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta sinh được một con trai, đó là vương tử Brahmadatta. Vào thời ấy Bồ-tát được sinh vào nhà của vị quốc sư. Ngày ngài ra đời, họ đặt tên ngài là cậu Samkicca. Hai hài nhi cùng lớn lên trong cung vua nên trở thành đôi bạn chí thân. Khi hai vị đến tuổi khôn lớn, và sau khi đã hoàn tất mọi môn học tại Takkasilà, liền trở về nhà, vua phong cho con làm phó vương và Bồ-tát vẫn sống chung cùng bạn.

Một ngày kia khi vua cha du ngoạn tại lạc viên, phó vương nhìn thấy cảnh đại vinh quang của ngài, sinh lòng ao ước và nghĩ thầm: “Phụ vương còn mạnh khoẻ hơn một vị vương huynh, nếu ta đợi chờ vua cha chết thì ta già nua khi lên ngôi báu. Lúc ấy ta được giang sơn thì có lợi gì? Ta muốn giết cha và làm vua ngay”.

Chàng liền nói với Bồ-tát về dự định sẽ làm gì, Bồ-tát phản đối dự tính đó, và bảo:

– Này hiền hữu, giết cha là một tội trọng. Chuyện ấy sẽ đưa đường đến địa ngục, xin ngài đừng làm việc ấy, xin đừng giết đức vua.

Song phó vương cứ nhắc đi nhắc lại chuyện ấy, và bị bạn thân phản đối đến lần thứ ba. Phó vương liền vấn kế bọn hầu cận, bọn chúng đồng ý, và lập mưu giết vua cha. Nhưng Bồ-tát nghe tin này, nghĩ thầm: “Ta không muốn thân cận với hạng người như thế”. Rồi không kịp từ giã song thân, ngài trốn đi bằng cửa hậu, và sống cảnh ẩn dật trong vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài theo đời khổ hạnh và chứng đắc các Thắng trí phát xuất từ Thiền định, chỉ nuôi thân bằng các thứ củ quả rừng.

Còn vương tử, khi bạn bỏ đi rồi, đã mưu giết phụ vương và tận hưởng cảnh vinh quang.

Nghe tin nam tử Samkicca xuất gia tu hành, nhiều thiện gia nam tử cũng rời bỏ thế tục và xin thọ giới với ngài để sống đời khổ hạnh. Ngài sống tại đó với hội chúng đông đảo các vị khổ hạnh kia, và tất cả đều đạt các Thiền chứng.

Phần vua, sau khi giết cha và hưởng thọ dục lạc đời đế vương một thời gian ngắn, lại thấy lo sợ và bất an như thể một người đã thấy rõ hình phạt mình trong địa ngục.

Lúc ấy vua nhớ đến Bồ-tát, liền nghĩ: “Bạn ta đã cố ngăn cản ta, bảo rằng giết cha là một việc kinh hoàng, song đã không thuyết phục được ta, nên đã bỏ đi để khỏi vướng lụy; nếu trước kia có bạn ta ở đây, ắt hẳn đã không để ta phạm tội giết cha và đã cứu ta thoát được nỗi kinh hoàng này. Không biết bây giờ bạn ta ở đâu? Nếu ta biết được chàng ở đâu, ta sẽ cho mời chàng về. Ai có thể cho ta biết nơi chàng ở chăng?”.

Tứ đó ở trong hậu cung cũng như ngoài triều đình, vua vẫn thường tán dương Bồ-tát. Một thời gian lâu sau đó, khi đã sống ở Tuyết Sơn cả năm mươi năm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Vua đang nhớ đến ta. Ta phải đi tìm bạn và thuyết Pháp để bạn ta khỏi lo sợ”.

Thế là được năm trăm vị khổ hạnh theo hầu, ngài bay qua không gian rồi hạ xuống hoa viên Dàyapassa, và ngài an tọa trên phiến đá, với các hiền nhân vây quanh.

Người giữ vườn thấy ngài , liền hỏi:

– Thưa Thánh giả, vị nào là bậc Thượng thủ của hội chúng hiền nhân này?

Khi được biết đó là Hiền giả Samkicca, và lão cũng nhận ra ngài, liền thưa:

– Thưa Tôn giả, xin ngài ở nán lại đây cho đến khi tôi đi thỉnh hoàng thượng đến. Hoàng thượng đang nóng lòng gặp ngài.

Đảnh lễ ngài xong, lão vội đến cung tâu trình về việc ngài trở về. Vua đến thăm ngài, và sau cung kính đảnh lễ theo đúng phép xã giao xong, liền đưa ra vấn đề hỏi ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Vừa thấy Brah-ma-dat đại vương,
    Ngôi cao chiếm chệ thật huy hoàng,
    Lão tâu: “Chúa thượng, thân bằng cũ
    Chúa thượng vẫn thường dạ luyến thương
  2. Tôn giả Sam-ca đã đến đây,
    Giữa hiền nhân, nổi tiếng vai thầy
    Đại vương, xin vội lên đường sớm,
    Chớ chậm tìm thăm bậc Thánh này.
  3. Vua ngự lên xa giá vội vàng,
    Sẵn sàng theo lệnh của vua ban,
    Triều thần bạn hữu vây quanh đủ,
    Tìm kiếm Thánh nhân, tiến thẳng đàng.
  4. Cả năm biểu tượng của vương gia
    Ví chúa Kà-si vội bỏ ra,
    Lọng, quạt đuôi trâu rừng, mão niệm,
    Đôi hài, bảo kiếm cũng trao qua.
  5. Rồi vua ngự xuống khỏi vương xa,
    Cởi hết bào y rực sáng lòa,
    Đi đến Da-ya-pa ngự uyển
    Là nơi an tọa Thánh Sam-ca.
  6. Và vua vội vã tiến lên gần,
    Đảnh lễ trang nghiêm, lại hỏi thăm
    Nhắc lại hàn huyên câu chuyện cũ
    Cùng nhau trao đổi đã bao lần.
  7. Cạnh bạn, vua an tọa một bên,
    Đến khi dịp tốt bắt đầu lên,
    Hỏi câu liên hệ bao điều ác,
    Vua vội nêu ra với bạn hiền:
  8. “Sam-ca, bậc thượng thủ hiền nhân,
    Đại trí nhân, nay trẫm vấn an
    Tỉnh tọa Dà-ya-pa ngự uyển
    Bao điều trẫm muốn hỏi thân bằng.
  9. Ra sao kẻ ác lúc tử trần,
    Cảnh giới nào đâu phải thọ thân ~
    Trẫm đã đi sai đường chánh đạo,
    Trẫm mong lời giải của hiền nhân.

Bậc Đạo Sư nói thêm để làm sáng tỏ việc này:

  1. Như vậy Sam-ca bảo Đại vương
    Trị Kà-si quốc độ giang sơn,
    Tại Dà-ya ngự viên, an tọa,
    “Đại đế, lắng nghe sẽ tỏ tường”.

11.Ví thử ngài đưa lối chỉ đường
Cho người đi lạc bước vô phương,
Người kia theo đúng lời khuyên nhủ,
Chẳng gặp chông gai cản bước chân.

  1. Nếu kẻ kia đi lạc nẻo tà,
    Nếu ngài dẫn dắt đúng đường ra,
    Kẻ kia tuân thủ lời khuyên nhủ,
    Sẽ thoát ra bao cảnh khổ mà.

*

Ngài đã khuyến giáo vua như vậy, và hơn nữa ngài còn dạy vua Pháp lành:

13-14. Đường cái khác nào lẽ chánh chân,
Còn đường tắt chỉ nẻo tà gian,
Chánh chân đưa lối lên thiên giới,
Ác dẫn người vào địa ngục môn.

  1. Kẻ nào phạm giới, hỡi quân vương,
    Và sống đời bất chánh bất lương,
    Số phận nào chờ trong địa ngục
    Mệnh chung, nghe rõ sẽ am tường:
  2. Sañ-ji-va, Kà-la-sut-ta,
    Ro-ru-va tiểu và đại,
    San-ghà-ta, Đại A-vì-ci,
    Ta-pa-na, Pa-tà-pa-na,
  3. Tám địa ngục kia tiếng lẫy lừng
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thoát thân từ đó đều vô vọng,
    Các ngục Us-sa(l) được kể rằng:
    Con số tăng hơn mười sáu nữa,
    Đều là ngục cỡ nhỏ từng phần.
  4. Lửa cháy, hành hình các tội nhân
    Thảy đều tạo ác nghiệp vô ngần,
    Kinh hồn, hoảng hốt, đầy đau đớn,
    Khổ não, hãi hùng ngập bốn phương.
  5. Bốn phía đều xây cửa bốn tầng,
    Chia từng khoảng cách thật cân phân,
    Mái vòm bằng sắt trên che phủ,
    Tường sắt lại còn bọc lấy thân.
  6. Nền sắt này xây mới vững sao
    Vì không lửa dữ đốt tan nào,
    Dù xa trăm dặm chung quanh đó,
    Cũng thấy oai thần tỏa vút cao.
  7. Ai làm thương tổn các hiền nhân,
    Hoặc xúc phạm gì bậc thiện chân,
    Rơi thẳng vào ngay miền địa ngục
    Chẳng còn cơ hội để vươn thân.
  8. Thân thể tả tơi, cảnh hãi hùng
    Khác nào cá nướng, lửa đang nồng,
    Cũng vì ác nghiệp bao năm cũ
    Đày xuống ngục kia phải nướng thân.
  9. Thiêu hủy tứ chi lửa bỏng sôi,
    Hành hình làm hoảng sợ con mồi,
    Dù mong giải thoát ra ngoài ngục,
    Cũng chẳng tìm đâu lối thoát rồi.
  10. Chạy tới chạy lui kiếm lối đi,
    Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng mong gì,
    Vì chư thần đó ngăn đường lối,
    Họ cố tìm đường có ích chi.
  11. Hàng ngàn năm số phận đau thương,
    Chúng sống trong miền địa ngục môn,
    Với cánh tay dài vương tới mãi
    Khóc than nỗi khổ ngập tâm hồn.
  12. Cũng như rắn độc giết con mồi
    Nổi giận hung tàn nếu bị khơi,
    Phải tránh tổn thương cho Thánh giả,
    Những người nguyền khổ hạnh trong đời.
  13. Tộc trưởng Ke-ka(2) Aj-ju-na,
    Tan tành vì hại Go-ta-ma,
    Dù ngàn tay, vóc người cường tráng
    Thiện xạ lẫy lừng một thuở xưa.
  14. Dan-da-ki phỉ báng Ki-sa(3),
    Ngài chẳng tội tình, chẳng xấu xa,
    Như chặt cọ dừa từ gốc rễ,
    Hoàn toàn hủy diệt thế kia mà.
  15. Mej-jha vì bậc trí Tan-ga(4)
    Phải rớt từ trên bảo tọa kia,
    Đất nước trở thành hoang phế địa,
    Chúa tôi đều phải hóa ra ma.
  16. Dân chúng Vish-nu tộc tấn công
    Di-pà-ya(5) ấy Hắc hiền nhân
    Cùng tộc An-dha(6) tìm địa ngục,
    Giết nhau dùng dáo trượng tranh hùng.
  17. Bị mắc lời nguyền của trí nhân,
    Cec-ca xưa bước giữa không trung,
    Tương truyền bị nuối vào lòng đất
    Biến mất vào ngày đã định phần.
  18. Kẻ ngu bướng bỉnh chẳng khi nào
    Được tán đồng từ bậc trí cao,
    Song các thiện nhân đầy chánh nghĩa
    Khó lòng nói chuyện dối gian nào.
  19. Kẻ nào nằm sẵn để chờ mong
    Bắt lấy hiền nhân với trí nhân,
    Sẽ bị cuốn chìm vào địa ngục,
    Vì mưu kế độc phải ăn năn.
  20. Kẻ nào lòng phản bội hung tàn
    Xông đến đành càn lão Thánh nhân,
    Sẽ giống gốc cây dừa chết héo,
    Chẳng con thừa kế, phải tàn dần.
  21. Kẻ nào dám giết đại hiền nhân,
    Hoặc bậc tu hành sống chánh chân,
    Sẽ đọa Kà-la-sut địa ngục
    Cực hình phải chịu lắm ngày ròng.
  22. Còn nếu Ma-ga, một ác vương
    Muốn làm điên đảo cả giang sơn,
    Mạng chung, vào ngục Ta-pa ấy
    Phải chịu nhiều đau khổ đoạn trường.
  23. Trăm ngàn năm sống đọa đày thân
    Như cách chư Thiên tính tháng năm,
    Mặc áo làm bằng cây lửa đỏ,
    Giữa đau thương địa ngục muôn phần.
  24. Lửa phun lên rực sáng nơi nơi,
    Tung tóe từ thân thể tả tơi,
    Chân cẳng, tóc râu cùng tất cả
    Chỉ dùng nuôi ngọn lửa làm mồi.
  25. Trong lúc thân kia cháy thật nhanh
    Khổ đau hành hạ đến tan tành,
    Như voi bị quất bằng cây nhọn,
    Kẻ khốn rống lên hết sức mình.
  26. Có kẻ tham sân lại giết cha,
    Ấy người hèn hạ, đại gian tà,
    Chịu nhiều thống khổ trong hầm lửa
    Ở ngục Kà-la-sut mãi mà.
  27. Trong chảo sắt sôi đến lột da,
    Bị đâm tên sắt đến mù lòa,
    Ăn phân, kẻ giết nhằm thân phụ,
    Nước muối chìm thân, chuộc tội xưa.
  28. Quỷ sứ đặt trong miệng kẻ này
    – Vì e nó ngậm chặt hàm ngay –
    Một hòn sắt nóng nung cho đỏ,
    Hoặc một lưỡi cày với sợi dây,
    Rồi buộc lấy mồm cho thật chặt,
    Thả vào trong vũng nước bùn lầy.
  29. Kên kên, diều quạ, cả đen, nâu,
    Chim mỏ sắt kia thật đủ màu,
    Phanh lưỡi nó ra từng mảnh nhỏ,
    Run run từng miếng, máu tuôn trào.
  30. Bay đi, bầy quỷ lại bay về
    Đánh đập kẻ đầy khốn khổ kia,
    Vào ngực cháy, chân tay gãy nát,
    Chúng hành người, độc ác say mê.
  31. Cả bầy quỷ sứ thật hân hoan,
    Song nỗi khổ đau lại ngập tràn
    Những kẻ đọa đày trong ngục ấy,
    Vì đời phạm tội giết nghiêm đường.
  32. Còn nếu kẻ nào giết mẫu thân
    Đọa ngay vào ngục Dạ- ma quân,
    Để đền tội phạm hành vi ác,
    Nhận quả báo kia thật xứng phần.

47-48. Quỷ dữ nắm người giết mẫu thân
Dùng cày sắt rộng ủi mạnh vào lưng,
Tạo thành những luống cày sâu rộng,
Máu tựa đồng tan chảy cả dòng
Từ các vết thương, và chúng lấy
Làm nguôi cơn khát bỏng tù nhân.

49-50. Hồ máu đỏ kia nó ngập mình,
Hít mùi xác chết hoặc bùn tanh,
Bầy sâu khủng khiếp dùng mồm sắt
Xuyên suốt da người chịu cực hình,
Xâu xé thịt kia nhai ngấu nghiến,
Hút ngay máu đỏ thật ngon lành.

51-52. Ngục sâu trăm dặm, ngập chìm thân,
Trăm dặm quanh đầy xác thối nồng,
Bởi chính mùi hôi, ôi! Tội nghiệp,
Xưa dù mắt sáng, cũng mờ dần.

  1. Vượt qua ngục thất Khu-ra-dhà(7),
    Tù ngục tối tăm, khó vượt qua,
    Những kẻ phá thai, sao thoát được
    Dòng sông khủng khiếp Ve-ta-ra(8).
  2. Cây vải có gai sắt thật dài,
    Chừng vài ba tấc, miệng người đời
    Tương truyền trên cả đôi bờ ấy
    Lơ lững giường đen tối của ngài.
  3. Tất cả bọc trong khối lửa hồng
    Vươn lên sừng sững tựa trời trồng
    Cháy bùng rực rỡ như cây tháp
    Cao cả dặm đường giữa cõi không

56-57. Trên lửa gai nung, ngục hiện ra:
Gian phu, dâm phụ, bọn gian tà
Roi da vụt xuống, đầu lăn lóc,
Hỗn loạn quay cuồng chạy trốn xa,
Tơi tả tứ chi nhừ nát cả,
Chúng nằm thức đợi suốt đêm qua.

58-59. Tảng sáng, vào Nồi Sắt ẩn thân
To như núi, ngập nước bừng bừng,
Ngu si vây bọc như y quấn,
Bọn ác nhân kia sáng tối ròng,
Vì ác nghiệp gây từ kiếp trước,
Nay đền nợ cũ xứng cân phần.

  1. Người vợ được mua với bạc vàng
    Đem lòng coi rẻ đức lang quân,
    Hoặc nhìn khinh bỉ người thân thích,
    Lưỡi bị móc ra, thống khổ tràn.
  2. Thấy lưỡi căng đầy đám bọ sâu,
    Kêu than chẳng thể được đâu nào,
    Âm thầm phải gánh bao hình phạt
    Trong ngục Ta-pa chịu khổ đau.

62-63. Kẻ giết heo cừu, bọn thợ săn,
Chài ngư, trộm cướp, lũ tà nhân,
Xem hành vi thiện là hèn kém,
Bị đánh bằng dùi sắt, kiếm cung,
Nhào xuống, cả bầy người khát máu
Bị tên, giáo đuổi, ngã vào dòng.

  1. Thợ rèn làm hại suốt ngày đêm
    Dùng gậy sắt kia để luyện rèn,
    Chỉ sống bằng đồ ăn bẩn thỉu
    Nhả ra bởi các kẻ đê hèn.
  2. Diều quạ, kên kên, với chó rừng
    Hàm nhe toàn sắt sẵn sàng luôn
    Vồ ngay kẻ khốn đang lăn lộn,
    Nuốt sống vào mồm quá hám ăn!
  3. Ai dùng thú dữ giết hươu nai,
    Hoặc giết chim bằng các bẫy mồi,
    Tội lỗi đầy thân chìm đọa xứ,
    Ăn năn ngày tháng khổ đau dài.

Ghi chú: (1) Ussada; (2) Kekakà; (3) Kisavaccha; (4) Màtanga; (5) Dipàyana; (6) Andhaka; (7) Khuradhàra; (8) Vetaranì

Như vậy, ngài đã miêu tả các địa ngục trên và bây giờ vừa mở một chỗ trên mặt đất, ngài vừa chỉ vua thấy thiên giới, vừa bảo:

  1. Nhờ tích đức trên cõi thế gian
    Từ xưa người thiện đến thiên đàng,
    Chư Thiên, Phạm chúng, kìa Thiên chủ,
    Đạt quả công năng chín vẹn toàn.
  2. Ta bảo ngài cai trị chánh chân
    Suốt trong quốc độ, hỡi Quân vương,
    Đạt thành phước đức nhờ công chánh,
    Hối tiếc về sau chẳng phải mang.

Nghe xong bài thuyết giáo của bậc Đại Sĩ, vua bình tâm lại, còn Bồ-tát sau khi ở đó một thời gian nữa, liền trở về nơi an trú của mình.

*

Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Không chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, vua ấy cũng đã được ta làm cho an tâm.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) là nhà vua kia, các đệ tử đức Phật là hội chúng của vị khổ hạnh, và Ta chính là Hiền giả Samkicca.

-ooOoo-

Chương XX

Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền thân Kusa)

Quốc độ này hoan lạc ngập tràn . . .,

Đây là câu chuyện bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện kể rằng vị ấy thuộc dòng quý tộc, sống ở Sàvatthi (Xá-vệ), vì nhiệt tâm tin vào Chánh pháp nên ông xuất gia tu tập.

Một ngày kia, ông vào thành Sàvatthi để khất thực, lại gặp một nữ nhân xinh đẹp liền đem lòng say mê ngay khi mới thấy nàng. Bị tham dục chi phối, ông sống trong đau khổ, cứ để lông tóc, móng tay chân mọc dài ra, mặc các y trong lẫn y ngoài đều dơ bẩn, và héo mòn dần đến độ xanh xao khác nào cây liễu rũ với các đường gân nổi lên khắp mình mẩy.

Cũng giống như trên thiên giới, khi một vị Thiên tử nào sắp đọa khỏi kiếp sống Thiên thần, thường để lộ ra năm dấu hiệu quen thuộc, đó là: Các vòng hoa của vị ấy mang héo dần, xiêm y dơ bẩn, thân thể trở nên xấu xí, mồ hôi ở nách đổ ra và vị ấy không còn thấy lạc thú gì trong Thiên cung nữa.

Trường hợp các Tỷ-kheo ở thế gian cũng vậy; khi thối thất tín tâm trong Chánh pháp, có năm dấu hiệu tương tự hiện ra: hoa tín tâm héo úa, y chân chánh dơ bẩn, do bất mãn và các hậu quả của cái danh bất thiện mà thân thể các vị ấy trở nên xấu xí dần, mồ hôi bất tịnh cứ tuôn ra đầm đìa khiến họ không còn thấy lạc thú gì trong đời độc cư dưới gốc cây rừng nữa.

Đó là những dấu hiệu đã xuất hiện ở vị này. Vì thế Tăng chúng đưa ông đến yết kiến bậc Đạo Sư, và thưa:

– Bạch Thế Tôn, kẻ này đang thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi có đúng không, và khi nghe ông thú nhận là đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, đừng làm nô lệ cho tham dục. Đây là một ác nữ nhân, ông hãy chế ngự dục tham của ông đối với kẻ ấy, hãy hân hoan trong Chánh pháp. Chính vì mê say một nữ nhân, mà các bậc hiền trí ngày xưa, mặc dù có đủ uy lực phi thường, cũng đã mất hết quyền năng và phải chịu khốn đốn đến suy tàn.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại quốc độ Malla, trong kinh thành Kusàvati, vua Okkàka cai trị rất chân chánh. Đứng đầu mười sáu ngàn phi tần của ngài là Chánh hậu Silavatì. Bấy giờ bà không sinh con cái gì nên dân chúng trong kinh đô cùng các triều thần tụ họp tại cửa cung, than vãn rằng quốc độ này sẽ bị diệt vong.

Vua mở cửa sổ ra phán hỏi:

– Trong triều đại trẫm, không có ai làm điều gì bất công trái đạo. Tại sao các ngươi trách móc trẫm?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, quả đúng vậy, không ai làm gì trái đạo lý cả, nhưng Đại vương không có hoàng nam để nối dõi; một kẻ ngoại bang sẽ chiếm lấy vương quốc và hủy diệt đất nước này. Vậy xin Đại vương hãy cầu tự để có hoàng nam trị nước cho đúng pháp.

– Thế khi muốn cầu tự, trẫm phải làm gì?

– Trước tiên, xin Đại vương hãy truyền đưa ra đường một đám cung nữ ca múa hạ đẳng suốt trong một tuần lễ, xem đó như một lễ cúng tế thần, rồi nếu có một nàng nào sinh được con trai thì tốt lắm. Nếu không thì xin hãy đưa một đám nữ nhạc trung lưu và cuối cùng là đám nữ nhạc thượng hạng. Chắc hẳn giữa đám đông như thế sẽ có một nàng đầy đủ đức độ để sinh con trai.

Vua liền làm theo lời họ khuyên ngài, và cứ đến mỗi ngày thứ bảy trong tuần, ngài hỏi thăm đám người ấy trở về cung, sau khi đã hưởng thú vui chơi thỏa thích, xem có nàng nào thọ thai chưa. Và khi tất cả bọn họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, không có ai.

Bấy giờ vua thất vọng kêu lên:

– Ta chẳng có được hoàng nhi nào cả.

Dân chúng trong kinh thành lại trách móc vua như trước. Vua bảo:

– Tại sao các ngươi lại trách trẫm, theo lời các ngươi thỉnh cầu, nhiều đám nữ nhân đã được đưa ra trình diễn ngoài đường, nhưng không nàng nào thọ thai cả. Vậy trẫm phải làm sao bây giờ?

Họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn đám nữ nhân này đều vô hạnh và thiếu đức cả. Chúng không đủ công đức để sinh con trai. Song vì chúng chưa thọ thai, vậy hoàng thượng đừng nản lòng, Chánh hậu Silavatì là một nữ nhân đầy đủ đức hạnh; xin hãy đưa chánh hậu ra đường, lệnh bà sẽ sinh hoàng nam.

Vua vui lòng chấp thuận, truyền lệnh đánh trống công bố rằng vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy, dân chúng phải tề tựu lại và vua sẽ đưa Chánh hậu Silavatì ra đường làm tế lễ. Rồi vào ngày thứ bảy, vua truyền lệnh trang điểm chánh hậu thật lộng lẫy và rước bà từ cung ra đường phố biểu diễn.

Do uy lực công đức của bà, cung thất của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nóng dần lên. Thiên chủ Sakka xem xét việc này có ý nghĩa gì, và nhận thấy Chánh hậu đang khao khát một hoàng nam, liền suy nghĩ:

– Ta phải ban cho chánh hậu một hoàng nam.

Rồi trong khi tìm hiểu xem có vị nào trên thiên giới xứng đáng làm con bà không, Thiên chủ chợt trông thấy Bồ-tát.

Truyện kể rằng, vào thời ấy, sau khi đã hưởng hết thọ mạng ở cõi trời Ba mươi ba, ngài (Bồ-tát) ước mong được tái sinh ở một cảnh giới cao hơn. Sakka Thiên chủ đền gần cửa cung ngài, triệu ngài ra bảo:

– Này Hiền giả, ngài sẽ phải đến cõi nhân gian, và thọ sinh làm hoàng nam của Chánh hậu vua Okkaka.

Rồi Thiên chủ lại mời được một Thiên tử khác đến và bảo:

– Hiền giả cũng sẽ làm hoàng nam của Chánh hậu.

Và muốn rằng không có một nam nhân nào được phép làm tổn hại đức hạnh của chánh hậu, nên Sakka Thiên chủ giả dạng làm một lão Bà-la-môn, đi đến cửa cung.

Đám dân chúng, sau khi tắm rửa trang điểm cho mình xong, mỗi người đều thầm mong trong trí là sẽ chiếm được hoàng hậu nên tề tựu ngay tại hoàng môn, nhưng khi thấy Sakka Thiên chủ họ cười ầm lên, hỏi ngài tại sao đến đây. Thiên chủ bảo:

– Tại sao lại trách lão? Thân lão già rồi, song dục tình vẫn không giảm xuống, nên lão đến đây với hy vọng đem được hoàng hậu về với lão, giả sử lão chiếm được bà.

Cùng với những lời này, Thiên chủ dùng thần lực tiến lên phía trước cả đám người ấy, và vì công đức của ngài tỏa ra, không ai có thể đứng trước mặt ngài được, và ngay lúc chánh hậu mới bước ra khỏi cung, được trang điểm cực kỳ rực rỡ uy nghi, ngài liền nắm lấy tay bà và đưa đi mất.

Thế rồi đám người kia đứng trơ ra đó mạ lỵ ngài, bảo:

– Thật là nhục nhã, một lão Bà-la-môn đã biến đi mất cùng một bà hoàng hậu dung sắc tuyệt thế. Lão cũng chẳng biết chuyện gì là cân xứng với lão nữa.

Chánh hậu cũng suy nghĩ: “Một ông già đang bắt ta đi mất đây”, bà cũng nổi giận và lại cảm thấy ghê tởm.

Còn vua đứng ở cửa sổ mở rộng, nhìn ra xem ai sẽ cướp được hoàng hậu mang đi, và chợt thấyđó là ai rồi, thì ngài hết sức bất bình.

Khi Sakka Thiên chủ vừa cùng bà thoát ra khỏi cổng thành, ngài liền dùng thần lực hóa hiện ra một ngôi nhà ngay gần đó, cửa đã mở sẵn cùng với một bó củi khô. Bà hỏi:

– Chỗ ở của lão đây chăng?

– Tâu lệnh bà phải, trước kia lão ở đây chỉ một mình, nay có cả đôi ta. Lão sẽ đi quanh đây kiếm ít gạo về trong lúc ấy xin lệnh bà nằm nghỉ trên đống củi này.

Nói vậy xong, ngài vỗ nhẹ trên người bà, khiến bà rúng động vì sự tiếp xúc với Thiên chủ, rồi ngài đặt bà nằm xuống đó, ngài vừa đụng vào người bà là bà thiếp đi ngay. Sau đó, ngài dùng thần lực siêu phàm đưa bà lên cõi trời Ba mươi ba và đặt bà xuống trên thiên tọa trong một cung điện lộng lẫy nguy nga.

Vào ngày thứ bảy, ngay khi vừa thức giấc, bà ngắm cảnh huy hoàng này và hiểu rằng đây không phải là một Bà-la-môn, mà chắc hẳn là chính Sakka Thiên chủ. Vào lúc này Sakka Thiên chủ đang ngự trên bảo tọa dưới cây San hô, được đoàn Thiên nữ ca múa vây quanh.

Bà liền bước ra khỏi thiên sàng, đi đến gần đảnh lễ Thiên chủ và kính cẩn đứng một bên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta ban cho bà một điều ước; hãy chọn đi.

– Vậy xin Thiên chủ ban cho thần thiếp một hoàng nam.

– Này hoàng hậu, không chỉ một mà thôi đâu. Ta sẽ ban hai vương tử cho bà. Một người thông minh trí tuệ nhưng xấu xí, người kia đẹp tướng song lại ngu đần, bà muốn có đứa con nào trước?

– Xin đứa con thông minh trước. Bà đáp.

– Được lắm. Ngài bảo.

Rồi đưa cho bà một cọng cỏ Kusa (Cát tường), một chiếc thiên y cùng với gỗ chiên-đàn, một đóa thiên hoa San hô và cây đàn Kokanada màu đỏ cánh sen.

Xong xuôi ngài đưa bà trở lại mội cung của hoàng gia, đặt bà nằm xuống trên cùng một vương sàng với vua và chỉ lấy ngón tay ngài đụng vào người của bà là ngay lúc ấy Bồ-tát nhập mẫu thai, còn Thiên chủ lập tức trở về cõi của ngài ngay. Bà hoàng hậu hiền đức biết rằng bà đã thọ thai.

Lát sau vua tỉnh giấc thấy bà, liền hỏi ai đã đem bà đi.

– Tâu Thánh thượng, chính Sakka Thiên chủ.

– Kia chính mắt trẫm thấy một lão già Bà-la-môn mang khanh đi mất, tại sao khanh muốn đánhlừa trẫm?

– Tâu Thánh thượng, xin hãy tin thần thiếp, chính Sakka Thiên chủ đã đưa thiếp lên thiên giới.

– Trẫm không tin khanh đâu.

Lúc ấy bà đưa vua xem cọng cỏ Kusa mà Thiên chủ đã tặng bà và nói:

– Bây giờ xin Thánh thượng tin lời thần thiếp.

Vua nghĩ thầm: “Cỏ Kusa hái được khắp nơi”, nên ngài vẫn không tin bà. Bà liền đưa cho vua xem các Thiên y của bà. Thấy vậy ngài tin bà và bảo:

– Này ái hậu, nếu Thiên chủ đem khanh đi thì khanh đã có thai chưa?

– Tâu Thánh thượng, thần thiếp đã có thai.

Vua rất hoan hỷ và truyền cử hành lễ mừng thai phụ.

Mười tháng sau, bà hạ sinh một hoàng nam, triều đình không đặt tên gì khác ngoài tên ngọn cỏ Kusa. Vào thời gian vương tử Kusa biết chạy một mình, bà lại có thai một Thiên tử thứ hai, họđặt tên là Jayampati. Hai vương tử được nuôi dưỡng theo cung cách cao sang trọng vọng.

Bồ-tát thật vô cùng thông minh, không cần học với thầy nào cả, mà tự khả năng ngài đã tài giỏi thành thạo mọi môn học thuật.

Vì vậy khi ngài được mười sáu tuổi, vua nóng lòng trao quốc độ cho ngài, liền bảo chánh hậu:

– Này ái hậu, khi trao vương quyền cho vương nhi, ta sẽ cử hành lễ thật trọng thể, ta muốn nhìn thấy vương nhi được an vị trên ngai vàng khi ta còn sống. Nếu có công chúa ở xứ nào trong cõi Diêm-phù-đề mà ái hậu yêu mến, thì khi rước nàng ấy về đây, ta sẽ phong cho nàng làm chánh hậu của vương nhi. Vậy hãy thăm dò xem vương nhi có yêu mến công chúa xứ nào chăng?

Bà ưng thuận ngay và cho một cung nữ đệ trình vấn đề lên thái tử để biết ý kiến ngài. Nàng ấyđến trình vương tử mọi việc.

Nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Ta không được tốt tướng, hễ một công chúa diễm lệ nào dù được rước về đây làm tân nương của ta thì khi thấy mặt ta cũng sẽ nói: “Mình sẽ phải làm gì với một người chồng xấu xí như thế này”; rồi nàng ấy trốn đi và chúng ta chỉ thêm mang nhục. Vậy ta còn phải cần gì cuộc sống gia đình thế tục nữa? Ta muốn phụng dưỡng song thân lúc còn sống và khi song thân từ trần, ta quyết xuất gia làm ẩn sĩ”. Vì thế ngài đáp:

– Ta có cần gì quốc độ ngai vàng hay yến tiệc hội hè đâu? Khi song thân ta từ trần, ta quyết xuất gia tu hành.

Nàng cung nữ ấy trở về và kể lại với chánh hậu chuyện ngài vừa nói.

Vua rất buồn bực; sau vài ngày lại gửi một chiếu chỉ khác, nhưng vương tử vẫn không chịu nghe theo. Sau ba lần từ chối lời đề nghị của vua cha; đến lần thứ tư ngài suy nghĩ: “Quyết liệt phản đối mẹ cha mãi là điều không hợp lý, nên ta muốn bày một mưu kế gì đó”.

Rồi ngài triệu người thợ vàng trưởng đoàn vào, đưa cho gã một số vàng và bảo gã làm bức tượng một nữ nhân. Khi gã đi rồi, ngài lấy thêm vàng và chính tay ngài nặn hình một nữ nhân.

Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng được thành tựu. Bức tượng tuyệt đẹp vượt ngoài mọi lời lẽ con người miêu tả nó. Sau đó, bậc Đại Sĩ truyền đem xiêm y khoác cho tượng ấy và đặt trong cung thất.

Khi thấy bức tượng do người thợ vàng trưởng đoàn đem vào, ngài chê bai, và bảo:

– Ngươi hãy đi tìm xem bức tượng đặt trong hoàng cung.

Gã thợ ấy bước vào, thấy bức tượng lên suy nghĩ: “Chắc đây phải là một Thiên nữ đến hưởng lạc thú cùng với vương tử”.

Gã bỏ đi ra khỏi phòng mà không dám đưa tay ra về phía bức tượng ấy, rồi gã nói:

– Tâu điện hạ, trong cung ngài có một Thiên nữ cao quý của chư Thiên, hạ thần không dámđến gần.

Ngài bảo:

– Hiền hữu, hãy đi đem bức tượng vàng ấy về đây.

Được bảo đến lần thứ hai, gã mới đi mang bức tượng về.

Hoàng tử ra lệnh đem bức tượng do người thợ vàng đúc đặt vào trong cung thất bằng vàng; còn bức tượng do ngài nặn thì được trang hoàng thật đẹp đặt lên một chiếc xe, đem đệ trình mẫu hậu và bảo:

– Khi nào con tìm ra được một nữ nhân như thế này, con xin lấy nàng làm vợ.

Mẫu hậu triệu các quốc sư vào bảo:

– Này các hiền khanh, vương tử có đầy đủ công đức do Sakka Thiên chủ ban cho ta, chàng phải tìm được một công chúa xứng đáng với chàng. Vậy các khanh hãy đem bức tượng này đặt vào vương xa phủ kín, đi khắp cõi Diêm-phù-đề, hễ thấy công chúa của vua nào giống bức tượng thì hãy trao tượng cho vua ấy và bảo: “Quốc vương Okkàka sẽ làm hôn lễ với công chúa của Đại vương”. Rồi hãy thu xếp ngày trở về nước.

– Thật tốt lành thay.

Họ đáp xong cầm bức tượng ra đi cùng một đoàn tùy tùng đông đảo. Trong cuộc hành trình ấy, dù đến kinh thành nào vào lúc hoàng hôn, đoàn người ấy cũng tụ tập lại rồi sau khi trang hoàng xiêm y, vòng hoa, nữ trang cho bức tượng, họ đặt tượng lên chiếc loan xa đưa ra bến tắm, còn chính họ trở lui, đứng bên vệ đường nghe ngóng người qua lại có bàn tán gì chăng.

Dân chúng thấy bức tượng vàng, bảo nhau:

– Bức tượng này chỉ là một nữ nhân cũng thật vô cùng diễm lệ, chẳng khác một vị Thiên nữ. Tại sao nàng đến đây, nàng từ đâu lại? Trong kinh thành này của ta, không có ai sánh bằng nàng được.

Sau khi tán dương sắc đẹp của tượng vàng, họ lại đi đường họ.

Các quốc sư bảo:

– Nếu có một cô gái nào như thế ở đây, dân chúng sẽ bảo: “Bức tượng này giống công chúa nọ, hoặc tiểu thư kia”; chắc tại đây không có cô gái nào như vậy cả.

Họ liền đem bức tượng ra đi đến kinh thành khác; trên bước giang hồ vô định, họ đến kinh thành Sàgala ở quốc độ Madda.

Lúc bấy giờ vua Madda có bảy công chúa đẹp dị thường như bầy tiên trên trời. Công chúa lớn nhất tên là Pabhàvatì (Quang Huy), thân nàng chiếu tỏa ra các tia sáng như thể ánh bình minh. Khi trời tối, trong phòng loan của nàng rộng chừng bốn cubit (1 cubit = 45 cm) không cần thắp đèn, cả căn phòng cũng sáng rực lên.

Lúc bấy giờ, nàng có một bà nhũ mẫu lưng gù, sau khi đã bưng cơm lên hầu Pabhàvatì, lại muốn gội đầu cho nàng vào lúc trời sẩm tối, bà ra đi múc nước cùng với tám nữ tỳ, mỗi người mang một bình đựng nước đến bến tắm, chợt thấy bức tượng, bà tưởng đó là Pabhàvatì liền kêu lên:

– Cô bé này tệ thật, cứ giả vờ muốn gội đầu và bảo ta đi múc nước, lại lẻn đi trước chúng ta, ra đứng ngoài đường kia kìa.

Đang lúc giận dữ, bà kêu lên:

– Tệ quá, nàng làm nhục gia phong, nàng ra đứng kia, trước cả bọn ta nữa. Nếu đức vua biết được, chúng ta sẽ chết mất.

Nói xong, bà đánh vào má bức tượng, làm một khoảng lớn bằng lòng bàn tay bà bị nứt ra. Khi thấy đó là một bức tượng vàng, bà bật cười đến bảo các nữ tỳ:

– Hãy đến xem ta đã làm gì kìa. Ta tưởng đó là dưỡng nữ của ta, nên ta đánh nó, bức tượng kia thật có đáng gì nếu đem so với con gái ta? Ta chỉ làm đau tay ta mà thôi.

Thế là các sứ giả của vua chạy ngay nắm lấy bà bảo:

– Đây là chuyện gì bà bảo cho ta biết, con gái bà đẹp hơn tượng này sao?

– Ta muốn nói đến Pabhàvatì, công chúa của vua Madda, giá trị của tượng này không bằng một phần mười sáu của nàng ấy.

Họ vui mừng trong dạ, tìm lối vào cung nhờ người trình vua rằng sứ giả của vua Okkàka đang đứng ở cung môn.

Vua đứng dậy từ bảo tọa, ra lệnh cho họ vào chầu. Khi vào, họ đảnh lễ vua và tâu:

– Tâu Đại vương, bổn vương xin gửi lời hỏi thăm ngọc thể có được khang an chăng?

Họ được tiếp đón nồng hậu và khi được hỏi tại sao đến đây, họ đáp:

– Bổn vương của chúng thần có một hoàng nam, vương tử Kusa rất dũng cảm, đức vua muốn trao quốc độ cho con nên sai chúng thần đến xin Đại vương gá duyên công chúa Pabhàvatì cho chàng và nhận bức tượng vàng này làm sính lễ.

Nói xong, họ dâng lên tượng vàng ấy. Vua rất đẹp ý, nghĩ rằng được kết thân với một dòng vua cao quý như vậy thật là vạn phúc. Các sứ giả lại tâu:

– Tâu Đại vương, chúng thần không dám chậm trễ ở nán lại đây, chúng thần phải về trình đức vua là chúng thần đã đi cầu hôn công chúa được rồi, ngài sẽ đến đón dâu sau.

Vua chấp thuận, tiếp đãi họ rất nồng hậu, sau đó để họ ra về. Họ về cung trình lại mọi việc lên đức vua và hoàng hậu. Vua cùng đám tùy tùng đông đảo khởi hành từ Kusàvati dần dần theo thời gian đi đến kinh thành Sàgala.

Vua Madda thân hành đón rước ngài vào thành tiếp đãi rất trọng thể. Hoàng hậu Sìlavati là một nữ nhân thông thái, liền suy nghĩ: “Do nguyên nhân gì mà có việc này?”.

Sau một hai ngày, bà bảo vua:

– Chúng ta đang mong được gặp tân nương.

Vua chấp thuận truyền triệu công chúa vào. Nàng Pabhàvati được phục sức cực kỳ lộng lẫy vàđám cung nữ theo hầu bước ra đảnh lễ mẫu hậu tương lai.

Vừa trông thấy nàng, chánh hậu liền suy nghĩ: “Công chúa này tuyệt đẹp, còn con ta lại xấu xí, nếu nàng thấy con ta, nàng sẽ không ở dù chỉ một ngày, và sẽ trốn đi ngay. Vậy ta phải bày mưu mới được”.

Bà liền nói với vua Madda:

– Tân nương thực là đẹp đôi với hoàng nhi ta. Tuy thế hoàng tộc ta có một tục lệ cổ truyền, nếu nàng tuân theo luật đó, chúng ta sẽ rước nàng về làm hoàng phi.

– Đó là tục lệ gì?

– Trong dòng họ ta, người vợ không được phép nhìn chồng ban ngày cho đến bao giờ nàng thọ thai. Nếu nàng chịu làm theo đúng như vậy, chúng ta sẽ đón nàng về.

Vua hỏi công chúa:

– Này con yêu quý, con có làm thế được chăng?

– Tâu phụ vương, được. Nàng đáp.

Sau đó, vua Okkàka đem nhiều sính lễ tặng vua Madda và rước nàng cùng ra đi, vua Madda tiễn đưa công chúa về nhà chồng cùng với một đoàn hộ tống thật đông đảo. Còn vua Okkàka, khi vừa tới thành Kusàvati, liền ban lệnh cho kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, tất cả tù nhân đều được thả ra, và sau khi làm lễ quán đảnh cho tân vương cùng sắc phong nàng Pabhàvati làm chánh hậu, ngài truyền đánh trống loan báo triều đại vua Kusa ra đời.

Tất cả các vua toàn cõi Diêm-phù-đề có công chúa đều gửi đến triều cống vua Kusa hoặc có vương tử thì gửi đến làm cận thần để mong bầu bạn với ngài.

Bồ-tát lại có cả đoàn nữ nhạc đông đảo và trị dân thật oai phong lẫm liệt. Tuy vậy ngài không được phép nhìn Pabhàvatì ban ngày, nàng cũng không được nhìn ngài, chỉ ban đêm ngài mớiđược tự do đi lại với nàng.

Vào thời ấy, thân thể của nàng Pabhàvatì tỏa sáng lạ thường, song Bồ-tát phải rời hậu cung khi trời còn tối. Vài ngày sau, ngài thưa với mẫu hậu rằng ngài muốn nhìn thấy Pabhàvatì vào ban ngày. Bà từ chối , bảo ngài:

– Con không nên ước muốn việc đó, phải đợi đến bao giờ nàng có thai đã.

Ngài van xin mẹ nhiều lần, vì thế bà bảo:

– Thôi được, con hãy đến chuồng voi đứng đó giả làm người quản tượng. Mẹ sẽ đem nàng lạiđó, con sẽ tha hồ ngắm nàng, nhưng hãy cẩn thận đừng để nàng biết con.

Ngài thỏa thuận đi đến chuồng voi, mẫu hậu truyền làm lễ hội voi và bảo Pabhàvatì:

– Này con, ta hãy cùng đi xem bầy voi của đức phu quân con.

Khi đem nàng lại đó, bà chỉ cho nàng tên của voi này, voi nọ; trong lúc Pabhàvatì đi sau lưng mẫu hậu, vua ném vào lưng nàng một cục phân voi. Nàng tức giận bảo:

– Ta sẽ bảo đức vua chặt đầu ngươi.

Nói xong, nàng lại càu nhàu với mẫu hậu khiến bà phải dỗ dành nàng bằng cách xoa lưng nàng.

Lần thứ hai vua mong muốn nhìn thấy hoàng hậu, lại giả dạng làm người giữ ngựa trong chuồng ngựa, cũng như lần trước, ngài ném cục phân ngựa vào mình nàng và khi nàng bực tức, mẫu hậu lại dỗ dành nàng.

Một ngày kia Pabhàvatì tâu với mẫu hậu là nàng mong muốn nhìn thấy bậc Đại Sĩ Bà từ chối lời thỉnh cầu của nàng và bảo:

– Thôi con đừng ước muốn như vậy nữa.

Nàng lại cứ nài nỉ bà mãi, cuối cùng bà bảo:

– Thôi được, ngày mai hoàng nhi sẽ làm đám rước trọng thể khắp kinh thành. Con cứ mở cửa sổ mà nhìn.

Nói xong, hôm sau, bà ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, rồi truyền cho hoàng tử Jayampati mặc hoàng bào, cỡi voi cử hành lễ khải hoàn rất trọng thể khắp kinh thành.

Mẫu hậu cùng đứng nơi cửa sổ với nàng Pabhàvatì, bảo nàng:

– Con hãy xem cảnh huy hoàng của đức phu quân con.

Nàng bảo:

– Con đã được một đấng vương quân thật xứng đôi vừa lứa với con.

Lòng nàng vô cùng hoan hỷ. Song cũng ngày đó bậc Đại Sĩ giả dạng làm người quản tượng, ngồi sau vương tử Jayampati, khi nhìn thấy Pabhàvatì cho thỏa lòng ao ước, ngài vui thích đưa tay làm bộ điệu trêu ghẹo nàng.

Khi con voi đi qua, mẫu hậu hỏi nàng có nhìn thấy đức vua chăng, nàng bảo:

– Tâu mẫu hậu, có thấy, song sau lưng đức vua là người quản tượng rất thô lỗ đã lấy tay làm điệu bộ trêu con; tại sao chúng lại để một người xấu xí, có dáng xui xẻo như vậy ngồi sau đức vua chứ?

– Con ạ, chúng muốn sau đức vua phải có người cận vệ.

Nàng suy nghĩ: ‘‘Người quản tượng này thật to gan, không tỏ lòng kính trọng đức vua tí nào, hay đó chính là vua Kusa? Chắc chắn vì đức vua xấu xí nên họ không muốn cho ta thấy mặt ngài”.

Thế là nàng rỉ tai bà nhủ mẫu lưng gù của nàng:

– Này nhũ mẫu, lập tức đi ra xem thử đức vua ngồi trước hay sau.

– Làm thế nào ta biết được điều đó?

– Nếu là đức vua thì ngài sẽ bước xuống voi trước, nhũ mẫu sẽ biết được nhờ dấu hiệu này.

Bà vú đi ra đứng xa xa nhìn thấy bậc Đại Sĩ bước xuống voi trước, và sau đó là vương tử Jayampati. Bậc Đại Sĩ nhìn quanh, hết phía này đến phía kia, nhợt trông thấy bà lão gù lưng, biết ngay tại sao bà ta đã đến, liền triệu bà ta lại và nghiêm khắc bảo bà ấy không được tiết lộ bí mật của ngài, rồi cho bà ta về.

Bà vú về và bảo hoàng hậu:

– Vị ngồi phía trước đã xuống voi trước tiên.

Và Pabhàvatì tin bà ta ngay.

Một lần nữa, vua muốn thấy mặt nàng và cầu xin mẫu hậu sắp đặt việc ấy. Bà không thể từ chối ngài và bảo:

– Thôi được rồi , con hãy vào ngự viên.

Ngài vào đó giấu mình trong hồ sen đến tận cổ, đứng dưới nước lấy lá sen che đầu và hoa sen che mặt. Và mẫu hậu đem Pabhàvati vào ngự viên lức sẩm tối bảo nàng:

– Này con hãy nhìn cây này, chim kia, nai nọ…

Như thế bà dụ nàng đi mãi cho đến khi nàng tới gần bờ hồ sen.

Khi nàng nhìn thấy hồ phủ đầy năm loại hoa sen, nàng muốn tắm, liền bước xuống mé nước cùng các cung nữ. Trong lúc vui đùa nàng thấy hoa sen kia, liền đưa tay ra hái. Lúc đó vua rẽ lá sen ra, nắm lấy tay nàng bảo:

– Ta là vua Kusa.

Vừa thấy mặt ngài, nàng hét to:

– Kìa con quỷ đang chụp lấy ta.

Rồi nàng ngất đi ngay, vì thế vua thả tay nàng ra.

Khi tỉnh lại, nàng nghĩ thầm: “Chúng bảo vua Kusa đã nắm lấy tay ta, ngài chính là người đã ném vào ta một cục phân voi trong chuồng voi, rồi một cục phân ngựa trong chuồng ngựa, cũng chính là người ngồi sau lưng voi và trêu ghẹo ta. Ta còn làm gì nữa với một người chồng xấu xa dị dạng như vậy? Nếu ta sống thì ta phải lấy người chồng khác mà thôi”.

Thế là nàng triệu tập các quan đại thần đã hộ giá nàng đến đây, và bảo họ:

– Hãy chuẩn bị loan xa. Ngay hôm nay ta phải đào tẩu.

Họ liền tâu chuyện này cùng đức vua. Ngài nghĩ thầm: “Nếu nàng không trốn được, lòng nàng sẽ đau khổ tan nát; thôi để nàng đi, với tài năng của chính mình, rồi đây ta sẽ đưa nàng trở lại”.

Thế là ngài cho phép nàng ra đi, nàng liền về ngay kinh thành vua cha nàng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ đi từ ngự viên về thành và bước lên cung điện nguy nga của ngài.

Thật ra chính là do kết quả một lời nguyền của nàng trong một đời trước mà nàng không ưng thuận Bồ-tát và cũng vì một nghiệp quá khứ của ngài mà ngài phải chịu xấu xí như thế.

Chuyện kể rằng ngày xưa tại ngoại ô thành Ba-la-nại, ở tại phố trên phố dưới, một gia đình nọ có hai con trai và một gia đình kia có một con gái. Bồ-tát là cậu em trong hai anh em kia, rồi cô gái kết duyên với người anh. Còn cậu em không có gia thất, nên vẫn sống chung với anh.

Một ngày kia, nhà này nướng loại bánh hảo hạng, trong lúc Bồ-tát còn ở trong rừng, nên họ để dành cho ngài một chiếc, rồi chia bánh ra ăn hết. Lúc bấy giờ một vị Độc Giác Phật đến khất thực ở nhà ấy. Người chị dâu của Bồ-tát nghĩ rằng nàng sẽ nướng một chiếc bánh khác cho cậu em, nên đem chiếc bánh để dành phần cậu đưa cho vị Độc Giác Phật.

Ngay lúc ấy cậu trở về từ khu rừng, nàng bảo:

– Này chú em, đừng giận tôi đã đưa phần của chú cho vị Độc Giác Phật rồi.

Cậu em đáp:

– Chị đã ăn hết phần mình rồi lại đem cho phần ta đi, còn bảo sẽ làm cái bánh khác cho ta đấy!

Cậu liền giận dữ bước ra lấy lại chiếc bánh từ bình bát của vị khất sĩ.

Nàng vội trở về nhà mẹ mình lấy một bơ tươi mới tan, có màu như hoa Champac (hoa Sứ) đổ đầy vào bình bát ấy, nó liền tỏa ra một làn ánh sáng. Thấy vậy nàng cầu nguyện:

– Lạy Thánh giả, ước gì khi con tái sinh, thân thể con sẽ phát ra một luồng ánh sáng, con sẽ được xinh đẹp và không bao giờ ở chung nhà với kẻ đê tiện này nữa.

Vì kết quả lời nguyền ngày xưa này, nàng không muốn gặp lại cậu nữa. Và Bồ-tát khi thả chiếc bánh lại vào bình bát, đã khấn:

– Lạy Thánh giả, dù nàng ở cách xa trăm dặm, cũng xin cho con có đủ uy lực bắt nàng về làm vợ.

Vì cậu đã giận dữ lấy chiếc bánh, nên kết quả của nghiệp quá khứ ấy là cậu bị tái sinh rất xấu xí.

Phần vua Kusa vô cùng đau khổ khi Pabhàvatì bỏ ngài ra đi, đến độ các cung phi khác, dù đã phụng sự ngài đủ mọi cách, ngài cũng không còn lòng dạ nào ngó ngàng đến họ; toàn cungđiện ngài thiếu mất Pabhàvatì trông thật vô cùng hiu quạnh. Sau đó ngài nghĩ thầm: “Lúc này chắc nàng đã về đến thành Sàvala”; và ngay sáng ngày hôm sau ngài tìm đến mẹ, và thưa:

– Tâu mẫu hậu, con sẽ đi tìm Pabhàvatì về đây. Xin mẫu hậu trị vì quốc độ thay con.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Đất nước này hoan lạc ngập tràn
    Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
    Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
    Con sẽ ra đi để kiếm nàng
    .

Khi nghe ngài nói vậy, mẫu hậu bảo:

– Này vương nhi, con phải thật hết sức tỉnh giác, nữ nhân là giống có tâm bất tịnh.

Sau đó, bà đổ đầy thực phẩm cao lương vào chiếc bát vàng và bảo:

– Vương nhi để dành lương thực lúc đi đường.

Rồi bà từ giã ngài. Cầm lấy bát thức ăn ấy xong, ngài đảnh lễ mẫu hậu rất cung kính rồi nói to:

– Nếu con còn sống, con sẽ có ngày gặp mẹ.

Và ngài trở về cung thất của mình.

Ngài trang bị năm thứ vũ khí cho mình, đặt một ngàn đồng tiền vào túi xách xong cầm cái bát thức ăn, chiếc đàn Kokanada và rời kinh thành. Ngài là người lực lưỡng, nên đến giữa trưa, ngài đã đi được năm mươi dặm đường. Sau khi ăn xong, còn nửa ngày ngài đi thêm năm mươi dặm đường nữa, vì thế chỉ trong vòng một ngày ngài đã đi được cả trăm dặm đường.

Chiều tối ngài tắm rửa và vào kinh thành Sàgala. Khi ngài vừa đến nơi thì do uy lực đức độ của ngài, nên Pabhàvati không thể nằm yên trên vương sàng mà phải bước xuống nằm trên sàn nhà. Bồ-tát lúc ấy đã mệt lã vì cuộc hành trình, khi ngài đang lang thang trên đường ngài gặp một người đàn bà mời vào nhà nghỉ ngơi. Sau khi rửa chân xong, bà ấy mời ngài đi ngủ.

Lúc ngài đang ngủ, bà ấy lo dọn cơm cho ngài, rồi thúc ngài dậy ăn cơm, ngài vô cùng đẹp ý nên đã cho bà ấy luôn cả ngàn đồng tiền và cái bát vàng. Để lại chỗ đó luôn cả năm loại vũ khí, ngài bảo:

– Ta cần phải đi vài chỗ nữa.

Khi cầm cây đàn lên, ngài đi đến chuồng voi và gọi các người quản tượng:

– Hãy cho ta ở đây và ta sẽ chơi nhạc để các anh nghe.

Họ đồng ý. Ngài liền đi ra ngoài, và nằm xuống. Khi đã hết mệt mỏi, ngài đứng dậy mở đàn ra, vừa hát vừa nghĩ: “Dân chúng trong kinh thành sẽ nghe tiếng đàn”.

Trong lúc Pabhàvati nằm trên sàn nhà, nàng nghe tiếng hát và suy nghĩ: “Tiếng đàn này không thể của ai khác ngoài vua ấy”, nàng biết chắc vua Kusa đã đến đây chỉ vì nàng. Vua Madda cũng nghe tiếng đàn, liền nghĩ thầm: “Gã kia chơi đàn thật du dương. Ngày mai ta sẽ gọi gã vào cho làm nhạc công”. Còn Bồ-tát suy nghĩ: “Ta không thể nào thấy Pabhàvatì nếu ta ở đây, chỗ này không phải dành cho ta”.

Sáng hôm sau, ngài dậy thật sớm, ăn điểm tâm trong nhà trọ xong, ngài bỏ đàn, và đi đến người thợ gốm của vua xin làm thợ học việc. Một ngày kia, sau khi đổ đất sét vào đầy nhà, ngài hỏi người kia xem ngài có thể làm một số bình đất được chăng, người thợ gốm đáp:

– Được lắm.

Ngài liền đặt cục đất lên bánh xe quay tròn. Khi đã quay được rồi, bánh xe quay nhanh đến giữa trưa.

Sau khi làm đủ mọi loại bình đất lớn nhỏ, ngài bắt đầu làm một chiếc đặc biệt cho Pabhàvatì có nhiều hình vẽ trên đó. Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng thành tựu. Ngài quyết định chỉ một mình Pabhàvatì được thấy các hình vẽ này thôi. Khi ngài phơi khô và nung các bình xong, ngôi nhà đầy cả đồ gốm.

Người thợ gốm ấy đem nhiều mẫu hàng đến cung vua. Vua thấy đồ gốm liền hỏi ai đã làm ra chúng.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Trẫm chắc không phải ngươi làm được, vậy thì ai làm?

– Tâu Đại vương, người thợ học việc của hạ thần.

– Không thể là thợ của ngươi được, phải thầy của ngươi mới đúng. Ngươi hãy học nghề với người ấy. Từ nay hãy để người ấy làm bình gốm cho các công chúa của trẫm.

Vua ban cho gã một ngàn đồng tiền và bảo:

– Hãy trao tiền này cho người ấy, và đưa các bình nhỏ đến các công chúa.

Gã cầm các bình nhỏ đến trao các công chúa, và thưa:

– Những thứ này làm riêng để các công nương chơi.

Các công chúa đều có mặt để nhận quà tặng.

Sau đó, người thợ gốm trao cho Pabhàvatì cái bình mà bậc Đại Sĩ đã làm riêng cho nàng. Khi cầm lên, nàng nhận ra ngay hình vẽ nàng và nhũ mẫu lưng gù, và biết đó là công trình bằng tay của không ai khác ngoài vua Kusa, nàng tức giận bảo:

– Ta không cần cái này, đem cho ai muốn lấy nó đi.

Các công chúa kia thấy nàng giận dữ đều cười bảo:

– Đại tỷ tưởng đó là công trình của vua Kusa, chính người thợ gốm làm nó chứ có phải vua ấyđâu, hãy nhận đi.

Nàng không bảo cho các em biết vị vua ấy đã đến đây và làm đồ gốm.

Còn người thợ gốm trao ngàn đồng vàng ấy cho Bồ-tát, và bảo:

– Này con, đức vua rất hài lòng vì con. Từ nay con phải làm đồ gốm cho các công chúa, còn ta sẽ đem chúng đến tặng các nàng.

Ngài suy nghĩ: “Mặc dù ta ở đây, ta cũng không thể thấy Pabhàvati được”. Ngài liền trả tiền lại người thợ gốm và đi đến nhà người đan giỏ cho vua.

Sau khi trở thành thợ học việc với người này, ngài làm một chiếc quạt bằng lá thốt nốt cho Pabhàvatì, trên đó ngài vẽ một chiếc lọng trắng (biểu tượng của vương quyền), và lấy đề tài một phòng đại tiệc có nhiều hình người trong ấy, ngài vẽ hình Pabhàvatì đang đứng giữa.

Người thợ đan giỏ đem những thứ thủ công do vua Kusa làm đến cung điện. Vua thấy, hỏi ai làm chúng như trước và ban một ngàn tiền vàng cho người này, rồi bảo:

– Hãy trao những mẫu đồ đan lát này cho các công chúa.

Ngài lại trao chiếc quạt đặc biệt dành cho Pabhàvatì. Lần này cũng vậy, không ai nhận ra các hình vẽ; song Pabhàvatì, khi thấy chúng, liền hiểu ngay công trình của vua Kusa, và bảo:

– Hãy đưa thứ này cho ai thích nó thì lấy đi.

Rồi nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa kia lại cười nàng. Còn người thợ đan giỏ đem tiền về trao cho Bồ-tát. Ngài nghĩ rằng nơi này cũng không phải chỗ dành cho ngài ở được, nên ngài trả tiền lại cho người đan giỏ rồi đi đến gặp người giữ ngự viên của vua và trở thành thợ học việc.

Trong khi làm đủ loại vòng hoa, ngài làm một vòng đặc biệt dành cho Pabhàvati, nổi bật với nhiều hình dáng khác nhau. Người giữ vườn lại đem đến cung điện.

Khi vua thấy, bèn hỏi ai làm các kiểu vòng hoa này.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Ta chắc ngươi không thể làm được, vậy ai?

– Muôn tâu, chính chú thợ học việc của hạ thần.

– Kẻ này không thể là thợ của nhà ngươi mà phải là tay thầy. Ngươi hãy học nghề với người này, từ nay người này phải kết vòng hoa cho các công chúa và trao cho gã ngàn đồng vàng này.

Khi ban tiền cho người thợ, vua phán:

– Hãy đem các vòng hoa đến dâng lên các công chúa của trẫm.

Còn người giừ vườn lại dâng lên Pabhàvati vòng hoa mà Bồ-tát đã làm riêng tặng nàng. Ở đây nữa, nàng lại thấy giữa các hình ảnh khác nhau, có cả hình nàng và vua, nàng lại nhận ra đó là công trình mỹ nghệ của vua Kusa, nên nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa em nàng cũng cười nhạo nàng như trước. Người làm vườn đem ngàn đồng tiền về trao cho Bồ-tát và kể hết mọi sự tình đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Chỗ này cũng không phải của ta”. Ngài trả lại tiền cho người làm vườn rồi đi làm thợ học việc với hỏa đầu quân của vua.

Một ngày kia, người đầu bếp đem đủ loại cao lương mỹ vị đến dâng vua, vào trao cho Bồ-tát một miếng thịt để nấu cho phần ngài. Ngài nấu thịt tuyệt khéo, đến độ mùi thơm bay khắp kinh thành. Vua ngửi mùi thơm, hỏi thử xem người đầu bếp còn nấu thêm món thịt gì trong bếp chăng.

– Tâu Đại vương, không. Song hạ thần có trao cho người thợ học việc một miếng thịt xương đề nấu, chắc đó là mùi thịt mà Đại vương vừa ngửi.

Vua truyền đem món thịt ấy đến và đặt một miếng lên đầu lưỡi, lập tức nó làm bừng dậy và rúng động cả bảy ngàn vị giác! Vua say mê lạc thú được thưởng thức các cao lương nên trao cho người đầu bếp một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi phải đem ngự thiện dâng lên trẫm và các công chúa do thợ học viện của ngươi nấu, ngươi đem phần của trẫm đến dâng trẫm, còn thợ học việc của ngươi thì đem dâng phần các công chúa.

Người thợ về kể lại mọi sự; nghe thế ngài suy nghĩ: “Nay ước vọng của ta đã thành tựu. Ta sẽ gặp được Pabhàvatì rồi”. Lòng đầy hân hoan, ngài trao ngàn đồng tiền cho người đầu bếp và hôm sau ngài nấu các món ăn để dâng vua, còn chính ngài đi lên nội cung, nơi Pabhàvatì đang cư ngụ, gánh theo một gánh thức ăn cho các công chúa.

Pabhàvatì thấy ngài đi lên với gánh nặng như vậy liền suy nghĩ: “Ngài đang làm công việc của kẻ gia nô phục dịch thật không xứng đáng với ngài tý nào. Song nếu ta để yên, ngài sẽ tưởng tađồng ý như vậy, rồi không chịu đi nơi khác, cứ ở tại đây mà nhìn ta chằm chặp. Ta phải lập tức nhục mạ phỉ báng ngài và đuổi ngài đi, không cho ngài ở lại đây phút nào nữa!”.

Thế là nàng mở hé cửa ra, để một tay trên cánh cửa, tay kia đè lên then cửa và ngâm vần kệ nhì:

  1. Ku-sa, ngài phải chịu ngày đêm
    Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
    Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
    Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!

Ngài liền suy nghĩ: “Ta đã nghe được lời Pabhàvati nói rồi”. Lòng mừng khấp khởi, ngài vội ngâm ba vần kệ:

  1. Pab-hà, say đắm bởi dung nhan,
    Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
    Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
    Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
  2. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
    Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
    Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
    Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
  3. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
    Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
    Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
    Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!

Khi ngài đã nói vậy xong, nàng suy nghĩ: “Ta phỉ báng ngài chỉ vì muốn làm cho ngài uất hận trong lòng; song ngài lại cố dùng lời lẽ hòa dịu với ta. Giả sử ngài bảo: <Ta là vua Kusa>, và bắt lấy ta, thì có ai cản ngài được? E rồi có kẻ nghe lọt được câu chuyện giữa ta và ngài nóiđây”.

Thế là nàng vội đóng cửa lại và cài then kỹ bên trong. Còn ngài cầm đòn gánh lên và đem thức ăn đến các công chúa kia. Pabhàvatì bảo nữ tỳ lưng gù đem cho nàng các món ăn do vua Kusa nấu. Bà vú đem lại và bảo:

– Công chúa ăn đi nào.

Pabhàvatì nói:

– Ta không muốn ăn những thức ăn do vua ấy nấu đâu. Bà hãy ăn rồi đi lấy thức ăn của bà nấu cho ta và đem lại đây. Song đừng nói cho ai biết vua Kusa đã đến rồi đấy nhé.

Bà vú lưng gù từ đó đem về ăn phần thức ăn của công chúa, và đưa cho nàng phần thức ăn của bà ta. Cũng từ đó vua Kusa không thể nào thấy nàng được lại suy nghĩ: “Ta không biết Pabhà có thương yêu ta chút nào chăng, ta muốn thử xem nàng ra sao”.

Thế là sau khi đưa thức ăn đến dâng các công chúa kia, ngài lại gánh thức ăn lên vai, bước ra đạp chân xuống sàn nhà cạnh cửa khuê phòng của Pabhàvatì, làm cho các dĩa thức ăn đụng nhau kêu loảng xoảng, rồi ngài vừa hét lên vừa ngã nhào xuống đất mê man bất tỉnh giữa đống đồ đạc.

Khi nghe tiếng ngài kêu lớn, nàng mở cửa phòng ra nhìn, thấy ngài ngã quỵ dưới sức nặng của gánh đồ ngài đang mang đi, nàng thầm nghĩ: “Đây là vị Đại vương ngự trị toàn cõi Diêm-phù-đề, thế mà vì ta, ngài đã chịu bao khổ sở ngày đêm; bởi trước kia ngài được nâng niu chiều chuộng kỹ lưỡng nên nay đã ngã nhào do gánh nặng thức ăn mà ngài đang mang đây. Thôi để ta xem ngài còn sống không’’.

Rồi bước ra khỏi phòng, nàng nghễnh cổ lên nhìn vào mồm ngài xem hơi thở ra sao. Ngài phì nước bọt ra đầy miệng làm văng cả lên người nàng. Nàng vội rút lui về phòng, và phỉ báng ngài, khi nàng đứng bên cửa hé mở, nàng ngâm kệ sau:

  1. Rủi thay phận kẻ mãi mong cầu
    Thấy bị chối từ mọi ước ao,
    Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
    Tình kia chẳng đáp được đâu nào!

Nhưng vì ngài đang si tình nàng đến độ điên cuồng, nên dù ngài bị nàng phỉ báng, mạ ly đến đâu đi nữa, ngài vẫn không tỏ vẻ oán hận mà chỉ ngâm kệ này:

  1. Ai chiếm được người dạ luyến thương,
    Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
    Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
    Thất bại là bi thảm đoạn trường!

Trong khi ngài nói như vậy, nàng vẫn không động lòng thương, còn đáp lại với giọng cương quyết như để xua đuổi ngài đi bằng vần kệ sau:

  1. Theo đuổi nữ nhi chẳng thuận lòng
    Khác nào đào đá tảng trên đồng,
    Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
    Hay đón gió bằng chiếc lưới không!

Nghe thế, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:

  1. Như đá trơ trơ, quả dạ nàng,
    Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
    Không lời thăm hỏi dù ta đến
    Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!

10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.

  1. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
    Hạ cố ban ta một nụ cười,
    Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
    Ku-sa chúa tể ngự trên đời!

Nghe ngài nói vậy, nàng nghĩ thầm: “Ông vua này thật cứ nói dai dẳng đến cùng. Ta phải tìm mưu nói dối để đuổi ngài đi nơi khác”. Nàng liền ngâm kệ này:

  1. Nếu thầy tướng số nói không sai,
    Thì chính tiên tri đúng thế này:
    “Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
    Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.

Nghe vậy vua cãi lại ngay:

– Này ái hậu, ta cũng đã hỏi ý các thầy tướng số ở xứ ta và họ tiên đoán chẳng ai có thể làm phu quân của ái hậu trừ vị chúa công có giọng như sư tử, là Đại đế Kusa, và theo trí hiểu biết của ta, ta cũng thấy những điều trên như vậy.

Ngài lại ngâm vần kệ khác:

  1. Nếu thầy tướng số khác cùng ta
    Nói những lời chân thật, quả là:
    Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
    Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!

Nghe ngài nói vậy, nàng tự bảo: ‘Ta không thể làm nhục ngài được! Vậy dù ngài chịu rời bỏ đi hay không thì có nghĩa lý gì đối với ta”. Nàng liền đóng cửa lại để khỏi ló đầu ra nữa. Ngàiđành gánh đồ đạc lên ra đi.

Tứ ngày ấy, ngài không còn trông thấy nàng nữa và ngài trở nên vô cùng chán nản với công việc bếp núc của ngài. Khi ăn điểm tâm xong, ngài phải chẻ củi, rửa bát dĩa, gánh nước rồi nằm nghỉ ngơi trên đống thóc. Ngài dậy thật sớm lo nấu cháo, rồi đem thức ăn đi phục dịch, và ngài chịu đựng mọi sự hành hạ thân xác này chỉ vì quá si tình nàng Pabhàvatì.

Một ngày kia, ngài thấy bà vú lưng gù đi ngang qua cửa bếp, liền chào bàVì sợ Pabhàvatì, bà vú không dám đến gần ngài, chỉ làm ra vẻ đang vội vàng lắm. Thế là ngài chạy ngang đến gần bà ta, bảo:

– Này bà già gù?

Bà vú quay lại hỏi:

– Ai đấy nhỉ? Già này chẳng dám nghe những gì ngài nói đâu!

Ngài liền bảo:

– Cả hai chủ tớ ngươi thật quá ngang bướng! Dù ta ở gần các người lâu nay, ta cũng chẳng nghe già nói gì về ngọc thể của nàng cả.

Bà gù đáp:

– Thế ngài có quà gì cho già này chăng?

Ngài vội đáp:

– Giả sử ta cho ngươi quà, ngươi có gắng sức làm sao Pabhàvatì nguôi lòng và cho ta gặp mặt nàng chăng?

Nghe bà vú ưng thuận, ngài bảo:

– Nếu ngươi làm được việc ấy, ta sẽ chữa cho lưng gù của ngươi thẳng lên, rồi tặng ngươi một vòng vàng đeo cổ.

Rồi để dụ bà vú, ngài ngâm năm vần kệ:

  1. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
    Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
  2. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
  3. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
  4. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
    Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
  5. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
    Đưa tay âu yếm đặt vào ta!

Nghe lời ngài, bà vú bảo:

– Thôi xin Đại vương đi cho rồi, chỉ trong vài ngày nữa thôi, già này sẽ đưa nàng đặt vào tay Đại vương! Đại vương sẽ thấy già này đắc lực ra sao.

Nói vậy xong, bà già quyết định hành động ngay; vừa đi đến gặp Pabhàvati, bà làm bộ lau chùi phòng nàng thật sạch, không còn sót một chút bụi nào, rồi cởi đôi hài của nàng ra, bà quét dọn cả phòng nàng.

Sau đó, bà già đặt một chiếc ghế cao cho bà ở ngay bực cửa (để giữ kỹ phía ngoài cửa), rồi trải nệm trên một chiếc ghế thấp cho nàng, bà bảo:

– Này công chúa yêu ơi, để già bắt chấy trên đầu nàng nhé!

Bà đặt nàng ngồi đó, kê đầu vào lòng bà, xoa nhẹ cho nàng một lát rồi bảo:

– Ô kìa, ta bắt được nhiều chấy quá?

Bà già bắt được vài con chấy trên đầu bà, đặt lên đầu công chúa, rồi nói về bậc Đại Sĩ với lời lẽ yêu thương, bà ca ngợi ngài qua vần kệ này:

  1. Công nương này chẳng thấy lòng vui
    Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
    Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
    Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.

Pabhàvatì liền nổi giận với bà gù ngay. Thế là bà vú già nắm cổ nàng đẩy vào phòng, còn bàđứng phía ngoài đóng cửa lại, đứng sát vào sợi dây thừng kéo cửa. Pabhàvatì không thể tới gần chụp bà vú được, phải đứng sát cửa và mắng nhiếc bà vú qua vần kệ khác:

  1. Mụ già nô lệ lưng gù vầy
    Sao dám buông lời quái dị thay!
    Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
    Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!

Bà già gù cứ đứng sát như vậy vào sợi dây thừng buông thả xuống và bảo:

– Này, nàng chỉ là người vô dụng, lại đối xử tàn tệ thế kia, chứ sắc đẹp của nàng có ích lợi cho ai chăng?

Nói xong, bà già cao giọng nêu rõ mọi công đức của Bồ-tát, vừa thét to bằng giọng khàn khàn của một người lưng gù qua mười ba vần kệ sau:

  1. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
  2. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
  3. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
  4. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
  5. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Ngài là vị Đại đế hùng oai.
  6. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Giọng của ngài như sư tử hống,
    Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
  7. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
  8. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
  9. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
  10. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài như mật rót vào tai!
  11. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
    Vì ngài có cả một trăm tài.
  12. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
    Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
  13. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Ku-sa Đại đế, chính là ngài!

Nghe bà vú nói vậy, Pabhàvatì đe dọa:

– Này mụ già gù lưng ơi, sao mụ la to thế kia? Nếu ta chụp được mụ thì ta sẽ cho mụ biết tay ta là chủ đấy nhé.

Bà vú đáp:

– Lâu nay già vị tình nàng nên đã không tâu trình phụ vương về việc vua Kusa đến đây. Được rồi, hôm nay già sẽ đi trình đức vua cha.

Bà ta cũng cất cao giọng để hăm he nàng. Vì sợ có người nghe lọt chuyện này, nên nàng đành hoà dịu với bà già gù lưng ấy.

Thế là Bồ-tát không còn cách nào nhìn thấy nàng được nữa; sau bảy tháng ròng rã, ngài đâm chán ngán cảnh giường thô cơm hẩm, ngài suy nghĩ: “Ta cần gì nàng nữa chứ? Sau bảy tháng ởđây, ta chẳng còn cách nào được giáp mặt nàng, nàng thật quá nhẫn tâm tàn ác. Thôi ta quyết đi về thăm song thân ta mà thôi”.

Vào lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét vấn đề này và nhận thấy vua Kusa đã bất mãn đến độ nào rồi, nên ngài suy nghĩ: “Sau bảy tháng vua Kusa không còn biết làm sao gặp mặt Pabhàvatì, ta cố tìm cách gì để giúp ngài thấy được nàng”.

Sau đó, Sakka Thiên chủ sai các Thiên sứ đi yết kiến bảy vị quốc vương khác làm như thể vừa từ kinh đô vua xứ Madda đến và tâu:

– Nàng Pabhàvatì đã rời bỏ vua Kusa và trở về nhà phụ vương nàng. Vậy xin Đại vương hãy đến cầu hôn nàng gấp.

Cứ mỗi quốc vương, Thiên chủ đều gửi riêng một thông điệp như vậy.

Mỗi vị vua kia đều đi đến kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, và đều không biết lý do đến đây của các vua khác. Các vị liền hỏi nhau:

– Tại sao Đại vương đến đây?

Và khi khám phá được các sự việc đang diễn tiến ra sao, các vua ấy đều nổi giận và bảo:

– Quốc vương này có ý muốn gả một nàng công chúa cho cả bảy chúng ta ư? Hãy nhìn xem lão đối xử tồi tệ mức nào. Lão nhạo báng chúng ta khi bảo: “Hãy cưới nàng làm vương hậu’’. Vậy lão phải gả Pabhàvatì cho cả bảy chúng ta hoặc là phải chiến đấu với chúng ta mà thôi.

Các vua ấy liền gửi thông điệp cho vua Madda về việc này và bao vây kinh thành.

Khi nghe thông điệp, vua Madda lo ngại và hỏi ý kiến quần thần:

– Ta phải làm sao đây?

Quần thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, bảy vua này đến đây tìm công chúa Pabhàvatì. Nếu Chúa thượng từ khước việc gả nàng, các vị ấy sẽ phá thành xông vào kinh đô, rồi sau khi tiêu diệt chúng ta xong, họ sẽ chiếm vương quốc của Chúa thượng. Vậy, trong khi thành chưa bị phá vỡ, ta hãy trao công chúa Pabhàvatì cho họ.

Rồi quần thần ngâm kệ này:

  1. Như thể bầy voi trận vẻ vang
    Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
    Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
    Xin chúa mau mau gửi cống nàng!

Vua nghe vậy liền phán:

– Ví thử trẫm trao Pabhàvatì cho bất cứ một vua nào, thì đám vua kia sẽ giao chiến với trẫm. Vậy không thể nào gả nàng cho bất cứ một ai cả. Sau khi bỏ rơi vị chúa tể tối cao của toàn cõi Diêm-phù-đề, nàng phải lãnh lấy phần thưởng do việc nàng trở về nhà. Trẫm sẽ giết nàng và phân thây làm bảy mảnh để tặng cho bảy vị vua này mỗi người một phần.

Nói xong vua ngâm kệ khác:

  1. Chặt Pa-bhà bảy khúc cho cân,
    Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
    Cho bảy vua kia, người một mảnh,
    Những người đến giết phụ vương nàng!

Lời nói này của vua được truyền vang khắp cung điện. Các tỳ nữ của Pabhàvatì đến bảo nàng:

– Người ta đồn rằng Chúa thượng sẽ truyền chặt công chúa ra bảy mảnh rồi gửi cho bảy vị vua ấy?

Nàng kinh hồn bạt vía, vùng đứng lên từ chỗ ngồi, rồi được các cô em gái hộ tống đến cung thất của mẫu hậu.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Diễm lệ, dù da nhuốm sắc đen,
    Bà hoàng vụt cất bước chân lên
    Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
    Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.

*

Nàng bước vào yết kiến mẫu hậu, đảnh lễ bà xong liền cất lời than vãn:

  1. Mặt phấn điểm trang, này soi gương sáng
    Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
    Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
    Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
  2. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
    Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
    Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
    Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
  3. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
    Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
    Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
  4. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
    Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
    Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
    Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
  5. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
    Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
    Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
  6. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
    Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
    Không thể nào còn phải chịu chết già.
  7. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
    Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
    Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
    Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.
  8. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
    Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
    Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
    Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
    Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
    “Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế…”

Như vậy, nàng quá kinh hoàng vì sợ chết nên cứ than khóc nỉ non với mẹ nàng. Còn vua Madda ra lệnh cho đao phủ đến, đem theo cái rìu và tấm thớt. Việc đao phủ sắp đến được đồn vang động khắp hoàng cung, mẫu hậu nghe tin lão đến, liền vùng dậy khỏi chiếc bảo tọa của bà, và đi vào yết kiến vua, lòng tràn ngập đau buồn.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Khi nhìn tấm thớt với gươm trần
    Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
    Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
    Vội đi tìm gặp đấng vương quân.

*

Rồi mẫu hậu ngâm kệ sau:

  1. Với gươm này, chúa tể Mạch-đa
    Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
    Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
    Mỗi vua cừu địch để làm quà.

Vua cố trấn an bà và phán:

– Này ái hậu nói gì thế này? Công chúa của ái hậu đã từ bỏ vị Đại đế của toàn cõi Diêm-phù-đề chỉ vì duyên cớ vua ấy xấu xí, và cam phận chịu chết nên vội trở về nhà trước khi dấu chân nàng được xóa sạch trên con đường nàng đã đi qua. Vậy thì nay nàng phải gặt hái lấy hậu quả của lòng ganh tị do sắc đẹp của nàng gây ra đó thôi.

Sau khi nghe vua nói, mẫu hậu đến gặp con gái và than thở như vầy:

  1. Con chẳng nghe lời nói của ta
    Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
    Nay thân con phải vương màu máu,
    Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
  2. Số phận kia ta phải gánh mang
    Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
    Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
    Bỏ các lời răn của bạn vàng.
  3. Ví thử hôm nay con sánh vai
    Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
    Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
    Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
    Thì hẳn bạn bè không hộ tống
    Con đành mau bước xuống tuyền đài.
  4. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
    Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
    Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
    Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
  5. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
    Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
    Lạc thú như vầy trong bảo điện
    Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
  6. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
    Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
    Như vầy cực lạc sao tìm được
    Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?

Sau khi trò chuyện với nàng như vậy qua các vần kệ này, mẫu hậu suy nghĩ: “Giá bây giờ có vua Kusa ở đây, thì ngài sẽ đuổi bảy vua kia cao chạy xa bay và sau khi giải thoát con gái ta khỏi chịu khổ hình, lại sẽ đem nàng đi về nước”. Rồi bà ngâm kệ:

  1. Nay ở đâu người dẫm nát tan
    Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!

Lúc ấy Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẫu hậu không đủ lời lẽ để tán dương vua Kusa. Ta sẽ cho mẹ ta biết ngài đang ở đây làm hết mọi việc của một kẻ đầu bếp”, và nàng ngâm kệ này:

  1. Bậc chiến thắng tiêu diệt kẻ thù,
    Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!

Mẫu hậu liền suy nghĩ: “Chắc con ta quá kinh hoàng vì sợ chết nên nói lảm nhảm đây’’, rồi bà ngâm kệ:

  1. Phải chăng con đã hóa điên rồ,
    Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
    Ví thử Ku-sa đà trở lại,
    Thì sao con chẳng nói cùng ta?

Nghe nói lời này, Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẹ ta không tin lời ta. Bà chẳng biết là ngài đã trở về và đang sống tại đây từ bảy tháng nay. Ta muốn chỉ cho mẹ thấy việc này”. Thế là nàng vừa dắt tay mẹ vừa mở cửa sổ, dang tay chỉ về phía ngài và ngâm kệ:

  1. Mẹ trông! Kẻ nấu bếp đằng kia
    Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
    Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
    Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.

Chuyện kể rằng lúc bấy giờ vua Kusa nghĩ thầm: “Hôm nay tâm nguyện của ta sẽ thành tựu. Thực vậy Pabhàvatì đang kinh hoàng vì sợ chết, nên sẽ báo tin ta đang ở đây. Vậy ta phải rửa bát dĩa và đem cất hết”. Rồi ngài đi lấy nước về và bắt đầu rửa bát. Lúc ấy mẹ nàng mắng nhiếc nàng qua vần kệ:

  1. Con hạ tiện dòng dõi phải chăng?
    Đường đường là một vị công nương
    Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
    Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!

Còn Pabhàvatì suy nghĩ: “Chắc mẹ ta không biết rằng chỉ vì ta mà ngài đã sống khổ như thể này bấy lâu nay”. Và nàng ngâm kệ nữa:

  1. Hạ tiện, con đâu phải giống dòng!
    Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
    May thay, ngài chẳng là nô lệ,
    Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.

Bấy giờ nàng nói tiếp để tán tụng uy danh ngài:

  1. Hai vạn Sa-môn vẫn cúng dường,
    Chính là Thái tử Ok-kà vương,
    Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
  2. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
    Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
  3. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
    Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
    Ok-kà vương tử là ngài đó,
    Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
  4. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
    Ngài không nô lệ, đấy con thề,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
  5. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
    Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
    Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
    Là người mẹ thấy đứng bên đường.
  6. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
    Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
    Mà là Thái tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.

Như thế là cảnh huy hoàng của bậc Đại Sĩ đã được nàng tán dương qua sáu vần kệ. Lúc ấy mẫu hậu suy nghĩ: “Con ta nói một cách chắc chắn đầy tin tưởng. Hẳn là đúng vậy”, nên bà tin lời nàng và đem kể cho vua nghe đầu đuôi câu chuyện. Vua vội vã đến gặp Pabhàvatì và hỏi:

– Có thật là vua Kusa đã đến đây như chuyện chúng đồn chăng?

– Tâu phụ vương, quả đúng vậy. Đã bảy tháng nay ngài làm hỏa đầu quân cho các công chúa.

Vua cha không tin lời nàng, liền chất vấn bà già lưng gù và khi nghe bà kể mọi việc trong chuyện này, vua quở trách con gái qua vần kệ này:

  1. Như thể voi kia giả ểnh ương,
    Đến đây Thái tử đại hùng cường,
    Con sai lầm quá và khờ dại,
    Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.

Vua đã quở trách công chúa như vậy xong, vội vã đi tìm vua Kusa và sau các lễ nghi chào hỏi thông thường giữa hai vị, vua nhìn nhận sự xúc phạm của mình và ngâm kệ này:

  1. Vì trẫm không nhìn thấy được ngay
    Đại vương giả dạng đến như vầy,
    Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
    Đành phận xin tha thứ lỗi này!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta nói nặng lời với vua cha thì lòng ngài sẽ đau đớn nát tan ngay. Nên ta muốn nói lời an ủi vỗ về ngài thôi”; rồi vừa đứng giữa đống bát dĩa, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Hỏa đầu quân, muốn đóng tròn vai,
    Mình chính đã làm việc trái sai,
    Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
    Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!

Sau khi vua cha được nghe những lời ân cần như vậy, liền trở về cung triệu Pabhàvatì đến, bảo nàng đi thỉnh cầu vua Kusa thứ lỗi, và ngài ngâm kệ:

  1. Mau lên, cô bé quá khù khờ
    Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
    Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
    Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!

Nghe lời vua cha dạy như vậy, nàng liền được cả đoàn công chúa và cung nữ hộ tống đi đến gặp ngài. Đúng ngay lúc ngài đang đứng trong bộ áo quần nô dịch, thấy nàng tiến về phía mình, ngài nghĩ thầm: “Hôm nay ta quyết đánh tan lòng kiêu mạn của Pabhàvatì và khiến nàng phải nằm mọp dưới chân ta trong đám bùn”. Rồi ngài đổ xuống đất hết cả thùng nước mà ngài đã đem đến đó, dẫm chân lên một khoảng rộng bằng cái sàn nhà đập lúa, làm thành một đám bùn. Nàng vừa bước tới liền trượt té dưới chân ngài, phải nằm phủ phục trong đám bùn mà xin ngài thứ tội.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Pa-bhà trong dáng điệu Thiên thần
    Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
    Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
    Đôi chân của chúa tể hùng cường.

*

Rồi nàng ngâm các vần kệ sau:

  1. Chuỗi ngày đêm thiếp sống xa ngài,
    Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
    Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
    Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
  2. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
    Nếu ngài hạ cố để vào tai,
    Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
    Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
  3. Song nếu lời xin bị khước từ,
    Phụ vương liền giết mạng con thơ,
    Gửi đi từng mảnh thân tan tác
    Khắp các địch vương để tặng quà!

Nghe vậy, vua nghĩ thầm: “Nếu ta bảo nàng: Việc này nàng phải tự lo liệu đấy chứ’, chắc tim nàng phải tan nát mất. Thôi ta chỉ muốn nói lời lẽ an ủi nàng”. Và ngài ngâm các vần kệ đáp lời:

  1. Ta nguyền vâng lệnh của nàng ban,
    Đem hết tâm can để cứu nàng,
    Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
    Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
  2. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
    Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
    Ta sẽ không làm gì xúc phạm
    Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
  3. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
    Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
    Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
    Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!

Vua Kusa lúc ấy tràn đầy niềm tự hào của một bậc đế vương khi thấy nàng như thể một thị nữ của Sakka Thiên chủ đang hầu hạ ngài, ngài nghĩ thầm: “Trong lúc ta còn sống đây, còn kẻ nào dám đến cướp mất tân giai nhân của ta được chứ?”. Và ngài liền vùng dậy giữa sân hoàng cung, bảo:

– Toàn dân kinh thành này hãy nghe lệnh truyền báo hiệu ta ngự đến đây.

Rồi ngài nhảy múa, reo hò, và vỗ tay kêu lớn:

– Nay ta muốn bắt sống chúng, hãy bảo quân hầu đem bầy ngựa đến thắng vào các cỗ xe của ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Đi mau, thắng tuấn mã nhu thuần
    Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
    Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
    Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.

Bấy giờ ngài từ giã Pabhàvatì và bảo:

– Việc đi tội các quốc thù của nàng là trách nhiệm của ta. Còn ái khanh hãy đi tắm rửa, điểm trang rồi lên cung của mình mà nghỉ.

Phần vua Madda gửi các quan cố vấn đến làm vệ sĩ danh dự cho ngài.

Quân thị vệ buông màn quanh ngài ngay tại cửa bếp và đem bọn thợ hớt tóc đến chăm sóc ngài. Khí râu mép của tóc ngài đã được tô điểm, và gội đầu xong xuôi, ngài được phục sức đầy đủ mọi vẻ lộng lẫy cùng với đám tùy tùng vây quanh, ngài bảo:

– Ta muốn bước lên cung điện.

Vừa nhìn quanh tứ phương, ngài vỗ tay, hễ ngài nhìn tới nơi nào là mặt đất nơi ấy rung chuyển, và ngài thét lớn:

– Này hãy xem uy lực của ta vĩ đại biết dường nào!

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Công nương nội điện chúa Mad-da,
    Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
    Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
    Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.

*

Sau đó vua Madda đưa đến cho ngài một con voi đã được luyện thuần thục có thể giữ vững bình thản khi bị tấn công, và voi ấy được trang hoàng thật rực rỡ. Vua Kusa ngự lên lưng voi với chiếc lọng trắng che đầu ngài, và ra lệnh đem Pabhàvatì đến đó, đặt nàng lên ngồi sau lưng ngài xong, ngài rời kính thành bằng Đông môn, được cả đoàn đầy đủ bốn đạo quân hộ tống, và ngay khi thấy các lực lượng của quân thù, ngài thét lớn:

– Ta là vua Kusa, kẻ nào khôn hồn muốn sống hãy nằm móp xuống sát đất?

Rồi ngài rống lên ba lần tiếng hống sư tử và hoàn toàn đánh bại đám địch quân.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

  1. Ngự mình voi, bà hoàng ngồi sau chúa,
    Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
  2. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
    Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
  3. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
    Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
    Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
  4. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
    Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
    Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
  5. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
    Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
    Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
  6. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
    — “Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
    Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
  7. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
    Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
    Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân”.

*

Quốc vương đáp:

  1. Các địch vương này thuộc về Thiên tử,
    Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
    Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
    Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta còn làm gì được với đám người này một khi chúng chết cả rồi? Không nên để cho chúng mất công đến đây mà chẳng được kết quả gì. Pabhàvatì còn có bảy cô em gái đều là công chúa của vua Madda, ta muốn cho chúng kết duyên với bảy vương tử này”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Bảy nàng công chúa tựa tiên nga
    Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
    Gả các nàng cho vua bảy nước
    Để làm phò mã của vương gia.

Quốc vương đáp:

  1. Ngự ngôi tối thượng, trước toàn dân,
    Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
    Xin gả công nương theo thánh ý,
    Ngài là Chúa tể của quần thần.

Thế rồi quốc vương truyền lệnh trang điểm các công chúa thật đẹp và cử hành lễ vu qui cho mỗi nàng được kết duyên với một vua kia.

*

Bậc Đạo Sư ngâm năm vần kệ đề làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ku-sa sư tử hống vang rền
    Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
    Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
    Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
  2. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
    Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
    Bảy vương tử nọ liền hồi giá
    Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
  3. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
    Xa giá Ku-sa trở lại cung
    Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
    Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
  4. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
    Sánh đôi vương giả trở về nhà,
    Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
    Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
  5. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
    Từ đó quân vương với ái thê
    Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
    Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.

*

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã chứng Sơ quả Dự Lưu:

– Thời bấy giờ phụ vương và mẫu hậu là song thân trong hoàng gia ngày nay, vương đệ là Ànanda, bà nhũ mẫu gù lưng là Khujjutarà, nàng Pabhàvatì là thân mẫu của Ràhula, và Đại đế Kusa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hai hiền giả Sona – Nanda (Tiền thân Sona – Nanda)

Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng?…,

Chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Hoàn cảnh đưa đến chuyện này cũng tương tự như trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Nhưng vào dịp này, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, chớ xúc phạm Tỷ-kheo này. Các bậc hiền trí đời xưa, dù được thỉnh cầu thống trị toàn cõi (Diêm-phù-đề), cũng đã từ chối việc ấy và phụng dưỡng song thân.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, thành Ba-la-nại được mệnh danh là Brahmavadhana. Thời ấy, vua Manoja trị vì ởđó, và một Bà-la-môn kia có thế lực và giàu sang, với tài sản lên đến tám trăm triệu đồng, nhưng không có con thừa kế. Bà vợ Bà-la-môn ấy vâng lời chồng đi cầu tự.

Lúc ấy Bồ-tát từ giã Phạm thiên giới và nhập mẫu thai bà; vào ngày sinh, ngài được gọi tên Sona nam tử. Vào thời ấu nhi đã biết chạy một mình, một vị Thiên khác từ giã Phạm thiên giới và cũng nhập mẫu thai bà. Lúc ra đời, vị ấy được gọi là Nanda nam tử.

Ngay khi hai nam tử đã được dạy đủ các Thánh điển Vệ đà và thông thạo mọi môn học thuật, vị Bà-la-môn nhìn thấy hai con trai mình đầy đủ hảo tướng biết bao, liền bảo vợ:

– Này phu nhân, chúng ta cần sắp đặt việc hôn nhân cho nam tử Sona.

Bà vợ chấp thuận ngay và thông báo việc này cho con trai. Chàng đáp:

– Con sống đời gia đình thế này là vừa đủ rồi. Bao lâu cha mẹ còn sống, con muốn phụng dưỡng cha mẹ; đến khi cha mẹ qua đời, con muốn lui về vùng Tuyết Sơn và thành người tu khổ hạnh.

Bà mẹ kể chuyện này với vị Bà-la-môn và khi họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không thuyết phục được con, liền bảo Nanda:

– Này con yêu, con hãy yên bề gia thất.

Chàng đáp:

– Con không muốn lượm những vật mà anh con đã vứt bỏ như thể một cục đờm. Con cũng nguyện khi cha mẹ từ trần, con cùng anh con gia nhập hội chúng khổ hạnh.

Song thân suy nghĩ: “Nếu các con ta, dù còn thanh xuân, đã từ bỏ mọi dục lạc thân xác thì chúng ta lại càng phải sống đời khổ hạnh”. Và hai vị bảo:

– Này con yêu, sao lại nói chuyện làm người tu khổ hạnh sau khi cha mẹ qua đời? Cả nhà tađều muốn cùng phát nguyện xuất gia.

Khi trình vua về mục đích của mình, họ quyết định phân phát tất cả tài sản theo cách bố thí, giải phóng các gia nhân nô tỳ và đem tặng những tài sản xứng đáng thích hợp với đám thân quyến, rồi sau đó cả bốn vị khởi hành từ kinh thành Brahmavadhana đến lập thảo am trong vùng Tuyết Sơn ở một khu rừng đầy an lạc, cạnh một hồ nước được phủ năm loại sen, các vị sống đời khổ hạnh.

Hai anh em đồng săn sóc cha mẹ. Từ sáng sớm, hai vị đưa tăm xỉa răng và nước súc miệng cho song thân. Hai vị lại quét dọn cả am thất, đem nước uống, dâu rừng ngọt ngào để cha mẹ ăn, nước nóng, nước lạnh để tắm, kết tóc cha mẹ thành từng búi, xoa dầu thơm vào chân cùng phục dịch mọi việc tương tự.

Thời gian cứ trôi qua như thế, hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta sẽ dâng đầy đủ mọi loại trái cây làm thức ăn cho cha mẹ”. Thế là bất cứ loại trái cây nào hái được tại chỗ ấy ngày hôm trước và hôm trước đó nữa vị ấy đều đem dâng cha mẹ sáng sớm hôm sau. Hai vị dùng trái cây xong liền súc miệng và giữ giới kiêng ăn.

Còn hiền giả Sona đi thật xa để hái trái chín ngọt về dâng cha mẹ. Hai vị liền bảo:

– Này con yêu, chúng ta đã ăn từ sáng các thứ em con mang về và bây giờ chúng ta đang kiêngăn nên không cần thứ trái cây này nữa.

Vì thế các thứ trái cây của ngài không được dùng và phải bỏ phí cả. Ngày hôm sau và sau đó nữa cũng vậy.

Và thế là do chứng đắc Năm Thắng trí, ngài đã du hành thật xa để đem trái cây về, nhưng song thân từ chối phần ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Cha mẹ ta giờ đây rất yếu ớt, và Nanda lại đem về toàn trái cây chưa chín hoặc mới chín cho cha mẹ ăn. Nếu thế này mãi, cha mẹ sẽ không sống lâu. Ta quyết ngăn cản em ta làm việc này”. Vì vậy ngài bảo em:

– Này Nanda, từ nay về sau, khi em đem trái cây, em phải đợi đến lúc ta về, và hai chúng tađều muốn dâng cha mẹ các thức ăn cùng một lần.

Mặc dù đã được bảo vậy, Nanda vẫn muốn làm công đức riêng một mình, nên không quan tâm lời anh dặn. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nanda hành động không đúng khi bất tuân lời ta. Ta muốn đuổi nó đi xa”.

Rồi nghĩ rằng tự ngài muốn chăm sóc cha mẹ, ngài bảo:

– Này Nanda, em đã bỏ qua lời răn dạy và không lưu tâm đến lời nói của bậc trí. Ta là huynh trưởng. Cha mẹ thuộc về trách nhiệm của ta. Ta muốn chỉ mình ta săn sóc cha mẹ. Em không thể ở đây được nữa. Hãy đi nơi khác.

Rồi ngài búng các ngón tay vào mặt em. Sau khi bị đuổi như vậy, Nanda không thể nào ở lại trước mặt anh nữa, liền đến từ giã cha mẹ và thưa hết mọi việc xảy ra.

Sau đó lui về an thất riêng, ông chú tâm Thiền định và ngay hôm ấy, ông phát khởi Năm Thắng trí và Tám Thiền chứng. Ông suy nghĩ: “Ta có thể đi tìm loại cát quý từ chân núi Sineru (Tu-di) về rải khắp thảo am của anh ta và xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta chưa hồi tâm, ta sẽ đi tìm nước hồ Anottata về xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm bằng cách ấy, giả sử vì chư Thiên, anh ta không tha thứ cho ta, thì ta sẽ đem Tứ Thiên vương và Thiên chủ Sakka ra xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm, ta sẽ mang vị đại đế Manoja của toàn cõi Diêm-phù-đề, cùng các vương hầu khác ra xin anh ta thứ lỗi. Làm như vậy, danh tiếng về đức hạnh của anh ta sẽ vang dậy cả khắp Diêm-phù-đề, và sẽ sáng ngời mọi nơi như đôi vầng nhật nguyệt”.

Lúc bấy giờ, nhờ thần lực, ông bay xuống kinh thành Brahmavaddhana đến trước cung môn của vua và dâng sớ lên tâu vua:

– Có một vị khổ hạnh muốn yết kiến Đại vương.

Vua phán:

– Một vị khổ hạnh muốn gặp ta làm gì chứ? Chắc vị ấy đến khất thực.

Vua truyền bảo đem cơm cho ông, nhưng ông không dùng chút nào. Rồi vua bảo cho gạo, y phục và các loại củ khoai, môn, nhưng ông cũng không muốn gì cả. Cuối cùng vua gửi một sứ giả đi hỏi tại sao ông đến, ông đáp sứ giả:

– Bần đạo đến để hầu hạ đức vua.

Khi nghe vậy, vua gửi lời nhắn lại:

– Ta thiếu gì nô tỳ, bảo vị ấy hãy làm phận sự của một ẩn sĩ khổ hạnh.

Nghe vầy, ông nói:

– Nhờ thần lực riêng, bần đạo sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề, và xin dâng tất cả lên Đại vương của các vị.

Vua nghe vậy liền suy nghĩ: “Quả thật các vị khổ hạnh rất thông thái. Chắc chắn các vị ấy biết được vài mưu thần”.

Sau đó vua triệu ông vào yết kiến, mời ông ngồi lên bảo tọa, kính lễ và hỏi:

– Thưa Thánh giả, chúng tâu với trẫm rằng ngài sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phủ-đề và muốn ban quyền ấy cho trẫm phải chăng?

– Tâu Đại vương, quả vậy.

– Làm thế nào Thánh giả đạt được việc ấy?

– Tâu Đại vương, không cần đổ một giọt máu của ai cả, dầu là một giọt vừa đủ cho con ruồi tý hon hút được, cũng không cần tiêu phí kho báu của Đại vương, chỉ cần nhờ thần lực của riêng mình, bần đạo sẽ chiếm quyền thống trị và dâng hết lên Đại vương. Chỉ cần ngay lập tức không chút trì hoãn, Đại vương phải khởi hành ngay hôm nay.

Vua tin lời ấy và khởi hành ngay với một đạo quân hộ tống. Nếu đạo quân gặp trời nóng, hiền giả Nanda dùng lực thần tạo bóng cây khiến cho trời mát. Nếu trời mưa, ông không để cho mưa rơi xuống đạo quân. Ông ngăn cản luồng gió oi nồng. Ông phá bỏ gai góc trên đường đi cùng các thứ hiểm nguy khác. Ông làm cho con đường bằng phẳng như vòng tròn dùng trong pháp môn thiền Kasina, rồi trải một tấm da, ông ngồi kiết-già trên không và cứ thế tiến dần phía trước đạo quân.

Theo cách này, trước tiên ông cùng đạo quân trên đến vương quốc Kosala, đóng trại gần kinh thành, gửi sớ lên vua Kosala hoặc bảo tham chiến hoặc đầu hàng trước uy lực của ông. Vua nổi trận lôi đình, quát:

– Thế thì trẫm không phải là quốc vương hay sao? Trẫm sẽ chinh phạt các ngươi.

Vua dẫn đầu bốn đạo quân và hai phe lâm trận. Hiền giả Nanda trải tấm da hươu ra ngồi giữa hai đạo quân, dùng tấm da bắt hết mọi mũi tên do hai phe chiến đấu bắn ra, nên không có một ai trong quân đội nào bị thương vì trúng tên cả. Đến khi tất cả số tên của họ đều dùng hết, haiđạo quân đứng ngẩn ngơ không còn biết nương tựa vào đâu nữa.

Rồi Hiền giả Nanda đến yết kiến vua Kosala và trấn an vua:

– Tâu Đại vương, xin đừng lo âu tuyệt vọng, không có nguy cơ nào đe dọa Đại vương cả. Vương quốc vẫn thuộc về Đại vương. Chỉ cần Đại vương thần phục vua Manoja thôi.

Vua tin lời hiền giả nói và thỏa thuận điều ấy. Sau đó dẫn vua ấy đến yết kiến vua Manoja, hiền giả Nanda thưa:

– Tâu Đại vương, quốc vương Kosala xin thần phục Đại vương. Hãy để yên quốc độ ấy như cũ.

Vua Manoja sẵn sàng chấp thuận và nhận sự quy phục ấy. Vua cùng hai đạo quân tiến đến quốc độ Anga và chiếm Anga, sau đó chiếm Magadha trong quốc độ có tên ấy và nhờ các phương cách này, vua trở thành bá chủ của mọi quốc vương toàn cõi Diêm-phù-đề, rồi được chư hầu hộ tống đi thẳng đến thành Brahmavaddhana.

Bấy giờ, vua chiếm được mọi quốc độ từ các vua này trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Từ mỗi kinh thành, vua truyền đem đủ thức ăn loại cứng, loại mềm và mời một trăm lẻ một quốc vương nâng chén rượu khải hoàn suốt bảy ngày đại lễ hội.

Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta không muốn xuất hiện trước mặt vua cho đến khi ngài đã hưởng mọi lạc thú của vương quyền thống trị trong bảy ngày”.

Rồi khi đi khất thực trong xứ Bắc Kuru, Hiền giả an trú suốt bảy ngày ở Tuyết Sơn, ngay cửa vào Kim Động.

Phần hoàng đế Manoja, vào ngày thứ bảy, sau khi ngắm cảnh đại vinh quang quyền lực của mình, tự nghĩ: “Cảnh huy hoàng này không phải do cha mẹ ta hay người khác trao tặng. Nó xuất phát từ ẩn sĩ Nanda và rõ ràng đã bảy ngày trôi qua từ khi ta thấy ngài. Không biết nay vị hiền hữu đã ban ta cảnh huy hoàng này đang ở đâu trên đời này?”. Và vua nhớ đến hiền giả Nanda.

Còn Hiền giả Nanda khi biết vua đang nhớ mình, liền xuất hiện trước vua trên không. Vua suy nghĩ: “Ta không biết vị khổ hạnh này là người phàm hay thần thánh. Nếu là người phàm, ta sẽ dâng ngài quyền thống trị khắp cõi Diêm-phù-đề. Còn nếu ngài là thần thánh, ta sẽ bày tỏ lòng tôn kính xứng đáng với ngài.

Và để thử vị ấy, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng,
    Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
    Hoặc một người thần thông quảng đại,
    Ngự bao thành trị thật vinh quang.
    Nay ta ao ước ngài cho biết
    Quý tánh phương danh thật rõ ràng.

Nghe lời vua, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ thứ hai nêu rõ thân thế mình:

  1. Ta chẳng Thiên nhân, hoặc Nhạc thần,
    Cũng không Thiên chủ hoặc quân vương.
    Ta là người đủ thần thông lực,
    Sự thật nay ta đã tỏ tường
    .

Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ngài bảo ngài là một người; như vậy ngài đã làm nhiều công đức cho ta lắm. Ta sẽ tỏ bày sự tôn kính tối cao với ngài để ngài đẹp ý”. Và vua đáp lời:

  1. Công đức ngài ban bố chúng tôi
    Làm sao nói hết được nên lời,
    Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
    Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
  2. Bóng mát ngài làm cho chúng ta
    Khi luồng gió đốt cháy bay qua;
    Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ
    Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
  3. Thật nhiều quốc độ lạc an tràn
    Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
    Hơn cả một trăm vị lãnh chúa
    Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
  4. Những gì ngài chọn giữa kho tàng
    Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng:
    Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
    Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
    Vương cung mỹ lệ nào ngài thích
    Đều sẽ trở thành của Đại nhân.
  5. Nếu muốn ngự cung Ma-kiệt-đà,
    Hoặc là quốc độ xứ An-ga
    A-van-ti, trẫm vui lòng nhượng,
    Hoặc đến trị dân As-sa-ka.
  6. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
    Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
    Chỉ nói một lời điều ước muốn,
    Tức thì vật ấy của hiền nhơn.

Nghe vậy, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ giải thích ước nguyện của mình:

  1. Vương quốc ta nào có ước ao,
    Kinh thành, lãnh dịa chẳng mong cầu,
    Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản
    Từ chính bàn tay Đại đế đâu.

Vị ấy nói tiếp:

– Nhưng nếu Đại vương có lòng ưu ái ta, xin hãy làm theo lời thỉnh cầu của ta về việc duy nhất này:

10-11. Dưới quyền ngài, ngụ lão song thân
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức
Với song thân ấy lão hiền nhân.
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả So-na hết hận sân.

Vua liền bảo vị ấy:

  1. Hoan hỷ, ta xin sẽ vẹn tròn
    Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
    Song ai là kẻ ta cần chọn
    Để tiến hành ngay lệnh Đại nhơn?

Hiền giả Nanda đáp:

  1. Hơn trăm phú hộ, Bà-la-môn,
    Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
    Đại đế Ma-no-ja, đủ số
    Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.

Vua lại bảo:

  1. Thắng ngay tượng, mã vào vương xa,
    Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ
    Theo gió, ta đi tìm ẩn sĩ
    Trú nơi xa vắng, Ko-si-ya.

*

  1. Hộ giá theo hầu, bốn đạo binh,
    Đại vương tiến bước để đăng trình
    Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp
    Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.

Các vần kệ này xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng.

*

Bấy giờ vào ngày ấy, vua đến vùng thảo am, Hiền giả Sona suy nghĩ: “Lúc này đã hơn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày từ lúc tiểu đệ ta ra đi khỏi nhà. Bây giờ em ta đang ở đâu?”

Rồi dùng thiên nhãn, ngài nhìn thấy em, liền tự bảo: “Em ta đang đến đây với một trăm lẻ một vị vua và một đoàn hộ tống gồm hai mươi bốn đạo quân để xin ta thứ lỗi. Các vua này cùng đoàn tùy tùng đã chứng kiến nhiều thần thông do em ta biến hóa, và vì không biết gì về thần lực của ta, nên họ bảo: “Vị ẩn sĩ giả mạo này quá tự cao về thần lực của mình và tự sánh mình với vị chúa tể của chúng ta”. Do lời kiêu mạn này, họ sẽ đọa vào địa ngục. Vậy ta sẽ cho họ xem một điển hình về phép thần thông của ta”.

Rồi đặt đòn gánh giữa không khí, chẳng chạm vào vai ngài một khoảng chừng bốn phân, cứ thế ngài du hành giữa khoảng bao la, bay ngang gần vua, để đi lấy nước từ hồ Anotatta.

Nhưng khi Hiền giả Nanda thấy ngài đến, lại không có can đảm lộ diện, mà lập tức biến mất ngay nơi vị ấy đang ngồi, và tẩu thoát đi ẩn mình trong vùng Tuyết Sơn. Tuy thế, khi vua Manoja thấy Hiền giả Sona đến gần trong dáng điệu uy nghi của bậc tu hành, liền ngâm kệ này hỏi:

  1. Ai đi tìm nước giữa không gian,
    Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
    Đòn gánh cách xa chừng một tấc
    Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền đáp hai vần kệ:
17. So-na đạo sĩ chẳng bao giờ
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt ưu tư.

  1. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn
    Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
    Đời đời ghi nhớ ơn hai vị
    Xưa đã cho ta hưởng phước phần.

Nghe lời này, vua muốn bầu bạn với ngài, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ta mong đến tận chốn am tranh
    Đạo sĩ Ko-si-ya ẩn mình,
    Hiền giả So-na xin chỉ lối
    Đưa ta đến tịnh thất an lành
    .

Lúc ấy bậc Đại Sĩ dùng thần lực vạch ra một con đường mòn đưa đến thảo am và ngâm vần kệ này:

  1. Đây lối Đại vương hãy nhờ rành:
    Đằng xa khóm lá. đậm màu xanh
    Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
    Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.

*

  1. Như vậy bậc Hiền trí đại hùng,
    Chỉ đường cho các vị vương quân,
    Xong ngài vội vã về am thất,
    Lần nữa du hành giữa cõi không.
  2. Kế đó quét xong chốn thảo am,
    Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
    Ngài vừa thức lão hiền nhân dậy,
    Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
  3. Ngài nói: “Thánh nhân hãy đến ngay,
    Con xin cha tọa lạc nơi này,
    Các vua quý tộc danh lừng lẫy
    Sắp ngự giá qua giữa lối này.
  4. Như vậy sao khi vị lão niên
    Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
    Vội vàng chân bước từ am thất
    An tọa ở bên cạnh cửa tiền.

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng.

*

Phần Hiền giả Nanda đi yết kiến vua ngay khi Bồ-tát vừa đến am thất, vừa đem nước về từ hồ Anotatta, rồi Hiền giả Nanda cắm trại không xa am thất ấy.

Sau đó vua tắm rửa và phục sức vô cùng lộng lẫy, liền được một trăm lẻ một tiểu vương hộ tống, vị Đại vương cùng Hiền giả Nanda bước vào am thất trong cảnh huy hoàng trọng thể và cầu khẩn Bồ-tát tha thứ cho hiền đệ của ngài.

Lúc ấy phụ thân của Bồ-tát thấy vị Đại vương ngự đến gần, liền hỏi Bồ-tát và ngài giải thích vấn đề với cha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Thấy vua đứng đó đại vinh quang
    Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
    Bậc lão hiền nhân liền cất tiếng
    Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
  2. “Ai đến đây trong tiếng rộn ràng
    Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
    Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
    Ai đến đây ca khúc khải hoàn?
  3. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
    Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
    Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
    Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
  4. Ai đây đang đến thật vinh quang,
    Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng
    Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ
    Sáng ngời đang cháy ở lò than?
  5. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao
    Được giương lên thật khéo làm sao,
    Lọng che với gọng sườn tô điểm
    Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
  6. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
    Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
    Như một vị hiền nhân trí giả
    Cỡi lưng voi nọ dáng oai phong?
  7. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
    Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
    Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc
    Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
  8. Ai kia đang đến tận nơi đây,
    Được cả hơn trăm lãnh chúa này
    Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
    Sau lưng và trước mặt như vầy?
  9. Các vương xa với một đàn voi
    Đám bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
    Ai đến với oai nghi chiến dấu,
    Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
  10. Ai đến cùng tất cả đạo quân
    Theo sau hộ giá rộng mênh mông
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng đại dương vỗ chập chùng?
  11. “Ma-no đại đế, với Nan-da,
    Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
    Như thể In-dra Thiên chủ ấy
    Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
  12. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn
    Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng chập chùng giữa đại dương”.

Đạo Sư lại ngâm:

  1. Lụa tối cao sang, khoác cẩm bào,
    Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
    Các vua này đến gần hai vị
    Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.

Sau đó vua Manoja kính lễ xong, ngồi xuống một bên, vừa trao đổi những lời chào hỏi ân cần, vừa ngâm đôi vần kệ:

  1. Trẫm vẫn tin rằng các Thánh nhân
    Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái
    Phong phú khắp nơi chốn trú an.
  2. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Các ngài tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi ở chốn đây?

Các vần kệ sau đây do hai bên đối đáp nhau:

Ẩn sĩ:

  1. Xin cám ơn ngài, hỡi Đại vương,
    Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả
    Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
  2. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Chúng ta tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi đến chốn đây.
  3. Các loại cây cao vẫn mọc đầy
    Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
    Cũng không bệnh tật gây tai hại
    Từng thấy xảy ra ở chốn này.
  4. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
    Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
    Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
    Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?
  5. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
    Ka-su-ma chín ngọt ngào thay
    Như đường mật, kính dâng ngài ngự
    Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.
  6. Và nước mát này ở động sâu
    Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
    Đại vương, xin kính dâng bình nước
    Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.

Đại vương:

  1. Trẫm đây cùng tất cả vị vua
    Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
    Song hãy lắng nghe lời sắp nói
    Của hiền hữu, Trí giả Nan-da.
  2. Chúng ta tất cả bước theo hầu
    Hiền giả Nan-da đến khẩn cầu
    Ngài chiếu cố nghe người khốn khổ
    Van xin quy lụy đáp ơn sâu.

Nghe nói vậy, hiền giả Nanda đứng dậy từ chỗ ngồi, vừa định lễ cha mẹ và huynh trưởng, vừa ngâm kệ đàm đạo với đoàn tùy tùng của mình:

  1. Xin cả toàn dân, lẻ một trăm,
    Những người danh vọng Bà-la-môn,
    Các vua Sát-ly dòng cao quý
    Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
    Cùng với Ma-no-ja Đại đế,
    Thảy đều công nhận việc cầu ân.
  2. Dạ-xoa Thần ở thảo am này,
    Các vị đang quy tụ ở đây,
    Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
    Lắng nghe ta nói chuyện như vầy.
  3. Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
    Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
    Tiểu đệ là em đây thuở trước
    Ngài xem có mặt tựa tay chân.
  4. Làm sao phụng dưỡng lão song thân
    Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
    Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở
    Cho em làm Thánh sự riêng phần.
  5. Ân cần phụng dưỡng cả song thân
    Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
    Người thiện tán đồng bao thiện sự,
    Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
    Do vầy em đạt nhiều công đức,
    Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
  6. Nhiều người khác biết rõ nơi đây
    Đạo lộ dành cho phận sự này,
    Ấy chính con đường lên thượng giới,
    Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
  7. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn
    Em làm thiện sự thế này chăng?
    Khi em mong muốn nhờ công đức
    Đem lại song thân trọn lạc an
    .

Khi được Nanda nói như vầy, bậc Đại Sĩ bảo:

– Các vị đã nghe những lời Nanda phải nói ra; giờ đây hãy nghe ta.

Và ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Các vị theo hầu tiểu đệ ta
    Hãy nghe ta nói lượt bây giờ:
    Kẻ nào đối xử đầy khinh bỉ
    Nhũng bậc tiền nhân của mẹ cha,
    Phạm tội ác cùng chư trưởng lão,
    Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
  2. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
    Con dường chân lý hiểu tinh tường,
    Giữ gìn giới luật và công hạnh,
    Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
  3. Anh em cùng các bậc thân sinh,
    Tất cả do dây kết hợp thành,
    Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng
    Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
  4. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao
    Hân hoan ta gánh vác đi đầu
    Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
    Chân lý ta không hề lãng xao.

Khi nghe lời này, tất cả các vua đều vô cùng hoan hỷ và nói:

– Hôm nay chúng ta đều biết được rằng toàn thể gia đình là trách nhiệm đặt lên người huynh trưởng.

Rồi các vị rời bỏ Hiền giả Nanda và vừa chú tâm hướng về bậc Đại Sĩ, vừa ngâm hai vần kệ tán dương ngài:

  1. Tri kiến tìm ra tựa lửa bừng
    Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
    Cũng như Thánh giả Ko-si ấy
    Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
  2. Như nhật thần kia chiếu ánh quang
    Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang
    Phố bày hình thể bao sinh vật,
    Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
    Cũng vậy Ko-si-ya Thánh giả
    Hiển bày chân lý với quân vương.

Như vậy là mặc dù từ lâu các vua chúa đã tin tưởng vào Hiền giả Nanda vì chứng kiến các kỳ tích thần thông của vị ấy, tuy thế bậc Đại Sĩ nhờ uy lực tri kiến đã phá hủy lòng tin của họ, khiến họ phải chấp nhận lời ngài và do vậy tất cả đều trở thành những người hầu cận tuân phục ngài nhất ở đời.

Lúc ấy Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Đại huynh ta là một bậc trí giả tinh thông am tường kinhđiển. Ngài đã chinh phục các vị vua này và đưa họ về phía ngài. Ngoài ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Ta chỉ còn biết khẩn cầu ngài thôi”.

Thế rồi ông ngâm vần kệ này:

  1. Huynh chẳng lưu tâm dáng khẩn cầu,
    Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
    Em mong làm kẻ hèn nô lệ
    Đợi lệnh huynh ban, vội đến chầu.

Dĩ nhiên bậc Đại Sĩ không cảm thấy hờn giận hay oán thù đối với Nanda, nhưng ngài đã hành động như một cách khiển trách em để hạ bớt lòng kiêu mạn của vị ấy khi phát biểu tự cao thái quá như vậy. Nhưng bây giờ khi nghe những lời em nói ra, ngài vô cùng hoan hỷ và muốn ban ân huệ cho em, ngài bảo:

– Nay ta tha thứ hiền đệ rồi và sẽ cho phép hiền đệ chăm sóc cha mẹ.

Và ngài ngâm kệ nêu rõ đức tính của hiền đệ:

  1. Em thông Chính pháp, hỡi Nan-da,
    Nhu các Thánh nhân đã dạy mà:
    Duy nhất quý cao là thiện sự,
    Em làm đẹp ý thỏa lòng ta.
  2. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
    Em hãy nghe điều ta nói ra:
    Nhiệm vụ phần em lo gánh vác
    Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
  3. Mẹ cha ta bảo dưỡng lâu nay
    Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
    Đến lượt Nan-da nay đã tới
    Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
  4. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền
    Mong muốn Nan-da phụng dưỡng riêng,
    Xin nói một lời, và tiểu đệ
    Phải theo hầu vị ấy ưu tiên
    .

Lúc ấy mẹ ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và bảo:

– Sona thân yêu, em con đã vắng nhà lâu nay. Bây giờ rốt cuộc nó đã trở về, ta không đích thân hỏi thăm nó vì chúng ta đều nương tựa vào con cả. Song nếu con cho phép, bây giờ ta xin được ôm lấy nam tử thánh thiện này trong tay và hôn lên trán nó.

Rồi bà ngâm kệ này nêu rõ ý của bà:

  1. So-na, cha mẹ dựa con đây,
    Nếu được con cho phép việc này,
    Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ
    Nan-da thánh thiện quý cao vầy.

Sau đó bậc Đại Sĩ nói với mẹ:

– Này mẹ yêu quý, con cho phép mẹ rồi, mẹ hãy đi ôm lấy Nanda, con trai mẹ rồi ngửi tóc và hôn đầu nó để xoa dịu nỗi sầu trong lòng mẹ.

Thế là bà đi đến Hiền giả Nanda và ôm choàng lấy con trước toàn thể hội chúng và ngửi tóc, hôn đầu con, làm tiêu tan mọi nỗi khổ trong lòng bà, và ngâm kệ nói chuyện với bậc Đại Sĩ:

  1. Giống như cây yếu ớt bồ-đề
    Rung động vì cơn gió nặng bề,
    Cũng vậy, tim ta vui rộn rã
    Thấy Nan-da đã được quay về.

68 . Dường như ta thấy lại Nan-da
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
“Nan-da nay trở lại cùng ta!”

  1. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
    Thấy Nan-da ấy đã ra đi,
    Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo
    Do nỗi buồn đau quá não nề.
  2. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
    Nan-da rốt cuộc đã về nhà,
    Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
    Nó tạo ngôi nhà với chúng ta.
  3. Dù nghiêm đường quý mến Nan-da,
    Hãy để em con ở tự do,
    Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
    Nan-da cần trọn nghĩa cùng ta.

Bậc Đại Sĩ chấp thuận lời mẹ và nói:

– Con mong được như vậy.

Và ngài khuyến giáo em:

– Này Nanda, em đã lãnh phận sự của người anh cả, quả thật mẫu thân chính là đại ân nhân của ta. Em hãy thận trọng chăm nom mẹ.

Ngài lại ngâm hai vần kệ tán thán công đức của mẹ hiền:

  1. Là nơi nương tựa thật ân cần,
    Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
    Mẹ chính là đường lên thượng giới,
    Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
  2. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
    Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
    Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
    Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà
    .

Như vậy bậc Đại Sĩ đã nêu lên công đức của mẹ qua hai vần kệ, và khi mẹ ngài đã về chỗ ngồi một lần nữa, ngài bảo:

– Này Nanda, em có một bà mẹ đã chịu đựng nhiều gian lao khó vượt qua. Cả hai ta đã được mẹ nuôi nấng rất nhọc nhằn. Này em hãy thận trọng chăm sóc mẹ và không được đưa thứ dâu chua cho mẹ ăn nữa.

Và để làm sáng tỏ cho hội chúng thấy rõ những công việc cực kỳ gian khổ được dành cho số phận bà mẹ, ngài ngâm kệ:

  1. Cầu nguyện khát khao một đứa con,
    Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
    Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
    Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
  2. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
    Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
    Thoáng chốc hài nhi vô ý thức
    Bắt đầu quen biết một thân bằng.
  3. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
    Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
    Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
    Ngày ấy vui lòng tiếng “mẹ” mang.
  4. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
    Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
    Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
    Nỗi đau của trẻ được xua tan.
  5. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
    Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
    Được gọi vú nuôi, thôi cũng được,
    Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
  6. Tài vật nào cha mẹ có đây,
    Mẹ dành cho trẻ để sau này,
    Bà suy: “Cũng có ngày con hỡi,
    Gia sản may ra đến tận tay”.
  7. “Hãy làm này nọ, bé yêu ơi”,
    Bà mẹ lo âu gọi thế hoài,
    Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
    Mẹ còn kêu khóc, thở than dài.
    Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp
    Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
    Mẹ giận dữ la rầy cáu kỉnh:
    “Sao không trở lại lúc ban mai?”
  8. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng mẹ hiền này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  9. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng phụ thân này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  10. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  11. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  12. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
  13. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Phụ thân khi tuổi tác già nua.
  14. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
    Ân cần phục vụ cạnh song đường,
    Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng
    Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
  15. Những đức tính này đối thế nhân,
    Giống như mấu trục bánh xe lăn,
    Nếu không có chúng, thì tên mẹ
    Sẽ phải cầu xin với các con.
  16. Từ mẫu cũng như nghiêm phụ ta
    Phải đều được kính trọng tôn thờ,
    Hiền nhân tán thán người nào có
    Những đức tính này tỏ lộ ra.
  17. Song thân như vậy đáng tuyên dương,
    Giữ địa vị cao cả khác thường,
    Được gọi “Phạm thiên” do cổ đức,
    Uy danh hai vị lớn khôn lường.
  18. Song thân hiền phải được tôn vinh
    Xứng đáng từ con cái của mình,
    Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh
    Là người có trí tuệ thông minh.
  19. Đem dâng thức uống với đồ ăn
    Sàng tọa và y phục xứng phần,
    Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
    Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.
  20. Bậc trí tán dương các việc trên,
    Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
    Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
    Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.

Như vậy bậc Đại Sĩ chấm dứt Pháp thoại khác nào làm cho núi Sineru (Tu-di) rung chuyển. Nghe ngài nói, tất cả các quốc vương cùng đoàn tùy tùng đến trở thành những kẻ mộ đạo. Vì vậy sau đó an trú hội chúng vào Ngũ giới và khuyến giáo họ tính cần bố thí cùng các đức tính tương tự, ngài bảo họ ra về.

Sau khi cai trị quốc độ một cách chân chánh, vào cuối đời tất cả các vua ấy đều đi lên cộng trú với chư Thiên.

Hai Hiền giả Sona và Nanda suốt đời sống phụng sự cha mẹ và về sau được sinh Phạm thiên giới.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Thánh Đế và nhận diện Tiền thân.

Lúc kết thúc các Thánh Đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, song thân là phụ mẫu trong hoàng gia, Hiền giả Nanda là Ànanda, vua Manoja là Sàriputta, một trăm lẻ một vị vua là tám mươi đại Trưởng lão và một số vị khác, hai mươi bốn đạo quân là đệ tử đức Phật, còn Hiền giả Sona chính là Ta.

Ni giới Việt Nam và Ni giới từ các nước trên thế giới có dịp sinh hoạt thành một đoàn thể trong một tuần lễ. Ni Sư Giới Hương và một số Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ đã đóng góp một số bài tham luận về Phật Giáo Việt Nam trong đại hội.

MỤC LỤC

[01] Chương V – Phẩm Năm Bài Kệ
351. Chuyện Vòng Tai Bằng Ngọc (Tiền Thân Manikundala)
352. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta)
353. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền Thân Dhonasàkha)
354. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga)
355. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền Thân Ghata)
356. Chuyệnn Nam Tử Kàrandiya (Tiền Thân Kàrandiya)
357. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Latukikà)
358. Chuyện Tiểu Vương Tử Hộ Pháp (Tiền Thân Culladhammapàla)
359. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền Thân Suvannamiga)
360. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền Thân Sussondi)
361. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền Thân Vannàroha)
362. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền Thân Sìlavimamsa)
363. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền Thân Hiri)
364. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền Thân Khajjopanaka)
365. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền Thân Ahigundika)
366. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền Thân Gumbiya)
367. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền Thân Sàliya)
368. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền Thân Tacasàra)
369. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavinda)
370. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Palàsa)
371. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền Thân Dighiti Kosala)
[02] Chương VI – Phẩm Sáu Bài Kệ
372. Chuyện Hai Chú Nai Con (Tiền Thân Migapotaka)
373. Chuyện Con Chuột (Tiền Thân Mùsika)
374. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền Thân Culladhanuggaha)
375. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota)
376. Chuyện Người Lái Đò (Tiền Thân Avàriya)
377. Chuyện Bà-La-Môn Setakeku (Tiền Thân Setakeku)
378. Chuyện Bà-La-Môn Darìmukha (Tiền Thân Darìmukha)
379. Chuyện Núi Neru (Tiền Thân Neru)
380. Chuyện Thiên Nữ Ásankà (Tiền Thân Asankà)
381. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền Thân Migàlopa)
382. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Siri Và Kàlakanni)
383. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukkuta)
384. Chuyện Pháp Ấn (Tiền Thân Dhammaddhaja)
385. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền Thân Nandiyamiga)
386. Chuyện Con Lừa (Tiền Thân Kharaputta)
387. Chuyện Cây Kim (Tiền Thân Suci)
388. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila)
389. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền Thân Suvannakakkata)
390. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền Thân Mayhaka)
391. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền Thân Dhajavihettha)
392. Chuyện Củ Hoa Sen (Tiền Thân Bhisapupha)
393. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền Thân Vighàsa)
394. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Vattaka)
395. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka)
[03] Chương VII – Phẩm Bảy Bài Kệ
396. Chuyện Ác Hạnh (Tiền Thân Kukku)
397. Chuyện Sư Tử Mannoja (Tiền Thân Manoja)
398. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền Thân Sutana)
399. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
400. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Tiền Thân Dabbhapuppha)
401. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền Thân Dasannaka)
402. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền Thân Sattnubhasta)
403. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền Thân Atthisena)
404. Chuyện Hầu Vương (Tiền Thân Kapi)
405. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền Thân Bakabrahma)
406. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền Thân Gandhàra)
407. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền Thân Mahàkapi)
408. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền Thân Kumbhakàra)
409. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền Thân Dalhadhamma)
410. Chuyện Con Voi Somadatta (Tiền Thân Somadatta)
411. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma)
412. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền Thân Kotisimbalì)
413. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền Thân Dhùmakàri)
414. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền Thân Jàgara)
415. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền Thân Kummàsapinda)
416. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền Thân Parantapa)
[04] Chương VIII – Phẩm Tám Bài Kệ
417. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền Thân Kaccàni)
418. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền Thân Attasadda)
419. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền Thân Sulasà)
420. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền Thân Sumangala)
421. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền Thân Gangamàla)
422. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền Thân Cetiya)
423. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền Thân Indriya)
424. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền Thân Àditta)
425. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền Thân Atthàna)
426. Chuyện Con Báo (Tiền Thân Dìpi)
[05] Chương IX – Phẩm Chín Bài Kệ
427. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha)
428. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền Thân Kosambì)
429. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền Thân Mahàsuka)
430. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền Thân Cullasuka)
431. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền Thân Hàrita)
432. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền Thân Padakusalamànava)
433. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca-Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền Thân Lomasa Kassapa)
434. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền Thân Cakkavàka)
435 Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền Thân Haliddiràga)
436. Chuyện Cái Hộp (Tiền Thân Samugga)
437. Chuyện Chó Rừng Pùtinumsa (Tiền Thân Pùtimamsa)
438. Chuyện Con Gà Gô (Tiền Thân Tittita)
[06] Chương X – Phầm Mười Bài Kệ
439. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền Thân Catu-Dvàra)
440. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền Thân Kanha)
441. Chuyện Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền Thân Catu-Posathika)
442. Chuyện Bà-La-Môn Sankha (Tiền Thân Sankha)
443. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Đề (Tiền Thân Culla-Bodhi)
444. Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền Thân Kanhadìpàyana)
445. Chuyện Vua Ða (Tiền Thân Nigrodha)
446. Chuyện Cây Hành (Tiền Thân Takkala)
447. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền Thân Mahà Dhamma-Pàla)
448. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukuta)
449. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền Thân Matta-Kundali)
450. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Bilàri-Kosiya)
451. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)
452. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri-Panha)
453. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền Thân Mahà-Mangala)
454. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền Thân Ghata)
[07] Chương XI – Phẩm Mười Một Bài Kệ
455. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền Thân Màti-Posaka)
456. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền Thân Junha)
457. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền Thân Dhamma)
458. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền Thân Udaya)
459. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền Thân Pàniya)
460. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền Thân Yuvanjana)
461. Chuyện Ðại Vương Dasaratha (Tiền Thân Dasaratha)
462. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền Thân Samvara)
463. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền Thân Suppàraka)
[08] Chương XII – Phẩm Mười Hai Bài Kệ
464. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền Thân Culla-Kunàla)
465. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền Thân Bhadda-Sàla)
466. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền Thân Samudda-Vànijà)
467. Chuyện Dục Tham (Tiền Thân Kàma)
468. Chuyện Ðại Vương Janasandha (Tiền Thân Janasandha)
469. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền Thân Mahà-Kanha)
470. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Kosiya)
471. Chuyện Con Dê (Tiền Thân Mendaka)
472. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền Thân Mahà-Paduma)
473. Chuyện Bạn-Thù (Tiền Thân Mittàmitta)

Chương V

Phẩm Năm Bài Kệ

  1. Chuyện Vòng Tay Bằng Ngọc (Tiền thân Manikundala)

Bị cướp hết niềm vui cuộc sống…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một ông quan phạm tội thông gian trong hậu cung của vua xứ Kosala.

Trường hợp xảy ra câu chuyện đã được kể đầy đủ trước đây ở số 282 và 303.

*

Ở đây cũng thế, Bồ-tát là vua ở Ba-la-nại. Ông quan xấu xa kia đến với vua Kasala và khuyên vua đánh chiếm vương quốc Kàsi rồi bắt Bồ-tát bỏ vào ngục. Ðức vua Ba-la-nại phát triển thiền định và ngồi bắt chéo chân ở trên không. Ông vua cướp nước kia bị nóng sốt toàn thân, liền đến gần vua Ba-la-nại và đọc bài kệ đầu:

Bị cướp hết niềm vui cuộc sống,
Hết hoa tai lộng ngọc, ngựa, xe,
Vợ yêu, con dấu mất đi,
Xem ra ngài chẳng tỏ chi phiền hà!

Nghe thế Bồ-tát liền đọc các bài kệ sau:

Thú vui sẽ vội rời ta,
Thú vui rồi sẽ bay xa mấy hồi.
Vua kia tự hóa buồn thôi,
Như vần trăng hiện trên trời, trăng non,
Ðầy dần cho đến lúc tròn,
Khuyết đi rồi lại chẳng còn trăng đâu!

Sưởi cho vạn vật tươi màu,
Mặt trời vội lặn bên bầu trời xa,
Luật đời là đổi thay mà,
Khổ đau không thể làm ta bận lòng.

Thế rồi bậc Ðại Sĩ giảng bài Chân lý cho ông vua cướp nước kia nghe và đem đức hạnh của mình ra thử thách, ngài đọc các kệ sau:

Ghét thường nhân tham dục
Vẫn theo thói biếng lười.
Kẻ tu hành giả mặt:
Phường xảo quyệt đấy thôi!

Hôn quân thường xử án
Mà chẳng chịu lắng nghe;
Không thể nào biện bạch
Bậc trí nổi sân si

Chiếu vương phán một lời
Cân nhắc thật hẳn hoi,
Chính chuyên lời phán ấy
Vang danh mãi trên đời.

Vua xứ Kosala được Bồ-tát tha thứ, và sau khi trao trả lại vương quốc cho Bồ-tát, ông quay về xứ của mình.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là vua xứ Kasala, còn Ta chính là vua Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền thân Sujàta)

Sao con lại vội mang…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất có cha chết.

Khi cha ông mất, ông buồn bã đi khắp nơi, chẳng thể nào vơi được cơn sầu. Bậc Ðạo Sư nhận thấy người đàn ông này có khả năng đạt quả giải thoát cho nên khi Ngài vào thành Xá-vệ để khất thực, Ngài cùng với một thị giả đến nhà ông ta. Ngồi vào chỗ đã soạn sẵn cho Ngài, Ngài cúi xuống nói với gia chủ cũng đang ngồi đấy:

– Nay cư sĩ, phải chăng ông đang sầu khổ?

Người ấy đáp:

– Vâng, bạch Thế Tôn, đúng như thế.

Ngài dạy:

– Này bằng hữu, các bậc hiền trí ngày xưa đã nghe lời trí tuệ của người chính trực và khi họ mất cha, họ không sầu khổ.

Rồi do yêu cầu của gia chủ, Ngài kể một chuyện tiền kiếp.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh vào nhà một gia chủ nọ. Ngài được gọi là Nam tử Sujàta. Khi ngài lớn lên thì nội tổ của ngài mất. Từ ngày lão gia mất, thân phụ ngài rất sầu khổ. Ông lấy hài cốt của cha từ nơi hỏa táng rồi xây một nấm mồ trong vườn thưởng ngoạn của ông và đặt di cốt vào đấy. Mỗi khi đến thăm chỗ ấy, ông trang hoàng hoa lên mồ rồi mải miết than khóc. Ông chẳng tắm rửa chẳng xức dầu thơm, cũng chẳng để ý đến việc kinh tài. Quan sát việc này, Bồ-tát tự nghĩ: “Từ khi ông nội ta mất, cha ta đi đâu cũng cứ đắm chìm trong sầu muộn. Ta chắc rằng chẳng ai ngoài ta ra có khả năng khuyên nhủ được người. Ta sẽ tìm cách giải thoát cho người khỏi cơn sầu khổ”.

Thế rồi khi trông thấy con bò đực nằm chết ở bên ngoài thành phố, ngài mang cỏ và nước tới đặt trước con bò ấy và nói:

– Ăn đi, uống đi! Ăn đi, uống đi.

Mọi người đi qua thấy thế đều bảo:

– Này Sujàta, bạn điên đấy ư? Bạn đưa cỏ và nước cho một con bò chết ư?

Nhưng ngài không đáp một tiếng nào.

Vì thế, họ đến bảo với thân phụ ngài:

– Con trai của ông bị điên rồi, anh ta lấy cỏ và nước đem cho một con bò chết đấy.

Nghe thế, người chủ đất ngưng sầu than cha mình mà lại bắt đầu sầu than đứa con trai. Ông vội chạy đến và kêu lên:

– Này Sujàta, con không được bình thường đấy ư? Sao con lại đưa cỏ cho cái xác bò chết?

Rồi ông đọc hai bài kệ sau:

Sao con lại vội mang
Cỏ mới cắt ngọt ngon
Cho con vật đã chết,
Lại kêu “Dậy mà ăn”?

Không có thức ăn gì
Hồi sinh một bò chết,
Lời con vớ vẩn thật,
Và do bởi mê si.

Bấy giờ Bồ-tát đọc hai bài kệ:

Con vật này hẳn rồi
Vẫn còn đường sống lại,
Vì đủ cả đầu đuôi
Và bốn chân còn đấy.

Còn ông nội, rõ ràng
Ðầu, tay, chân đã mất,
Kẻ khùng nào khóc than?
Chỉ có cha độc nhất!

Nghe thế, thân phụ của Bồ-tát tự nghĩ: “Con ta thật thông tuệ. Nó biết điều gì đúng cần làm cho đời này và cho cả đời sau. Nó đã làm thế để khuyên nhủ ta”. Rồi ông bảo:

– Này Sujàta, con trai yêu dấu và khôn ngoan của ta, ta đã hiểu được rằng mọi sự vật đang hiện hữu đều là vô thường. Từ nay ta sẽ không sầu khổ. Một đứa con như thế này hẳn là kẻ làm cho cha mình hết sầu khổ.

Ðể ca ngợi con trai, ông nói:

Như lửa dầu đang trong cơn cháy mạnh,
Nước đổ vào liền bị tắt ngay đi,
Cõi lòng ta đang nhức nhối sầu bi,
Con ta đã chữa lành đời ta sáng

Gai đã nhổ, tươi vui và tĩnh lặng,
Ta hết sầu, nghe lời của con ta.
Bậc thiện hiền khiến đời dứt phiền hà
Cứu thân phụ như Su-jà thông tuệ.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Đế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ ta là Sujàta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền thân Dhonasàkha)

Nay dù bạn bình an hạnh phúc…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại rừng Bhesakalà, gần Sumsumàragiri (Núi Cá sấu) trong xứ của bộ tộc Bhaggas. Chuyện kể về vương tử Bodhi (Bồ-đề).

Vương tử này là con vua Udena, bấy giờ đang sống tại Sumsumàragiri. Ông cho mời một người thợ thật giỏi, bảo xây cho mình một cung điện gọi là Kokànada và làm cho nó khác cung điện của bất cứ ông vua nào. Về sau, ông tự nghĩ: “Tên thợ này có thể xây một cung điện như thế cho một ông vua khác”. Và do lòng đố kỵ, ông móc đôi mắt của người thợ ấy đi.

Các Tỷ-kheo biết được chuyện ấy. Họ bàn thảo trong Pháp đường:

– Này các hiền giả, vương tử Bodhi đã móc mắt của người thợ như thế, như thế. Chắc chắn ông ta là một người tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn chuyện gì. Khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

Không chỉ bây giờ mà xưa kia tánh ông ta cũng như vậy. Ngày xưa cũng bằng cách như thế, ông ta đã móc mắt của một ngàn chiến sĩ và sau khi giết chết họ, ông đã đem thịt của họ ra tế lễ.

Rồi Ngài kể cho các Tỷ-kheo một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một giáo sư lừng danh tại Takkasilà, các thanh thiếu niên thuộc giai cấp quý tộc, võ tướng và Bà-la-môn từ khắp nước Ấn Ðộ đến với ngài để được ngài dạy các học nghệ. Con vua Ba-la-nại là hoàng tử Brahmadatta cũng thế, được ngài dạy ba tập Vệ-dà. Ông ta là một kẻ tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo. Do tài tiên đoán, Bồ-tát biết được tính ấy của hoàng tử nên bảo:

– Này bạn, bạn tàn nhẫn, dữ dằn, hung bạo và thực ra, quyền lực mà kẻ hung bạo đạt được không lâu dài. Khi quyền lực mất đi, người ấy giống như một chiếc tàu gặp nạn ngoài khơi, ông ta sẽ không đến bến bờ nào an ổn cả. Do đó, bạn chớ giữ tính tình như vậy.

Rồi ngài đọc hai bài kệ sau đây để khuyến dụ:

Nay dù bạn bình an hạnh phúc,
Hạnh phúc kia mấy chốc chẳng còn.
Của mất đi chớ khổ buồn,
Như người đi biển bão dồn ném xa.

Theo hành vi, chúng ta xuôi hướng
Mùa gặt theo như hạt giống gieo,
Hai đằng ta phải nhận vào:
Cỏ hoang độc hại, cây cao tốt lành.

Thế rồi hoàng tử từ biệt thầy và trở về Ba-la-nại. Sau khi trổ tài nghệ cho vua xem, ông được giao chức phó vương và khi vua cha chết, ông nối ngôi trị vì vương quốc. Vị giáo sĩ của nhà vua là một người tàn nhẫn, dữ dằn. Vì tham danh vọng, ông tự nghĩ: “Nếu ta gây sự cho tất cả các nhà lãnh đạo của toàn Ấn Ðộ bị ông vua này bắt hết và nếu bấy giờ ông ta là hoàng đế độc nhất thì ta sẽ là giáo sĩ độc nhất”.

Thế là ông làm cho vua nghe theo lời ông.

Vua đem đại quân tiến ra, bao vây kinh đô của một vua kia rồi bắt giữ vua ấy. Bằng những cách thức tương tự, ông chiếm hết toàn lãnh thổ Ấn Ðộ và cùng với một ngàn ông vua trong đoàn của ông, ông tiến đánh vương quốc Takkasilà. Bồ-tát sửa sang các thành lũy để ngăn quân thù xâm nhập. Vua Ba-la-nại đặt bộ tham mưu của ông ở dưới gốc cây đa to lớn. Ông truyền dựng mái đình che phía trên, chung quanh có vây màn và có chỗ nằm trải sẵn cho ông. Khi chiến đấu trên các đồng bằng Ấn Ðộ, ông đã bắt được một ngàn vua, nhưng ông lại không thể tấn công vào Takkasilà được. Ông bèn hỏi giáo sĩ:

– Chúng ta đã đến đây cùng với đạo quân gồm các vua bị bắt và chúng ta vẫn không thể chiếm được Takkasilà. Bây giờ phải làm sao?

– Tâu Ðại vương – Giáo sĩ trả lời- Hãy móc mắt một ngàn vua kia, mổ bụng họ ra và lấy thịt họ cùng với năm món thơm ngon làm lễ cúng dâng vị thần cây đa này. Hãy đào một cái rãnh quanh cây và đổ máu cho ngập tới khoảng một tấc. Và như thế chẳng bao lâu chiến thắng sẽ về ta.

Vua sẵn sàng chấp thuận. Vua giấu kín các võ sĩ khỏe mạnh đằng sau bức màn rồi cho họ gọi riêng từng ông vua kia. Các võ sĩ dùng hai cánh tay siết từng người cho đến khi họ ngất đi rồi vua sai móc mắt họ. Sau khi họ chết, vua cho mang xác ra ném ngoài sông Hằng. Thế rồi vua tổ chức tế lễ như đã nói trên, sau đó, sai đánh trống và mang quân ra trận.

Bỗng một tên quỷ Dạ-xoa từ tháp canh xông tới móc con mắt phải của vua ra. Vua quá đau đớn đến điên cuồng liền đi nằm sóng sượt trên giường dành riêng cho ông dưới gốc cây đa.

Lúc bấy giờ một con kên kên cắp một cái xương nhọn rồi đậu trên đọt cây ấy. Khi đang ăn thịt nó để rớt cái xương và đầu nhọn rơi xuống như dùi sắt trúng con mắt trái của vua, hủy luôn con mắt ấy. Lúc bấy giờ, vua nhớ lại lời dạy của Bồ-tát, ông tự nhủ: “Thầy ta đã từng nói: Người đời phải thọ kết quả tùy theo các việc làm của mình, cũng như trái cây hình thành tùy theo hạt giống vậy”, hẳn là người đã thấy tất cả sự việc này bằng con mắt trí tuệ nên nói như thế”.

Trong khi đang sầu đau, ông nói với giáo sĩ Pingiya qua hai bài kệ sau:

Nay mới hiểu lẽ chân thầy dạy
Từ lúc ta trẻ tuổi dại ngây:
Chớ gây tội ác, có ngày
Ngươi làm việc xấu bị đày đọa thôi.

Nằm ở dưới tàn cây bóng mát,
Tẩm dầu thơm ngào ngạt chiên-đàn,
Ðịch vương, ta giết cả ngàn,
Nỗi đau họ chịu, ta đang chịu cùng.

Khi khóc than như thế, vua nhớ đến hoàng hậu của ông và đọc bài kệ này:

Ub-ba-rì mặn mà,
Ôi hoàng hậu của ta,
Dáng người trông yểu điệu,
Như cành Mo-rin-ga.
Tay chân nàng thơm ngát,
Ướp dầu hương chiên-đàn,
Làm sao ta sống nổi,
Khi chẳng thấy được nàng?
Ôi chết không tàn khốc
Bằng nỗi này đau thương!

Trong khi còn đang lầm thầm các lời trên, vua chết đi và tái sanh vào địa ngục. Vị giáo sĩ tham quyền ấy không thể cứu được ông, ngay cả ông, với quyền lực của mình, vẫn không tự cứu được. Và ngay khi ông chết đi, quân đội của ông tan vỡ và tháo chạy.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ vương tử Bồ-dề là ông vua cướp nước ấy, Ðề-bà-đạt-đa là Pingiya, còn Ta chính là vị thầy lừng danh nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Rắn (Tiền thân Uraga)

Người đời bỏ xác ra…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một chủ đất có con trai chết.

Câu chuyện dẫn đầu cũng giống như chuyện của người đàn ông mất cả vợ và cha. Ở đây cũng vậy, bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư đến nhà ông và sau khi chào ông, Ngài ngồi xuống và bảo:

– Này, thí chủ, ông đang sầu khổ đấy ư?

Và ông đáp:

– Bạch Ngài, vâng, từ khi con trai của con chết, con rất đau khổ.

Ngài dạy:

– Này thí chủ, quả thật, cái gì phải tan rã thì tan rã, và cái gì bị hủy diệt thì hủy diệt; điều ấy không chỉ xảy ra cho một người, không chỉ xảy ra ở trong một làng mà ở trong vô số cảnh vật, và trong ba cách hữu sinh tam giới, không có sinh vật nào không chết, không có sự vật hiện hữu nào có thể ở mãi trong cùng một hoàn cảnh được. Mọi chúng sinh đều phải chết, mọi kết hợp đều phải tan rã. Khi bị mất một đứa con, các bậc hiền trí ngày xưa bảo. Cái gì phải hủy diệt thì bị hủy diệt, và họ không sầu khổ.

Rồi do lời yêu cầu của người ấy. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng phía ngoài cổng thành Ba-la-nại và ngài nuôi sống gia đình bằng nghề cày ruộng. Ngài có hai con: một trai và một gái. Khi con trai lớn lên, ngài cưới vợ cho anh ta từ một gia đình cùng đẳng cấp với ngài. Như thế cùng với một nữ tỳ, họ hợp thành một gia đình sáu người: Bồ-tát và vợ ngài, con trai và con gái, con dâu và nữ tỳ. Họ sống với nhau đầy tình thương và hạnh phúc. Bồ-tát khuyên dạy năm người kia:

– Tùy theo những thứ mà các người nhận vào, phải bố thí, hành trì các ngày trai giới, giữ gìn đức hạnh, sống với ý nghĩ về cái chết, chú ý đến tình trạng phải chết của con người. Trong hoàn cảnh của chúng sinh như chúng ta đây, cái chết là chắc chắn, cuộc sống không chắc chắn, tất cả sự vật hiện hữu đều là tạm bợ và phải chịu suy tàn. Do đó ngày đêm phải chú ý đến lối sống của các người.

Mọi người đều nhận lãnh lời dạy của Bồ-tát và nghiêm túc sống với ý nghĩ về cái chết.

Một hôm, Bồ-tát cùng con trai đi cày ruộng. Người con nhặt cỏ rác rồi đốt. Cách đó không xa, có một con rắn sống trong một cái đụn kiến. Bị khói làm xốn mắt, con rắn giận dữ bò ra khỏi hang và nghĩ: “Tất cả chuyện này là do tên ấy” và nó phóng tới cắn vào anh ta bằng bốn cái răng cửa của nó. Người thanh niên ngã xuống chết.

Khi thấy anh ngã xuống, Bồ-tát rời mấy con bò chạy tới, và thấy rằng anh ta đã chết, ngài ẵm lên và đặt anh nằm dưới gốc cây nọ. Ngài lấy áo choàng phủ lên anh, không hề khóc lóc sầu đau. Ngài bảo:

– Cái gì phải tan rã thì tan rã, cái gì phải chết thì chết. Tất cả những hiện hữu kết hợp đều tạm bợ và phải chết.

Biết được tính chất tạm bợ của sự vật, ngài tiếp tục việc cày bừa. Trông thấy một người hàng xóm đi qua gần đám ruộng, ngài hỏi:

– Này bạn, có phải bạn đang về nhà đấy không?

Người ấy trả lời:

– Vâng.

Ngài bảo:

– Nhờ bạn đến nhà chúng tôi và nói với bà chủ, hôm nay không phải đem đồ ăn cho hai người như trước, mà chỉ đem cho một người thôi. Và mọi khi chỉ một mình nữ tỳ mang thức ăn đến, thì hôm nay cả bốn người trong nhà phải mặc quần áo sạch sẽ và mang hương hoa đến đây.

– Ðược rồi.

Người ấy đáp và đi nói đúng các lời trên với vợ của vị Bà-la-môn ấy.

Bà hỏi:

– Này bác, ai nhắn tin này thế?

Người ấy đáp:

– Thưa bà, ông Bà-la-môn đấy.

Thế là bà hiểu rằng con trai bà đã chết. Nhưng bà không run sợ, bà sai soạn thức ăn rồi cùng với những người khác trong gia đình ra đồng. Nhưng không ai, kể cả bà, nhỏ một giọt nước mắt hay than van. Khi Bồ-tát dùng bữa xong, mọi người chất củi và nâng xác để lên giàn hỏa táng, họ dâng hương, hoa rồi châm lửa thiêu. Chẳng ai nhỏ một giọt nước mắt. Tất cả đều an trú vào ý nghĩ về cái chết.

Hiệu lực đức hạnh của họ làm cho ngai của Thiên chủ Ðế Thích nóng lên. Ðế Thích tự bảo:

– Ủa, kẻ nào muốn hạ ta xuống khỏi ngai thế này?

Thiên chủ suy tưởng và phát hiện rằng hơi nóng này là do mãnh lực đức hạnh hiện hữu trong những người ấy. Rất sung sướng, Thiên chủ nói:

– Ta phải đến nơi họ và vui mừng la lớn như tiếng rống của sư tử rồi ngay sau đó sẽ lấy thất bảo đổ đầy chỗ của họ.

Thiên chủ vội vàng đến đó và đứng bên giàn hỏa táng nói:

– Các ngươi đang làm gì thế?

– Thưa ngài, chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thiên chủ nói:

– Không phải các ngươi đang thiêu một người, có lẽ các người đang quay thịt một con vật nào đó mà các người đã giết.

Họ đáp:

– Không phải thế đâu, thưa ngài, đúng là chúng tôi đang thiêu xác của một người.

Thế rồi Thiên chủ nói:

– Vậy chắc hẳn là một kẻ thù nào đấy.

Bồ-tát đáp:

– Ðấy chính là con trai ruột của chúng tôi, chứ không phải kẻ thù nào cả.

– Thế thì hẳn anh ta không được ông yêu mến.

– Tôi rất yêu mến nó, thưa ngài.

– Thế tại sao ông không khóc?

Rồi để giải thích lý do tại sao ngài không khóc, Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ðời người bỏ xác ra,
Khi niềm vui sống qua,
Như rắn kia vẫn thế,
Thường lột vỏ thay da.

Không lời nào thương tiếc
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của Bồ-tát, Ðế Thích hỏi bà vợ của ngài:

– Thưa bà, người chết liên hệ thế nào với bà?

– Tôi mang nó mười tháng trong bào thai, cho nó bú sữa của tôi, dạy cho nó cử động tay chân, đi đứng và thưa ngài nó là đứa con trưởng thành của tôi đấy.

– Thưa bà, do bản tính đàn ông, một người cha không khóc là phải, nhưng trái tim một người mẹ chắc chắn là mềm yếu. Thế sao bà lại không khóc?

Bà đọc hai bài kệ để giải thích vì sau bà không khóc:

Không gọi nó đến đây,
Chẳng sai nó đi ngay,
Nó đi như nó đến,
Sao lại phải sầu cay?

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của vợ Bồ-tát, Ðế Thích hỏi cô em gái:

– Thưa cô, người chết là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là anh tôi.

– Thưa cô, chị em gái chắc chắn thương yêu anh em trai. Tại sao cô lại không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

Dù nhịn đói, khóc than,
Ích gì được cho con,
Ôi, bà con thân thuộc,
Sẽ nhiều đau khổ hơn.

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao còn phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của cô em gái, Ðế Thích hỏi cô vợ:

– Thưa cô, anh ta là gì của cô?

– Thưa ngài, anh ấy là chồng của tôi.

– Khi chồng chết, các bà là những góa phụ bơ vơ. Tại sao cô không khóc?

Ðể giải thích lý do tại sao mình không khóc, cô ta đọc hai bài kệ:

Như con trẻ kêu gào,
Ðòi vô vọng trăng cao,
Khóc than người yêu mất,
Người đời ngớ ngẩn sao!

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi lại buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Nghe xong những lời của cô vợ, Thần Ðế Thích hỏi người nữ tỳ:

– Này bà, anh ấy là gì của bà?

– Thưa ngài, ông ấy là chủ của tôi.

– Chắc chắn rằng bà phải bị anh ta la mắng, đánh đập, áp bức, do đó bà nghĩ rằng may quá anh ta đã chết nên bà không khóc.

– Thưa ngài, chớ nói như thế. Cậu ấy không phải thế đâu. Cậu chủ tôi rất chịu đựng, yêu mến và thương xót tôi, cậu ấy cũng như con nuôi của tôi vậy.

– Thế thì tại sao bà không khóc?

Và để giải thích tại sao mình không khóc, người nữ tỳ đọc hai bài kệ:

Một bình đất đã vỡ,
Ai ráp lại được vào,
Khóc than cho người chết,
Chỉ chuốc thất bại vào.

Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.

Sau khi nghe tất cả mọi người nói, Ðế Thích rất thích thú liền nói:

– Các ngươi đã thận trọng sống với ý nghĩ cái chết. Từ nay các ngươi khỏi phải tự tay cày bừa nữa. Ta là Ðế Thích, vua cõi trời. Ta sẽ tạo ra vô số thất bảo trong nhà các ngươi. Hãy bố thí, giữ đạo đức, hành trì ngày trai giới, quan tâm đến cách sống.

Sau khi khuyến dụ họ, Thiên chủ tạo ra vô số của cải trong nhà họ rồi ra đi.

*

Sau khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư tuyên dạy Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, người chủ đất đắc quả Dự Lưu.

Và bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Khujjutarà là người nô tỳ, Uppalavannà là người con gái, Ràhula còn con trai, Khemà là người mẹ, còn Ta là người Bà-la-môn ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền thân Ghata)

Khi kẻ khác khóc than sầu khổ…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ viên về một ông quan của vua Kosalà.

Câu chuyện khởi đầu giống chuyện đã kể. Nhưng ở đây, sau khi ban vinh dự lớn lao cho một ông quan, vua lại nghe lời sàm tấu và truyền bắt ông ta bỏ vào ngục. Khi nằm trong ngục, ông quan ấy nhập Dự Lưu. Sau đó vua biết được công đức của ông và thả ra. Ông mang một tràng hoa thơm và đến tham bái bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có việc xấu nào đã xảy đến với ông không. Ông đáp:

– Bạch Thế Tôn có. Nhưng qua việc xấu ấy, việc tốt lại đến với con. Con đã nhập Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Ðúng thế, không phải chỉ bấy giờ, các bậc hiền trí ngày xưa cũng được điều tốt từ điều xấu.

Rồi do yêu cầu của ông quan, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của chánh hoàng hậu. Người ta gọi ngài là thái tử Ghata. Sau đó ngài đạt kiến thức về các học nghệ ở Takkasilà và trị vì vương quốc của ngài rất công chính.

Bấy giờ một ông quan nọ tỏ ra phẩm hạnh xấu trong nội cung. Sau khi tận mắt chứng kiến việc phạm gian, vua liền đuổi ông ra khỏi vương quốc. Lúc ấy, một vị vua tên là Vanka trị vì ở Xá-vệ. Ông quan đến phục vụ cho vua ấy đúng như câu chuyện trước đây số 303, được vua nghe lời và xúi vua chiếm vương quốc Ba-la-nại.

Sau khi chiếm đoạt vương quốc này, vua ấy bắt trói Bồ-tát bằng dây xích và bỏ ngài vào ngục. Bồ-tát nhập định và ngồi tréo chân trên không. Vanka bị nóng hừng hực trong thân thể, liền chạy đến Bồ-tát, trông thấy dung mạo của ngài sáng ngời, đẹp như một hoa sen nở, giống như một tấm kính bằng vàng. Qua hình thức một lời hỏi, ông đọc bài kệ đầu:

Khi kẻ khác khóc than sầu khổ,
Má người kia lệ nhỏ đầm đìa,
Mặt ngài vẫn nụ cười kia,
Ga-ta há chẳng bao giờ kêu than?

Ðể giải thích tại sao ngài không sầu khổ, Bồ-tát đọc các bài kệ sau đây:

Chuyện đã qua, buồn nào thay đổi được,
Buồn nào gây hạnh phúc ở tương lai?
Cớ sao ta than vãn khổ đau này?
Sầu muộn chẳng đáng cho ta làm bạn.

Kẻ mang bệnh khổ sầu thì suy tận,
Các thức ăn thành vô vị nhạt màu,
Như trúng tên mồi thịt của sầu đau
Làm trò tếu cho kẻ thù tiêu khiển.

Nhà ta ở, dù trên đất, ngoài biển.
Dù trong làng hay heo hút rừng già,
Không bao giờ sầu não đền gần ta,
Hồn đã thiện, chẳng có gì để sợ.

Còn kẻ nào chưa kiện toàn đến độ,
Bị nấu nung vì tham dục lắm đàng,
Cả cõi đời cùng của cải tệ tàn
Cũng không hề đủ thỏa lòng tham muốn.

Sau khi nghe xong bốn bài kệ ấy, Vanka xin Bồ-tát tha thứ và giao trả lại vương quốc cho ngài rồi đi theo đường mình. Nhưng Bồ-tát trao vương quốc cho các đại thần, ngài lui vào dãy Tuyết Sơn và trở thành một nhà tu khổ hạnh. Không hề ngưng thiền định, ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ànanda là vua Vanka, còn Ta là Ghata.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Kàrandiya (Tiền thân Kàrandiya)

Sao một mình trong rừng…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về Tướng quân Chánh pháp Sàriputta.

Trong truyền khi có bọn người ác như thợ săn, chài lưới v.v… đến với ngài, Trưởng lão đều giảng đạo đức cho họ, và ngài cũng giảng cho bất cứ ai mà ngài có dịp gặp. Ngài bảo:

– Hãy nhận Giáo Pháp.

Do lòng tôn kính Trưởng Lão, họ không thể cưỡng lời ngài. Và khi nhận Giáo pháp xong, họ không thể hành trì mà ai nấy cứ tiếp tục theo lối làm ăn riêng của mình. Trưởng lão đến thổ lộ với chúng Tỷ-Kheo để hỏi ý kiến:

– Này các Hiền giả, những người ấy được tôi truyền Pháp, nhưng không giữ đạo.

Các Tỷ-Kheo trả lời:

– Thưa Tôn giả, ngài giảng Pháp cho họ trái với mong ước của họ và vì họ không dám cưỡng lại lời ngài nên họ chấp nhận đấy thôi. Từ nay ngài chớ giảng Pháp cho những người như thế.

Trưởng lão không thuận ý.

Nghe được chuyện ấy, các Tỷ-Kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường cách Trưởng lão Sàriputta đã thuyết Pháp cho bất cứ ai mà ngài gặp. Bậc Ðạo Sư đến hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn chuyện gì. Khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, ông ấy giảng pháp cho bất cứ ai mà ông gặp dù họ chẳng yêu cầu.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trì vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra và lớn lên trong gia đình rồi trở thành đệ tử trưởng của một giáo sư lừng danh tại Takkasilà. Bấy giờ vị giáo sư giảng đạo pháp cho bất cứ người nào mà ông có thể gặp như những người đánh cá v.v… Dù họ không muốn, ông luôn bảo họ nhận pháp. Nhưng dù họ đã nhận pháp, họ cũng không giữ đạo. Giáo sư nói điều ấy cho các môn đệ nghe. Các môn đệ thưa:

– Thưa thầy, thầy thuyết giảng cho họ ngược lại với những mong cầu của họ và do đó, họ phá bỏ pháp. Từ nay, thầy hãy thuyết giảng cho những kẻ nào muốn nghe thầy thôi chứ đừng thuyết giảng cho những ai không muốn.

Vị giáo sư rất ân hận nhưng ông cứ giảng pháp cho bất cứ ai mà ông được gặp.

Một hôm, một số người từ một ngôi làng kia đến mời giáo sư tham dự cuộc dâng bánh cho các Bà-la-môn. Ông cho gọi vị môn đệ tên là Kàrandiya và bảo:

– Này con, ta không đi, con hãy đến đó với năm trăm môn đệ này rồi nhận bánh và mang về phần bánh chia cho ta.

Ông sai vị môn đệ ấy như thế. Vị môn đệ ấy ra đi. Trên đường về, chàng trông thấy một cái hang và chợt có ý nghĩ: “Thầy ta giảng pháp cho bất cứ ai ngài gặp mà không cần họ yêu cầu. Từ nay ta chỉ khiến ngài giảng cho những ai muốn nghe ngài thôi”.

Thế rồi trong khi các môn đệ khác đang ngồi nghỉ thoải mái, chàng đứng lên đi khuân những tảng đá lớn ném vào trong hang, chàng cứ khuân đá ném mãi. Những người kia đứng dậy và nói:

– Này đại huynh, anh đang làm gì thế?

Kàrandiya không nói một lời nào. Họ vội trở về kể chuyện cho thầy họ nghe. Vị thầy đến nói chuyện với Kàrandiya bằng bài kệ đầu:

Sao một mình trong rừng
Từng tảng đá con khuân,
Ném đá như có ý
Lấp bằng hang núi chăng?

Nghe thế Kàrandiya muốn thức tỉnh thầy mình liền đọc bài kệ:

Con muốn làm đảo này
Phẳng như lòng bàn tay,
San bằng gò đồi nọ,
Chỗ trũng, đá lấp đầy.

Thầy Bà-la-môn nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:

Ðời nào một phàm nhân
Có sức lấp đất bằng?
Kà-ran khó hy vọng
Ðọ sức với hang cùng.

Người môn đệ nghe xong liền đọc bài kệ thứ tư:

Nếu một kẻ phàm nhân,
Không thể san đất bằng,
Ngoại nhân há chịu nhận
Quan điểm thầy hay chăng?

Nghe thế, vị giáo sư trả lời thích đáng, bấy giờ ông hiểu rằng những người khác có thể không giống như ông. Ông tự nhủ: “Ta sẽ không làm như thế nữa”, và đọc bài kệ thứ năm:

Này Kà-ran-di-ya,
Bạn khuyên tốt cho ta,
Ðất không san phẳng được,
Ý người chẳng đồng hòa.

Giáo sư ca ngợi môn đệ của mình. Và vị môn đệ sau khi khuyến dụ thầy mình như vậy liền dẫn thầy về nhà.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Xá-lợi-phất là người Bà-la-môn, còn Ta chính là môn sinh Kàrandiya.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Cút (Tiền thân Latukikà)

Hỡi voi tuổi sáu mươi….,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm về Ðề-bà-đạt-đa.

Một hôm các Tỷ-Kheo bàn thảo trong Pháp đường:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa thật hung ác, dữ dằn và tàn bạo. Ông ta chẳng chút lòng thương xót nào đối với chúng sinh.

Khi bậc Ðạo Sư đến, Ngài hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn chuyện gì và sau khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa cũng thế, ông ấy cũng chẳng có chút thương xót nào.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm một con Voi. Khi lớn lên ngài là một con vật chững chạc đàng hoàng. Ngài trở thành chúa của một đàn mười tám ngàn con và sống trong dãy Tuyết Sơn.

Bấy giờ có một con chim Cút đẻ trứng trong vùng đất sinh sống của đàn voi. Khi trứng nở, bầy chim con phá vỏ trứng ra ngoài. Trước khi bầy chim mạnh cánh và đang lúc chưa thể bay được, bậc Ðại Sĩ cùng với đàn tám chục ngàn con voi đi đây đó kiếm ăn, đã đến chỗ ấy. Khi trông thấy đàn voi, chim Cút tự nghĩ: “Vị vương tượng này sẽ dẫm chết các con thơ của ta. Ờ! ta sẽ cầu xin ông ta che chở và bảo vệ cho tổ của ta”. Thế rồi nó nhấc đôi cánh lên, đứng trước ngài và đọc bài kệ đầu:

Hỡi Voi tuổi sáu mươi,
Chúa rừng của đồng loài,
Ta chỉ là chim nhỏ,
Còn ngài lãnh đạo bầy,
Cánh nâng, tôi kính cẩn
Xin tha lũ con này.

Bậc Ðại Sĩ bảo:

– Này Cút, chớ lo sợ. Ta sẽ che chở cho các con thơ của ngươi.

Ngài đứng che lên trên bọn chim nhỏ trong khi tám mươi ngàn voi kia đi qua, rồi ngài dặn Cút:

– Ðằng sau bọn ta có một con voi lẻ bầy rất gian ác. Nó không chịu làm theo lời bọn ta. Khi nó đến, ngươi cũng phải van xin nó để bảo đảm an toàn cho lũ con ngươi.

Nói xong ngài bỏ đi, con Cút đi đến gặp con voi kia và nâng cánh lên kính cẩn chào rồi đọc bài kệ thứ hai:

Khắp thung lũng, núi đồi
Ngài riêng một đường thôi,
Vua rừng, tôi năn nỉ
Nâng cánh cúi can ngài,
Tôi chỉ là Cút mọn
Xin tha lũ con tôi.

Nghe Cút nói xong, Voi đọc bài kệ thứ ba:

Cút ơi, ta sẽ giết con mi
Hèn mọn như mi giúp được chi?
Chân trái ta đây đè bẹp hết
Mấy ngàn chim nhỏ vẫn thường khi.

Nói thế xong nó giơ chân dẫm nát bọn chim nhỏ, rồi tiểu tiện lên chúng làm cho chúng trôi theo dòng nước, sau đó rống lên và bỏ đi. Con cút đậu trên một cành cây nói:

– Mi hãy cút đi và rống lên đi. Rồi đây mi sẽ thấy ta làm gì. Mi chẳng biết sức mạnh của thân thể và sức mạnh của trí óc khác nhau như thế nào. Ðược rồi! Ta sẽ dạy cho mi một bài học.

Hăm dọa Voi như thế, Cút đọc bài kệ thứ tư:

Bạo lực không là được lợi luôn,
Mạnh thường là họa của si cuồng,
Thú kia đã giết con ta chết,
Ác ấy ta đây sẽ tính đường.

Nói xong, ít lâu sau Cút đến thăm một con Quạ, bấy giờ Quạ đang cao hứng hỏi Cút:

– Ta giúp gì được cho bạn đây?

Cút bảo:

– Chẳng có gì đâu bác ạ, tôi chỉ mong bác lấy mỏ móc hai con mắt con Voi gian ác kia.

Quạ sẵn sàng nhận lời. Cút đến giúp việc một con Ruồi xanh. Khi Ruồi xanh hỏi:

– Ta làm gì được cho bạn đây?

Cút đáp:

– Khi con Voi gian ác kia bị Quạ móc mắt xong, tôi muốn bạn đẻ trứng vào mắt nó.

Ruồi xanh nhận lời xong Cút đến giúp một con Ếch và khi Ếch bảo cần gì thì Cút bảo:

– Khi con Voi gian ác kia bị mù, nó sẽ tìm nước để uống, bấy giờ bạn hãy đứng trên đỉnh núi và kêu lên. Khi Voi trèo lên đỉnh núi thì bạn hãy xuống đáy dốc mà kêu lên. Ðấy là điều tôi rất mong bạn giúp.

Sau khi nghe Cút nói, Ếch sẵn sàng nhận lời. Thế rồi một hôm, Quạ dùng mỏ móc cả hai mắt con voi ấy, Ruồi đẻ trứng vào mắt nó. Bị bọn dòi rút rỉa, voi cuồng lên vì đau đớn. Rồi bị cơn khát chế ngự, Voi đi khắp nơi để tìm nước uống. Lúc ấy, Ếch đứng trên đỉnh núi kêu lên. Voi tự nghĩ: “Nơi ấy hẳn phải có nước”. Rồi nó trèo lên núi. Ếch liền xuống dưới chân núi mà kêu lên nữa. Voi tự nghĩ: “Sẽ có nước nơi ấy”, rồi lần mò tiến tới dốc núi và bị lăn cù, rơi xuống đáy núi mà chết. Khi biết rằng Voi đã chết, Cút nói:

– Ta đã toàn thắng kẻ thù.

Và khi toàn thân ngập trong hạnh phúc cao độ, Cút chết và đi theo nghiệp của mình.

*

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, Ta không nên chuốc lấy thù hận với bất cứ ai. Bốn con vật ấy hợp lại với nhau đã diệt được con Voi mạnh mẽ như thế kia.

Cút cùng Quạ, Ruồi xanh, Ếch hợp lại,
Từng chứng minh kết quả của thù hằn,
Vương tượng kia vì chúng chết oan thân,
Vậy hãy tránh hết mọi điều tranh cãi.

Sau khi đọc bài kệ phát xuất từ Trí Tuệ toàn hảo, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là con Voi gian ác kia, còn Ta là con Voi đầu đàn.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Vương Hộ Pháp (Tiền thân Culladhammapàla)

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc lâm về cách Ðề-bà-đạt-đa mưu toan giết Bồ-tát.

Trong tất cả các Tiền thân khác, Ðề-bà-đạt-đa không làm sao gây cho Bồ-tát một tý nào kinh hãi. Nhưng trong Tiền thân Culladhammapàla, khi Bồ-tát mới lên bảy tháng, ngài bị Ðề-bà-đạt-đa chặt tay chân, chặt đầu và khắp thân thể ngài bị gươm đâm như có đeo vào một tràng hoa vậy. Trong Tiền thân Daddara, Ðề-bà-đạt-đa giết Bồ-tát bằng cách vặn cổ ngài, quay thịt ngài trong lò rồi ăn thịt ấy. Trong Tiền thân Khantivàda (số 313), Ðề-bà-đạt-đa đánh Bồ-tát hai ngàn roi và ra lệnh chặt tay, chân, tai, mũi ngài, nắm tóc ngài kéo đi và khi ngài nằm ngã sóng soài ra thì ông ta đánh vào bụng ngài rồi bỏ đi; Bồ-tát chết ngay ngày hôm đó. Nhưng trong cả hai Tiền thân Cullanandaka và Vevatiyakapi (chưa được xác định), ông ta chỉ ra lệnh giết ngài mà thôi. Trong một thời gian dài, Ðề-bà-đạt-đa cứ lo toan tìm cách giết Bồ-tát và vẫn còn tiếp tục làm như thế ngay cả khi Ngài đã trở thành một đức Phật.

Một hôm, các Tỷ-Kheo bàn tán trong Pháp đường:

– Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa vẫn tiếp tục lập âm mưu giết hại đức Phật. Cố ý giết đức Thế Tôn, ông ta sai bọn cung thủ bắn Ngài, ông ta lăn đá vào Ngài và thả con voi Nàlàgiri đến hại Ngài.

Khi bậc Ðạo Sư đến, Ngài hỏi các Tỷ-Kheo đang họp bàn vấn đề gì, khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ mà xưa kia cũng thế, ông ta cứ tìm cách giết Ta, nhưng giờ đây ông ta không thể làm Ta mảy may sợ hãi, dù xưa kia Ta là hoàng tử Dhammapàla, dù Ta là con ruột của ông, ông cũng gây ra cái chết cho Ta bằng cách chặt, đâm gươm vào khắp cả thân Ta như thể nó mang một tràng hoa vậy.

Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Mahàpatàpa đang trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con trai của chánh hoàng hậu Candà và người ta đặt tên ngài là Dhammapàla (Hộ Pháp).

Khi ngài lên bảy tháng, mẹ ngài tắm ngài trong nước thơm, mặc quần áo sang trọng cho ngài và ngồi chơi với ngài. Vua đến cung thất của hoàng hậu. Vì bà đang chơi với con trai, ngập tràn tình mẹ đối với con nên đã quên đứng dậy chào đón vua. Vua tự nghĩ: “Giờ đây người đàn bà này đầy tự hào về đứa con trai, coi ta không bằng một cọng rơm; đến khi đứa bé lớn lên, bà ta sẽ nghĩ: Ta chỉ có một người là con trai ta, và chẳng để ý gì đến ta. Ta sẽ bảo giết nó ngay”.

Vì thế, ông quay trở về, ngồi trên ngai và gọi viên quan hành hình đến trình diện cùng với mọi dụng cụ hành sự. Người ấy mặc áo vàng mang tràng hoa đỏ sẫm, vai vác rìu, tay cầm một cái thớt và một cái chậu đến đứng trước vua, chào vua và nói:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì ạ?

Vua phán:

– Ðến vương phòng của hoàng hậu và mang Dhammapàla lại đây.

Hoàng hậu biết rằng vua đã giận dữ bỏ đi nên bà đã đặt Bồ-tát vào lòng và ngồi khóc. Viên quan hành hình đến và tống một đấm vào lưng bà, giật Bồ-tát ra khỏi tay bà rồi mang đến cho vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì nữa?

Vua sai mang một tấm ván đến đặt trước mặt ông và nói:

– Ðặt nó vào đó.

Người ấy làm theo lời vua. Nhưng hoàng hậu đã đến đứng ngay sau con mình và khóc. Viên quan hành hình lại nói:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì nữa ạ?

Vua bảo:

– Hãy chặt hai bàn tay của Dhammapàla.

Hoàng hậu thưa:

– Ðại vương, con trai tôi chỉ là một đứa bé lên bảy tháng. Nó có biết gì đâu! Lỗi không phải là của nó. Nếu có lỗi nào thì đấy là lỗi của tôi. Do đó ngài hãy sai chặt tay tôi đi!

Rồi để cho rõ nghĩa, bà đọc bài kệ đầu:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt tay tôi, người bất hạnh.

Vua nhìn viên quan hành hình, y hỏi:

– Tâu đại vương, ngài cần gì?

Vua phán:

– Chớ chần chờ, chặt tay đứa bé đi!

Lúc ấy viên quan hành hình lấy cái rìu sắt chặt đứt hai bàn tay như những búp măng của Bồ-tát. Khi đôi tay bị chặt đứt, hài nhi vẫn không khóc, không than mà chỉ chịu đựng với lòng kham nhẫn, nhân từ. Nhưng hoàng hậu Candà lượm các đầu ngón tay của con đặt vào lòng, máu vấy khắp, bà than khóc thảm thiết. Viên quan hành hình lại hỏi:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì?

Vua đáp:

– Chặt hai bàn chân nó.

Nghe thế, Candà đọc đoạn thơ thứ hai:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pa-la,
Và hãy chặt chân tôi, người bất hạnh.

Nhưng vua ra hiệu cho viên quan hành hình và ông chặt cả hai chân Bồ-tát. Hoàng hậu Candà lượm hai bàn chân con đặt vào lòng máu me vấy khắp, bà than khóc và nói:

– Tâu Ðại vương Mahàpatàpa, mẹ phải chăm nuôi con. Tôi sẽ làm việc để kiếm tiền chăm nuôi nó. Xin ngài giao nó cho tôi.

Viên quan hành hình nói:

– Tâu Ðại vương, ngài đã thỏa ý chưa? Công việc của tôi thế là xong chưa?

Vua bảo:

– Chưa đâu!

– Tâu Ðại vương, thế ngài cần gì nữa?

– Chặt đầu nó đi. Vua bảo.

Candà lại đọc bài kệ thứ ba:

Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa,
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt đầu tôi, người bất hạnh.

Nói xong, hoàng hậu đưa đầu mình ra. Viên quan hành hình lại bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài cần gì?

– Chặt đầu đứa bé đi! Vua phán.

Thế rồi người ấy chặt đầu Bồ-tát và hỏi:

– Tâu Ðại vương, ngài đã thỏa ý chưa?

– Chưa. Vua bảo.

– Thưa Ðại vương, còn phải làm gì nữa?

Vua nói:

– Hãy lấy gươm đâm nó, lấy gươm mà cắt quanh thân nó, làm như nó có đeo tràng hoa vậy.

Người ấy tung thân Bồ-tát lên không lấy mũi gươm đâm vào, rồi cắt quanh thân ngài làm như thân có đeo một tràng hoa và rải các miếng thịt trên bệ. Candà đặt thịt của Bồ-tát vào lòng, ngồi xuống than khóc và đọc các bài kệ sau đây:

Cận thần chẳng ai can
Một lời với chúa công:
Chớ giết kẻ thừa kế
Từ ruột ngài nên thân!

Thân quyến chẳng một người
Nhẹ khuyên vua một lời:
Chớ giết đi hoàng tử
Ngài đã ban cuộc đời!

Ðọc hai bài kệ ấy xong, hoàng hậu Candà đè hai bàn tay lên ngực đọc bài kệ thứ sáu:

Hỡi Dham-ma-pà-la,
Dòng chính thống sinh ra;
Ðể trị vì trọn cõi
Tay con từng tắm dội,

Với dầu thơm chiên-đàn,
Nay nằm đấy, máu tràn.
Hỡi ôi, ta nghẹn thở,
Nghẹn cả lời kêu than.

Trong khi bà than vãn như thế, trái tim bà vỡ ra như một cây tre nổ giữa khu rừng đang cháy và bà ngã xuống chết ngay tại đó. Vua cũng không thể ngồi trên ngai vàng mà ngã xuống bệ. Ngay đó, đất nứt ra làm hai và vua rơi vào chỗ nứt ấy. Ðất rắn chắc dù dày gấp hàng ngàn lần hơn hai trăm ngàn dặm vẫn không thể chịu nổi sự hung ác của ông ta, đã nứt ra làm đôi và mở rộng khe ra. Lửa từ ngục Avìci (A-tỳ) vọt ra ập vào bọc lấy vua như một vương bào bằng len, rồi dìm ông vào ngục A-tỳ.

Các đại thần làm lễ tống táng hoàng hậu Candà và Bồ-tát.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa là vua, Mahàpajàpati là Candà, còn ta là hoàng tử Dhammapàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền thân Suvannamiga)

Hỡi chân vàng hãy dồn hết sức…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một thiếu nữ thuộc gia đình quí phái ở Xá-vệ.

Cô ta là con gái của một người hầu cận hai vị Trưởng Tỷ-Kheo ở Xá-vệ và là một tín đồ thuần thành, liên hệ thân thiết với Phật, Pháp, Tăng, thường xuyên làm việc thiện, thông tuệ đối với đạo giải thoát, chuyên tâm bố thí và những hành vi đạo đức như thế.

Một gia đình khác ở Xá-vệ, cùng một đẳng cấp nhưng theo ngoại đạo hỏi cưới cô ta. Cha mẹ cô bảo:

– Con gái của chúng tôi là một tín đồ thuần thành, qui y Tam bảo, bố thí và làm các việc thiện, nhưng ông bà lại có quan điểm ngoại đạo. Và vì ông bà sẽ không cho phép nó bố thí, hoặc nghe Pháp, hoặc đến thăm tinh xá, giữ giới luật đạo đức, tuân hành các ngày trai giới như nó vẫn muốn nên chúng tôi sẽ không gả nó về nhà quí vị được. Hãy chọn một thiếu nữ thuộc một gia đình ngoại đạo giống như quí vị vậy.

Khi lời cầu hôn của gia đình kia bị từ chối, họ bảo:

– Xin cứ cho con gái của quí vị đến nhà chúng tôi và làm mọi việc như thế đúng theo ý muốn của cô. Chúng tôi sẽ không ngăn cản cô ta đâu. Xin hãy chấp thuận yêu cầu ấy.

Gia đình cô gái bảo:

– Thế thì quí vị hãy đem nó về đi.

Lễ cưới được cử hành vào một ngày tốt lành và cô gái được đưa về nhà chồng. Cô tỏ ra rất chuyên chính trong việc hoàn tất các bổn phận, là một người vợ tận tụy, một nàng dâu đảm đang đối với cha mẹ chồng.

Một hôm cô nói với chồng:

– Chàng ơi, em muốn cúng dường các Tỷ-Kheo của gia đình ta.

– Ðược lắm, em ạ. Em cứ cúng dường đúng như em thích.

Thế là một hôm cô mời các Tỷ-Kheo ấy và tổ chức một cuộc khoản đãi lớn. Cô cúng dường các thức ăn hảo hạng và cung kính ngồi cách xa các vị ấy và bảo:

– Bạch chư Tôn giả, gia đình này ngoại đạo và không có lòng tin. Họ không biết giá trị của Tam bảo. Dù thế, xin chư vị cứ tiếp tục nhận thực phẩm nơi đây cho đến khi họ hiểu được giá trị của Tam Bảo.

Các Tỷ-Kheo nhận lời và tiếp tục thọ thực tại đó. Cô lại bảo với chồng:

– Chàng ơi, quí Tỷ-Kheo vẫn thường xuyên đến đây luôn, sao chàng không ra gặp các ngài?

Nghe thế, chàng đáp:

– Tốt lắm, ta sẽ ra gặp các ngài.

Ngày hôm sau, khi các Tỷ-Kheo thọ thực xong, cô ta lại nhắc chồng. Chàng đến ngồi xuống một bên và từ tốn thưa chuyện cùng các vị ấy. Thế rồi Tướng quân Chánh Pháp Sàriputta thuyết Pháp cho chàng. Chàng rất thích thú nghe giảng và nhìn thấy thái độ nhu hòa ân cần của các Tỷ-Kheo, nên từ hôm đó trở đi chàng luôn luôn soạn sẵn thảm cho các Trưởng Lão ngồi và lọc nước cho các vị ấy dùng và trong khi các vị ấy thọ thực, chàng chăm chú nghe giảng Pháp. Chẳng bao lâu, chàng không còn theo các quan điểm ngoại đạo nữa.

Thề rồi một hôm, Trưởng Lão giảng Pháp, tuyên thuyết Tứ Ðế cho hai vợ chồng ấy và khi bài thuyết giảng chấm dứt, cả hai vợ chồng đều đắc quả Dự Lưu. Từ đó, tất cả mọi người trong gia đình ấy, từ các bậc cha mẹ cho đến người giúp việc đều bỏ hết các tà kiến ngoại đạo và hết lòng vì Phật, Pháp, Tăng.

Một hôm, cô gái bảo với chồng:

– Chàng ơi, em có gì liên quan với đời sống gia đình nữa đâu? Em mong được sống đời tu hành.

Chàng đáp:

– Tốt lắm em ạ, ta cũng muốn trở thành một nhà tu khổ hạnh.

Thế là chàng vui vẻ dẫn cô đến một Ni chúng và cô được nhận làm một Sa-di-ni, còn chàng cũng đến với bậc Ðạo Sư để xin vào Tăng Ðoàn. Lúc đầu bậc Ðạo Sư nhận chàng làm Sa-di, sau đó cho chàng thọ giới Tỷ-Kheo. Cả hai đều đạt tuệ nhãn và chẳng bao lâu đắc Thánh quả.

Một hôm, các Tỷ-Kheo bàn tán trong pháp đường:

– Này các Hiền giả, người phụ nữ nọ nhờ lòng tin của chính mình và của chồng mà trở thành một Sa-di-ni. Rồi cả hai người sống cuộc đời Phạm hạnh, đạt tuệ nhãn và đắc Thánh quả.

Bậc Ðạo Sư đến hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn chuyện gì và sau khi nghe thuật lại, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-Kheo, không phải chỉ bây giờ cô ấy mới giải thoát cho chồng khỏi những ràng buộc của khổ đau. Xưa kia cũng thế, cô cũng đã giải thoát các bậc hiền trí khỏi những ràng buộc của cái chết.

Ngài dạy đến đó rồi im lặng, nhưng vì các Tỷ-Kheo thúc nài, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Nai vàng và lớn thành một con vật đẹp đẽ duyên dáng với màu sắc vàng ròng. Ðôi chân trước và sau của ngài như được phủ bằng một thứ sơn bóng. Sừng như bằng bạc, mắt như những viên ngọc, miệng như một cuộn len đỏ. Con Nai cái, vợ Ngài, cũng là một con vật rất xinh đẹp. Cả hai sống hòa hợp, hạnh phúc với nhau. Tám vạn nai đốm đi theo hầu Bồ-tát.

Trong khi bầy nai sống nơi ấy, một người thợ săn đặt bẫy vào chỗ nai lui tới. Một hôm, đang dẫn dắt bầy nai, Bồ-tát bị mắc chân vào bẫy. Ðể làm đứt dây thòng lọng, ngài giựt mạnh đến đứt cả da chân. Ngài lại giựt nữa và bị đứt tới thịt. Lần thứ ba, ngài lại giựt và bị phạm tới gân. Rồi cái dây thắt vào tận xương. Không thể phá bẫy được, Nai rúng động vì sợ chết đến độ kêu la từng hồi. Nghe thế bầy nai kinh hoàng chạy trốn. Nhưng con Nai cái, trong lúc chạy trốn, không thấy Bồ-tát trong bầy liền nghĩ: “Hẳn là nỗi kinh hoàng có liên hệ đến chồng ta rồi”. Rồi Nai cái vội phóng đến bên chồng tuôn trào nước mắt và than:

– Chàng ơi, chàng mạnh mẽ đến thế, sao lại không thắng được cái bẫy chứ? Hãy cố sức mà tàn phá bẫy đi!

Ðể khích lệ Bồ-tát, vợ ngài đọc bài kệ đầu:

Hỡi chân vàng, hãy dồn hết sức,
Ðể thoát ra cho dứt bẫy này,
Mất chàng, há thiếp vui say
Thảnh thơi dong ruổi đó đây trong rừng?

Nghe thế, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Ta đây đã quá chừng cố gắng,
Tự do nào đạt đặng đâu mà!
Càng vùng để thoát thân ra,
Mối dây càng thắt thịt da thế này.

Thế rồi Nai cái bảo:

– Chàng ơi, đừng sợ. Em sẽ hết sức van xin người thợ săn và sẽ hy sinh mạng sống của em và để xin đổi mạng cho chàng.

Vừa an ủi bậc Ðại sĩ, vợ ngài vẫn tiếp tục ôm lấy Bồ-tát mình đang rớm máu. Nhưng người thợ săn tay cầm gươm và lao đã đến gần, giống như một ngọn lửa hủy diệt vào lúc mở đầu một chu kỳ. Khi thấy người ấy, Nai cái bảo:

– Chàng ơi, người thợ săn đã đến. Em sẽ đem hết khả năng để cứu chàng. Chàng chớ sợ.

An ủi chồng xong, nai cái đến gặp người thợ săn, đứng cách một khoảng để tỏ vẻ kính trọng, nai chào người ấy và nói:

– Thưa ngài, chồng tôi là một con Nai có màu vàng ròng, đầy đủ mọi đức hạnh và là vua của tám vạn con nai.

Ca ngợi Bồ-tát xong, Nai xin hy sinh mạng sống của mình để vua bầy nai khỏi bị hại. Rồi Nai đọc bài kệ thứ ba:

Nơi đây, hãy trải lá dày
Chúng tôi sẽ ngã xuống ngay đây mà,
Thợ săn, hãy rút gươm ra
Giết tôi, rồi giết tiếp là chồng tôi!

Nghe thế, người thợ săn rất kinh ngạc, liền nghĩ: “Ngay cả người ta cũng không hy sinh đời mình cho vua nữa huống chi là loài vật. Thế này nghĩa là gì chớ? Con vật nói với một giọng êm dịu như tiếng người. Hôm nay, ta sẽ tha mạng cho nó và cho chồng nó”. Rất thích thú nai cái, người thợ săn đọc bài kệ thứ tư:

Con vật nói tiếng người
Ta chưa thấy trên đời
Nai hiền, an tâm nhé!
Chân vàng, dứt sợ thôi!

Thấy Bồ-tát được tha ra, Nai cái vô cùng sung sướng liền quay lại cám ơn người thợ săn và đọc bài kệ thứ năm:

Hôm nay tôi thích thú đầy tràn,
Nai vĩ đại này được thoát thân,
Vậy thợ săn, người vừa gỡ bẫy,
Hãy vui vầy với mọi thân nhân.

Bấy giờ Bồ-tát tự nghĩ: “Người thợ săn này đã tha mạng ta và vợ ta và cả tám vạn nai kia. Ông đã là nơi nương nhờ của ta, vậy ta cũng phải là nơi nương nhờ của ông ta”. Và với tính chất của một bậc đức hạnh tối cao, ngài nghĩ: “Ta phải đền cho ân nhân của ta”. Rồi ngài trao cho người thợ săn một viên ngọc kỳ diệu mà ngài đã tìm được ở nơi ngài thường đi kiếm ăn và nói:

– Này bằng hữu, từ nay, chớ giết hại sinh vật nào nữa, với viên ngọc này, hãy xây dựng gia đình, vợ con, hãy bố thí và làm các việc thiện khác.

Khuyến dụ xong Nai biến vào trong rừng.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Channa (Xa-mặc) là người thợ săn, Sa-di-ni ấy là con Nai cái, còn ta là Nai chúa kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền thân Sussondi)

Tôi ngửi thấy mùi hương rừng rậm…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-Kheo thối thất.

Bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông ta thèm muốn đời thế tục và ông ta thấy điều gì khiến ông ta ân hận đã thọ giới. Vị Tỷ-Kheo trả lời:

– Tất cả là do nét yêu kiều của một phụ nữ.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Thật thế, này Tỷ-Kheo, không thể nào canh phòng được phụ nữ. Các bậc hiền trí ngày xưa, dù họ thận trọng ở tại trú xứ của loài Garudas (Kim sí điểu: chim thần cánh vàng), họ cũng không thể canh giữ phụ nữ.

Rồi do Tỷ-Kheo ấy thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện thời xưa.

*

Ngày xưa, vua Tamba trị vì Ba-la-nại, chánh hoàng hậu tên là Sussondi là một phụ nữ đẹp tuyệt vời.

Bấy giờ, Bồ-tát sinh ra là một Garuda (chim thần cánh vàng) trẻ. Bấy giờ đảo Nàga (Long thần)được gọi là đảo Seruna. Ngài đến Ba-la-nại giả nam trang và chơi súc sắc với vua Tamba. Nhận thấy sắc đẹp của ngài, người ta bảo Sussondi:

– Một trang thanh niên như thế… như thế… thường chơi súc sắc với đức vua.

Nàng ao ước được thấy ngài.

Rồi một hôm, nàng trang điểm thật đẹp và đi đến phòng đánh súc sắc. Ðứng nơi ấy, trong đám hầu cận, nàng nhìn đăm đăm vào chàng thanh niên. Chàng cũng nhìn đăm đăm vào hoàng hậu và cả hai đâm ra yêu nhau. Vua chim thần Garuda dùng thần lực, khởi lên một cơn bão ập vào thành phố. Mọi người vì sợ nhà sập, đã phóng chạy ra khỏi cung điện. Với quyền năng, vua Garuda khiến cho cung điện tối đen rồi mang hoàng hậu theo mình bay lên không, về chỗ trú ngụ của riêng mình ở đảo Nàga. Nhưng chẳng ai biết việc đi hay đến của Sussondi.

Vua Garuda vui thú với nàng và vẫn đến chơi súc sắc với vua Tamba. Bấy giờ vua Tamba có một nhạc công tên là Sagga. Không biết hoàng hậu đã đi đâu, vua gọi nhạc công ấy lại và nói:

– Bây giờ ngươi hãy khám phá xem điều gì đã xảy ra cho hoàng hậu.

Nói thế xong vua truyền lệnh cho Sagga ra đi.

Sagga mang theo các thứ cần thiết cho cuộc hành trình và khởi sự tìm kiếm từ cổng thành, cuối cùng chàng đến Bhàrukaccha. Lúc ấy các thương gia ở Bhàrukaccha đang giương buồm đi đến vùng Kim Ðịa. Chàng đến gần họ và nói:

– Tôi là một nhạc công. Nếu các ông miễn tiền tàu cho tôi thì tôi sẽ làm như một nhạc công của các ông. Hãy mang tôi theo với!

Họ chấp thuận như thế, cho chàng lên tàu và nhổ neo. Khi thuyền đi được khá xa, họ gọi chàng và bảo chàng trổi nhạc cho họ nghe. Chàng nói:

– Tôi muốn trổi nhạc, nhưng nếu làm thế, cá sẽ bị kích động quá đến nỗi thuyền của các ông sẽ chìm đấy.

Các thương gia nói:

– Nếu chỉ là một con người tầm thường trổi âm nhạc thì chẳng có gì kích động đến phía cá. Cứ chơi nhạc đi cho chúng tôi nghe.

– Thế thì đừng tức giận tôi nhé.

Nói xong, chàng lên dây đàn giữ cho lời ca hài hòa toàn hảo với tiếng dây đàn đệm theo rồi trổi nhạc cho họ nghe. Bọn cá điên cuồng khi nghe âm thanh ấy và quẫy tung cả lên. Một con hải quái nhảy vọt lên, rơi vào thuyền và làm thuyền vỡ đôi.

Sagga nằm trên một tấm ván được gió đẩy đi cho đến khi chàng giạt vào một cây đa ở đảo Nàga, nơi vua chim Garuda ở. Bấy giờ hoàng hậu Sussondi, như mỗi lần vua chim thần Garuda đi chơi súc sắc, vẫn từ nhà đi xuống và đi lang thang dọc bãi biển, nàng trông thấy và nhận ra nhạc công Sagga, nàng bèn hỏi chàng đến đây bằng cách nào. Chàng kể lại toàn bộ câu chuyện cho nàng nghe. Nàng an ủi chàng và nói:

– Ðừng sợ.

Rồi ôm chàng trong đôi cánh tay, nàng đem chàng về chỗ nàng ở, và đặt chàng nằm trên một chiếc trường kỷ. Khi chàng phục hồi đầy đủ sức lực, nàng cho chàng ăn những thức ăn của thần tiên, tắm chàng trong nước hoa thần tiên, mặc cho chàng những y phục thần tiên và trang sức cho chàng bằng những bông hoa có mùi thơm thần tiên và để chàng nằm trên một sàng tọa thần tiên. Nàng săn sóc chàng như thế, và mỗi khi vua chim thần Garuda trở về, nàng đem giấu người yêu, và ngay khi vua ra đi do ảnh hưởng của đam mê, nàng hưởng lạc thú với chàng.

Một tháng rưởi sau, một số thương gia cư ngụ ở Ba-la-nại ghé lên dưới góc cây đa trong đảo nàyđể lấy củi và nước. Chàng nhạc công lên thuyền với họ và về tới Ba-la-nại đúng vào lúc chàng thấy vua đang chơi súc sắc, chàng liền cầm đàn, tấu nhạc và đọc bài kệ đầu:

Tôi ngửi thấy mùi hương rừng rậm,
Tôi nghe ra biển thẳm rền la,
Vì tình tôi khổ, Tam-ba,
Sus-son-di đẹp cách xa tôi rồi!

Nghe thế, vua Garuda đọc bài kệ thứ hai:

Biển bão tố, sao người qua được

Se-ru-ma mà vẫn an hòa?
Cách nào, hãy nói, Sag-ga,
Sus-son-di đẹp, người đà đến ngay?

Bấy giờ Sagga đọc ba bài kệ tiếp theo:

Từ Bhà-ru-kac-cha,
Cùng với đoàn thương gia,
Thuyền tôi đi bị đắm
Vì hải quái gây ra,
Tôi nhờ vào tấm ván
Mà ghé được vào bờ.

Một hoàng hậu thơm tho
Với bàn tay dịu hiền
Nhẹ nhàng nâng tôi lên
Ðặt tôi vào đầu gối.
Hẳn như tôi lúc ấy
Là con thực của nàng.

Nàng cho mặc, cho ăn,
Và khi tôi nằm đấy,
Nàng nhìn chỗ tôi nằm,
Bằng đôi mắt đắm đuối,
Suốt cả ngày như vậy,
Chúa Tam-ba, nên biết,
Ðây lời thực tôi trình.

Khi chàng nhạc công nói như thế, vua chim thần Garuda vô cùng ân hận và nói:

– Dù ta ở tại trú xứ của chim thần Garuda, ta cũng không thể giữ nàng an toàn được. Người đàn bà xấu xa này đối với ta còn ra gì nữa?

Do đó vua Garuda mang nàng về trả lại cho vua Tam-ba rồi bỏ đi và từ đó không quay lại nữa.

*

Sau khi chấm dứt bài giảng, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Khi Ngài kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-Kheo có tâm trần tục kia đắc quả Dự Lưu. Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ànanda là vua ở Ba-la-nại, còn Ta là vua chim thần Garuda.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền thân Vannàroha)

Có phải chăng Su-dà-tha nói…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hai vị Ðại đệ tử.

Một lần nọ, hai vị Chánh Trưởng lão quyết định suốt trong mùa mưa sẽ chuyên tâm độc cư. Vì vậy họ từ biệt bậc Ðạo Sư rời Tăng chúng, đi khỏi Kỳ Viên, tự tay mang theo y, bát và đến sống trong một khu rừng gần một làng ở biên địa.

Một người đàn ông nọ phục vụ hai vị Trưởng lão và sống bằng các thức ăn thừa của họ, cũng ở riêng một nơi trong khu ấy. Khi thấy hai vị Trưởng lão sống với nhau một cách hạnh phúc như thế, anh ta nghĩ:

– Chẳng biết ta có làm cho họ bất hòa không nhỉ!

Thế là anh ta đến gần Trưởng lão Sàriputta (Xá-lợi-phất) và bảo:

– Thưa Tôn giả, có thể có sự cãi cọ nào giữa ngài và Ðại Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) không?

– Vì sao ông bảo thế? Trưởng lão hỏi.

– Thưa Thánh giả, vị ấy chê bai ngài và bảo: “Khi ta vắng, Xá-lợi-phất có gì xứng đáng để so sánh với ta về đẳng cấp, dòng dõi, gia đình và xứ sở hoặc về năng lực chứng đạt các Thánh điển!

Vị Trưởng lão mỉm cười và đáp:

– Ði đi, ông bạn.

Một hôm khác người ấy lại đến gần Ðại Trưởng lão Mục-kiền-liên và cũng bảo như thế. Vị này cũng mỉm cười và nói:

– Ði đi, ông bạn!

Mục-kiền-liên đến gặp Xá-lợi-phất và hỏi:

– Ông bạn sống bằng các thứ dư thừa của chúng ta ấy có nói gì với Hiền giả không?

– Vâng, có đấy, Hiền giả ạ.

– Và ông ta cũng nói đúng như thế với tôi. Chúng ta phải đuổi ông ta đi.

– Tốt lắm Hiền giả, hãy đuổi ông ta đi.

Trưởng lão bảo:

– Ông không được đến đây.

Và búng tay tỏ ra khinh miệt anh ta, ngài đuổi anh ta đi. Hai vị Trưởng lão sống hạnh phúc với nhau, và khi quay về với bậc Ðạo Sư, họ đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Bậc Ðạo Sư ân cần nói chuyện với họ và hỏi họ có sống thời biệt cư của họ một cách hỷ lạc không. Họ bạch:

– Có một anh hành khất kia muốn làm cho chúng con bất hòa nhưng mưu toan thất bại, anh ta đã chạy xa rồi.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Thực thế, này Xá-lợi-phất, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng thế, anh ta đã nghĩ cách làm cho các ông bất hòa nhưng mưu toan thất bại, anh ta đã chạy xa.

Rồi do yêu cầu các Trưởng lão, Ngài kể một chuyện thời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị Thần cây trong một khu rừng. Bấy giờ có một con Sư tử và một con Hổ sống trong một cái động núi ở khu rừng ấy. Một con Chó rừng hầu hạ chúng và nhờ sống bằng thịt ăn thừa của chúng, nó bắt đầu mập ra.

Thế rồi một hôm, nó chợt nghĩ: “Ta chưa bao giờ ăn thịt một con sư tử hay một con hổ. Ta phải làm cho hai con này bất hòa với nhau, và kết quả của việc tranh cãi nhau là chúng phải chết, bấy giờ ta sẽ ăn thịt chúng”.

Thế là nó đến gần Sư tử và nói:

– Thưa ngài, có sự tranh cãi nào giữa ngài và Hổ không?

– Sao anh bảo thế?

– Thưa Tôn giả, Chó rừng hỏi – Hổ chê bai ngài và bảo: Khi ta đi vắng, tên Sư tử này sẽ chẳng bao giờ được bằng một phần mười sáu sắc đẹp của ta, vóc dáng và vòng ngực ta, sức mạnh và quyền năng tự nhiên của ta.

Bấy giờ Sư tử nói với nó:

– Xéo đi, Hổ sẽ chẳng bao giờ nói ta như thế.

Thế rồi Chó rừng cũng đến gần Hổ và nói theo cách ấy. Khi nghe nó nói, Hổ chạy đến Sư tử và hỏi:

– Này bạn, có thật rằng bạn đã nói về tôi như thế, như thế?

Rồi Hổ đọc bài kệ đầu:

Có phải chăng Su-dà-tha nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung.
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-bà-hu cũng phải nhường thua tôi!

Nghe thế, Su-dà-tha (Răng mạnh, tức Sư tử) đọc bốn bài kệ còn lại:

Có phải chăng Su-bà-hu nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-dà-ha cũng phải nhường thua tôi!

Nếu lời bạn chê bai như vậy,
Thì bạn đâu còn phải bạn tôi!
Chuyện tầm phào, lắng nghe rồi
Sẽ gây tranh cãi với người bạn ta,

Và trong thù hận cay chua
Mối tình thân hữu sẽ là đứt ngang.
Ðã là bè bạn thương thân,
Ai đâu nghi ngại chẳng nhân cớ nào!
Ai đâu tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau làm gì!

Niềm tin bạn, ta thì vẫn giữ
Như trẻ thơ tin vú mẹ thân.
Chẳng gì kẻ lạ nói năng
Mà đành có lúc tách phân bạn lòng.

Khi bốn bài kệ ấy đã nêu lên phẩm cách của một bạn thân, Hổ nói:

– Tôi có lỗi.

Và nó xin lỗi Sư tử. Sau đó chúng cùng nhau sống hạnh phúc tại nơi ấy. Còn Chó rừng ra đi và tìm đến nơi khác.

*

Sau khi chấm dứt bài dạy, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, con Chó rừng kia là người hành khất sống bằng thức ăn thừa, con Sư tử là Xá-lợi-phất, con Hổ là Mục-kiền-liên, còn vị Thần sống trong rừng ấy và chứng kiến tận mắt toàn thể chuyện này là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền thân Sìlavimamsa)

Ðức hạnh và kiến thức…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn muốn thử thách năng lực của đức hạnh.

Người ta kể rằng, do ông nổi danh về đức hạnh, vua đã đặc biệt tôn trọng ông hơn hẳn các Bà-la-môn khác. “Ðức vua đặc biệt tôn trọng ta, có phải vì ta có đức hạnh hay vì ta đạt kiến thức cao? Ta sẽ thử nghiệm xem đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn”.

Thế là một hôm, ông rút lấy một đồng trong kho tiền của vua. Người thủ kho vì kính ông đã không nói một lời nào. Việc ấy lại xảy ra lần thứ hai, người thủ kho cũng chẳng nói gì. Nhưng đến lần thứ ba, người thủ kho bắt ông ta như bắt một kẻ sinh sống bằng nghề trộm cắp và mang ông tađến trước nhà vua. Vua hỏi người thủ kho ông ta bị tội gì, người ấy buộc tội ông đã ăn trộm tài sản của vua.

– Này Bà-la-môn có thật thế không? Vua hỏi.

– Tâu Ðại vương, tôi không có thói ăn trộm của ngài – Ông ta bảo,- Nhưng tôi nghi ngờ không biết đức hạnh và kiến thức bên nào quan trọng hơn, và khi thử nghiệm xem trong hai thứ đó, thứ nào là quan trọng hơn, tôi đã ba lần rút lấy một đồng tiền và thế rồi tôi bị bắt và mang đến trước ngài. Giờ đây tôi biết được rằng đức hạnh có hiệu năng lớn hơn là kiến thức. Tôi không còn muốn sống đời cư sĩ nữa, tôi sẽ trở thành một ẩn sĩ.

Khi được vua cho phép, chẳng cần phải nhìn tới cả nhà cửa, ông đi thẳng đến Kỳ Viên và xin quy y bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư truyền cho ông giới Sa-di và cả giới Tỷ-kheo. Ðược vào Giáo đoàn không bao lâu, ông đạt tuệ giác và đắc quả vị cao nhất. Sự việc này được bàn luận trong Phápđường rằng Bà-la-môn nọ sau khi chứng nghiệm được năng lực của đức hạnh, đã thọ giới xuất gia và đạt tuệ giác đắc Thánh quả như thế nào.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-Kheo đang ngồi bàn luận vấn đề. Khi nghe kể lại, Ngài dạy:

– Không phải chỉ bây giờ người này làm thế, các bậc hiền trí ngày xưa cũng đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và trở thành các ẩn sĩ đem lại sự giải thoát cho mình.

Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học được mọi ngành văn học nghệ thuật ở Takkasilà và khi trở về Ba-la-nại, ngài đến yết kiến vua. Vua giao cho ngài chức giáo sĩ hoàng gia, và vì ngài giữ năm giới, vua đối đãi kính trọng, xem ngài là người một đức hạnh. Ngài nghĩ: “Phải chăng vua kính trọng đối xử với ta như một người đức hạnh hay như một người chuyên tâm đạt kiến thức?” Và toàn bộ câu chuyện cũng đúng như sự việc ngày nay, nhưng ở đây, vị Bà-la-môn bảo:

– Bây giờ tôi đã biết đức hạnh là quan trọng hơn kiến thức.

Rồi ngài đọc năm bài kệ sau đây:

Ðức hạnh và kiến thức
Tôi đã thể nghiệm rồi.
Nay không còn ngờ vực,
Ðức hạnh tốt nhất đời.

Ðức hạnh vượt thiên phú
Ðẹp, sang suông đâu bí.
Khi ở xa đức hạnh
Kiến thức chẳng đáng chi!

Nông dân hay hoàng tử
Hễ đã vướng tội vào,
Ở cõi nào đâu chứ,
Thoát khỏi niềm khổ đau?

Dù thuộc hàng thấp kém
Hay ở lớp quý cao,
Nếu đời này đức hạnh,
Ở Thiên giới ngang nhau.

Dòng dõi và trí thức,
Thân tình, chẳng đáng đâu!
Chỉ riêng thuần đức hạnh
Ðem phước lạc mai sau.

Bậc Ðại Sĩ ca ngợi đức hạnh như thế, và sau khi được vua ưng thuận, ngay ngày hôm ấy, ngài đi vào vùng Tuyết-Sơn và sống đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu. Ngài phát triển các Thắng trí và các Thiền chứng rồi được sinh vào cõi Phạm Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy và nhận diện tiền thân:

– Bấy giờ chính Ta đã đem đức hạnh ra thử nghiệm và nhận lấy cuộc đời Phạm hạnh của một nhà ẩn tu.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền thân Hiri)

Kẻ nào dù được kính vì…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một vị phú thương bạn của ông Cấp Cô Ðộc, sống tại một tỉnh ở biên địa.

Cả câu chuyện khởi đầu và câu chuyện ngày xưa đều được kể đầy đủ trong số 90. Tiền thân cuối Phẩm thứ chín, Chương Một, nhưng ở đây khi vị thương gia ở Ba-la-nại nghe rằng những người hầu của vị thương gia xa lạ bị đoạt hết tất cả tài sản, và sau khi mất hết mọi thứ đã có, họ phải bỏ trốn, ông nói:

– Vì họ không làm điều mà họ phải làm cho những người xa lạ đã đến với họ, nên họ chẳng tìm thấy ai sẵn sàng đền đáp cho họ.

Nói thế xong, ông đọc các bài kệ sau:

Kẻ nào dù được kính vì,
Khi làm phận tớ, lòng thì ghét ta.
Chẳng làm việc tốt đâu mà,
Còn riêng lời nói rườm rà nhiêu khê,
Ta nên phải quyết một bề:
Người nào như thế, chớ hề kết giao.

Một khi đã trót hứa vào
Thực hành lời hứa làm sao cho tròn.
Việc nào chẳng thể làm xong,
Thì ta từ chối, quyết không hứa gì.

Người khôn quay mặt ngoảnh đi
Những khoa trương rỗng đáng chi để lòng.
Một khi bạn đã nhau cùng,
Thì không tranh chấp khi không cớ nào.

Chẳng hề tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau bao giờ.
Vững tin bạn, tựa trẻ thơ
Tin vào vú mẹ chẳng ngờ chút chi.

Dù người lạ nói, làm gì,
Cũng không hề muốn chia ly bạn lòng.
Tình bằng ai khéo chịu tròn
Hẳn đời tăng ích, cao khôn phước phần.

Nhưng người hưởng thú tịnh an,
Uống vào những ngụm lẽ Chân ngọt ngào.
Riêng người ấy biết làm sao
Thoát dây buộc tội, thoát bao khổ phiền.

Như vậy bậc Ðại Sĩ chán ngán tiếp giao với bạn bè xấu, do sức mạnh của độc cư, ngài đã đưa giáo lý của Ngài lên đến tột đỉnh và dẫn con người đến Niết – bàn vĩnh cửu.

*

Khi giảng xong Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là vị thương gia ở Ba-la-nại.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền thân Khajjopanaka)

Chuyện con Ðom Ðóm sẽ được kể đầy đủ trong số 546, Tiền thân Mahà-Ummagga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền thân Ahigundika)

Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về một Trưởng lão.

Chuyện này đã được kể đầy đủ trong số 249. Tiền thân Sàlaka.

Ở đây cũng thế, vị Trưởng lão sau khi truyền giới cho một chàng trai trong làng lại la mắng, đánh đập anh ta. Chành trai ấy chạy trốn và hoàn tục. Trưởng lão một lần nữa truyền giới cho anh và lại la mắng, đánh đập như trước. Chàng trai trẻ sau khi hoàn tục ba lần, lại được khuyến dụ quay trở lại, đã chẳng còn muốn nhìn mặt Trưởng lão ấy nữa.

Chuyện ấy được bàn tán trong Pháp đường về một Trưởng lão đã không thể sống với chú tiểu của ông mà cũng không thể sống thiếu chú ấy, trong khi chàng trai trẻ đã thấy lỗi lầm của Trưởng lão vì thiếu điềm tĩnh, anh ta lại là một chàng trẻ nhạy cảm nên đã không muốn nhìn ông nữa.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang bàn đề mục gì. Khi nghe trình việc ấy, Ngài dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng thế, chính chàng trẻ này đã làm một chú tiểu nhạy cảm sau khi quan sát thấy lỗi lầm của Trưởng lão ấy, đã chẳng muốn nhìn ông ta nữa!

Dạy thế xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, vào triều đại Brahmadatta, vua ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình làm lúa mì và khi lớn lên, ngài sinh sống bằng nghề bán lúa mì.

Bấy giờ, một người dụ rắn nọ bắt được một con Khỉ rồi huấn luyện nó đóng trò với một con rắn. Thế rồi khi một cuộc hội hè được mở ở Ba-la-nại, ông ta gởi con Khỉ cho người bán lúa mì và đi rong khắp trong bảy ngày làm trò với con Rắn. Trong thời gian ấy, vị thương gia nuôi con Khỉ bằng thức ăn loại cứng, loại mềm.

Vào ngày thứ bảy khi đã say sưa ở chỗ vui chơi hội hè ấy, người dụ rắn trở về và ba lần đánh đập con Khỉ bằng một thanh tre rồi đem nó theo vào trong một khu vườn, cột nó lại và nằm ngủ. Con Khỉ tháo được dây ra rồi trèo lên cây xoài, ngồi đó ăn trái. Khi thức dậy người dụ rắn thấy con Khỉ ngồi trên cây, liền nghĩ: “Ta phải bắt nó bằng cách tán tỉnh nó”. Rồi khi nói chuyện với nó, ông đọc bài kệ đầu:

Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi,
Như người chơi bị súc sắc phá tàn,
Hãy ném xoài đây; Ta biết rõ ràng
Ta sống được nhờ bạn nhiều mưu kế.

Khi nghe thế, con Khỉ đọc các bài kệ còn lại:

Lời bạn khen, âm thanh vô nghĩa thế,
Khỉ đẹp xinh: Bao giờ kiếm cho ra!
Xin hỏi ai trong hàng quán say sưa,
Nay bỏ đói và đánh ta đau vậy?

Anh dụ rắn hỡi, ta đây nhớ lại
Giường khổ đau nơi ta phải nằm vào.
Nếu có ngày ta lên nắm ngôi cao,
Chớ xin ta rỉ chút nào ân huệ.

Vì ta nhớ bạn từng hung ác thế,
Nhưng nếu ai vui vẻ sống trong nhà
Hạng thanh cao, chịu đem của trao ra,
Thì sẽ được người khôn giao kết chặt.

Nói những lời này xong, con Khỉ biến mất trong bầy khỉ bạn.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài dạy ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Trưởng lão này là người dụ rắn nọ, chú tiểu là con Khỉ, còn Ta là người bán lúa mì.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền thân Gumbiya)

Thuốc độc giống như mật ngọt ngào….,

Cây chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo hối tiếc vì đã thọ giới.

Bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông đã hối tiếc như thế không.

– Bạch ngài, đúng thế. Ông ta đáp.

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Ông đã thấy điều gì khiến ông cảm thấy như thế?

Khi vị Tỷ-kheo đáp:

– Ðấy là do những vẻ duyên dáng hấp dẫn của một phụ nữ.

Bậc Ðạo Sư dạy:

– Năm thứ ham muốn giống như mật có rảy thuốc độc giết người do quỷ Gumbiya để giữa đường.

Rồi do yêu cầu của Tỷ-kheo ấy, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahmadatta, vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một thương gia mang theo năm trăm chiếc xe chở hàng hóa đi bán. Ðến đường cái, trước khi vào một khu rừng, ngài gọi các thành viên trong đoàn lại và nói:

– Này, trên con đường này có lá, hoa, trái vân vân, tất cả đều có thuốc độc đấy. Khi ăn, chớ ăn các thứ lạ mà không hỏi ta: Vì bọn quỷ đã để trên đường những rổ cơm mới và nhiều thứ quả hoang ngon ngọt và rưới thuốc độc lên. Hãy dứt khoát đừng ăn thức ăn ấy nếu không được ta chấp thuận.

Sau khi dặn dò như thế, ngài tiếp tục cuộc hành trình.

Bấy giờ một quỷ Yakkha nọ, tên Gumbiya, rải lá trên một khoảng đất giữa rừng và thả vài miếng mật, trên đó có thuốc độc giết người; còn nó đi đây đó trên đường, giả vờ vỗ vào cây cối, làm như đang tìm mật. Những người không biết gì cứ nghĩ: “Mật này được để đây, hẳn phải là một nghĩa cử”. Thế là họ phải chết vì ăn mật ấy. Và bọn quỷ đến ăn thịt họ.

Trong thương đoàn của Bồ-tát cũng có một số người vốn tham ăn, khi thấy những thứ ngon này, không kìm lòng được liền ăn vào. Nhưng những người khác khôn ngoan bảo:

– Ta sẽ hỏi Bồ-tát trước khi ăn.

Và họ cầm các thức ăn ấy và đứng đó. Khi Bồ-tát thấy các thứ họ đang cầm trong tay, ngài bảo họ ném đi. Những người đã ăn trọn phần đều chết. Nhưng đối với mỗi người chỉ mới ăn phân nửa, ngài khiến họ nôn ra, và sau khi họ đã nôn hết, ngài cho họ bốn thứ thơm ngọt và do thần lực của ngài, họ được lành.

Bồ-tát đến nơi mà ngài muốn đến một cách bình an, và sau khi giao hàng, ngài trở về nhà.

Thuốc độc giống như mật ngọt ngào
Khi ta ngửi, nếm hoặc nhìn vào,
Gum-bi-ya đã bày ra đó,
Mục đích hại người thật hiểm sao!
Hễ kẻ nào ham ăn hưởng mật,
Ăn vào, phải chết giữa rừng sâu.
Những ai khôn tránh xa mồi nhử,
Giữ được an lành, khỏi khổ đau.

Tham dục cũng như mồi dục vậy,
Ðược bày ra để hại con người,
Tấm lòng tham ái thường khi vẫn
Phản bội, đưa người đến chết thôi.

Những hễ kẻ nào dù yếu đuối,
Tránh xa ác dục cuốn lôi người,
Chính là kẻ thoát dây ràng buộc
Của nỗi thương đau, thoát khổ rồi.

*

Sau khi đọc các bài kệ trên được cảm tác do trí tuệ toàn hảo, bậc Ðạo Sư khai thị Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, vị Tỷ-kheo thối thất ấy đắc quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, Ta là vị thương gia ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền thân Saliya)

Kẻ nào khiến bè bạn….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Trúc Lâm, về một lời nói rằng Ðề-bà-đạt-đa đến cả kêu cứu cũng không thể được.

*

Khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia chủ ở làng. Khi còn trẻ ngài chơi đùa với các cậu trai khác dưới một gốc cây ở cổng làng. Bấy giờ có một y sĩ già nghèo khổ, không có việc làm, lang thang ra khỏi làng, và đến nơi ấy, trông thấy một con rắn nằm ngủ giữa nhánh chĩa của một cây nọ, đầu rúc vào trong. Ông ta nghĩ: “Ta chẳng được gì ở trong làng cả. Ta sẽ tán dụ tụi bé con này, khiến cho con rắn cắn chúng và thế là ta sẽ được thứ gì đó vì đã chữa chúng”. Vì thế, ông ta bảo Bồ-tát:

– Nếu cháu tình cờ trông thấy con nhím, cháu có bắt nó không?

– Vâng, cháu bắt chứ. Bồ-tát đáp.

Lão già bảo:

– Xem kìa, một con nhím đang nằm giữa nhánh chĩa của cây này đấy.

Không biết rằng đó là một con rắn, Bồ-tát trèo lên cây và chộp lấy cổ nó, nhưng khi thấy rằng đấy là một con rắn thì ngài không để cho nó quay lại phía ngài, mà kềm chế lấy nó và ném vung nó ra. Con rắn rơi vào cổ của ông y sĩ già, cuốn quanh ông, cắn ông thật nặng đến nỗi răng nó cắm sâu vào thịt ông, lão già ngã xuống chết ngay tại chỗ, còn con rắn thoát đi. Mọi người xúm quanh bậcÐạo Sĩ và khi giảng Pháp cho đám đông ấy, ngài đọc các bài kệ sau:

Kẻ nào khiến bè bạn
Bắt một con rắn độc tàn,
Bảo là nhím, chẳng hạn,
Chính kẻ ấy lãnh phần

Phải chết vì rắn cắn,
Như kẻ mong láng giềng
Gặp phải điều bất hạnh.
Ai muốn đánh một kẻ

Chẳng bao giờ đánh trả,
Sẽ bị đánh, ngã xoài
Như cú đấm chết người
Khiến kẻ ác thống khổ.

Như cát tung ngược gió
Bị thổi lại người tung.
Kẻ nào trao tai họa
Cho một bậc thiện nhân

Khổ ải quay trở lại
Cho chính kẻ điên khùng
Như cát bay trở lại,
Khi tung ngược cuồng phong.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng ở đây và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, ông y sĩ già nghèo khổ là Ðề-bà-đạt-đa, và cậu thiếu niên khôn ngoan là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền thân Tacasàra)

Bị rơi vào giữa tay thù…..,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi ngài trú tại Kỳ Viên về Trí tuệ Toàn hảo.

Bấy giờ bậc Ðạo Sư dạy:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia cũng vậy, Như Lai cũng đã chứng tỏ mình thông tuệ và nhiều phương tiện thiện xảo.

– Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahmadatta, vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình của một sở hữu chủ trong làng. Toàn bộ câu chuyện diễn tiến đúng như Tiền thân trước đây. Nhưng ở chuyện này, khi lão y sĩ chết, những người láng giềng của ông ta ở trong làng nói:

– Những thiếu niên này đã gây nên cái chết cho người ấy. Chúng ta sẽ mang chúng đến trình vua.

Rồi họ trói các chàng trẻ ấy lại và dẫn đến Ba-la-nại. Dọc đường, Bồ-tát an ủi và bảo các chàng trẻ kia:

– Ðừng sợ! Ngay cả khi các bạn bị đưa ra trước mặt vua, hãy tỏ ra không sợ hãi và lòng đầy hoan hỷ. Trước hết vua sẽ nói chuyện với chúng ta và sau đó, tôi sẽ liệu xem sẽ phải làm gì.

Cả bọn đều chấp nhận ngay lời khuyên bảo ấy và làm đúng theo như vậy. Khi vua thấy họ đều bình tĩnh và hoan hỷ, vua bảo:

– Những kẻ khốn khổ này bị xích trói và mang đến đây như những kẻ sát nhân, và dù phải khổ sở đến như vậy họ vẫn không sợ hãi mà còn hoan hỷ nữa. Ta sẽ hỏi họ lý do tại sao họ không buồn phiền.

Và vua đọc bài kệ đầu:

Bị rơi vào giữa tay thù
Bị dây tre trói buộc như thế này,
Vẫn trông tươi tỉnh mặt mày,
Làm sao người dấu được ngay khổ sầu?

Nghe thế, Bồ-tát đọc tiếp các bài kệ sau:

– Người kia than trách buồn đau
Có đâu thu được lợi nào mảy may!
Ðối phương thích thú lắm thay
Khi trông thấy nỗi khổ giày vò ta.

Thù nhân sẽ lắm ưu tư
Khi ta ngẩng mặt tiến ra số phần,
Chẳng lùi như một trí nhân
Khéo bề phán đoán tách phân mọi điều.

Dù nhờ bùa chú cao siêu
Thì thầm nho nhỏ, dù nhiều tài cao,
Người thân quyền thế giúp vào,
Mà ta thoát nạn cách nào cũng hay.
Ta nên nỗ lực cho tày
Chiếm phần ưu thắng về ngay phía mình.

Nhưng khi kết quả không thành
Nhờ người giúp hoặc riêng mình chẳng xong,
Thì ta nên vẫn một lòng
Sẵn sàng chấp nhận mà không đau buồn.
Số phần dù quá gian truân,
Ta đành nỗ lực gắng công tới cùng.

Nghe Bồ-tát giảng Pháp, vua điều tra sự việc và thấy các thiếu niên kia đều vô tội, liền sai cởi trói cho họ, ban thưởng Bồ-tát nhiều vinh dự và phong ngài làm cố vấn về thế sự và thánh sự kiêm chức đại thần cao quý. Vua cũng ban vinh dự cho các thiếu niên kia và chỉ định họ vào nhiều chức vụ khác nhau.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ, Ànanda là vua xứ Ba-la-nại, hàng phó giáo sĩ là các thiếu niên kia, còn Ta là chàng trai trẻ thông tuệ ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền thân Mittavinda)

Việc xấu nào tôi đã trót gây….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phóng dật.

Sự việc đưa đến câu chuyện sẽ giống như ở Tiền thân Mahàmittavinda (các số 41, 82, 104 và 439).

*

Bấy giờ, khi Mittavindaka bị thả xuống dưới biển, đã tỏ ra tham ái vô độ và ngày càng thái quá như vậy nên anh ta đến một nơi hành tội của các chúng sinh bị đọa vào địa ngục. Anh ta đi vàođịa ngục Ussada, nhầm tưởng đấy là một đô thị và ở đó anh ta phải mang trên đầu một bánh xe bén như lưỡi dao cạo. Lúc ấy Bồ-tát mang hình hài một vị Thiên tử đi thi hành một sứ mạng đến ngục Ussada. Khi trông thấy ngài, Mittavindaka đọc bài kệ đầu theo hình thức một câu hỏi:

Việc xấu nào tôi đã trót gây
Khiến trời nguyền rủa phận tôi đây?
Ôi, đầu tôi hẳn là nứt vỡ
Vì bánh xe quay hành tội này.

Nghe thế, Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Từ bỏ cửa nhà đầy phước lạc,
Ðây thì dát ngọc, đấy pha lê,
Các phòng đều chói ngời vàng bạc,
Thảm cảnh do đâu đấy bạn về?

Thế rồi Mittavindaka đọc bài kệ thứ ba:

“Lạc thú nơi kia sẽ ngập tràn,
Chốn này kém cỏi chẳng so bằng”.
Ðấy là ý nghĩ gây tai ách
Và đấy tôi vào cảnh thảm thương.

Bồ-tát đọc những bài kệ sau cùng:

Từ bốn lên thành tám,
Lên mười sáu, băm hai,
Lòng tham không biết thỏa
Cứ tăng trưởng lên hoài.

Và cứ thế đưa bạn
Sinh linh tham dục đầy
Ðến khi chịu đày đọa
Ðầu mang bánh xe nầy.

Vậy tất cả thế nhân
Cứ đeo đòi tham ái,
Mãi vẫn chưa thỏa lòng,
Vẫn đòi thêm, thêm mãi.

Ðường tham lam rộng lớn,
Họ vẫn bước chân vào
Rồi phải mang như bạn
Bánh xe này trên đầu.

Nhưng trong khi Mittavindaka đang còn nói thì bánh xe rơi xuống chà nát anh ta, khiến anh ta không nói thêm được nữa. Còn vị Thiên tử quay thẳng về trú xứ của mình ở trên trời.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Tỷ-kheo phóng dật là Mittavindaka, còn Ta là vị Thiên tử.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền thân Palàsa)

Ngỗng này nói với cội Ju-das…,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự khiển trách tội lỗi.

Sự việc dẫn đến câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân Pannà.

Nhưng ở đây bậc đạo Sư bảo chúng Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, phải dè chừng tội lỗi. Dù tội lỗ nhỏ bằng một chồi cây đa, nó cũng có thể tỏ ra rất tàn khốc. Các hiền trí ngày xưa cũng dè chừng điều gì tỏ vẻ đáng nghi ngại.

Dạy thế xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, dưới triều Brahnadatta, vua ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Ngỗng vàng và khi lớn lên, ngài sống trong một cái hang vàng trong núi Cittakùta thuộc vùng Tuyết Sơn và thườngđến ăn lúa hoang mọc ở trên một cái hồ thiên nhiên. Trên con đường ngài vẫn thường qua lại có cây Judas (Hồng Phượng vĩ) lớn. Cứ mỗi bận đi và về, ngài đều dừng nghỉ tại đó. Vì thế, một mối tình bạn nảy sinh giữa ngài và vị Thần sống trong cây ấy.

Thế rồi có một con chim nọ, sau khi ăn trái chín của cây đa, đến đậu trên cây Judas và rớt phân vào nhánh chĩa của cây ấy. Sau đó, một cây đa con mọc lên nơi ấy, cao tới một tấc và rực rỡ với những chồi đỏ, lá xanh. Ngỗng chúa thấy thế liền bảo với Thần giữ cây:

– Này Hiền hữu, hễ cây nào bị chồi đa mọc đều bị hủy diệt vì chồi ấy lớn lên. Chớ để cho nó lớn lên, nếu không nó sẽ phá hủy chỗ ở của bạn đấy. Hãy trở về ngay, nhổ nó lên và ném nó đi. Ta phải dè chừng thứ gì tỏ ra đáng nghi ngại.

Nói với Thần cây như thế xong, Ngỗng đọc bài kệ đầu:

Ngỗng này nói với cội Ju-das:
Chồi của cây đa bám bạn kia,
Vật bạn vẫn nuôi trong bụng ấy
E rồi sẽ xé bạn tơi ra.

Nghe như vậy, vị thần cây không chú ý đến những lời ấy, đọc bài kệ thứ hai:

Ðể nó lớn lên tôi sẽ là
Nơi nương tựa của một cây đa.
Tôi săn sóc nó, tình cha mẹ,
Phước lạc cho tôi, nó tỏ ra.

Thế rồi Ngỗng đọc bài kệ thứ ba:

Sợ rằng đấy là mầm tai ách
Sâu tận trong lòng, bạn vẫn nuôi.
Từ biệt bạn thôi, tôi bay vút,
Hỡi ơi, nó lớn, bực lòng tôi!

Nói xong những lời kia, Ngỗng chúa dang rộng cánh và bay thẳng về núi Cittakùta. Từ đó, Ngỗng không quay lại nữa. Thế rồi cây đa lớn lên. Cây này cũng có vị Thần cây đổ xuống cùng với một cành. Bấy giờ nghĩ lại những lời của Ngỗng chúa, vị Thần cây tự bảo: “Vua của loài ngỗng đã thấy được mối nguy hại sắp tới và báo cho ta biết nhưng ta chẳng nghe lời vị ấy”. Sầu than như thế, Thần đọc bài kệ thứ tư:

Quỷ hung cao tợ núi Tu-di
Ðã đẩy ta vào cảnh khốn nguy;
Lời bạn Ngỗng kia ta miệt thị,
Giờ đây ta ngập nỗi sầu bi.

Như vậy cây đa khi lớn lên làm đổ nguyên cả cây Ju-das xuống, làm cho nó chỉ còn trơ một gốc và chỗ ở của vị Thần cây bị tiêu mất hẳn.

Người khôn sinh sợ loài tầm gửi
Chèn nghẹt vật chi nó bám mình,
Bậc trí dè chừng nguy cỏ dại,
Diệt ngay rễ trước lúc mầm sinh.

Ðây là bài kệ được cảm tác do Trí tuệ Toàn hảo.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng ở đây tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc Tứ Ðế, năm trăm vị Tỷ-kheo đắc Thánh quả và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Bấy giờ Ta là Ngỗng vàng nọ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền thân Dìghitikosala)

Người đang thuộc quyền ta sinh sát….,

Câu chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một nhóm người tranh cãi nhau từ Kosambi.

Khi họ đến Kỳ Viên, giữa lúc họ hòa hợp lại với nhau, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các ông là Pháp tử của Ta trong đạo, được sinh ra do những lời nói từ miệng Ta. Con cái không được dẫm lên lời khuyên của cha, thế mà các ông lại không theo lời khuyên dạy của Ta. Các trí giả ngày xưa, khi những người đã giết cha mẹ họ, đã chiếm vương quốc họ, rồi phải rơi vào tay họ ở trong rừng, họ vẫn không giết những người ấy, dù những người ấy bị kết tội phiến loạn, mà họ bảo: Ta sẽ không dẫm lên lời khuyên của cha mẹ ta đã ban cho ta.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ. Trong Tiền thân này, cả sự việc đưa đến câu chuyện và chính câu chuyện sẽ được kể đầy đủ trong Tiền thân Sanghabehedaka.

*

Bấy giờ hoàng tử Dìghàvu khi thấy vua xứ Ba-la-nại nằm bên cạnh mình ở trong rừng liền túm lấy chỏm đầu vua và nói:

– Bây giờ ta sẽ chặt tên cướp nước đã giết cha mẹ ta ra làm mười bốn miếng.

Và ngay khi chàng vung gươm, chàng nhớ lại lời cha mẹ đã khuyên dạy và tự nghĩ: “Dù ta phải hy sinh đời ta, ta cũng sẽ không dẫm lên lời khuyên của cha mẹ. Cứ dọa nó là thỏa bụng ta rồi”. Và chàng đọc bài kệ đầu:

Ngươi đang thuộc quyền ta sinh sát,
Khi nằm đây úp mặt, vua kia,
Mưu nào ngươi tính nghĩ ra
Cứu ngươi ra khỏi tay ta hãi hùng?

Và ông vua kia đọc bài kệ thứ hai:

Nay ta chẳng còn phương cứu nữa,
Trên đất nằm lọt giữa tay người.
Cách nào cũng chẳng biết noi
Ðể mong thoát được ra ngoài khốn nguy.

Thế rồi Bồ-tát đọc các bài kệ còn lại:

Hỡi nhà vua, chẳng phải là của cải,
Mà chính là các lời nói, hành vi
Vốn thiện hiền mà ta đã thực thi,
Ðến giờ chết mới cho ta thư thái,

Nếu cứ bảo: “Ta đây từng khổ ải,
Kẻ này la, và kẻ nọ đánh ta.
Và kẻ kia cướp của đến thứ ba”,
Những kẻ nào nuôi các tình cảm ấy

Chẳng bao giờ giận hờn nguôi lắng lại.
“Nó xưa kia từng đánh, mắng vào ta,
Nó đã gây lắm áp bức phiền hà”,
Ý nghĩ ấy những ai không ham muốn

Giận sẽ nguôi và hài hòa chung sống.
Xóa căm hờn đâu phải bởi căm hờn,
Xóa căm hờn chính là bởi yêu thương,
Ðấy là luật niên trường cho an lạc.

Sau những lời ấy, Bồ-tát bảo:

– Thưa Ðại vương, tôi sẽ chẳng làm hại ngài đâu. Ngài cứ giết tôi đi.

Rồi ngài đặt cây gươm của mình vào trong tay vua ấy. Vua cũng bảo:

– Ta cũng sẽ chẳng làm hại người.

Vua tuyên thệ và đi đến thành phố cùng với Bồ-tát, đưa ngài đến gặp cận thần và nói:

– Này các khanh, đây là hoàng tử Dìghàvu, con trai của vua xứ Kosala. Người đã tha mạng cho ta. Ta quyết chẳng làm điều chi hại đến người.

Nói thế xong, vua gả con gái cho Bồ-tát và đưa ngài lên ngôi trong vương quốc trước đây thuộc về cha ngài. Từ đấy hai vua cùng trị vì một cách an lạc và rất hài hòa với nhau.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt bài giảng và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người cha và người mẹ là những thành phần hiện nay trong hoàng gia; còn hoàng tử Dìghàvu chính là Ta.

-ooOoo-

Chương VI

Phẩm Sáu Bài Kệ

  1. Chuyện Chú Nai Con (Tiền thân Migapotaka)

Sầu thương vật đã chết rồi…..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Trưởng lão nọ.

Chuyện kể rằng ông nhận một cậu thanh niên xuất gia vào Hội chúng, và Sa-di này sau một thời gian phục vụ thầy rất nhiệt tình, dần dần lâm bệnh và từ trần. Vị Trưởng lão tràn ngập ưu phiền vì cái chết của nam tử kia nên cứ đi quanh quẩn than khóc kêu gào. Tăng chúng không thể nào an ủi ông cho khuây khỏa được, liền đưa vấn đề ra thảo luận tại Chánh pháp Ðường:

– Vị Trưởng lão kia có một Sa-di từ trần, cứ quanh quẩn than khóc mãi. Do triền miên suy tư mãi về cái chết, chắc chắn vị ấy sẽ trở thành kẻ bơ vơ lạc lỏng.

Khi bậc Ðạo Sư bước vào, Ngài hỏi Tăng chúng hội họp để bàn luận đề tài gì, và khi biết được câu chuyện, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, Trưởng lão ấy cũng đi quanh quẩn than khóc khi thanh niên này từ trần.

Nói xong Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta (Phạm Thọ) trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ (Ðế Thích). Thời ấy có một người sống trong quốc độ Kàsi, đi đến miền Himàlaya (Tuyết Sơn) và sống đời khổ hạnh với các loại quả rừng.

Một hôm vị ấy thấy một chú nai con mất mẹ. Vị ấy đem nó về thảo am, cho nó ăn và yêu quý nâng niu nó. Chú nai con lớn dần thành một con vật xinh đẹp thanh tao, và ẩn sĩ chăm sóc nó, đối đãi với nó như con đẻ mình vậy.

Một ngày kia, con nai chết thình lình vi bội thực, không tiêu hóa hết số cỏ quá nhiều. Vị khổ hạnh cứ lang thang gào khóc:

– Con ta chết rồi!

Lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét trần gian, nhìn thấy vị ấy, ngài nghĩ cách khuyến giáo ông, liền hiện xuống đứng giữa không trung và ngâm vần kệ đầu:

Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư.
Thoát dây tục lụy xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!

Vị khổ hạnh vừa nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ hai:

Nếu người bầu bạn thú hiền,
Tâu ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu.

Thiên chủ Sakka lại ngâm hai vần kệ nữa:

Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương.
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.

Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất trần.

Trong lúc Thiên chủ Sakka nói vậy, vị khổ hạnh nhận ra rằng khóc than cũng chẳng ích gì, liền ca ngợi tán thán Thiên chủ và ngâm ba vần kệ nữa:

Ví như ngọn lửa nóng hừng
Ðổ thêm bơ sữa cháy bừng thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.

Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng.
Ngài đã chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.

Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi,
Lắng nghe Ðế Thích nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.

Sau khi đã khuyến giáo vị khổ hạnh như thế, Sakka Thiên chủ trở về cõi của ngài.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Trưởng lão là nhà khổ hạnh, Sa-di là con nai, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Chuột (Tiền thân Mùsika)

Bọn chúng hỏi to: “Nó ở đâu?”….,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về vua Ajàtasattu (A-xà-thế).

Sự kiện đưa đến chuyện này đã được kể đầy đủ trong Tiền thân Thusa, số 338.

Ở đây bậc Ðạo Sư cũng quan sát nhà vua lúc ấy vừa chơi đùa với vương tử, vừa nghe Pháp. Như Ngài đã biết hiểm họa sẽ xảy đến cho vua vì vương tử này, Ngài nói:

– Thưa Ðại vương, vua chúa thời xưa đã nghi ngờ những gì đáng nghi ngờ, nên đã giam giữ các vương tử lại một nơi và bảo: “Hãy để cho các hoàng nhi cai trị sau khi thân xác chúng ta đã được hỏa táng”.

Cùng với lời trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn và trở thành một giáo sư danh tiếng thế giới. Con vua Ba-la-nại tên là vương tử Yava (Lúa mạch). Sau khi đã chuyên tâm học tập đủ mọi ngành học thuật với ngài, chàng liền nóng lòng ra đi, vàđến từ giã ngài. Vị giáo sư nhờ tài tiên tri biết trước rằng hiểm họa sẽ xảy ra cho vương tử do chính con trai vị ấy gây ra, liền suy xét cách thức làm thế nào diệt trừ mối hiểm họa này cho vương tử, và bắt đầu nhìn quanh để tìm một ví dụ chứng minh cho thích hợp.

Lúc bấy giờ ngài có một con ngựa, trên chân ngựa xuất hiện một vết thương đau nhức. Con ngựa được giữ trong chuồng để ngài chăm sóc vết thương cẩn thận. Gần đó có một cái giếng. Thời ấy, một con chuột vẫn thường bạo gan bò ra khỏi lỗ để gặm chỗ vết thương ở chân ngựa. Con ngựa không thể cản nó được và một hôm, không chịu nổi đau đớn, khi con chuột đến cắn nó, nó liền lấy móng chân đập chết con chuột và hất xác xuống giếng. Bọn chăn ngựa không thấy con chuột liền nói:

– Mọi ngày con chuột vẫn đến cắn vết thương, nhưng bây giờ không còn thấy nó nữa. Nó có chuyện gì vậy?

Bồ-tát đã chứng kiến mọi việc và tự nhủ: “Người khác không biết nên hỏi: Con chuột đâu rồi? Nhưng chỉ riêng mình ta biết con chuột đã bị ngựa giết và hất xuống giếng”, và lấy ngay sự việc này làm ví dụ chứng minh. Ngài sáng tác vần kệ đầu rồi nói cho vương tử biết.

Trong khi nhìn quanh để tìm một ví dụ chứng minh khác, ngài lại thấy cũng con ngựa ấy, khi vết thương đã lành, liền chạy ra thẳng đến đồng lúa mạch để ăn lúa, rồi thọc đầu vào một lỗ trên hàng rào. Ngài lấy v dụ này làm vần kệ thứ hai và đưa cho vương tử.

Sang vần kệ thứ ba, ngài sáng tác theo trí thông minh của riêng mình và cũng đưa cho vương tử. Rồi ngài bảo:

– Này Hiền hữu, khi bạn đã an vị trong vương quốc rồi, buổi tối bạn đi đến bồn tắm, vừa ra phía trước cầu thang vừa ngâm vần kệ đầu. Rồi khi bạn bước vào cung thất mình cư ngự, hãy đi đến chân cầu thang và ngâm vần kệ thứ hai. Rồi sau đó, bạn đi lên đầu cầu thang và ngâm vần kệ thứ ba.

Cùng với các lời này, ngài bảo chàng ra đi.

Vương tử trẻ tuổi ấy về kinh đô làm phó vương, và khi vua cha băng hà, vị phó vương lên kế ngôi. Tân vương này chỉ có một con trai hoàng nam duy nhất, đến năm mười sáu tuổi chàng đã nôn nóng muốn lên làm vua. Khi đã có ý định giết cha, vương tử báo với đám hầu cận:

– Phụ vương ta vẫn còn trẻ. Ðến khi ta nhìn thấy giàn hỏa táng của ngài thì ta đã là già cả kiệt lực rồi. Lúc ấy mới lên ngôi thì có ích lợi gì cho ta nữa chứ.

Bọn chúng thưa:

– Tâu Ðiện hạ, ngài không thể nào tính chuyện ra biên địa làm một loạn thần được. Vậy ngài phải tìm cách này hay cách khác sát hại phụ vương và chiếm lấy quốc độ.

Vương tử chấp thuận ngay, vào buổi tối cầm kiếm đứng trong cung thất vua cha gần bồn tắm, sẵn sàng giết cha mình.

Tối hôm ấy, vua sai một nữ tỳ tên là Mùsika (chuột) đến và bảo:

– Ngươi hãy đi chùi bồn tắm, trẫm sắp đến tắm đấy.

Nữ tỳ đến đó và trong lúc chùi bồn tắm, nàng bắt gặp vương tử. Sợ âm mưu có thể bại lộ, vương tử lấy kiếm chặt nàng làm đôi và ném vào bồn tắm. Vua vừa đến nơi, mọi người bảo nhau:

– Hôm nay nữ tỳ Mùsika không trở về. Nó đã đi đâu rồi nhỉ?

Vua bước đến cạnh bồn tắm và ngâm vần kệ đầu:

Bọn chúng hỏi to: Nó ở đâu?
Chuột ơi, mày đã trốn nơi nào?
Việc này chỉ một mình ta biết
Nó đã chết nằm trong giếng sâu.

Vương tử nghĩ thầm: “Vua cha đã phát giác những việc ta làm”, và vì quá kinh hãi, chàng chạy trốn về kể mọi việc cho đám hầu cận. Sau khoảng bảy tám ngày, bọn chúng lại thưa với chàng:

– Tâu Ðiện hạ, nếu Ðại vương biết thì ngài đã không giữ yên lặng. Những điều ngài nói chỉ có thể là lời phỏng đoán mà thôi. Xin cứ hành thích ngài đi.

Vì thế một hôm vương tử lại đứng cầm kiếm trong tay ở cầu thang. Khi vua đến, chàng cố tìm cơ hội đâm ngài. Ngài vưa bước vừa ngâm vần kệ thứ hai:

Giống như con vật đẩy xe đi,
Ngươi cứ xoay qua lại trở về,
Ngươi đã giết xong con Chuột ấy,
Nay thèm ăn Lúa mạch, ta nghi.

Vương tử nghĩ thầm: “Phụ vương đã thấy ta” và kinh hoảng chạy trốn.

Nhưng sau nửa tháng, chàng lại nghĩ: “Ta quyết giết phụ vương bằng một nhát xẻng”. Thế là chàng lấy một dụng cụ giống như cái muỗng có cán dài và cầm nó sẵn sàng, đứng đợi. Rồi vua lên đến đầu cầu thang và ngâm vần kệ thứ ba:

Ngươi là thằng nhãi quá ngu ngơ
Như món đồ chơi với trẻ thơ,
Cầm vật cán dài hình chiếc muỗng,
Thằng kia, ta quyết giết bây giờ.

Hôm ấy, không thể nào trốn thoát được nữa, vương tử bò lết đến dưới chân phụ vương và thưa:

– Xin phụ vương tha mạng cho con.

Sau khi xem xét vương tử, vua truyền trói chàng lại bằng dây xích và thả vào ngục tối. Rồi trong lúc ngự trên vương tòa nguy nga lộng lẫy có che lọng trắng, ngài phán:

– Bậc thầy Bà-la-môn lừng danh của ta đã tiên đoán mối hiểm họa này xảy ra cho ta nên đã ban tặng ta ba vần kệ này.

Lòng tràn đầy hân hoan, trong lúc cảm hứng khởi lên cao độ, ngài ngâm nga luôn các vần kệ còn lại:

Ta chưa giải thoát tự do
Bằng đường lạc thú an cư cõi trời.
Hoặc nhờ hiếu hạnh sáng ngời;
Ðến khi con trẻ toan đòi mạng ta,
Cứu nguy nhờ mấy vần thơ,
Vậy cần học hỏi suy tư mọi điều,

Xét xem ý nghĩa cao siêu,
Dẫu chưa dùng, cũng lợi nhiều ngày sau
Những lời nghe được đã lâu.

Về sau, khi vua băng hà, vương tử được đưa lên ngôi báu.

*

Ðến đây, bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, vị giáo sư lừng danh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền thân Culladhanuggaha)

Bờ kia chàng đã bước lên….,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự cám dỗ một vị Tỷ-kheo do người vợ cũ của thời chưa xuất gia tu tập.

Khi vị Tỷ-kheo thú nhận chính vì người vợ này mà vị ấy đã từ bỏ Hội chúng và hối tiếc việc xuất gia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ nữ nhân này mới làm hại ông. Ngày xưa cũng vậy, chính vì người này mà ông đã bị chặt đầu.

Rồi theo lời thỉnh cầu của chư Tăng, Ngài kể chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ. Thuở ấy, một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đã học xong mọi môn học thuật ở Ðại học Takkasilà, và sau khi thiện xảo môn bắn cung, chàng nổi danh là Tiểu xạ thủ thông minh. Lúc ấy vị giáo sư nghĩ thầm: “Thanh niên này đã đạt kỹ năng bằng ta”, rồi đem gả con gái cho chàng. Chàng cưới vợ xong, lại muốn trở về Ba-la-nại, liền khởi hành.

Nửa đường có con voi tàn phá một vùng nọ, nên không ai dám đi lên chỗ ấy. Chàng Tiểu xạ thủ thông minh kia cứ đem vợ cùng trèo lên đường vào rừng, mặc dù mọi người cố cản ngăn. Khi chàng đến giữa rừng, con voi xuất hiện tấn công chàng. Xạ thủ bắn một mũi tên vào trán voi xuyên thủng ra phía sau đầu nó, con voi ngã xuống chết ngay tại chỗ.

Sau khi làm cho nơi ấy bình an, chàng lại lên đường qua cánh rừng khác. Tại đó năm mươi tên cướp đang phá hoại xa lộ. Cũng trên nơi này, mặc dù nhiều người cố ngăn cản, chàng cứ trèo lên cho đến khi tìm thấy một nơi bằng phẳng, bọn cướp đã giết nai đem nướng và ăn thịt sát bên xa lộ. Bọn cướp thấy chàng đi đến với cô vợ phục sức sang trọng rực rỡ, liền cố hết sức bắt lấy chàng.

Tên tướng cướp có tài đoán được tính tình người khác, chỉ vừa liếc nhìn chàng, đã nhận ra chàng là một anh hùng lỗi lạc, nên không chịu để cho bọn chúng nổi dậy chống lại chàng, dù chàng chỉ đơn thân độc kiếm. Còn chàng Xạ thủ thông minh bảo vợ đi đến bọn cướp và dặn:

– Nàng hãy đến bảo với bọn chúng cho ta một miếng thịt và đem về cho ta.

Thế là nàng đi đến và bảo:

– Cho tôi một miếng thịt.

Tướng cướp nói:

– Ông ấy là người quý tộc đấy.

Và y bảo bọn cướp cho nàng một miếng thịt. Bọn kia đáp:

– Sao? Nó lại đòi ăn thịt nướng của ta ư?

Rồi bọn chúng cho nàng một miếng thịt sống.

Chàng Xạ thủ vốn tự cao về mình, liền nổi giận vì bọn cướp cho chàng thịt sống. Bọn chúng bảo:

– Sao nữa? Chỉ mình nó là nam nhi, còn chúng ta là nữ nhi ư?

Thế là vừa hăm dọa chàng, chúng vừa vùng lên chống phá chàng. Chàng Xạ thủ bắn trọng thương ngã xuống đất bốn mươi chín tên cướp, trừ một tên, vì chàng không còn mũi tên nào để bắn tướng cướp kia. Trước đó trong bao tên của chàng chỉ có năm mươi mũi tên. Chàng đã dùng một mũi tên bắn chết con voi, nay chỉ còn số tên đủ để bắn cả bọn trừ một người.

Vì thế chàng đá tướng cướp xuống đất ngồi trên ngực y và bảo vợ mang kiếm đến để chặt đầu y. Ngay lúc ấy, nàng bỗng đem lòng say mê tướng cướp, liền đặt chuôi kiếm vào tay y và vỏ kiếm vào tay chồng nàng. Tướng cướp chụp chuôi kiếm, đưa kiếm ra và chặt đầu chàng Xạ thủ.

Sau khi giết chồng nàng xong, tướng cướp chiếm lấy người vợ và trong khi cả hai cùng lên đường, tướng cướp hỏi nguồn gốc, nàng bảo:

– Em là con gái của một giáo sư danh tiếng lẫy lừng thế gian ở Ðại học Takkasilà.

– Bằng cách nào hắn lấy nàng làm vợ được? Y hỏi.

– Cha em rất hài lòng vì hắn đã học được mọi nghệ thuật như bậc thầy nên đem em gả cho hắn. Và vì em yêu chàng nên em để chàng giết chồng hợp pháp của mình. Nàng đáp lại.

Tướng cướp suy nghĩ: “Nữ nhân này giờ đây đã giết chồng hợp pháp của nó. Vậy khi thấy mộtđàn ông khác, nó cũng sẽ đối xử với ta như vậy. Ta phải từ bỏ nó mới được”.

Khi lên đường, tướng cướp thấy con đường bị chận ngang bởi con suối nhỏ thường ngày, nay lại ngập nước, y bảo:

– Này ái nương, có con cá sấu hung dữ trong suối này. Ta phải làm sao bây giờ?

– Tướng quân ôi – nàng đáp – xin lấy hết nữ trang em đang đeo buộc thành một bó trong áo chàng,đem sang bên kia bờ suối rồi trở lại đây đưa em qua.

– Tốt lắm. Y đáp lại.

Rồi cầm hết nữ trang của nàng, lội xuống dòng suối như thể một kẻ hết sức vội vàng, y đã lên bờ bên kia, bỏ rơi nàng và chạy trốn.

Thấy vậy nàng kêu to:

– Lang quân ơi, chàng đi như thể chàng sắp bỏ em vậy. Sao chàng lại làm thế? Hãy trở lại đem em cùng đi.

Và nàng ngâm vần kệ đầu bảo:

Bờ kia chàng đã bước lên
Với bao tài sản của em góp thành.
Mau mau quay trở lại nhanh
Mang em qua với bạn tình, chàng ơi!

Tướng cướp nghe nàng nói trong lúc y đứng ở bờ bên kia, liền ngâm vần kệ thứ hai:

Ý nàng dời đổi nhất thời
Từ lòng chung thủy luyện tôi bao lần
Ðến màn tình ái lông bông,
Chóng chầy nàng cũng thay lòng phản ta,
Nếu ta không kịp chạy xa
Từ đây nàng hỡi, đôi ta chia lìa.

Nhưng khi tướng cướp bảo:

– Ta quyết đi đây, nàng cứ ở lại nơi này.

Thì nàng kêu gào than khóc, còn y chạy trốn với tài sản tư trang của nàng. Ðó là số phận dành cho kẻ dại khờ tội nghiệp vì quá si mê tình ái.

Bỗng nhiên lâm cảnh bơ vơ khốn đốn như thế, nàng đành đến gần một bụi cây quế và ngồi khóc. Lúc ấy, Sakka Thiên chủ nhìn xuống trần gian, thấy nàng đắm say dục vọng giờ đây than khóc vì mất cả phu quân lẫn tình lang. Nghĩ rằng ngài sẽ đi khiển trách nàng và khiến cho nàng biết hổ thẹn, ngài đem Màtali, thần lái thiên xa, và Pancasikha, một nhạc thần, cùng đến bên bờ suối và bảo:

– Này, Màtali, thần sẽ biến thành con cá, Pancasikha sẽ biến thành con chim và ta sẽ biến thành chó rừng (Sigala). Rồi ngậm một miếng thịt, ta sẽ đi đến trước nữ nhân kia và khi thần Màtali thấy ta ở đó thì phải nhảy ra khỏi nước, rớt ngay trước mặt ta, ta sẽ nhả miếng thịt đã ngậm trong miệng và nhảy lên chụp con cá. Vừa lúc ấy, thần Pancasikha phải nhào đến chụp miếng thịt và bay lên không, còn thần Màtali lặn ngay xuống nước.

Thiên chủ Sakka dạy bảo các vị thần như thế, vị đáp:

– Tốt lành thay, tâu Thiên chủ.

Màtali liền biến thành con cá, Pancasikha biến thành con chim và Sakka biến thành chó rừng. Vừa ngậm miếng thịt trong mồm, ngài đi đến ngay trước nữ nhân. Con cá nhảy lên khỏi nước rơi mình xuống trước chó rừng. Chó thả miếng thịt đang ngậm trong mồm, vùng lên bắt cá. Con cá nhảy nữa và rơi xuống nước, còn con chim chụp lấy miếng thịt bay vụt lên không. Như vậy, chó rừng mất cả thịt lẫn cá và ngồi ủ rủ nhìn về phía bụi quế. Nữ nhân thấy thế liền bảo:

– Vì quá tham lam nên chó mất cả thịt lẫn cá.

Và như thể nàng đã thấy rõ ý nghĩa trò đời trớ trêu này, nàng bật cười dòn dã.

Chó rừng nghe thế, liền ngâm vần kệ thứ ba:

Ai làm bụi quế ngân nga
Tiếng cười, dù chẳng múa ca tiệc tùng,
Vỗ tay thích thú? Hồng nhan,
Ðừng cười, khi phải khóc than buồn phiền.

Nghe vậy, nàng ngâm vần kệ thứ tư:

Chó ngu, mày phải ước nguyền
Giá đừng mất cá, thịt liền một khi.
Ðồ ngu, phải biết sầu bi
Những gì xảy đến, ngu si do mày!

Chó rừng liền đáp vần kệ thứ năm:

Lỗi người dễ thấy lắm thay,
Chắc là khó thấy: “Lỗi này của tôi”.
Nàng nên tính giá thiệt thòi
Khi nàng mất hết cả đôi bạn đời.

Nghe thế, nàng lại đáp vần kệ này:

Cẩu vương, quá đúng như lời,
Nên ta quyết chí vội dời chân nhanh
Ðể tìm thêm bạn chung tình,
Cố làm người vợ trung thành khó chi!

Khi ấy Sakka Thiên chủ nghe những lời nói của nữ nhân bạc ác vô hạnh kia, liền ngâm vần kệ cuối cùng:

Kẻ nào ăm trộm cái ghè
Sẽ còn ăn trộm mai kia nồi đồng,
Người gây tai họa cho chồng
Vẫn tàn tệ vậy, hoặc còn tệ hơn!

Lời Sakka Thiên chủ làm cho nàng phải hổ thẹn và hốn hận ăn năn, rồi sau đó ngài trở về cõi của ngài.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, rồi tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã đắc Sơ quá Dự Lưu.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Tỷ-kheo thối thất này là chàng xạ thủ, người vợ mà vị ấy đã rời bỏ là nữ nhân kia, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền thân Kapota)

Ta đây mạnh khỏe, dạ an vui….,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Chuyện vị Tỷ-kheo tham lam này đã được kể đầy đủ theo nhiều cách. Ở đây bậc Ðạo Sư hỏi có thật ông tham lam chăng, và khi ông thú nhận quá đúng thế, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, ông cũng tham lam và đã chết vì lòng tham ấy.

Nói xong Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Bồ câu con và sống trong lồng kết bằng liễu gai ở nhà bếp của một phú thương thành Ba-la-nại.

Bấy giờ một con Quạ thèm ăn cá thịt lại làm bạn với Bồ câu này, và sống cùng chỗ ấy. Một hôm nó chợt thấy nhiều cá thịt liền nghĩ: “Ta sẽ ăn đám cá thịt này”. Rồi nằm xuống rên rỉ trong lồng. Khi Bồ cầu đến bảo:

– Này bạn, ta cùng bay nhanh ra tìm mồi.

Quạ từ chối đáp:

– Tôi đang bị ốm liệt vì cơn đau bụng do bội thực, bạn đi đi.

Khi Bồ câu khuất dạng, Quạ tự nhủ: “Kẻ thù hay quấy phá ta đã đi rồi. Bây giờ ta muốn ăn thịt cá tùy thích”. Nghĩ vậy, Quạ ngâm vần kệ đầu:

Ta đây khỏe mạnh, dạ an vui,
Vì chú Bồ câu đã biến rồi,
Ta muốn làm cơn thèm dịu xuống
Rau thơm cùng thịt khỏe thêm người!

Vì thế khi người đầu bếp chiên cá thịt xong, vừa bước ra khỏi bếp, vừa chùi mồ hồi chảy dòng dòng, con Quạ nhảy ra khỏi tổ và dấu mình trong chậu gia vị. Chậu ấy phát ra tiếng “cạch” khiến người đầu bếp vội quay lại, tóm lấy con Quạ vặt hết lông. Rồi xay một ít gừng tươi và hạt cải trắng, chú giả chung với chà là thối, bôi lên khắp mình con Quạ, vừa xát mạnh thân nó với một mảnh sành làm cho nó bị thương nặng. Sau đó chú lấy sợi dây treo mảnh sành lên cổ nó rồi lại ném vào thúng và bỏ đi.

Khi Bồ câu trở về thấy Quạ, liền bảo:

– Ông Hạc nào đây lại nằm trong thúng của bạn thân ta đó kìa? Bạn ta tính tình nóng nảy sẽ về giết chim lạ mặt này ngay.

Nói đùa thế xong, bồ câu ngâm vần kệ thứ hai:

Con Mây này với chiếc mào cao,
Ngài chiếm chỗ chim bạn tớ sao?
Ông Hạc, đến đây, thân hữu Quạ
Tính tình nóng nảy, biết không nào?

Quạ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

Bạn cứ cười to trước cảnh này,
Ta lâm hoạn nạn đáng thương thay!
Hỏa đầu quân vặt lông trần trụi,
Gia vị, chà là thối tẩm đầy.

Bồ câu vẫn còn muốn đùa, liền ngâm vần kệ thứ tư:

Tắm sạch, dầu thơm xát ngạt ngào,
No say ăn uống thỏa dường bao!
Cổ ông sáng chói đồ trang sức,
Ông đến Ba-la-nại đó sao?

Quạ ngâm tiếp vần kệ thứ năm:

Bạn thiết hay cừu địch của ta
Chớ đi Ba-la-nại bây giờ!
Mình trần chúng vặt, còn trêu ghẹo
Buộc mảnh sành trên ngực ấy mà!

Bồ câu nghe vậy, ngâm vần kệ cuối cùng:

Bỏ các thói hư tật xấu kia
Tính tình như Quạ khó làm ghê!
Chim nên thận trọng bay xa lánh
Thực phẩm loài người ăn thỏa thuê.

Sau khi khiển trách Quạ xong, Bồ câu không ở lại đó nữa mà giương đôi cánh bay đi nơi khác. Nhưng Quạ chết ngay tại chỗ.

*

Ðến đây bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã đắc Nhị quả (Nhất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này và Bồ câu chính là Ta vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Lái Đò (Tiền thân Avàriya)

Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân….,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người lái đò.

Người ta bảo kẻ này là phàm phu vô trí: y không biết được các đức tính của Tam Bảo và các bậc hiền nhân. Y nóng vội, thô lỗ và hung bạo. Một Tỷ-kheo ở vùng quê nọ muốn đi yết kiến đức Phật, vào buổi chiều đến bến đò trên sông Aciravatì và bảo người lái đò:

– Này chú, tôi muốn qua sông, chú cho tôi lên đò đi.

– Thưa Tôn giả, trời tối rồi, hãy ở lại đây.

– Này chú, ta không thể ở lại đây, cho ta qua sông.

Người lái đò bực tức nói:

– Vậy thì ngài Sa-môn hãy mau lên đi.

Rồi đưa vị Tỷ-kheo lên đò, nhưng y lái đò thật vụng về khiến nước văng vào mạn đò làm ướt y của vị Tỷ-kheo, và đến khi trời tối mới đưa được ông qua bờ kia.

Khi vị Tỷ-kheo đến tinh xá, ông không thể kịp yết kiến đức Phật ngay hôm ấy.

Hôm sau, ông đi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư đáp lễ và hỏi ông đến khi nào:

– Thưa hôm qua.

– Thế sao mãi hôm nay ông mới đến thăm ta?

Khi nghe rõ lý do, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa, kẻ ấy cũng thô lỗ, y làm phiền các trí nhân ngày xưa giống như đã làm phiền ông.

Rồi theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sanh vào một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi môn nghệ thuật tại Takkasilà, rồi trở thành một vị khổ hạnh. Sau một thời gian dài sống toàn củ, quả rừng ở vùng Tuyết Sơn, ngài đi đến Ba-la-nại để tìm muối và dấm. Ngài ở trong vườn ngự uyển và hôm sau vào kinh thành khất thực. Từ sân thượng hoàng cung, vua thấy ngài và hài lòng trước tướng mạo oai nghi của ngài nên cho người triệu ngài vào cung và cúng dường thực phẩm. Vua hứa mời ngài an trú trong ngự uyển và hàng ngày vua đến tham kiến ngài.

Bồ-tát bảo:

– Thưa Ðại vương, một vị vua phải trị nước công bình, tránh xa Bốn ác đạo, đầy nhiệt tâm tinh cần, kham nhẫn, từ ái, lân mẫn toàn dân.

Với lời khuyến giáo thông thường như thế, ngài ngâm hai vần kệ đầu:

Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân,
Chúa tể trần gian, chớ hận sân,
Ðừng lấy lòng sân bù mối hận
Quân vương như vậy đáng suy tôn.

Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên nhủ
Mãi mãi từ nay, hỡi Ðại vương.

Như vậy, Bồ-tát ngâm đôi vần kệ ấy hàng ngày cho vua nghe. Vua hoan hỷ ban tặng ngài một ngôi làng có số lợi tức là một trăm ngàn đồng vàng, song ngài từ chối. Bồ-tát sống theo cách này suốt mười hai năm liền. Sau đó ngài nghĩ: “Ta đã ở đây quá lâu, nay ta muốn du hành qua quốc độ rồi trở về”.

Thế là không báo với vua, ngài chỉ nói riêng với người giữ vườn:

– Này Hiền hữu, ta thấy chán, ta muốn du hành trong nước rồi trở về, nhờ bạn trình với đức vua.

Ngài đi ngay ra bến đò ở sông Hằng. Ở đó có gã chèo đò ngu ngốc tên là Avàriyapità, y không hiểu đạo hạnh của bậc hiền nhân, cũng chẳng biết luôn cả việc ích lợi hay thiệt hại của riêng mình. Khi dân chúng muốn qua sông Hằng, trước tiên y đưa họ qua rồi sau đó đòi tiền đò. Có khi họ không trả tiền, y liền gây sự với họ, rồi chỉ nhận được lời mạ lỵ và đấm đá chứ rất ít tiền bạc, y thật ngu dại mù quáng đến thế.

Về gã này, bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ ba phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:

Chú A-và-ri-ya,
Thuyền lướt sóng Hằng Hà,
Trước tiên đưa du khách,
Rồi mới hỏi tiền phà,
Do vậy ăn đòn mãi,
Thật xui xẻo, dại khờ!

Bồ-tát đến gặp gã lái đò này và bảo:

– Hiền hữu, hãy đưa ta qua bờ kia.

– Này Sa-môn, ngài sẽ trả tiền cho tôi chứ? Y đáp.

– Này Hiền hữu, ta sẽ chỉ cho chú biết cách làm tăng trưởng tài lợi, an lạc và đức hạnh.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Chắc chắn vị này sẽ cho ta một cái gì đó”.

Rồi y đưa ngài sang sông và nói:

– Xin cho tôi tiền đò.

Bồ-tát bảo:

– Ðược rồi, này Hiền hữu.

Và thế là muốn dạy cho y biết trước tiên phải làm cách nào để tăng thêm của cải, ngài ngâm vần kệ này:

Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.

Gã lái đò nghĩ thầm: “Ðây chỉ là lời vị ấy khuyên ta, nay phải cho ta thêm cái gì chứ”. Song Bồ-tát bảo:

– Này Hiền hữu, chú đã có cách làm ra tiền rồi đấy, nay hãy nghe cách làm tăng an lạc cùng đức hạnh.

Rồi ngài lại ngâm vần kệ khuyến giáo:

Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên chú
Mãi mãi từ nay, hỡi thiện nhân.

Như thế, sau khi đã dạy cách làm tăng trưởng an lạc và đức hạnh, ngài bảo:

– Vậy là chú có cách làm tăng an lạc và đức hạnh.

Nhưng gã ngu si kia không xem lời khuyến giáo của ngài ra gì cả, lại đáp:

– Này Sa-môn, đây là các thứ ngài cho tôi thế tiền phà đấy à?

– Ðúng vậy, Hiền hữu.

– Tôi không cần thứ ấy, cho tôi thứ khác kia.

– Này Hiền hữu, ngoài thứ ấy ta không có gì khác.

– Thế tại sao ngài lại đi trên thuyền tôi?

Y đáp, và ném vị khổ hạnh lên bờ, ngồi lên ngực ngài và đấm vào mồm ngài.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các vị thấy khi nhà khổ hạnh khuyến giáo vua, thì nhận được ân tứ một ngôi làng, còn khi khuyến giáo như vậy với một gã lái đò ngu ngốc thì được vài cái đấm vào mồm. Cho nên khi khuyến giáo phải lựa người thích hợp, chớ nói với người không thích hợp.

Rồi Ngài ngâm vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng trí của Ngài:

Vua nghe lời khuyến thiện, đã ban
Lợi tức phần ta cả một làng,
Chú lái đò nghe lời khyyến thiện
Lại đánh người cho ngã xuống đàng.

Trong khi gã kia đánh vị Sa-môn, vợ y đem cơm lại cho y, thấy vậy liền bảo:

– Này chàng, đây là vị khổ hạnh trong triều vua, đừng đánh ngài.

Y nổi giận đáp:

– Cô lại cấm ta đánh kẻ tu hành giả mạo này ư?

Rồi y nhảy lên đánh vợ ngã xuống đất. Ðĩa cơm đổ hết vỡ tan, còn vợ y phải trụy thai.

Quần chúng vây y lại và la lớn:

– Quân khốn nạn giết người.

Họ trói y lại đưa đến nhà vua. Ngài xử phạt y theo pháp luật.

Với Trí tuệ Tối thắng, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua vần kệ cuối cùng:

Cơm đổ, vợ y đánh tả tơi,
Thai nhi chết trước lúc ra đời,
Lời khuyên cho kẻ này vô dụng
Như vàng ròng tặng thú hoang thôi.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu):

– Vào thời ấy, gã lái đò là chú lái ngày nay, vua là Ànanda và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Setakeku (Tiền thân Setaketu)

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì….,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lừa dối.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ xuất hiện trong Tiền thân Uddàla, số 487.

-ooOoo-

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một giáo sư danh tiếng lừng lẫy và dạy thánh kinh cho năm trăm đồ đệ. Vị huynh trưởng trong bọn là Setakeku, xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn miền Bắc, vốn rất tự cao về giai cấp mình.

Một hôm chàng ra khỏi thành phố cùng bè bạn, lúc trở về, chàng thấy một kẻ Chiên-đà-la (Candàla):

– Anh là ai? Chàng hỏi.

– Tôi là một Chiên-đà-la.

Vị ấy sợ ngọn gió sau khi chạm vào người kẻ Chiên-đà-la sẽ đụng vào thân mình, nên thốt lên:

– Ðồ khốn kiếp, này tên Chiên-đà-la xui xẻo kia, hãy tránh gió mau.

Rồi chành chạy nhanh về phía gió. Song kẻ Chiên-đà-la cũng nhanh chân bắt kịp chàng và đứng trước gió cản. Chàng lại càng phỉ báng mạ lỵ kẻ kia nhiều hơn nữa. Kẻ Chiên-đà-la hỏi:

– Ông là ai?

– Ta là một thư sinh Bà-la-môn.

– Tốt lắm, nếu vậy thì ông có thể đáp câu hỏi của tôi.

– Ðúng vậy.

– Còn nếu ông không đáp được, tôi sẽ kẹp ông lại giữa hai chân tôi đấy.

Vị Bà-la-môn đầy tự tin, bảo:

– Cứ làm ngay đi.

Kẻ Chiên-đà-la muốn làm cả hội chúng hiểu chuyện này, liền hỏi:

– Này thanh niên Bà-la-môn, các phương hướng là gì?

– Ðó là bốn phương: Ðông, Tây, Nam, Bắc.

Kẻ Chiên-đà-la bảo:

– Tôi không hỏi loại phương hướng đó, còn ông không biết ngay đến chuyện này, mà lại ghê tởm luôn cả ngọn gió đụng vào người tôi!

Thế là kẻ ấy chụp lấy vai chàng đè xuống kẹp vào giữa hai chân mình.

Các học trò kia đem chuyện ấy kể với thầy. Vị thầy bảo:

– Này cậu Setakeku, cậu đã bị kẹp giữa hai chân một kẻ Chiên-đà-la ấy à?

– Thưa thầy, vâng, thằng oắt con của một tên nô lệ đã kẹp đệ tử giữa hai chân nó và bảo: “Ông này không biết ngay các phương hướng”. Nhưng nay đệ tử đã biết phải làm gì với nó rồi.

Và như vậy, chàng lại phỉ báng kẻ Chiên-đà-la một cách giận dữ. Vị thầy khuyên nhủ:

– Này cậu Setakeku, đừng giận nó, nó có trí tuệ cao đấy. Nó đã hỏi cậu về một loại phương hướng khác, chứ không phải loại này. Thứ mà cậu không thấy, không nghe, không hiểu, còn cao xa hơn thứ mà cậu đã thấy và nghe nữa.

Rồi ngài ngâm hai câu kệ để khuyến giáo:

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì,
Trí cao vượt quá chuyện mình nghe:
“Một phương” phải hiểu là cha mẹ,
“Thầy giáo” được dùng chí hướng kia.

“Gia chủ” cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là “phương”,
Còn “phương” trong nghĩa cao siêu nhất:
“Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn”.

Như vậy, Bồ-tát giảng giải bốn phương cho thanh niên Bà-la-môn này, song chàng nghĩ: “Ta đã bị kẹp giữa hai chân một kẻ Chiên-la-đà”, liền rời nơi ấy và đến Takksilà học đủ mọi môn nghệ thuật với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Sau đó, được thầy cho phép, chàng rời Takkasilà, vừa du hành đây đó, vừa học tập mọi nghề thực tiễn.

Khi đến một làng biên địa, chàng gặp năm trăm nhà khổ hạnh sống gần đó và được thọ giới tu hành. Chàng học hỏi được mọi nghệ thuật, Kinh điển và các phương pháp thực hành, rồi tất cả cùng vị ấy đi đến Ba-la-nại

Hôm sau chàng đi vào cung đình khất thực. Vua hoan hỷ trước phong cách các vị khổ hạnh, liền cúng dường thực phẩm ngay tại cung vua, và mời các vị ở lại ngự viên. Một hôm vua bảo trong lúc cúng dường thực phẩm:

– Chiều tối nay trẫm sẽ đến đảnh lễ các Tôn giả ngay tại ngự viên.

Setakeku liền đến ngự viên, triệu tập các vị khổ hạnh và bảo:

– Các Tôn giả, hôm nay đức vua sẽ đến. Chỉ cần một lần hòa hợp với vua chúa, người ta có thể sống sung sướng suốt cả đời. Vậy bây giờ một số vị làm kiểu khổ hình bằng cách lắc mạnh người, một số vị nằm trên giường gai, một số vị chịu đựng năm ngọn lửa, một số thực hành khổ hạnh bằng cách ngồi xổm, một số nhào lộn, một số đọc kinh.

Sau khi ra lệnh xong, chính vị ấy ngồi tại cửa am thất với gối dựa, đặt quyển sách bao bìa sáng loáng trên một giá gỗ có sơn và giảng kinh cho đám học trò thông minh chừng bốn năm người. Vừa lúc ấy nhà vua đến, thấy họ đang diễn trò khổ hạnh giả dối này lại rất hài lòng. Vua đến gần Setakeku, kính vái chàng, rồi ngồi xuống một bên, sau đó ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với vị tế sư của hoàng gia:

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm kinh thánh, dáng bình an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ tư:

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

Khi vua nghe lời này, liền lấy lại mọi ân sủng dành cho đám khổ hạnh kia. Setakeku nghĩ thầm: “Nhà vua ham thích đám khổ hạnh, song tế sư này đã phá hoại như thể lấy rìu chặt ngang sở thích của vua. Ta phải nói chuyện với tế sư mới được”. Do thế, chàng ngâm vần kệ thứ năm nói chuyện với tế sư:

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu.

Vị tế sư nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ sáu:

Không, Vệ-đà không hoàn toàn vô dụng,
Dù điều thân tu tập: đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt Tối an nhờ chánh hạnh.

Như vậy, vị tế sư bài bác giáo lý của Setakeku. Ngài khuyên cả đám khổ hạnh hoàn tục, cho họ gươm, giáo, mộc để làm quan thị vệ cao cấp hầu cận vua. Từ đó người ta bảo dòng dõi quan thị vệ cao cấp xuất hiện.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Setakeku là Tỷ-kheo lừa dối này, kẻ Chiên-đà-la là Sàriputta và tế sư của nhà vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Darìmukha (Tiền thân Darìmukha)

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế.

Sự tình dẫn đến chuyện này đã được kể trước kia.

*

Một thuở nọ, vua Magadha trị vì tại thành Rajagaha (Vương Xá). Bồ-tát được sinh làm con của chánh hậu, được đặt tên vương tử Brahmadatta. Vào ngày ngài ra đời, vị tế sư của hoàng gia cũng sinh một nam tử, diện mạo tuấn tú, vì thế được đặt tên là Darìmukha (Miệng hang lớn). Cả hai cùng lớn lên trong cung đình và trở thành bạn thân. Năm mười sáu tuổi, hai vị đến Takkasilà học đủ mọi môn nghệ thuật. Sau đó muốn tạo được các kiến thức có công dụng thực tiễn và tìm hiểu phong tục trong nước, hai vị du hành qua nhiều thành phố, thôn làng khắp mọi miền.

Vì vậy, hai vị đến Ba-la-nại trú ở trong một ngôi đền và hôm sau vào kinh thành khất thực. Có một nhà trong kinh thành đã nấu xong cháo gạo và chuẩn bị chỗ ngồi để cúng dường phần thức ăn cho các Bà-la-môn. Khi họ thấy hai nam tử này khất thực, họ nghĩ: “Các Bà-la-môn đã đến”, liền mời vào và trải một tấm khăn trắng trên ghế của Bồ-tát và một thảm đỏ dưới chân Darìmukkha.

Chàng quan sát điềm này và hiểu ngay thân hữu chàng sẽ làm vua ở Ba-la-nại và chính chàng sẽ làm đại tướng. Hai vị thọ thực xong phần mình rồi nói lời tùy hỷ công đức và ra đi về ngự viên. Bồ-tát nằm trên sàng tọa bằng đá của vua, còn Darìmukha ngồi xoa chân ngài.

Thời ấy, vua Ba-la-nại đã băng hà đã bảy ngày. Vị tế sư hoàng gia làm lễ hỏa táng xong liền đưa vương xa ra khỏi thành suốt bảy ngày vì chưa có ai kế vị ngai vàng. Lễ rước vương xa này sẽ được giải thích trong Tiền thân Mahàjanaka, số 539. Vương xa rời kinh thành và đến cổng ngự viên, được bốn đạo quân xa pháo mã tượng hộ tống và âm nhạc của hàng trăm nhạc khí trổi dậy vang lừng.

Darìmukha nghe tiếng nhạc, nghĩ thầm: “Vương xa đến rước thân hữu ta đó, ngài sẽ lên ngôi vua hôm nay, và phong ta chức đại tướng, song ta có nên làm người thế tục chăng? Ta muốn đi ngay làm ẩn sĩ khổ hạnh”. Vì thế không nói gì với Bồ-tát, chàng chạy sang một bên đứng ẩn mình.

Vị tế sư ngừng xe trước cổng ngự viên, vừa bước vào thấy Bồ-tát đang nằm trên bảo tọa của hoàng gia. Vừa quan sát các tướng tốt trên chân ngài, ông nghĩ: “Ngài có đủ đức độ và xứng đáng làm vua cả bốn đại châu cùng với hai ngàn hải đảo vây quanh. Song lòng can đảm của ngài ra saođây?”.

Vì thế ông ra lệnh mọi nhạc khí đồng trổi dậy hết sức inh ỏi. Bồ-tát thức dậy, giở tấm khăn ra khỏi mặt và thấy đám đông. Rồi che mặt lại, ngài nằm xuống thêm chút nữa, xong trở dậy ngồi xếp bằng trên sàng tọa trong lúc xe vừa dừng lại.

Vị tế sư quỳ xuống, thưa:

– Tâu Chúa thượng, quốc độ được nhường cho Chúa thượng.

– Sao? Không ai kế vị à?

– Tâu Chúa thượng, không.

– Thế thì tốt lắm.

Vậy là ngài nhận lời thỉnh cầu và hội chúng làm lễ quán đảnh rảy nước thánh lên đầu ngài tại ngự viên. Trong giờ phút đại vinh quang ấy, ngài quên bẵng Darìmukha, ngài ngự lên vương xa đi giữa đám quần thần uy nghi diễu vòng quanh kinh thành. Sau đó dừng lại trước cung môn, ngài chỉ định vị trí của các triều thần, xong bước lên lầu thượng.

Cùng lúc ấy, Darìmukha thấy ngự viên đã vắng người liền bước ra ngồi trên bảo tọa trong vườn. Một ngọn lá khô rơi xuống trước mặt ngài. Thấy rõ các quy luật lão tử, ngài bừng ngộ Tam pháp ấn (Khổ, vô thường, vô ngã) và chứng đắc quả vị Ðộc Giác Phật (Paccekabodhi), liền reo mừng hoan hỷ làm vang dậy cả cõi trần. Ngay lập tức các đặc tính của một phàm nhân biến mất khỏi thân Ngài, một bình bát và một tấm y kỳ diệu từ cõi thiên rơi xuống khoác vào người và Ngài cóđủ tám món cần thiết cùng tứ oai nghi hoàn thiện của một Sa-môn cả trăm tuổi, rồi nhờ thần lực, Ngài bay qua không gian đến tận động Nandamùla, nơi an trú của các vị Ðộc Giác Phật tại miền Tuyết Sơn.

Phần Bồ-tát trị nước rất chân chánh. Song cảnh đại vinh quang đã làm ngài say đắm suốt bốn mươi năm ròng. Ngài quên hẳn Darìmukha. Ðến năm thứ bốn mươi ấy ngài nhớ lại bạn và tự bảo: “Trẫm có thân hữu tên là Darìmukha, nay vị ấy ở đâu?”. Ngài mong ước gặp lại bạn. Từ đó về sau, ngay trong hậu cung hay giữa quần thần, ngài thường bảo:

– Thân hữu Darìmukha nay ở đâu? Trẫm sẽ ban vinh hoa phú quý cho ai báo tin với trẫm về nơi bạn hiền cư trú”.

Lại mười năm nữa trôi qua từ khi ngài thỉnh thoảng nhớ đến bạn. Còn Tôn giả Darìmukha đã trở thành Ðộc Giác Phật, sau năm mươi năm, suy xét lại và biết bạn cũng đang nhớ đến Ngài, liền nghĩ: “Nay bạn ta đã già và tăng thêm đàn con cháu, ta muốn đi thuyết Pháp và truyền giáo cho bạn”.

Nhờ thần lực, Ngài bay qua không gian và hạ mình xuống vườn ngự uyển, ngồi xuống bảo tọa như một bức tượng vàng ròng. Người giữ vườn thấy Ngài, đi đến hỏi:

– Thưa Ngài, Ngài từ đâu đến?

– Từ động Nandamùlaka.

– Thế Ngài là ai?

– Hiền giả, ta là Phật Ðộc Giác Darìmukha.

– Thưa Ngài, thế Ngài biết đức vua của chúng tôi chăng?

– Ta biết. Ngài là thân hữu từ thời ta còn ở thế tục.

– Thưa Ngài, đức vua ước ao hội kiến Ngài, tôi xin đi trình báo đức vua rằng Ngài đã đến.

– Hiền hữu cứ đi làm như vậy.

Người làm vườn liền đi trình vua rằng Tôn giả Darìmukha đã đến và hiện đang ngồi trên thạch tọa. Vua phán:

– Thế là Hiền hữu của trẫm đã đến, trẫm sẽ đi hội kiến ngay.

Vì vậy ngài ngự lên vương xa cùng đám tùy tùng hộ tống đông đảo đến ngự viên, cung kính đảnh lễ vị Ðộc Giác Phật và ngồi xuống một bên. Vị Ðộc Giác Phật bảo:

– Này Brahmadatta, Ðại vương nên trị nước chân chánh, đừng bao giờ theo ác đạo hay đàn áp dân chúng vì tiền bạc. Hãy làm mọi thiện sự với lòng nhân từ.

Và sau đó khi ân cần đáp lễ, Ngài bảo thêm:

– Này Brahmadatta, nay Ðại vương đã già đã đến lúc Ðại vương nên từ giã dục lạc và xuất gia.

Như thế, Ngài thuyết Pháp và ngâm vần kệ đầu:

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn
“Nỗi kinh hoàng ba gốc” được gọi là,
Ta bảo rằng khói bụi với sương sa,
Hãy bỏ chúng, xuất gia lìa thế tục.

Nghe vầy, vua ngâm vần kệ giải thích ngài vẫn đang bị tham dục ràng buộc:

Trẫm say đắm, lún sâu bùn tham dục,
Bà-la-môn, dục lạc đáng kinh thay,
Song yêu đời, trẫm không thể bỏ ngay,
Trẫm xin nguyện suốt đời làm thiện sự.

Sau đó, mặc dù Bồ-tát bảo: “Ta không muốn thọ giới xuất gia”, Tôn giả Darìmukha cũng không bài bác vua và khích lệ lần nữa:

Ai bác bỏ lời bạn hiền khuyên nhủ,
Thương xót và mong bạn tránh đọa đày,
Cứ tưởng rằng: “Cõi thế tốt lành thay”,
Sẽ không dứt tái sinh đầu thai mãi.

Nơi đày đọa đáng kinh: phần kẻ ấy
Ðầy vật dơ, bị người thiện chê bai,
Kẻ tham kia dục vọng chẳng hề rời,
Thân xác chứa ngập đầy mầm nhục dục.

Như vậy, Ðộc Giác Phật Darìmukha nêu rõ sự khổ đau do nhập thai và vội vàng bày tỏ nỗi khổ đau vì sinh sản qua một vần kệ nữa:

Ðầu máu mủ, vật hôi tanh thế tục,
Mọi hữu tình đều phải chịu tái sinh,
Những vật gì xúc chạm suốt đời mình,
Chỉ cốt để đem khổ đau trần giới.
Ta nói lên những điều ta trông thấy,
Chứ không lo người khác nói ta nghe,
Ta nhớ rành các đời kiếp xưa kia.

Lúc bấy giờ với Trí tuệ Tối thắng, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như thế vị Ðộc Giác Phật đã dùng thiện ngôn cứu giúp nhà vua.

Và Ngài ngâm nửa vần kệ kết thúc:

Da-ri-muk đã rót vào tai bạn
Su-me-dha lắm vần kệ ngọt ngào,
Hiển bày ra cả trí tuệ tối cao.

Vị Ðộc Giác Phật bày tỏ mọi khổ đau của tham dục và làm vua hiểu lời Ngài dạy xong, liền nói:

– Thưa Ðại vương, dù Ðại vương có thọ giới xuất gia hay không, ta cũng đã nói hết nỗi khốn cùng của tham dục và hạnh phúc của đời xuất gia, xin Ðại vương hãy tinh cần.

Rồi giống như một con kim nga vương, Ngài bay bổng lên không, lướt mây về đến động Nandamulaka. Còn bậc Ðại Sĩ đảnh lễ với mười ngón tay chắp vào nhau, và cúi đầu đứng yên cho tới khi Tôn giả Darìmukha khuất bóng. Sau đó vua từ bỏ dục lạc, trong lúc quần chúng đông đảo than khóc kêu gào, ngài đi đến vùng Tuyết Sơn dựng một lều lá và thọ giới làm ẩn sĩ. Chẳng bao lâu ngài thành đạt các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi lúc mạng chung, Ngài được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật, sau đó nhiều Tỷ-kheo đắc sơ quả cùng các quả vị kia, và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy nhà vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Núi Neru (Tiền thân Neru)

Hai chúng ta là loài chim ưu tú..

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị ấy học được các phương thức hành thiền của bậc Ðạo Sư xong, liền ra một làng ở biên địa. Tại đó dân chúng hài lòng với phong cách của ông, nên cúng dường thực phẩm, dựng một thảo am ở trong rừng và yêu cầu ông ở lại đó rồi bày tỏ lòng tôn kính trọng vọng ông. Nhưng sau đó họ lại rời bỏ ông, để đi theo các đạo sư thuộc phái Thường kiến, rồi lại bỏ các vị này để theo giáo phái Ðoạn kiến, xong lại bỏ phái này để theo phái khổ hạnh lõa thể, vì đạo sư các phái này cứ lần lượt xuất hiện. Do thế vị Tỷ-kheo này rất phiền lòng khi sống chung với những người không phân biệt thiện ác kia.

Sau thời an cư mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavàranà), vị ấy trở về hầu bậc Ðạo Sư và khi Ngài hỏi, ông kể lại những nơi ông đã cư trú trong mùa mưa vừa qua và ông đã phải phiền lòng ra sao vì những người không biết thiện ác. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Các bậc trí ngày xưa, ngay khi còn là loài vật, cũng không sống chung một ngày với những kẻ không biết thiện ác, tại sao ông lại làm như vậy?

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một chim Thiên nga màu vàng óng. Ngài sống cùng em trai trên đỉnh núi Cittakuta và ăn lúa dại trên vùng Tuyết Sơn. Một hôm bay về Cittakuta, đôi chim thấy ngọn núi Neru màu vàng rực rỡ liền đến ở trên đỉnh. Chung quanh núi có nhiều loài chim và dã thú cùng sống để kiếm ăn trên bãi. Từ lúc bọn chúng đến đây, tất cả đều nhuộm màu vàng do ánh sáng từ núi chiếu ra. Chim em của Bồ-tát thấy vậy, song không hiểu lý do liền hỏi:

– Vì cớ sao ở đây lại như vậy?

Và chim cất tiếng ngâm hai vần kệ đầu nói chuyện cùng anh:

Hai chúng ta là loài chim ưu tú
Trên núi này bên đám quạ, diều hâu,
Cả mọi loài cùng chỉ có một màu:

Chó hạ liệt đua tranh cùng loài hổ,
Và với chúa sơn lâm: đàn sư tử
Vậy núi này có tên gọi là sao?

Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp lại:

Ne-ru là tên gọi Núi tối cao,
Ở nơi đây muôn loài đều vàng óng.

Chim em nghe lời này liền ngâm ba vần kệ tiếp còn lại:

Hễ nơi nào thiện nhân không được trọng,
Hoặc ít hơn người khác, hãy đi liền,

Dẫu hiền ngu, can đảm hoặc ươn hèn,
Ðều nhất loạt được tôn sùng bình đẳng,
Thiện nhân chẳng thể cùng ngươi chung sống,
Hỡi Núi cao không phán đoán phân minh!
Dầu tối ưu, hạ liệt, hoặc trung bình,
Ne-ru cũng chẳng thể nào suy xét,
Vậy, hỡi ôi! Chúng ta đành từ biệt
Núi Ne-ru không biết lẽ biệt phân.

Cùng với lời này cả đôi chim bay về núi Cittakùta.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).  Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Thiên nga em là Ànanda, và Thiên nga anh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thiên Nữ Àsankà (Tiền thân Àsankà)

À-sà-ti mọc trên vườn thiên giới..

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự cám dỗ một Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.

Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Indriya, số 423.

Bậc Ðạo Sư nhận thấy vị Tỷ-kheo này thối thất do mơ tưởng đến người vợ cũ, vì thế Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đang làm hại ông, ngày xưa cũng vì kẻ ấy mà ông đã hy sinh cả bốn đạo quân và sống ba năm liền ở vùng Tuyết Sơn trong cảnh đầy gian khổ.

Nói xong Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn tại một làng trong xứ. Khi ngài lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Ðại học Takkasilà, sau đó trở thành một vị khổ hạnh đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, sống bằng củ quả ở rừng Tuyết Sơn. Vào thời ấy có một thiếu nữ đức hạnh vẹn toàn từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, đầu thai làm một thiếu nữ trong đóa hoa sen trên hồ nước. Trong khi các hoa khác già cỗi héo tàn, rơi rụng thì hoa ấy lớn dần và đứng thẳng trên cành.

Vị khổ hạnh đến tắm trong hồ nhận thấy thế, nghĩ thầm: “Các hoa khác rơi rụng, song hoa này cứ lớn dần ra và thẳng đứng, sao lạ thế này?” Ngài liền mặc áo tắm và lội đến đó, mở đóa sen ra, ngài trông thấy cô bé gái. Ngài cảm thấy thương yêu nàng như con mình, liền đem cô bé về thảo am, chăm sóc nuôi nấng. Nàng lớn dần đến năm mười sáu tuổi trở thành rất xinh đẹp, dung sắc nàng vượt hẳn dung sắc loài người, nhưng chưa đạt đến dung sắc chư Thiên.

Một hôm Thiên chủ Sakka hiện xuống hội kiến Bồ-tát. Thiên chủ thấy thiếu nữ này liền hỏi chuyện và được biết nàng ở đâu ra. Ngài hỏi:

– Nàng cần những thứ gì, thưa Tôn giả?

– Một chỗ cư trú, y phục nữ trang và thực phẩm, này Thiên chủ.

Ngài liền hóa hiện một cung bằng pha lê cho nàng ở, cùng với bảo tọa, y phục, nữ trang, thực phẩm thần và tiên tửu. Thiên cung này bay xuống trần gian và dừng lại ở nơi nàng đang sống. Khi nàng bước vào trong cung, nó lại bay lên đến giữa không trung. Nàng chuẩn bị đủ mọi thứ phụng dưỡng Bồ-tát trong khi nàng sống trong cung này.

Một người kiểm lâm thấy nàng liền hỏi ngài:

– Thưa Tôn giả, nàng ấy là gì của ngài?

– Con gái ta đấy.

Người ấy liền đi về Ba-la-nại trình vua:

– Tâu Ðại vương, tiểu thần vừa thấy trong vùng Tuyết Sơn cô con gái của một vị khổ hạnh có dung sắc tuyệt thế.

Vua bị cám dỗ khi nghe chuyện này vội bảo người kiểm lâm làm hướng đạo cùng đi với vua và bốn đạo binh về hướng ấy. Cắm lều trại xong, vua đem người kiểm lâm và đám cận thần đến thảo am. Vua kính chào Bồ-tát và bảo:

– Thưa Tôn giả, nữ nhân là thứ bất tịnh đối với đời tu hành, vậy để trẫm chăm sóc tiểu thư.

Bấy giờ Bồ-tát đã đặt cho cô gái tên Àsankà vì nàng được ngài đem về nuôi nhờ ngài lội qua hồ nước do lòng nghi hoặc (Àsankà): “Cái gì ở trong hoa sen này?”. Ngài không nói thẳng với vua: “Hãy đem nàng đi”, mà lại bảo:

– Thưa Ðại vương, nếu ngài biết tên con gái ta thì hãy đem nàng đi.

– Thưa Tôn sư, nếu ngài nói ra thì trẫm sẽ biết..

– Ta sẽ không nói đâu, khi nào ngài biết tên ấy thì cứ đem nàng đi.

Vua chấp thuận, từ đó cứ suy xét cùng với đám cận thần: “Tên nàng là gì nhỉ?” và đưa ra đủ thứ tên khó đoán với Bồ-tát: “Những tên nọ tên kia là tên nàng”. Song Bồ-tát bảo không phải và từ chối lời thỉnh cầu. Vì vậy một năm trôi qua trong khi vua xem xét tên nàng.

Sư tử và nhiều dã thú đến vồ lấy mọi người và binh sĩ của vua, lại thêm nhiều hiểm họa vì rắn rết, ruồi muỗi. Nhiều người khác chết vì lạnh. Vua bảo Bồ-tát:

– Trẫm cần gì nàng ấy nữa?

Và vua bỏ đi.

Thiếu nữ Àsankà hiện ra trên cửa sổ pha lê mở rộng. Vua thấy nàng liền bảo:

– Chúng ta không tìm ra tên nàng nên chúng ta sẽ ra đi, nàng cứ ở lại Tuyết Sơn này.

– Tâu Ðại vương, nếu ngài ra đi, ngài sẽ chẳng bao giờ tìm được một vương phi như thiếp nữa. Trên cõi trời Ba mươi ba, tại vườn Cittalatà, có một loài cây leo tên Àsàvatì. Trái của nó chứa một thứ tiên tửu, những ai uống rượu ấy một lần là phải say suốt bốn tháng nằm yên trên thiên tọa. Nó chỉ sinh trái một lần trong một ngàn năm, cho nên các Thiên tử, dù ham mê rượu nồng, vẫn chịu nhịn khát để đón chờ tiên tửu ấy. Họ bảo nhau: “Ta sẽ hái quả cây này”, rồi cứ liên tục đến canh chừng cây ấy suốt cả ngàn năm và bảo nhau: “Cây mọc có tốt chăng?”

Còn Ðại vương, chỉ trong vòng một năm đã sinh lòng bất mãn, hễ ai hái được kết quả của niềm hy vọng là đạt hạnh phúc. Thiếp xin ngài khoan bất mãn vội.

Do vậy, nàng ngâm ba vần kệ đầu:

À-sà-ti mọc trên vườn Thiên giới
Một ngàn năm chỉ sinh trái một lần,
Chư Thiên hằng kham nhẫn mãi chờ trông.

Quá hy vọng, Ðại vương, đầy ngon ngọt,
Chim hy vọng không bao giờ tổn thất,
Nó đạt tròn mong ước dẫu xa vời.

Tâu Ðại vương, quá hy vọng ngọt bùi!
Cứ hy vọng, Ðại vương, hy vọng mãi.

Vua lại mê say vì lời nàng, rồi triệu tập quần thần một lần nữa và cố đoán tên nàng, cứ mỗi lầnđoán mười tên mãi đến khi một năm nữa trôi qua. Song tên nàng vẫn không ở trong số mười lời phỏng đoán kia, nên Bồ-tát từ chối lời vua thỉnh cầu. Nàng lại hiện ra trên khung cửa sổ và vua bảo:

– Thôi nàng ở lại đây, trẫm sắp ra đi.

– Tại sao ra đi, tâu Ðại vương?

– Vì trẫm không thể nào đoán ra tên nàng.

– Tâu Ðại vương, tại sao ngài không thể đoán ra? Niềm hy vọng không phải là không có thành công. Một con hạc đậu trên đỉnh đồi cũng đạt được mong ước, tại sao ngài không thể đạt được chứ? Tâu Ðại vương, hãy kham nhẫn. Một chim hạc đã tìm nơi ăn trong một hồ sen, song nó bay lên tận đỉnh đồi. Nó ở lại đó hôm ấy và hôm sau tự nhủ: “Ta sống thật an lạc tại đỉnh đồi này. Nếu không cần xuống đồi, ta cứ ở đây tìm thức ăn nước uống và đậu tại đây hôm nay thật thích thú biết bao”.

Chính ngay hôm ấy, Sakka Thiên chủ đã dẹp tan các thần Asura (A-tu-la) và làm chúa tể cõi trời Ba mươi ba, tự nhủ: “Mọi mong ước của ta đã đạt được đỉnh cao thành tựu. Hôn nay có ai trong rừng chưa đạt niềm mong ước chăng?” Suy xét như vậy ngài thấy con hạc và nghĩ: “Ta sẽ làm cho niềm mong ước của con hạc được thành tựu”. Không xa con hạc đậu có một dòng suối, Thiên chủ đưa con suối đầy thức ăn lên đỉnh đồi, như thế chim hạc không cần đi đâu vẫn có cá ăn nước uống thỏa thích suốt ngày ở nơi ấy. Sau đó dòng suối đổ xuống và trôi đi xa. Tâu Ðại vương, con hạc đã đạt kết quả niềm hy vọng của nó như vậy, tại sao Ðại vương sẽ không đạt được kia chứ? Xin Ðại vương cứ hy vọng nữa, hy vọng mãi.

Nàng nói và ngâm vần kệ còn lại.

Vua nghe chuyện nàng kể, lại say mê sắc đẹp nàng, bị lời nàng lôi cuốn, nên ở thêm một năm nữa để phỏng đoán cả trăm tên nàng. Sau ba năm, vua tìm đến Bồ-tát và hỏi:

– Thưa Tôn giả, tên nàng có nằm trong trăm tên này chăng?

– Thưa Ðại vương, ngài không biết tên ấy đâu.

Vua vái chào Bồ-tát và bảo:

– Chúng tôi xin từ giã lên đường.

Và vua ra đi.

Thiếu nữ Àsankà lại đứng bên cửa sổ pha lê. Vua trông thấy nàng liền bảo:

– Thôi nàng ở lại, chúng ta sắp lên đường.

– Tại sao thế, tâu Ðại vương?

– Nàng làm ta đẹp lòng vì lời nói chứ không phải vì tình yêu của nàng. Ta say mê lời nói dịu ngọt của nàng, nên đã ở đây ba năm ròng, nay ta quyết ra đi.

Rồi vua ngâm các vần kệ sau:

Lời nói nàng nghe quả thật dịu êm,
Song hành động không thỏa lòng mong đợi.
Hoa hữu sắc vô hương là cỏ dại,

Lời hứa kia dẫu đẹp chẳng thi hành
Với bạn thân, ta phải ném cho nhanh,
Chẳng đem tặng, cứ để dành mãi mãi,
Tình bạn kia tất nhiên là suy thoái.

Ta chỉ nên hứa trước việc mình làm,
Ðừng hứa suông những việc chẳng đảm đang.
Nếu ta nói mà không làm phận sự,
Các trí nhân xét xem liền thấy rõ.

Ðạo quân ta hao tổn, cạn kho lương,
Ta hoài nghi đời sống đã suy tàn,
Ðã đến lúc ra đi, đành từ biệt.

Khi nàng Àsankà nghe lời vua liền đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài biết tên thiếp rồi, ngài vừa nói ra tên ấy. Xin hãy nói cho phụ thân biết tên thiếp và đem thiếp cùng ra đi.

Nói vậy xong, nàng liền ngâm vần kệ:

Tâu Ðại vương, vừa nói ra tên thiếp,
Hãy đến ngay, cha thiếp nhận cầu hôn.

Vua đến gặp Bồ-tát và nói:

– Thưa Tôn giả, tiểu thư tên là Àsankà.

– Thưa Ðại vương, ngài đã biết tên nàng, vậy hãy đem nàng ra đi.

Vua kính lễ Bồ-tát và đến cung pha lê bảo nàng:

– Này, quý cô nương, phụ thân nàng đã gả nàng cho ta, vậy hãy đến đây ngay.

– Tâu Ðại vương, thiếp sẽ đi xin phép phụ thân. Nàng bảo.

Rồi từ cung pha lê, nàng bước xuống đảnh lễ Bồ-tát, được ngài ưng thuận và cho phép ra đi cùng nhà vua. Vua đem nàng về Ba-la-nại, cùng nàng sống hạnh phúc, sinh được thêm nhiều hoàng tử và công chúa. Còn Bồ-tát tiếp tục hành Thiền định và tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Àsankà là người vợ cũ kia, vua là vị Tỷ-kheo bất mãn này và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền thân Migàlopa)

Ðường con bay bổng, hỡi con thân…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất tuân Giới luật.

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo:

– Có thật ông bất tuân Giới luật chăng?

Vị ấy đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bậc đạo sư bảo:

– Không phải ông bất tuân Giới luật lần đầu, mà xưa kia vì tính ngỗ nghịch không nghe lời khuyên của bậc trí, ông phải mạng vong và gặp cuồng phong Verambla.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên) tên Aparanna, sống cùng đoàn chim thứu tùy tùng ở núi Gijjhapabbata (Thứu Sơn). Con ngài tên Migàlopa cường tráng dũng mãnh phi thường. Nó bay cao vượt mức độ các chim thứu khác. Chúng liền kể cho thứu vương nghe con ngài bay quá cao. Ngài gọi Migàlopa đến bảo:

– Này con, chúng bảo con bay quá cao. Nếu quả vậy, con tự gây tử vong cho mình đấy.

Ngài lại ngâm ba vần kệ:

Ðường con bay bổng, hỡi con thân,
Cha thấy chúng sao thật bất an,
Con vụt lên cao xa quá mức,
Vượt vùng ta sống thật an toàn.

Khi đất chỉ là một bãi vuông
Hiện ra phía trước mắt con trông,
Thì nên quay lại thôi con nhé,
Ðừng táo bạo bay vút giữa không.

Chim sải cánh bay tận cõi không,
Chúng thường gặp bão tố cuồng phong,
Khi đang nỗ lực lên cao mãi,
Vì chúng kiêu căng phải mạng vong.

Khinh lời khuyên nhủ thật khôn ngoan
Của đấng lão thân, gặp Hắc Phong,
Tên gọi Ve-ram-bha Bão tố,
Vợ con, gia sản phải tan hoang.

Do vậy những ai chẳng chú tâm
Nghe lời huynh trưởng vẫn khuyên răng,
Như chim kiêu mạn bay đi lạc,
Bất phục lệnh trên, gặp tử thần.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Migàlopa là Tỷ-kheo bất tuân Giới luật và Thứu vương Aparanna chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền thân Siri-Kàlakanni)

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

Từ thời ông được an trú vào quá Dự Lưu, ông hành trì Ngũ giới trọn vẹn. Tất cả vợ con gia nhân của ông đều làm như vậy.

Một hôm tại Chánh pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận xem ông Cấp Cô Ðộc và gia quyến ông có giữ Thánh đạo thanh tịnh chăng. Bậc Ðạo Sư bước vào và được Hội chúng trình bày đề tài ấy, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các bậc trí thời xưa cũng đã giữ cho toàn gia quyến được thanh tịnh.

Và Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm một thương nhân, bố thí, trì giới và toàn thể con cháu, gia nhân trong nhà cũng làm như vậy. Cho nên ngài được gọi là thương nhân Suciparivàra (Toàn gia Thanh tịnh). Ngài suy nghĩ: “Nếu có vị nào giữ đức giới thanh tịnh hơn ta đến đây, và ta mời vị ấy ngồi trên ghế của ta hay nằm trên giường của ta thì không thích hợp, mà ta phải mời ngồi trên bảo tọa thanh tịnh chưa ai dùng”. Như thế ngài dặn gia nhân chuẩn bị một bảo tọa và một bảo sàng mới nguyên đặt vào một bên khách sảnh đặc biệt của ngài.

Vào thời ấy trên cõi trời Thiên vương có hai nàng tiên: Kàlakanni (Bất Hạnh), ái nữ của Virùpakkha (Quảng Mục Thiên vương) và Siri (Hạnh Phúc), ái nữ của Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương) cùng đem nhiều vòng hoa và hương liệu đi đến hồ Anotatta để vui chơi tại đó.

Bấy giờ tại hồ đó có nhiều chỗ tắm. Chư Phật có chỗ tắm riêng, các Ðộc Giác Phật có chỗ riêng, các Tỷ-kheo có chỗ riêng, các Thiên tử sáu tầng Dục giới (trong đó có Tứ Thiên vương an trú ở tầng thứ nhất) có chỗ riêng và các Thiên nữ có chỗ riêng.

Hai Thiên nữ này đến đấy và bắt đầu tranh cãi xem ai được tắm trước. Kàlakanni nói:

– Ta ngự trì cõi trần, ta tắm trước mới hợp lý.

– Ta cai quản con đường giới hạnh đem lại địa vị tối cao của nhân loại. Ta tắm trước mới hợp lý. Siri đáp.

Sau đó cả hai đều nói:

– Tứ Thiên vương sẽ biết giữa hai ta ai sẽ phải tắm trước.

Thế là hai nàng đi hỏi các Thiên vương rằng ai giữa hai nàng xứng đáng tắm trước tại hồ Anotatta. Hai Thiên vương Dhatarattha và Virupakkha đáp:

– Chúng ta không thể quyết định được.

Và hai vị giao phận sự ấy cho Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương) và Vesavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Hai vị này cũng bảo:

– Chúng ta không quyết định được, chúng ta muốn đưa chuyện đến bệ kiến Thiên chủ.

Rồi hai vị đưa chuyện đến Sakka Thiên chủ (Ðế Thích). Thiên chủ nghe chuyện, thầm nghĩ: “Hai này này là ái nữ của Thiên vương chư hầu của ta, ta không thể quyết định được chuyện ấy”, và bảo hai nàng:

– Tại thành Ba-la-nại có một thương nhân tên gọi Suciparivàra, trong nhà vị ấy có đặt sẵn một bảo tọa và một bảo sàng mới nguyên, nàng nào có thể nằm ngồi ở chỗ ấy trước thì xứng đáng là ngườiđược tắm trước.

Kàlakanni nghe vậy lập tức khoác y phục màu xanh, tẩm dầu thơm màu xanh và tô điểm nữ trang màu xanh (Màu xanh tượng trưng điềm xấu). Rồi từ Thiên giới, nàng giáng trần trên một thạch bàn do chiếc cung thần bắn ra. Sau canh giữa đêm, nàng trụ trên không, tỏa ra một làn ánh sáng xanh, không xa vị thương nhân đang nằm trên một bảo tọa trong khách sảnh đặc biệt của lâu đài. Vị thương nhân nhìn lên thấy nàng, song đối với ngài, nàng không có vẻ nhân từ, khả ái. Ngài liền ngâm vần kệ đầu nói chuyện với nàng:

Ai đây xanh thẩm hóa đen huyền,
Không khả ái đâu trước mắt nhìn,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi cô tiên?

Nghe lời này, Kàlakanni ngâm vần kệ thứ hai:

Quảng Mục Thiên vương chính phụ thân,
Kà-li là Bất Hạnh, tai ương,
Xin ngài cho một phòng lưu trú
Kề cận ngài như dạ ước mong.

Sau đó Bồ-tát đáp vần kệ thứ ba:

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

Nàng lại ngâm vần kệ thứ tư, giải thích các đặc tính của nàng:

Giả dối, buông lung, cáu kỉnh luôn,
Vong ân, tật đố, dạ xan tham,
Ác nhân, ta giúp thành công để
Thắng lợi làm cho chúng diệt vong.

Nàng còn ngâm thêm vần kệ thứ năm, thứ sáu và thứ bảy:

Sâu hận lại còn thân thiết hơn,
Giao tranh, phỉ báng, lẫn hung tàn,
Kẻ ngu không biết người lương thiện,
Oán ghét lời khuyên, lẫn thiện nhân.

Người nào hành động trí ngu si,
Bằng hữu thảy đều phải chán chê,
Kẻ ấy với ta là bạn đó,
Ta tìm lạc thú ở người kia.

Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tám khiển trách nàng:

Kà-li, nàng hãy bước đi ngay,
Chẳng có gì vui thú ở đây,
Hãy đến các kinh thành xứ khác,
Biến nhanh ra khỏi chốn này.

Kàlakanni nghe vậy, buồn rầu ngâm vần kệ đáp lời:

Ta vẫn biết ngài rõ lắm thay,
Không gì vui thú ở nơi đây,
Những người ác tạo nhiều mưu kế,
Huynh đệ ta làm biến mất ngay.

Khi nàng đã đi rồi, Thiên nữ Siri xuất hiện, với y phục, dầu thơm, nữ trang toàn màu rực rỡ ngay trước cửa phòng khách, vừa tỏa ra một làn ánh sáng toàn màu vàng, nàng đứng trên đất bằng hai chân vững chắc và dáng điệu kính cẩn. Bồ-tát thấy nàng liền ngâm hai vần kệ đầu:

Ai đây màu sáng chói Thiên thần
Trên đất bình yên, dáng thật chân,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi tiên nương?

Siri nghe vậy liền đáp vần kệ thứ hai:

Trì Quốc Thiên vương chính phụ thân,

Ta là Hạnh Phúc, trí am tường,
Thế nhân tán tụng, xin an trú
Ðại sảnh cùng ngài dạ ước mong.

Sau đó ngài hỏi:

Nàng vẫn sống theo giới hạnh gì?
Ðường nào nhân thế bước chân đi?
Ðây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe.

Siri đáp lại:

Người nào dù nóng, lạnh, phong ba,
Ðói khát, ruồi gây bệnh, độc xà,
Phận sự ngày đêm làm tròn vẹn,
Ta luôn quý mến sống cùng nhà.

Nhã nhặn, thiết thân, hạnh chánh chân,
Khoan dung, thẳng thắn, dạ bình an,
Tín thành, thiện cảm, đầy kham nhẫn,
Ta điểm tô thêm mọi phước phần,
Như sóng lan dần trên biển cả,
Một màu sáng chói ngập trùng dương.

Với bạn thân hay chẳng bạn thân,
Với người hơn, kém, hoặc ngang hàng,
Ác nhân hay cả cừu nhân nữa,
Dù tối trời hay giữa ánh quang,
Những kẻ nhân từ không ác ngữ
Tử sinh ta mãi kết thân bằng.

Song nếu kẻ ngu được mến thương
Lại sinh ngạo mạn với kiêu căng,
Con đường bất thiện đầy ngoan cố,
Ta tránh xa như một vũng bùn.

Họa, phúc nghiệp riêng mỗi bản thân,
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân,
Một người không thể gây tai họa,
Hạnh phúc cho ai ở cõi trần.

Ðó là lời giải đáp của Siri khi được vị thương nhân hỏi. Bồ-tát hoan hỷ trước lời nàng, liền bảo:

– Ðây là sàng tọa thanh tịnh, xứng đáng dành cho nàng. Hãy nằm ngồi lên đó.

Nàng ở lại đến sáng hôm sau giã từ về cõi trời Tứ Thiên vương và tắm trước tiên tại hồ Anotatta. Sàng tọa được Siri dùng tên là Sirisaya. Ðó là nguồn gốc của từ Sirisayana (Bảo tọa, vương sàng) và vì lý do đó, nó được gọi như vậy cho đến ngày nay.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Thiên nữ Siri là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và thương nhân Suciparivàra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kê Vương (Tiền thân Kukkuta)

Chim có cánh hồng sáng rực sao…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo mơ tưởng đời thế tục,

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Tại sao ông mơ tưởng đời thế tục?

– Bạch Thế Tôn, chính vì tham dục, con đã trông thấy một nữ nhân trang sức diễm lệ.

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân cũng như mèo cái, thường dối lừa và tán tỉnh để làm hại kẻ nào đã rơi vào uy lực của họ.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Gà trống sống trong rừng với đoàn tùy tùng hàng trăm gà trống khác. Không xa đó có một con mèo cái. Nó đã dùng nhiều mưu kế dụ dỗ nhiều gà trống để ăn thịt ngoại trừ Bồ-tát, song Bồ-tát vẫn không rơi vào mãnh lực của nó. Mèo cái nghĩ thầm: “Con Gà trống này thật tinh khôn, song nó biết đâu là ta cũng tinh khôn và đầy phương tiện tinh xảo. Nếu ta dụ dỗ nịnh hót nó và bảo: “Thiếp muốn làm vợ chàng”, rồi sẽ ăn thịt nó khi nó rơi vào tay ta thì tốt biết bao”.

Mèo cái liền đến dưới gốc cây nơi Gà trống đậu và khẩn cầu Gà bằng giọng lưỡi tán tụng vẻ đẹp của Gà trống, vừa ngâm vần kệ đầu:

Chim có cánh hồng sáng rực sao,
Mồng cao rũ xuống đẹp dường bao,
Thiếp nay ước muốn nên chồng vợ,
Bỏ cây xuống với thiếp đây nào!

Bồ-tát nghe vậy suy nghĩ: “Nó đã ăn thịt tất cả họ hàng nhà ta, nay nó lại muốn phỉnh nịnh ta để ăn ta luôn. Ta quyết tìm cách tống nó đi”. Vì thế ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Cô nàng quyến rủ, đẹp xinh ôi!
Nàng có bốn chân, tôi chỉ hai,
Chim, thú không bao giờ kết hợp,
Hãy tìm chàng khác thật cân đôi.

Mèo cái liền nghĩ: “Gà trống này tinh khôn khác thường, ta phải quyết dùng mưu này kế nọ dụ nó và ăn thịt nó mới được”. Vì thế nó ngâm vần kệ thứ ba:

Thiếp dâng chàng sắc đẹp thanh xuân,
Lời nói dịu êm nhã nhặn luôn,
Làm vợ quý yêu hay thị nữ,
Tùy nghi đối xử hợp phu quân.

Sau đó Bồ-tát lại nghĩ: “Tốt nhất là phải mạ lỵ nó và tống cổ nó đi nơi khác”, ngài liền ngâm vần kệ thứ tư:

Con Mèo hút máu họ nhà Gà,
Cướp giết bạo tàn thật xấu xa,
Vợ quý ư? Không hề quý trọng
Trong lòng Mèo lúc tán dương ta.

Mèo cái bị tống đi, từ đó không còn dám nhìn mặt Gà được nữa.

*

Vậy khi chúng thấy một anh hùng,
Cả bầy nhi nữ thật tinh khôn
Cố tìm cách để hòng lôi cuốn.
(Cứ xem Mèo cái với Kê vương).

Ai không đối phó trước nguy nan
Đành phải ngã dài ở dưới chân
Cúi mặt phục tùng ngay địch thủ,
Trong niềm uất hận lẫn đau buồn.

Người kịp thời xem xét sự tình
Gian nguy xảy đến số phần mình,
Như Gà trống lánh xa Mèo cái,
Cừu địch kia, cần tránh thật nhánh.

Ðây là các vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy, Ta chính là Gà trống ấy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Pháp Ấn (Tiền thân Dhammaddhaja)

Hành trì đức hạnh, hỡi chư huynh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo lừa dối.

Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, kẻ này không chỉ lừa dối lần đầu tiên.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con chim. Khi lớn lên ngài sống giữa bầy chim tùy tùng của ngài trên một đảo giữa biển cả.

Một hôm có đoàn thương nhân đem theo một con Quạ và khởi hành ra khơi, đến giữa biển, tàu bị chìm. Con Quạ bay đến đảo này, nghĩ thầm: “Ðây có cả đàn chim lớn, nếu ta dùng kế lừa gạt chúng rồi ăn thịt cả trứng lẫn chim non thì hay biết bao”. Thế rồi nó bay xuống giữa bầy chim, vừa há mỏ vừa đứng một chân trên mặt đất. Bầy chim hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài là ai?

– Ta là một Thánh giả.

– Tại sao ngài chỉ đứng một chân?

– Nếu ta đặt chân kia xuống, quả đất không thể chịu đựng nổi ta.

– Thế tại sao ngài vừa đứng vừa há mỏ?

– Ta không ăn thực phẩm gì cả, chỉ hút gió.

Cùng với lời này, Quạ gọi bầy chim lại bảo:

– Ta sẽ thuyết giáo cho các anh, hãy lắng nghe.

Rồi Quạ ngâm vần kệ đầu để giảng giáo lý:

Hành trì đức hạnh, hỡi chư huynh,
Cầu chúc chư huynh đệ phước lành!
Ta nói lại: hành trì đức hạnh
Ðời này, đời kế đạt an bình.

Ðàn chim không biết Quạ nói thế với âm mưu lừa dối chúng để ăn trứng chim, liền ca ngợi Quạ và ngâm vần kệ thứ hai:

Chim này chánh hạnh, phước ân tràn,
Thuyết giảng chỉ cần đứng một chân.

Bầy chim đầy tin tưởng con Quạ gian ác này, liền bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài không cần thực phẩm gì cả, chỉ cần hút gió mà sống, vậy xin ngài canh chừng lứa trứng này và bầy chim non của chúng tôi.

Như thế, chúng bay đi đến nơi ăn thường lệ. Khi chúng đã đi xa, con Quạ độc hại này ăn đầy một bụng cả trứng lẫn chim non. Rồi khi bầy chim trở lại, nó liền đứng yên lặng trên một chân và há mỏ ra.

Ðàn chim không thấy lũ chim non khi bay về tổ liền kêu thét lên:

– Ai có thể ăn chúng rồi chứ?.

Song chúng lại bảo nhau:

– Ông Quạ này là một bậc Thánh mà!

Chúng không nghi ngờ gì con Quạ cả.

Sau đó, một hôm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Trước đây không có gì nguy hiểm xảy ra, chỉ từ khi có con Quạ này đến mới bắt đầu có tai họa, vậy tốt hơn phải thử nó”.

Vì thế ngài làm như thể sáp bay đi ăn cùng bầy chim kia, rồi ngài quay lại đậu một chỗ kín đáo. Con Quạ tin tưởng bầy chim đã bay hết liền đứng lên, đến ăn cả trứng lẫn chim non, xong lại đứng trên một chân, há mỏ ra như cũ. Khi bầy chim bay về, Chim chúa tụ tập chúng lại và bảo:

– Hôm nay ta đã quan sát mối hiểm họa đến với đàn con của chúng ta và ta thấy con Quạ gian ác này đã ăn thịt chúng, vậy ta quyết bắt nó.

Như thế ngài họp bầy chim vây quanh con Quạ và bảo:

– Nếu nó bay đi trốn, ta phải bắt lấy nó.

Rồi ngài ngâm các vần kệ tiếp theo:

Các con không biết tính chim này
Khi tán các con, ngu dại thay!
“Ðức hạnh” nó rao, “đức hạnh” mãi,
Rồi ăn cả trứng lẫn con bầy!

Những điều nó giảng, giọng thanh thanh,
Song bọn chúng không thể thực hành,
“Ðức hạnh” nó ồn ào trống rỗng,
Chánh chân của nó chẳng chân thành.

Giả dối trong tâm, lưỡi phỉnh phờ,
Nó là rắn hổ lén bò vô:
Nó nhờ áo khoác ngoài lừa gạt
Dân chúng, vì chúng quá dại khờ.

Lấy mỏ, cánh lôi nó đánh ngay,
Xé tan nó với móng chim này!
Ðời tàn cho đáng, tên hèn hạ
Phản bội niềm tin chính nghĩa đây.

Cùng với những lời này, chính Chim chúa vụt bay lên lấy mỏ đánh vào đầu Quạ và cả đàn chim cũng lấy mỏ và chân đánh Quạ cho đến chết.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy con Quạ là Tỷ-kheo lừa dối này, và Chim chúa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền thân Nandiyamiga)

Bà-la-môn, ngài có vào ngự uyển…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Ngài hỏi vị Tỷ-kheo:

– Có thật là ông phụng dưỡng người thế tục?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn

– Họ là ai?

– Bạch Thế Tôn, đó là cha mẹ con.

– Tốt lành thay, tốt lành thay, này Tỷ-kheo, ông duy trì Giới luật của các trí nhân ngày xưa, vì các vị ấy ngay khi sinh làm súc vật cũng hy sinh tính mạng vì cha mẹ.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, lúc vua nước Kosala ngự trị dân chúng tại Saketa (tức là Oudh), Bồ-tát được sinh làm con nai. Khi lớn lên, ngài có tên là Nandiyamiga (Hỷ Lộc) với tính tình và đức hạnh ưu thắng, ngài phụng dưỡng song thân mình.

Vua Kosala có ý thích săn bắn, hằng ngày đi vào rừng cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vì thế dân chúng không thể làm nghề canh tác và nghề thương mãi của họ được. Họ tụ tập nhau bàn luận:

– Này các ông, đức vua của chúng ta đang hủy hoại nghề nghiệp của chúng ta, đời sống gia đình tađang tàn tạ, nên chăng là chúng ta phải rào lâm viên Anjanavana lại, làm một cổng lớn, đào một hồ nước và gieo cỏ mọc lên, rồi vào rừng cầm gậy trong tay, đập vào các bụi rậm, như thế đuổi được bầy nai ra và đưa chúng đi vào lâm viên ở như bầy bò trong chuồng? Sau đó chúng ta đóng cổng lại, trình đức vua việc ấy và đi làm công việc của chúng ta?

– Ðó là cách ta phải làm. Họ bảo nhau.

Và họ đồng ý chuẩn bị lâm viên sẵn sàng, rồi vào rừng rào một khoảng rộng, mỗi bề một dặm. Lúc ấy Nandiya đã đem cha mẹ vào một bụi cây nhỏ và nằm xuống đất. Dân chúng cầm khiêng mộc, vũ khí bao vây bụi rậm kề sát nhau, một vài người bước vào tìm. Nai Nandiya thấy họ liền nghĩ: “Thật tốt là ta sẽ hy sinh tính mạng mình hôm nay để cứu cha mẹ”. Như thế, nai đứng dậy chào cha mẹ và nói:

– Thưa cha mẹ, đám người này sẽ trông thấy cả ba chúng ta nếu họ vào trong bụi, cha mẹ chỉ có thể sống sót được bằng một cách duy nhất, và mạng sống cha mẹ là tối thượng: con sẽ hy sinh tính mạng của con vì cha mẹ, bằng cách đứng bên bờ bụi cây và chạy ra ngay khi họ đập vào bụi, sau đó họ sẽ nghĩ rằng chỉ có một con nai nhỏ trong bụi nhỏ này thôi, và sẽ không bước vào trong. Vậy cha mẹ hãy cố hết sức thận trọng.

Thế là nai xin được phép đứng lên sẵn sàng chạy ra.

Ngay khi bụi cây bị đám người đứng bên ngoài bờ đập mạnh và la hét, nai vụt chạy ra nên họ nghĩ rằng chỉ có một con nai trong ấy và không bước vào trong. Nandiya cùng đi với đám nai kia, được đám người ấy xua vào trong lâm viên, rồi họ đóng cổng lại và trình lên đức vua xong xuôi, họ trở về nhà.

Từ đấy, bao giờ vua cũng tự mình đi bắn nai, rồi hoặc vua mang nai về, hoặc truyền người đi tìm nó mang về.

Bầy nai chuẩn bị chờ đến phiên mình, con nào đến phiên phải đứng sang một bên, rồi họ mang nóđi khi nó đã bị bắn chết. Nandiya cứ uống nước trong hồ và ăn cỏ, nhưng chưa đến phiên mình. Nhiều ngày sau cha mẹ ngài mong muốn gặp con. Liền nghĩ: “Con ta Nandiya là Lộc vương, mạnh khỏe như voi và hoàn toàn tráng kiện. Nếu còn sống chắc chắn nó sẽ nhảy rào về thăm chúng ta rồi”. Vì thế hai vị đứng bên vệ đường, vừa thấy một Bà-la-môn, liền hỏi bằng giọng người:

– Thưa Tôn giả, ngài đi đâu thế?

– Ði Sàketa. Vị ấy đáp.

Nghe vậy, hai vị muốn nhắn đôi lời cho con bèn ngâm vần kệ đầu:

Bà-la-môn, ngài có vào ngự uyển,
Khi ngài đi qua xứ Oudh, kinh đô,
Xin tìm Nan-di yêu dấu của ta
Và nhắn gửi một đôi lời chân thật:
Qua tháng năm cha mẹ già kiệt lực,
Lòng khát khao mong mỏi đợi con về.

Vị Bà-la-môn bảo:

– Ðược lắm.

Và ông nhận lời.

Ngày hôm sau ông đi đến Sàketa, vào vườn ngự uyển và hỏi lớn:

– Nai nào là Nandiya?

Nai chúa đến gần ông và bảo:

– Ta đây.

Vị Bà-la-môn nói lại lời nhắn kia, Nandiya nghe vậy đáp.:

– Này Bà-la-môn, ta có thể ra đi. Chắc chắn ta có thể nhảy rào trốn đi. Song ta đã thọ hưởng thức ăn nước uống đầy đủ của đức vua và việc ấy đối với ta như một món nợ. Ngoài ra, ta đã sống lâu nay với bầy nai này, thật không hợp lý nếu ta ra đi mà không làm ích lợi cho đức vua và bầy nai nữa, hoặc không chứng tỏ sức mạnh của ta. Vậy khi nào đến phiên ta, ta sẽ làm lợi ích cho cả người lẫn vật rồi an vui trở về.

Ðể giải thích điều này, ngài ngâm hai vần kệ:

Ta đội ơn vua, ăn uống tràn trề,
Chưa đi được, chờ khi làm ích lợi.

Trước cung vua, ta sẽ giơ sườn đợi,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

Vị Bà-la-môn nghe lời này liền bỏ đi.

Sau đó, vào ngày đến lượt nai chúa, vua cùng đoàn tùy tùng đông đảo vào vườn ngự uyển. Bồ-tátđứng sang một bên. Vua bảo:

– Ta sẽ bắn nai này.

Và vua lắp một mũi tên nhọn vào dây cung. Bồ-tát chẳng bỏ chạy như các con nai khác khi sợ chết, mà lòng đầy can đảm và lấy từ ái làm kim chỉ nam. Ngài đứng yên phô bày bộ xương sườn thật cường tráng.

Do động lực của từ tâm ấy, vua không thể thả mũi tên ra. Bồ-tát bảo:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không bắn? Xin hãy bắn đi.

– Này Lộc vương, trẫm không thể bắn được.

– Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy xem các công đức của người giữ giới hạnh.

Sau đó vua hoan hỷ với lời của Bồ-tát, liền thả cung xuống và bảo:

– Khúc gỗ vô tri giác này không biết đức độ của Nai chúa, chứ trẫm là người có tri giác lẽ nào không hiểu? Hãy tha thứ cho trẫm, nay trẫm cho Nai chúa được bình an.

– Tâu Ðại vương, ngài cho ta được bình an, song còn cả đàn nai trong ngự viên này thì sao?

– Trẫm cũug sẽ cho chúng bình an nữa.

Như vậy sau khi tạo được bình an cho tất cả bầy nai trong lâm viên, chim muông trên trời và bầy cá dưới nước, theo cách được miêu tả trong Tiền thân Nigrodhamiga (số 12), Bồ-tát làm vua an trú vào Ngũ giới và bảo:

– Tâu Ðại vương, tốt lành thay cho một đức vua cai trị quốc độ bằng cách từ bỏ mọi ác đạo, không xâm phạm Thập vương pháp (Mười đức tính của vị vua) và hành động chân chánh:

Bố thí, nhân từ, đức hạnh, công bình,
Thân ái, nhu mì, ôn hòa, nhẫn nhục,
Ăn năn, bi mẫn, là mười giới đức

Ta thấy luôn vững chắc ở trong tâm.
Từ đó khởi sinh cả một từ ân
Thật hoàn thiện và nội thân an lạc.

Cùng với những lời này, ngài nêu rõ mọi đức tính của một vị vua hiền qua hình thức một lời kệ.

Sau vài ngày ở lại cùng nhà vua, ngài ra lệnh truyền một chiếc trống bằng vàng đi khắp kinh thành, công bố lời hứa bình an cho mọi loài. Sau đó ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy cẩn trọng hộ phòng.

Rồi ngài ra về thăm cha mẹ.

*

Xưa ta chính Lộc vương trong xứ Oudh,
Tánh và danh là Hoan hỷ, Nan-di

Muốn giết ta trong ngự uyển, ngày kia
Ðức vua đến, tên nằm trên dây sẵn.

Ta phơi sườn trước tên vua đòi bắn,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.

Ðây là những vần kệ phát sinh từ Trí tuệ Tối thắng (của đức Phật).

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, song thân là phụ vương và mẫu hậu trong hoàng gia, vị Bà-la-môn là Sàriputta, vua là Ànanda và ta chính là Lộc vương.

-ooOoo-

386.Chuyện Con Lừa (Tiền thân Kharaputta)

Bậc trí bảo Dê quả thật ngu…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này tại Kỳ Viên về sự cám dỗ của người vợ cũ đối với một Tỷ-kheo.

Khi Tỷ-kheo ấy thú nhận rằng mình đang mơ tưởng đời thế tục, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đang làm hại ông, ngày xưa ông cũng đã nhảy vào lửa vì kẻ ấy, và đãđược các trí nhân cứu mạng.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vị vua mệnh danh Senaka trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ, vua Sekana kết thân với một vua loài Nàga (Rắn thần).

Tương truyền vị vua rắn Nàga này thường rời thế giới Nàga đi quanh quẩn trên cõi đất kiếm mồi. Bọn trai làng thấy vậy bảo nhau:

– Ðây là con rắn.

Rồi chúng lấy đất đá đập rắn. Nhân lúc vua đang du ngoạn trong ngự viên thấy chúng và nghe chúng đang đánh một con rắn, liền bảo:

– Ðừng cho chúng đánh rắn, đuổi chúng đi.

Và lệnh này được thi hành ngay.

Do đó vua Nàga được cứu mạng, khi trở về thế giới Nàga, vị ấy lấy nhiều châu báu, rồi nửa đêmđi đến cung thất vua dâng các tặng vật và thưa:

– Tiểu thần được ngài cứu mạng.

Từ đó vị ấy kết giao với vua nên cứ lui tới yết kiến ngài.

Vua rắn Nàga truyền lệnh cho một cung nữ Nàga, vốn tham đắm dục lạc vô độ, đến hầu cận vua và bảo vệ ngài. Vua rắn còn cho ngài một câu chú thần và bảo:

– Hễ khi nào ngài không thấy nàng ấy, xin cứ đọc chú thần này.

Một hôm vua vào ngự viên cùng với cung nữ Nàga và vui đùa trên hồ sen.

Cung nữ Nàga nhìn thấy một con rắn nước, liền bỏ lốt người và tình tự với rắn nước. Vua không thấy cô gái, liền hỏi:

– Nàng đi đâu rồi?

Và vua đọc thần chú. Ngay lúc đó vua thấy tà hạnh của nàng nên lấy gậy tre đánh nàng. Nàng tức giận bỏ về thế giới Nàga và khi được hỏi:

– Tại sao nàng trở về?

– Thân hữu của ngài đánh thiếp trên lưng vì thiếp không tuân lệnh.

Nàng đáp và chỉ vết thương.

Vua Nàga không biết sự thật, liền gọi bốn thanh niên Nàga ra lệnh cho họ vào vương thất vua Senaka và dùng hơi độc thoát ra từ lỗ mũi để giết vua tan như trấu. Họ vào cung thất đúng giờ đi ngủ. Khi họ vừa đến, vua nói với hoàng hậu:

– Này ái hậu, nàng có thấy cô gái Nàga đâu không?

– Tâu Ðại vương, thiếp không thấy.

– Hôm nay lúc chúng ta đang tắm trong hồ, nàng Nàga ấy bỏ lốt người và ân ái với một con rắn nước. Ta bảo đừng làm vậy, rồi đánh cho nó một gậy tre để trừng trị nó, nay ta sợ nó đã có thể trở về cõi rắn Nàga và nói dối trá với thân hữu ta, tiêu hủy luôn thiện chí của vị ấy đối với ta.

Các thanh niên Nàga nghe vậy liền quay về cõi rắn Nàga lập tức và tâu trình vua rắn. Vị ấy xúc động liền đến ngay vương thất kể lại mọi chuyện và được vua tha thứ. Sau đó vị ấy nói:

– Xin cho tôi chuộc lỗi và đền bù bằng cách này.

Rồi trao cho vua một thần chú biết được mọi thứ âm thanh:

– Tâu Ðại vương, đây là một thần chú vô giá, nếu ngài cho ai thần chú này, lập tức ngài sẽ nhảy vào lửa mà chết.

– Quý báu thay. Vua đáp và nhận thần chú.

Từ đó vua hiểu được mọi tiếng nói, thậm chí cả tiếng loài kiến. Một hôm ngài ngự trên bảo tọa ăn các thứ bánh cứng với mật ong và mật mía. Rồi một giọt mật ong, một giọt mật mía và một miếng bánh rơi xuống đất. Một con kiến thấy vậy liền kêu lên:

– Bình mật ong của vua bị vỡ trên bảo tọa rồi, xe mật mía và xe bánh đổ rồi. Mau mau đến ăn mật ong, mật mía và bánh ngọt, các cậu ơi.

Vua nghe tiếng kêu ấy bật cười lớn. Hoàng hậu ngồi gần nghĩ thầm “Chúa thượng thấy gì khiến ngài cười to vậy?”

Khi vua đã ăn phần thực phẩm cứng ấy, đã tắm mát xong, lại ngồi xếp bằng, một con ruồi bảo vợ nó:

– Này nàng ơi, chúng ta hãy ân ái cùng nhau.

– Này phu quân, xin hãy thứ lỗi cho thiếp, một lát nữa, nô tỳ đang đem hương liệu đến dâng đức vua, trong khi ngài xoa thân thể, một vài bụi phấn sẽ rơi xuống chân, thiếp sẽ đậu ở đó cho thơm tho rồi chúng ta sẽ ân ái cùng nhau trên lưng ngài. Vợ nó đáp.

Vua nghe tiếng ruồi liền bật cười lần nữa. Hoàng hậu lại nghĩ: “Ngài đã trông thấy gì khiến ngài cười lớn vậy?”.

Lần khác, khi vua đang dùng bữa tối, một cục cơm rớt xuống đất, bầy kiến kêu to:

– Một xe cơm đã đổ trong cung vua, thế mà chẳng có ai ăn hết.

Vua nghe vậy lại cười lớn, hoàng hậu cầm chiếc muỗng vàng dâng thức ăn cho vua, suy nghĩ: “Có phải vì thấy ta mà Chúa thượng cười ta chăng?”. Bà về hậu cung với nhà vua và đến giờ ngủ, bà hỏi:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương cười lớn ban nãy?

– Nàng có liên hệ gì đến việc ta cười ư?

Song cứ nghe hỏi đi hỏi lại mãi, vua đành kể chuyện cho bà. Sau đó bà bảo:

– Cho thiếp thần chú hiểu biết âm thanh đó đi.

– Không thể được. Ngài đáp.

Song dù bị từ chối nhiều lần, bà vẫn thúc giục vua. Vua đáp:

– Nếu ta cho nàng thần chú này, ta sẽ chết mất.

– Dù Ðại vương có từ trần đi nữa, cũng cứ cho thiếp thần chú ấy đi mà.

Vua bị mãnh lực nữ nhân thôi thúc, đành chấp nhận bảo:

– Thôi được.

Rồi vua ngự lên vương xa, đi vào ngự viên và nói:

– Ta sẽ nhảy vào lửa sau khi cho thần chú này.

Ngay lúc ấy, Sakka Thiên chủ nhìn xuống cõi đất và thấy việc này, ngài bảo:

– Hôn quân si ám này biết mình sắp nhảy vào lửa do áp lực nữ nhân, hiện đang ra đi, vậy ta hãy cứu mạng vua ấy.

Vì thế ngài đem theo Sujà, ái nữ của vua loài Asura (A-tu-la) cùng xuống thành Ba-la-nại. Ngài biến thành Dê đực, còn Sujà biến thành Dê cái, rồi quyết định tránh cho dân chúng khỏi thấy hai vị, ngài đứng ngay trước vương xa. Vua và các con Lừa Sindh trông thấy ngài, ngoài ra không ai thấy được. Ðể khởi đầu câu chuyện, ngài làm như thể ngài đang tình tự với con Dê cái. Một con Lừa Sindh kéo xe bảo:

– Này bạn Dê, trước kia chúng ta từng nghe chứ chưa từng thấy, rằng loài dê thật ngu xuẩn và vô liêm sỉ. Còn nay bạn đang làm việc ấy ngay trước mắt chúng ta nhìn, cái việc phải làm nơi kín đáo, riêng tư và không phải xấu hổ vì nó. Những gì chúng ta đã nghe trước kia thật phù hợp vớiđiều chúng ta đang thấy.

Và vì thế, Lừa liền ngâm vần kệ đầu:

Bậc trí bảo dê quả thật ngu,
Những lời chân thật tự bao giờ,
Dê này không biết mình phô diễn
Những việc phải làm kín đáo ư?

Dê nghe vậy, đáp lại hai vần kệ:

Này ông Lừa hỡi, nghĩ xem nào,
Rồi thấy là ông ngốc biết bao,
Ông bị buộc dây thừng trói chặt,
Hàm ông tréo, mắt chẳng nhìn cao.

Khi được thả ra chẳng chạy ngay,
Vì ông quen thói thật ngu thay,
Vua Se-nak ấy ông chuyên chở
Còn thật ngu hơn cả chú mày!

Vua nghe hiểu câu chuyện giữa hai con vật, liền bảo xe chạy thật nhanh. Con Lừa nghe Dê nói chuyện liền ngâm vần kệ thứ tư:

Vậy này Dê chúa, dám thưa ngài,
Tôi đại ngu, ngài hiểu quá rồi,
Còn chuyện vua Se-nak xuẩn ngốc,
Làm ơn giải thích rõ cho tôi.

Dê ngâm vần kệ thứ năm giải thích việc này:

Vua có một kho báu hiển linh,
Lại vì hoàng hậu ném cho nhanh,
Không khuyên hoàng hậu trung thành được,
Ðành phải hy sinh tính mạng mình.

Vua nghe lời ấy, liền bảo:

– Này Dê chúa, chắc chắn ngài sẽ làm ích lợi cho ta, vậy hãy cho ta biết phải làm gì bây giờ?

Dê đáp:

– Tâu Ðại vương, đối với mọi loài hữu tình, không ai thân thiết hơn bản thân mình. Hủy hoại mình và hy sinh danh dự mình đã tạo được vì một vật thân thiết nào đó điều không ích lợi gì cả.

Rồi Dê lại ngâm vần kệ thứ sáu:

Như ngài ở địa vị vương quân
Có thể mang nhiều nỗi ước mong,
Song phải bỏ ngay niềm ước vọng,
Nếu thân ngài phải chịu thương vong.

Ðời người quả thật là quan trọng
Còn kiếm gì cao hơn bản thân?
Nếu tính mạng duy trì trọn vẹn,
Thì không cần ước vọng cầu mong!

Bồ-tát khuyến giáo vua như vậy. Vua hoan hỷ, hỏi:

– Này Dê chúa, ngài từ đâu đến đây?

– Thưa Ðại vương, ta là Sakka Thiên chủ, đến cứu ngài khỏi chết vì thương tưởng ngài đó.

– Tâu Thiên chủ, trẫm đã hứa cho hoàng hậu thần chú. Vậy nay trẫm phải làm gì?

– Không cần phải làm gì tổn hại đến hai vị. Chỉ cần ngài bảo: “Ðây là cách được thần chú”, rồi sai người đánh bà ấy vài roi, nhờ cách này, bà ấy sẽ không đòi nó nữa.

– Tốt lắm! Vua bảo và đồng ý ngay.

Sau khi khuyến cáo vua xong, Bồ-tát trở về cõi trời. Còn vua vào ngự viên, triệu hoàng hậu đến chầu và bảo:

– Này Hoàng hậu, nàng muốn có thần chú chăng?

– Tâu Chúa thượng, vâng.

– Vậy thì hãy theo thông lệ này.

– Thông lệ nào thế?

– Một trăm roi trên lưng nhưng không được kêu la.

Bà hoàng đồng ý vì quá ham mê thần chú. Vua bảo các nữ tỳ lấy roi đánh hai bên hông bà. Bà chỉ chịu được hai ba roi rồi kêu lớn:

– Thiếp không muốn thần chú nữa!

– Nàng đã có thể giết ta chỉ vì muốn có thần chú ấy. Vua bảo.

Rồi vua tự tay đánh trầy da lưng hoàng hậu và đuổi đi. Từ đó về sau bà chẳng dám nói đến chuyện ấy nữa.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc các Sự Thật kết thúc, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là vị Tỷ-kheo bất mãn, hoàng hậu là vợ cũ vị ấy, con lừa là Sàriputta và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Kim (Tiền thân Sùci)

Xâu nhanh, trơn láng, thẳng ngay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự thành tựu Tối thắng Trí.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ đọc kể trong Tiền thân Mahaummagga, số 546. Bậc Ðạo Sư bảo chúng Tăng:

Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai có trí tuệ và nhiều phương tiện thiện xảo.

Rồi ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh ở quốc độ Kàsi trong nhà một thợ rèn và khi lớn lên, ngài rất tinh thông nghề này. Cha mẹ ngài rất nghèo. Không xa làng này có một làng khác gồm một ngàn nhà. Người trưởng nghiệp đoàn của cả ngàn thợ rèn này là người được vua ân sủng, giàu tiền của và thế lực. Con gái vị này cực kỳ diễm lệ, chẳng khác nào một Thiên nữ, đầy đủ mọi hảo tướng cát tường của một mệnh phụ phu nhân. Nhiều người từ các làng chung quanh đến nhờ rèn dao kiếm, rìu búa, lưỡi cày, gậy nhọn… đều trông thấy nàng.

Khi họ trở về làng, họ ca tụng sắc đẹp của nàng ở những nơi có đàn ông tụ tập và nhiều nơi khác. Chỉ mới nghe nói về nàng thôi, Bồ-tát đã cảm thấy say mê và nghĩ thầm: “Ta sẽ lấy nàng làm vợ”. Vì thế ngài lựa thứ sắt tốt nhất, làm một cây kim thật cứng và mạnh có thể đâm thủng con súc sắc và nổi trên nước. Rồi ngài làm một cái bao bọc ngoài nó cùng thứ sắt ấy và cũng đâm thủng con súc sắc với bao kim kia.

Theo cách ấy, ngài làm bảy cái bao kim, phương pháp Ngài làm chúng ra sao không được tiết lộ, vì việc ấy thành tựu nhờ trí tuệ hiểu biết vĩ đại của ngài. Sau đó ngài đặt kim vào ống và để ống vào một cái hộp, ngài đi vào làng kia, hỏi đường đến nhà trưởng phường thợ rèn. Rồi đứng tại cửa nhà ấy, ngài hỏi:

– Ai muốn mua cây kim loại đặc biệt này của tôi đổi lấy tiền chăng?

Và vừa đứng cạnh nhà ông trưởng phường thợ rèn, ngài ngâm vần kệ miêu tả cây kim:

Xâu nhanh, trơn láng, thẳng ngay,
Ðược bôi bóng nhoáng bột mài xanh xanh,
Ðầu kim sắc nhọn, thanh thanh,
Kim đây, ai muốn mua mình trao tay?

Sau đó ngài lại ca tụng cây kim lần nữa qua vần kệ thứ hai:

Xâu nhanh, vững mạnh, thẳng ngay,
Thân kim khèo luyện tròn đầy đẹp sao!
Sắt kia cũng sẽ xuyên vào,
Kim đây ai muốn mua nào ai ơi!

Lúc ấy cô gái đang quạt cho cha bằng chiếc quạt lá thốt nốt trong lúc ông nằm trên chõng tre để được thoải mái sau buổi điểm tâm. Khi nghe giọng ngọt ngào của Bồ-tát, nàng đã cảm thấy buồn nôn như thể nuốt một miếng thịt sống, và phải làm cho sự khó chịu ấy tan biến bằng cả ngàn ấm nước, nàng bảo:

– Người nào đây lại có thể rao bán kim với giọng ngọt ngào như thế trong một làng thợ rèn? Nguời ấy đến đây vì việc gì? Ta phải tìm xem sự việc ra sao.

Vì thế nàng đặt cây quạt xuống và bước ra bên ngoài, đứng ở hành lang. Mục đích của chư Bồ-tát luôn đạt thành tựu: chính vì nàng mà ngài đã đến ngôi làng này. Nàng bảo ngài:

– Này cậu, dân chúng trong nước đều đến làng này mua kim và các vật dụng tương tự. Còn cậu lại muốn bán kim trong làng thợ rèn thật là điên rồ! Dù cậu có ca tụng kim của cậu suốt ngày, cũng không ai mua hàng của cậu đâu. Nếu cậu muốn được giá thì qua làng khác.

Thế rồi nàng ngâm hai vần kệ:

Móc câu ta đã bán rồi,
Làng trên xóm dưới ai người chẳng hay?
Thợ rèn ta ở thành này,
Còn ai bán được kim may nữa à?

Nghề rèn nổi tiếng chúng ta,
Việc làm khí cụ ai mà sánh ngang?
Thợ rèn ta ở trong làng,
Ai còn đem bán kim mang tới mình?

Bồ-tát nghe lời nàng, vội đáp:

– Thưa cô nương, cô nói vậy là do không hiểu biết gì cả đó.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

Thợ rèn ta ở trong thành,
Nhưng người tài bán kim mình mới hay!
Tổ sư nghề sẵn trong tay,
Món hàng đệ nhất mua ngay kẻo hoài!

Một khi nghiêm phụ biết rồi
Cây kim này đã do tôi tự làm,
Tôn ông chắc chắn sẽ ban
Gia tài sản nghiệp cùng nàng cho tôi!

Người trưởng phường rèn nghe toàn thể câu chuyện, liền gọi con gái vào hỏi:

– Con đang nói chuyện với ai đó?

– Thưa cha, một cậu trai bán kim.

– Thế cho gọi cậu ấy vào đây.

Nàng ra gọi ngài vào. Bồ-tát kính chào vị trưởng phường rèn xong, đứng sang một bên. Ông hỏi:

– Cậu ở làng nào?

– Thưa Tôn ông, tôi ở làng nọ, là con trai gia đình thợ rèn kia.

– Tại sao cậu đến đây?

– Thưa, để bán kim.

– Nào, đưa ta thử xem kim của cậu.

Bồ-tát mong muốn công bố mọi đặc tính của ngài giữa nhiều người, liền nói:

– Một vật được nhiều người xem lại chẳng tốt hơn chỉ được một người xem hay sao?

– Này bạn, đúng lắm.

Vì thế vị phường trưởng tập hợp tất cả thợ rèn lại và đứng giữa đám đông, ông bảo:

– Nào bạn, hãy lấy kim ra đây.

– Thưa Tôn ông, xin hãy bảo lấy một cái đe và một cái dĩa bằng đồng đựng đầy nước ra đây.

Việc ấy được thực hiện ngay. Bồ-tát lấy cây kim ra khỏi hộp đưa cho đám kia xem. Ông trưởng phường rèn cầm lấy và hỏi:

– Ðây là cái kim chăng?

– Không, đó không phải là cái kim, mà là cái bao.

Ông phường trưởng quan sát kỹ cũng không thấy đầu đuôi gì cả. Bồ-tát lấy lại, dùng móng tay rút cái bao ra và chỉ cho mọi người:

– Ðây là cây kim, đây là cái bao.

Ngài đặt cây kim trong tay ông phường trưởng và cái bao dưới chân. Ông phường trưởng lại bảo:

– Ta chắc đây là cây kim rồi.

Ngài đáp:

– Ðây cũng chỉ là cái bao kim.

Rồi ngài lấy móc tay đánh bật nó ra và cứ thế ngài đặt sáu cái bao liên tiếp dưới chân vị phường trưởng và nói:

– Ðây là cây kim, và đặt kim vào tay vị kia.

Cà ngàn người thợ rèn búng ngón tay một cách thích thú và bắt đầu vẫy khăn tung hô. Sau đó vị trưởng phường hỏi:

– Này bạn, thế cây kim này có sức mạnh thế nào?

– Thưa Tôn ông, hãy bảo một người lực lưỡng nâng nghiêng cái đe này lên và đặt chậu nước dưới cái đe. Sau đó đâm thẳng cây kim vào cái đe.

Ông bảo làm đúng như vậy và đâm đầu nhọn của kim vào cái đe. Cây kim xuyên thủng cái đe và nằm ngang mặt nước không nhếch lên hay lệch xuống tý nào dù chỉ bằng một sợi tóc.

Mọi người thợ rèn đồng thanh bảo:

– Chúng ta chưa từng bao giờ nghe thậm chí qua lời đồn đại hiện có những người thợ rèn tài giỏi như thế này.

Như thế họ lại búng ngón tay và tung vẫy cả ngàn chiếc khăn. Ông phường trưởng gọi cô con gái vào, và đứng giữa đám đông ông bảo:

– Ðây là cô gái xứng đôi với cậu.

Ông liền rót nước giao kết trên tay hai vị và trao nàng cho ngài đem đi. Về sau khi vị trưởng phường qua đời, Bồ-tát trở thành trưởng phường rèn trong làng ấy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con gái người trưởng phường rèn là mẫu thân của Ràhula (La-hầu-la), và chàng thợ rèn thông minh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền thân Tundila)

Em lo chuyện lạ hôm nay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo sợ chết.

Vị ấy là một thiện gia nam tử ở thành Sàvatthi (Xá vệ) và được thọ giới trong Ðạo pháp, song ông sợ chết và thậm chí nghe một bụi cây hơi lay động, tiếng cành khô rơi hay tiếng chim, tiếng thú, ông cũng hoảng kinh vì sợ chết rồi bỏ chạy, run rẩy toàn thân như con thỏ bị thương ở bụng. Tăng chúng trong Chánh pháp đường bắt đầu bàn luận, bảo nhau:

– Này, các Hiền giả, vị Tỷ-kheo kia sợ chết, cứ run rẩy bỏ chạy khi nghe chỉ một tiếng động nhỏ. Giờ đây đối với mọi loài trên thế giới, chết là việc tất nhiên, đời sống không có gì vững bền cả,điều này lại chẳng nên sáng suốt ghi nhớ trong tâm trí hay sao?

Bậc Ðạo Sư bước vào thấy đây là đề tài của chư vị, và vị Tỷ-kheo kia công nhận mình hay sợ chết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu vị ấy sợ chết đâu.

Và ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai một heo rừng. Khi đến kỳ, heo mẹ sinh hai con heo đực. Một hôm heo mẹ đem hai con vào nằm trong cái hố. Một bà già ở trong làng tại cổng thành Ba-la-nại đi về nhà với một thúng đầy bông vải hái ngoài đồng và gõ cây gậy xuống đất kêu lóc cóc.

Heo cái nghe tiếng động, sợ chết liền bỏ hai con chạy trốn. Bà già thấy hai heo con cảm thấy thương yêu như thể con đẻ mình, liền bỏ chúng vào thúng và mang về nhà. Sau đó bà đặt tên heo lớn là Mahàtundila (Heo lớn mõm dài) và heo nhỏ là Cullatundila (Heo bé mõm dài), rồi nuôi nấng chúng như con đẻ.

Theo thời gian, chúng lớn dần và mập mạp. Khi bà già được ai hỏi bán heo để lấy tiền, bà đáp:

– Chúng là con tôi đấy.

Và bà không muốn bán.

Vào một ngày hội có đám đàn ông thô tục đang uống rượu nồng, và khi thịt đã hết, họ tìm xem nơi nào có thể mua thịt. Khi thấy có heo trong nhà bà già, họ đem tiền tới nói:

– Mẹ ơi, lấy tiền này rồi cho chúng con một con heo đi.

– Thôi vừa rồi các chú, có ai lại muốn bán con mình cho người ăn thịt chăng? Bà đáp rồi từ chối bọn họ.

– Mẹ ơi, heo làm sao thành con của người được? Xin mẹ cho chúng con đi nào.

Họ nói thế nhưng cũng không mua heo được, dù cứ hỏi đi hỏi lại mãi.

Sau đó họ cho bà già uống rượu mạnh, đến khi bà đã say, họ nói:

– Này mẹ, mẹ định làm gì với đám heo này? Lấy tiền đi mà tiêu xài chứ.

Họ dúi số tiền vào tay bà già. Bà nhận tiền và bảo:

– Ta không thể cho các cậu con heo Lớn, hãy bắt Heo nhỏ đi.

– Nó đâu rồi?

– Nó nằm trong bụi cây kia.

– Gọi nó đi.

– Ta không có thức ăn để gọi nó.

Họ liền bảo đi mua một chảo cơm đem tới ngay. Bà già cầm chảo cơm, đổ đầy vào máng cạnh cửa lớn và đứng đợi gần đó. Ba mươi người đứng gần đó với thòng lọng trong tay. Bà già gọi:

– Này đến đây, Heo bé mõm dài, đến đây.

Heo lớn nghe thế, thầm nghĩ: “Lâu nay mẹ chưa hề gọi Heo bé như thế, bao giờ mẹ cũng gọi ta trước. Chắc chắn có gì nguy hiểm xảy ra cho chúng ta hôm nay”. Heo lớn bảo em:

– Này em, mẹ đang gọi em, hãy ra tìm xem.

Heo bé đi ra, thấy đám người đang đứng cạnh máng ăn, liền nghĩ: “Hôm nay chắc ta chết mất”. Thế rồi vì sợ chết, nó run rẩy quay lại với anh, và khi đã trở về chỗ cũ, nó cũng không kiềm chế được mình nên cứ quay cuồng run rẩy mãi. Heo lớn thấy vậy bảo:

– Này em, hôm nay em run rẩy quay cuồng nhìn chằm chằm về phía cổng. Tại sao em làm vậy?

Heo bé ngâm vần kệ đầu giải thích sự việc nó đã thấy:

Em lo chuyện lạ hôm nay,
Mẹ mình đứng cạnh máng đầy thức ăn,
Người cầm thòng lọng đứng gần,
Ðến ăn chắc hẳn hại thân mình rồi.

Bồ-tát nghe thế bảo:

– Này em Heo bé, mục đích mẹ ta nuôi heo bấy lâu nay đến giờ đã thành tựu, thôi đừng buồn khổ nữa.

Rồi với giọng ngọt ngào và vẻ bình thản của một vị Phật, ngài thuyết Pháp qua đôi vần kệ:

Hãi kinh, cầu cứu, run hoài,
Không ai cứu giúp em đòi trốn đâu?
Ăn đi, Heo bé chớ sầu,
Mẹ nuôi ta béo vì cầu thịt heo!

Nhào vô ao nước trong veo,
Mồ hôi cấu uế thật nhiều, rửa đi!
Rồi em sẽ thấy diệu kỳ,
Dầu thơm mát dịu không hề biến suy.

Trong khi ngài xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam và ngâm hai vần kệ đầu, giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến đây, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Quân sĩ nhà vua chặt hết bụi cây, san bằng mặt đất và rải cát lên. Ðám người thô tục đã tỉnh cơn say rượu, liền quăng bỏ thòng lọng và đứng nghe Pháp, bà già nọ cũng tỉnh rượu luôn. Bồ-tát bắt đầu thuyết Pháp cho Heo bé giữa đám quần chúng.

Heo bé nghe ngài, nghĩ thầm: “Anh ta bảo như vậy với ta, nhưng chúng ta chưa bao giờ có thói quen nhảy vào ao nước, rồi nhờ cách tắm rửa mồ hôi cho sạch thân thể và sau khi tẩy cấu uế cũ, liền tẩm dầu thơm mới vào: tại sao anh ta lại bảo vậy với ta?”. Do đó Heo bé ngâm vần kệ thứ tư:

Gì là ao nước pha lê,
Mồ hôi cấu uế nói về điều chi?
Dầu xoa kỳ diệu là gì?
Mùi hương ngào ngạt chẳng khi nào tàn?

Bồ-tát nghe vậy liền bảo:

– Hãy lắng tai nghe đây.

Và ngài ngâm các vần kệ thuyết Pháp với dáng an tịnh của một vị Phật:

Pháp là ao nước trong ngần,
Mồ hôi cấu uế lỗi lầm mê si,
Dầu thơm đức hạnh tẩm đi,
Mùi hương mãi mãi chẳng hề tàn phai.

Người không sinh mạng là vui,
Người còn sinh mạng bời bời lo toan.
Con người phải chết, chớ buồn,
Hãy vui như hội trăng tròn quanh năm.

Như vậy bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Ðám đông hàng ngàn người búng ngón tay, vẫy khăn tung hô và bầu không khí vang dậy tiếng reo:

– Tốt lành thay, tốt lành thay!

Vua Ba-la-nại tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và làm cho bà già vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú Heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế vua bảo vệ hai chú Heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo.

Bồ-tát dạy Ngũ giới cho vua và tất cả dân chúng ở Ba-la-nại cùng Kàsi đều giữ Ngũ giới. Bồ-tát thuyết Pháp cho dân chúng vào các ngày trai giới (mồng tám và rằm) và ngồi xử án. Trong thời gian còn tại thế, không có người nào chịu bản án bất công cả. Sau đó vua băng hà, Bồ-tát cử hành tang lễ của vua, rồi ngài truyền viết một sách ghi đủ các phán quyết và bảo:

– Các vị phải theo sách này để xử án.

Sau khi thuyết Pháp cho quần chúng với nhiệt tâm, Ngài cùng chú Heo bé đi vào rừng trong lúc quần chúng than khóc kêu gào. Lời thuyết giảng của Bồ-tát lưu truyền suốt sáu mươi ngàn năm sau.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo sợ chết đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi  Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda, Cullatundila là Tỷ-kheo sợ chết, quần chúng là Giáo hội và Ta chính là Mahàtundila.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền thân Suvannakakkata)

Một chú càng vàng với mắt lồi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này lúc trú tại Trúc Lâm về việc Tỷ-kheo Ànanda hy sinh tính mạng vì Ngài.

Hoàn cảnh này đã được kể trong Tiền thân Khandahàla về việc thuê đám xạ thủ và trong Tiền thân Cullahamsa, số 533 về tiếng rống của con voi Dhanapàla (Tài Hộ). Khi Tăng chúng bắt đầu thảo luận trong Chánh Pháp Ðường:

– Này các Tôn giả, có phải Trưởng lão Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp đã đắc trí tuệ của một vị hữu học, đành hy sinh tính mạng vì đức Phật tối thắng khi con voi Dhanapàla xông đến?

Bậc Ðạo Sư bước vào và được kể lại đề tài thảo luận, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ànanda cũng đã từng hy sinh tính mạng vì ta.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, có một làng Bà-la-môn tên là Sàlindiya ở phía đông thành Ràjagaha (Vương Xá). Bồ-tát được sinh ở ngôi làng ấy trong một gia đình Bà-la-môn làm ruộng. Khi lớn lên ngài lập nghiệp và canh tác trang trại khoảng một ngàn harisa (khoảng 8000 mẫu) trong một huyện ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) về phía Ðông Bắc làng ấy.

Ngày kia ngài cùng gia nhân ra đồng bảo họ cày cấy xong, ngài đi đến một ao lớn cuối cánh đồng để rửa mặt. Trong ao ấy có một con Cua màu vàng óng ả, xinh đẹp, khả ái.

Bồ-tát bước xuống ao sau khi xỉa răng. Khi ngài rửa miệng, con Cua đến gần, ngài liền nhấc con Cua lên và đặt nó nằm trong áo khoác ngoài. Sau khi làm việc đồng áng xong, ngài đặt con Cua xuống ao như cũ và đi về nhà. Từ đó hễ mỗi lần ra đồng, ngài thường đến ao ấy trước tiên, đặt Cua lên áo ngoài rồi ra đi làm việc. Vì thế một tình cảm tin cậy thắm thiết nảy sinh giữa người và vật. Ngày ngày Bồ-tát vẫn đi làm ruộng đều đặn.

Bấy giờ trong mắt ngài có năm vẻ đẹp và ba vòng tròn trong vắt. Một con Quạ cái trên cây thốt nốt ở góc cánh đồng trông thấy mắt ngài, muốn ăn chúng, bèn bảo Quạ Ðực:

– Này chàng, em có một điều ước.

– Nàng ước chuyện gì?

– Em ước được ăn đôi mắt của một vị Bà-la-môn.

– Ðiều ước của nàng thật chẳng hay ho tí nào. Ai có thể lấy đôi mắt ấy cho nàng chứ?

– Em biết chàng không thể lấy được, song ở tổ kiến gần cây này có một con Rắn hổ đen, chàng hãy đến hầu hạ nó, rồi nó sẽ cắn vị Bà-la-môn để giết ông, sau đó chàng mổ mắt ông ra và mang về cho em.

Quạ đực đồng ý, sau đó nó đến hầu hạ con Rắn hổ. Con Cua cũng to lớn dần vào thời hạt giống do Bồ-tát gieo đã nẩy mầm.

Một hôm con Rắn bảo Quạ:

– Này bạn, bạn luôn phục vụ tôi, vậy tôi có thể làm gì cho bạn?

– Thưa Tôn ông, nữ tỳ của ngài đã mang niềm ao ước có được đôi mắt của vị chủ đám ruộng này. Tôi đến hầu hạ ngài chỉ cốt hy vọng nhờ ngài ban ân lấy cho được đôi mắt ấy.

Rắn bảo:

– Ðược lắm, việc ấy không khó, bạn phải được đôi mắt kia.

Con Rắn còn khích lệ con Quạ như thế.

Hôm sau, con Rắn nằm đợi vị Bà-la-môn đến, nó ẩn mình dưới đám cỏ, cạnh bờ ruộng ngài sắp bước tới. Bồ-tát xuống ao rửa miệng, cảm thấy mối thân ái với con Cua, nên ôm lấy nó đặt vào áo ngoài ra đồng.

Con rắn thấy ngài đến liền lao tới cắn vào bắp vế ngài khiến ngài ngã xuống ngay tại chỗ, rồi nó trốn trong tổ kiến. Sự kiện Bồ-tát ngã xuống đó, con cua vàng nhảy ra khỏi áo và con Quạ sà xuống đậu trên ngực Bồ-tát diễn ra liên tiếp nhau.

Con Quạ vừa đậu xong, liền lấy mỏ chụp đôi mắt Bồ-tát. Con Cua suy nghĩ: “Chính vì con Quạ này mà hiểm họa đã xảy đến với vị thân hữu của ta. Nếu ta kẹp lấy nó thì con Rắn sẽ bò tới”. Vì vậy con Cua kẹp ngay cổ Quạ với chiếc càng xiết chặt như thể gọng kềm, khiến nó mệt phải nới lỏng ra đôi chút. Con Quạ cầu cứu con Rắn:

– Này bạn, tại sao bỏ rơi tôi mà chạy trốn? Con Cua này phá hại tôi. Hãy đến ngay trước khi tôi chết mất.

Rồi Quạ ngâm vần kệ đầu:

Một chú càng vàng với mắt lồi,
Ở hồ, trần trụi, bọc xương mai,
Chụp tôi, nghe tiếng tôi kêu thét
Sao bỏ bạn thân quý mến ngài?

Con Rắn nghe tiếng, giương mào rộng bò đến an ủi con Quạ.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ nhì phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của ngài, giải thích sự việc này:

Con Rắn bỗng nhào lên chú Cua,
Nó không muốn bỏ bạn bây giờ:
Rắn giương mào rộng vừa lao đến,
Cua tấn công ngay chú Rắn bò.

*

Con Cua mệt mỏi nới lỏng quạ ra đôi chút, con rắn suy nghĩ: “Loài cua chẳng hề ăn thịt quạ hay Rắn, vậy vì lý do gì con Cua này chụp chúng ta?” Rồi nó ngâm vần kệ hỏi Cua:

Chẳng phải vì lo kiếm miếng mồi
Mà Cua bắt Rắn, Quạ trên trời,
Mắt lồi hãy nói cho tôi biết
Sao chú lại kềm kẹp chúng tôi?

Nghe vậy, Cua ngâm hai vần kệ giải thích lý do:

Ngài đem ta tự dưới ao kia,
Bày tỏ ân cần, quý mến ta,
Nếu chết, thời ta đây khổ não,
Ngài và ta, chỉ một thôi mà.

Thấy ta nay đã lớn lên dần,
Ai nấy đều mong giết hưởng phần:
Cua mập ngọt ngon đầy mỹ vị,
Nhìn ta, Quạ muốn xé tan thân.

Nghe vậy Rắn suy nghĩ: “Ta phải dùng mưu kế lừa nó, rồi ta và Quạ thoát thân”. Vì thế nó ngâm vần kệ thứ sáu để lừa Cua:

Nếu Cua kẹp Rắn, Quạ vì ngài,
Ta sẽ rút chất độc ấy thôi,
Ngài tỉnh dậy, mau tha Rắn, Quạ,
Thấm sâu chất độc, ắt tàn đời.

Nghe vậy, Cua suy nghĩ: “Con Rắn này muốn làm cho ta thả cả hai ra bằng mưu kế lừa bịp rồi bỏ chạy, nó không biết tài năng khôn khéo của ta. Nay ta muốn nới càng đôi chút để con Rắn có thể nhúc nhích, nhưng ta không thả con Quạ đây”. Rồi nó ngâm vần kệ thứ bảy:

Ta thả Rắn, không thả Quạ đây,
Con tin là Quạ buộc nơi này,
Ta không thả nó đi nơi khác,
Cho đến khi an ổn với ngài.

Nói xong Cua nới lỏng càng để cho Rắn bò đi tự do. Con Rắn thu hồi nọc độc và thân thể Bồ-tát thoát khỏi nọc Rắn. Ngài đứng dậy vững vàng trong sắc thái tự nhiên.

Con Cua suy nghĩ: “Nếu hai con vật này bình an, chắc chắn bạn thân của ta không được thịnh vượng. Ta muốn giết cả bọn chúng”, rồi lấy càng chà nát đầu chúng cho chết đi.

Con Quạ mái liền bay đi trốn mất khỏi chỗ ấy. Bồ-tát lấy gậy đâm qua mình Rắn ném vào bụi, để Cua vàng bò xuống ao nước rồi tắm rửa và trở về Sàlindiya. Từ đấy tình thân hữu càng thấm thiết hơn giữa ngài và con Cua ấy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân qua những vần kệ cuối cùng:

Con Rắn hổ là chính Ác ma,
Đề-bà-đạt, ấy Quạ đen kia,
A-nan thiện hạnh là Cua nọ,
Ðiền chủ La-môn ấy chính Ta.

Khi các Sự Thật kết thúc, nhiều vị đắc Sơ quả (Dự Lưu) và các đạo quả khác. Con Quạ cái chính là Cìncamànavikà, mặc dù điều này không được nhắc đến trong vần kệ cuối cùng.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền thân Mayhaka)

Nếu hoan hỷ khi mong cầu bố thí…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về một thương nhân lạ thường.

Tại thành Xá-vệ, có một thương nhân lạ thường, giàu tiền của và đầy thế lực. Song ông không thọ hưởng giàu sang cũng không cho ai cả. Nếu các món cao lương mỹ vị được dọn lên, ông cũng không muốn dùng mà chỉ ăn cháo cám với tương chua. Nếu y phục lụa tơ tẩm hương chiên-đànđược mang đến, ông bảo đem cất đi và chỉ mặc loại áo quần vải thô bằng lông để lọc đường. Nếu xe ngựa được trang hoàng ngọc vàng do giống ngựa thuần chủng kéo đến mời, ông bảo đem cất đi và chỉ đi chiếc xe cũ kỹ ọp ẹp với chiếc dù lá cây che đầu. Suốt đời ông không làm bố thí hay công đức gì cả nên khi chết bị tái sinh vào ngục Roruva. Gia sản của ông không người thừa kế, quan quân nhà vua liền chở vào cung suốt bảy ngày đêm. Khi của cải ấy được chở vào, vua đi đến Kỳ Viên sau buổi điểm tâm và kính bái bậc Ðạo Sư. Khi được hỏi tại sao không đến yết kiến đức Phật đều đặn, vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, một thương nhân thật lạ thường vừa qua đời ở Xá-vệ. Suốt bảy ngày liền tài sản vị ấy được chở vào hoàng cung vì không người thừa kế. Tuy tài sản nhiều như vậy, trước kia ông không hề hưởng thụ phú quý cũng không đem cho ai cả. Tài sản ấy như thể một hồ sen được ác quỷ canh giữ. Một hôm ông lăn đùng ra chết sau khi đã từ chối hưởng thụ cao lương mỹ vị suốt đời. Tại sao một người ích kỷ và đáng chê trách như vậy lại tạo được nhiều tài sản thế kia và duyên cớ gì ông không hề nghĩ đến việc thụ hưởng phú quý?

Ðấy là câu hỏi mà vua nêu lên với bậc Ðạo Sư.

– Thưa Ðại vương, lý do tại sao vị ấy tạo được tài sản, tuy thế lại không hưởng thụ nó, chính là đây.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vị vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, có một thương nhân ích kỷ, không mộ đạo ở kinh thành. Ông không hề bố thí hay cung cấp vật gì cho ai. Một hôm đang đi chầu vua, ông thấy một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka Buddha) tên là Tagarasikhi đang khất thực, liền đảnh lễ và hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài đã khất thực chưa?

– Này thương nhân, ta chưa khất thực. Vị Ðộc Giác Phật đáp.

Vị thương nhân ra lệnh cho người nhà:

– Này, đưa ngài về nhà ta, mời lên sàng tọa của ta và dâng một chén cơm đầy thức ăn dành cho ta.

Kẻ gia nhân đem ngài về nhà, mời ngồi xong, trình báo bà vợ thương nhân. Bà ấy dâng ngài một chén cơm đầy cao lương mỹ vị. Ngài cầm thức ăn rời khỏi nhà kia và ra đi.

Vị thương nhân từ triều đình trở về nhà, gặp ngài lại vái chào và hỏi thăm ngài đã nhận được thực phẩm chưa.

– Này thương nhân, ta đã nhận rồi.

Vị thương nhân nhìn vào bát và không thể nào đồng ý việc ấy, lại suy nghĩ: “Giá như gia nô của ta ăn bát cơm này, chúng sẽ làm cho ta biết bao nhiêu việc nặng nhọc, ôi! Ðấy thật là thiệt thòi cho ta!” và ông không thể nào làm cho tư tưởng sau khi bố thí được hoan hỷ trọn vẹn. Vậy bố thí cúng dường chỉ sinh kết quả phong phú với kẻ nào biết làm cho tư tưởng sau khi bố thí được hoan hỷ trọn vẹn.

Nếu hoan hỷ khi mong cầu bố thí
Thì hãy đem bố thí, dạ an vui,
Ðừng tiếc chi khi ta sống ở đời,
Ðàn con cháu chẳng bao giờ vong mạng.
Trước khi cho, niềm vui đầy tâm trạng,
Từ đó về sau tư tưởng hân hoan,
Bố thí kia đem phước đức vẹn toàn.

Như vậy thương nhân kỳ dị này được nhiều tài sản do đã cúng dường Ðộc Giác Phật Tagarasikhi, song lại không thể hưởng thọ phú quý vì đã không làm cho tư tưởng được thanh tịnh sau khi bố thí.

– Bạch Thế Tôn, tại sao vị ấy không có con cái?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, đây là duyên cớ vị ấy không có con.

Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình thương nhân giàu có đến tám trăm triệu đồng tiền. Khi trưởng thành, cha mẹ qua đời, ngài cung cấp tài sản cho em ngài và điều hành việc nhà. Ngài lập một bố thí đường tại cổng nhà và làm gia chủ chuyên tâm bố thí. Khi con ngài biết đi chập chững, ngài nhận thấy nỗi khổ của tham dục và phước đức của đời xuất gia, liền giao hết tài sản cùng vợ con cho người em trai, khuyến khích em tiếp tục bố thí tinh cần. Rồi ngài trở thành vị khổ hạnh, đạt được các Thắng trí và các thiền chứng và sống ở vùng Tuyết Sơn.

Em trai ngài nhận nuôi đứa cháu duy nhất ấy, song thấy nó lớn khôn, ông nghĩ: “Nếu con của anh ta sống, tài sản sẽ bị chia hai, ta muốn giết con anh ta”. Vì thế một hôm, ông dìm cháu xuống sông cho chết. Sau khi tắm xong về nhà, chị dâu hỏi:

– Con trai tôi đâu?

– Nó chơi đùa dưới sông. Tôi tìm mãi nhưng không thể thấy nó đâu cả.

Bà chị chỉ khóc nhưng không nói gì cả. Bồ-tát biết việc này liền suy nghĩ: “Ta sẽ công bố chuyện này”. Rồi du hành qua không gian, hạ xuống thành Ba-la-nại trong thượng y và hạ y chỉnh tề, ngàiđứng ngay tại cửa, không thấy bố thí đường, ngài suy nghĩ: “Kẻ độc ác kia đã phá hủy bố thí đường”.

Người em nghe tin ngài về, bước ra đảnh lễ Bồ-tát và mời ngài lên thượng lầu đãi tiệc thịnh soạn. Khi cơm nước xong, ngồi nói chuyện thân mật, ngài hỏi:

– Con trai ta không đến, nó đâu rồi?

– Thưa Tôn giả, nó chết rồi.

– Bằng cách nào?

– Tại một bến tắm, nhưng tiểu đệ không biết rõ cách nào.

– Không biết à? Này kẻ độc ác kia, hành động của chú đã dược ta biết rõ: chú đã không giết nó bằng cách ấy hay sao? Thế chú có đủ sức gìn giữ gia sản khi bị vua chúa, đạo tặc hay nhiều người khác đến phá hại chăng? Thế có gì khác nhau giữa chú và con chim Mayha đâu?

Như vậy Bồ-tát ngâm vần kệ này thuyết Pháp với vẻ an tịnh của một vị Phật:

Có con chim được gọi May-ha,
Nó sống trong hang dưới núi xa,
Trái chín trên cây sung cổ thụ,
“Của ta, ta nữa”, nó kêu la.

Bầy chim kia lúc nó kêu vang,
Tụ tập chung quanh cả một đàn,
Ăn trái thỏa lòng tuy thấy thế,
May-ha vẫn cất tiếng kêu than.

Cũng vậy, người kia lắm bạc vàng,
Nhưng không chia sẻ giữa thân bằng,
Cũng không thọ hưởng lần nào cả
Y phục và luôn các thức ăn,

Hương liệu cùng vòng hoa rực rỡ,
Cũng không ân huệ với thân nhân.
“Của ta, ta mãi”, kêu rền rĩ,
Nó giữ kho tàng thỏa dạ tham.

Vua chúa cường gian, các đứa con
Chỉ mong sao nó sớm từ trần,
Cướp tài sản nó, trong khi ấy
Kẻ bủn xỉn kêu khóc tiếc than.

Người có trí khôn được bạc vàng
Thường đem giúp đỡ các thân bằng,
Do vầy danh vọng trên trần thế,
Thiên giới đời sau được phước phần.

Như thế bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp khiến cho người em tiếp tục thực hành việc bố thí, rồi ngài trở về Tuyết Sơn tu tập Thiền định không ngừng và đời sau sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, thưa Ðại vương, thương nhân kỳ dị kia không có con trai con gái gì cả vì người ấy đã giết con của anh mình.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Người em là thương nhân kỳ dị và người anh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền thân Dhajavihetha)

Dung mạo thanh cao, lại cúi đầu …,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Ngài xuất gia vì lợi lạc của quần sinh.

Hoàn cảnh của câu chuyện sẽ xuất hiện trong Tiền thân Mahàkanha, số 469. Lúc ấy, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai xuất gia vì ích lợi cho cả cõi đời.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Sakka Thiên chủ. Thời ấy có một tà thuật sư dùng thần lực nửa đêm xâm phạm tiết hạnh của chánh cung hoàng hậu ở Ba-la-nại. Các cung nữ của bà đều biết chuyện này. Chính hoàng hậu đến yết kiến vua và trình:

– Tâu Chúa thượng, có kẻ lạ mặt đột nhập cung thất và xúc phạm thần thiếp.

– Thế hoàng hậu có thể làm một dấu hiệu nào đó lên kẻ ấy chăng?

– Tâu vâng, thiếp có thể.

Do đó bà bảo lấy chén son đỏ thắm, khi kẻ ấy đến nửa đêm và ra đi sau cuộc truy hoan, bà hoàng liền in năm dấu ngón tay bà vào lưng y và sáng hôm sau trình vua. Ngài ra lệnh đám vệ sĩ đi tìm khắp nơi mang về kẻ nào có dấu son đỏ trên lưng.

Bấy giờ, sau khi phạm tà hạnh ban đêm, tà thuật sư đứng giữa ban ngày ở nghĩa địa thờ phụng mặt trời, quân nhà vua thấy được, bao vây y, song y tưởng rằng hành động của y đã bị mọi người phát giác, liền dùng tà thuật bay lên không. Vua hỏi đám vệ sĩ sau khi chứng kiến việc ấy trở về:

– Các ngươi thấy y chăng?

– Tâu Chúa thượng, chúng thần có thấy.

– Y là ai?

– Tâu Chúa thượng, một đạo sĩ.

Sau khi phạm tà hạnh ban đêm, y giả dạng làm đạo sĩ ban ngày. Vua nghĩ thầm: “Những kẻ này ban ngày đi quanh quẩn trong chiếc y khổ hạnh, còn ban đêm lại phạm tà dục”.

Do đó vua đâm ra phẫn nộ với các đạo sĩ và chấp thủ tà kiến liền truyền công bố khắp kinh thành bằng trống lệnh rằng mọi đạo sĩ đều phải rời vương quốc, và sẽ bị quân sĩ trừng phạt nếu bị bắt gặp bất kỳ ở đâu.

Mọi đạo sĩ khổ hạnh đều chạy trốn khỏi vương quốc Kàsi rộng ba trăm dặm và đến trú ở các kinh thành khác. Do đó không có Sa-môn hay Bà-la-môn chân chánh nào thuyết Pháp cho dân chúng Kàsi, và vì không nghe được Chánh Pháp, họ trở nên tàn bạo, ghét bỏ bố thí và trì giới, phần lớn phải tái sinh vào đọa xứ lúc mạng chung và không được sinh thiên.

Sakka Thiên chủ không thấy một vị Thiên tử mới nào xuất hiện, liền xem xét lý do gì và thấy chính vì việc tống xuất các Sa-môn, Bà-la-môn ra khỏi vương quốc do vua Ba-la-nại chấp thủ tà kiến trong lúc phẫn nộ vị tà sư. Sau đó ngài suy nghĩ: “Trừ ta không ai có thể phá hủy tà kiến này của vua. Ta muốn cứu giúp vua và thần dân của nước này”.

Vì vậy ngài đến gặp các Ðộc Giác Phật tại động Nandamùla và bảo:

– Này các Tôn giả, hãy cho ta một vị Ðộc Giác Phật Trưởng lão, ta muốn đi cảm hóa quốc độ Kàsi vào đạo.

Ngài mời một vị Trưởng lão trong các vị ấy ra đi. Khi ngài đã cầm y bát của vị ấy, Thiên chủ Sakka mời vị ấy đi trước, ngài theo sau với dáng điệu cung kính đảnh lễ vị Ðộc Giáo Phật, ngài biến mình thành một Sa-môn trẻ tuổi, tươi đẹp đi ba vòng quanh thành phố từ đầu đến cuối, rồi đến trước cổng hoàng cung, ngài đứng trên không. Quân canh đến trình với vua:

– Tâu Hoàng thượng, có một Sa-môn trẻ đầy hảo tướng cùng với một Sa-môn đang đứng trên không trung tại hoàng môn.

Vua từ bảo tọa đi ra và đứng ở lầu thượng hỏi:

– Này đạo sĩ trẻ, tại sao ông tuấn tú như vậy lại cung kính cầm y bát cho một Sa-môn dị tướng thế kia?

Rồi vua ngâm vần kệ đầu nói chuyện với ngài:

Dung mạo thanh cao, lại cúi đầu,
Sau người dị tướng, bước theo hầu,
Người này hơn, kém, hay bình đẳng,
Xin nói tánh danh, trẫm thỉnh cầu.

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, các Sa-môn ở địa vị của bậc Ðạo Sư, vậy nếu ta nêu danh tánh ngài thì thất lễ, nhưng ta sẽ nói cho Ðại vương biết tên ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Chư Thiên không nói họ cùng tên
Của thiện nhân toàn hảo, Thánh hiền,
Riêng chỉ phần ta nêu tước hiệu
Sak-ka Thiên chủ của chư Thiên.

Vua nghe vậy, liền ngâm vần kệ thứ ba hỏi phước đức gì trong sự tôn sùng Ðạo Sư:

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn
Sau ngài, tiến bước dáng nghiêm trang,
Phần gì thừa hưởng, này Thiên chủ,
Phước đức đời sau sẽ phát ban?

Thiên chủ đáp lại vần kệ thứ tư:

Người kính yêu hiền Thánh vẹn toàn,
Sau ngài, cất bước dáng nghiêm trang,
Tiếng khen trần thế nay thừa hưởng,
Thiên giới đời sau lúc mạng chung.

Vua nghe lòi Thiên chủ liền dứt bỏ mọi tà kiến và hoan hỷ ngâm vần kệ thứ năm:

Mặt trời số phận chiếu hôm nay,
Mắt trẫm nhìn Thiên chủ hiển bày
Bậc Thánh xuất trần, này Ðế Thích,
Trẫm làm thiện sự kể từ rày.

Sakka Thiên chủ nghe vua tán thán vị Ðạo sĩ của ngài, liền ngâm vần kệ thứ sáu:

Chân chánh thay sùng bái Thánh nhân,
Tâm tư hướng đến trí cao thâm,
Giờ đây long nhãn đã chiêm ngưỡng
Thiên chủ Sak-ka với Thánh nhân,
Mong ước từ nay nhiều phước nghiệp
Sẽ là phận sự của minh quân.

Nghe vầy, vua ngâm vần kệ cuối cùng:

Tư tưởng mang đầy đủ phước ân,
Từ nay lòng dạ trẫm ly sân,
Lắng tai nghe ngoại nhân cầu thỉnh,
Trẫm nhận lời khuyên nhủ chánh chân,
Trẫm sẽ diệt tan lòng ngã mạn,
Phụng thờ Thiên chủ, dạ tôn sùng.

Sau khi nói xong, vua từ thượng lầu bước xuống, đảnh lễ vị Ðộc Giáo Phật và đứng một bên. Vị Ðộc Giáo Phật ngồi bắt chéo chân trên không và nói:

– Thưa Ðại vương, tà thuật sư không phải là đạo sĩ. Từ rày phải nhận thức người đời không phải toàn giả dối, còn có các Sa-môn Bà-la-môn chân thiện, do vậy hãy bố thí, tuân thủ Giới luật và thành trì các ngày trai giới (Bố-tát).

Ngài thuyết Pháp cho vua như vậy, còn Sakka Thiên chủ cũng dùng thần lực đứng trên không thuyết Pháp cho quần chúng:

– Từ nay về sau, hãy nhiệt tâm tinh cần.

Ngài truyền ban hồi trống ra lệnh khắp kinh thành cho các Sa-môn, và Bà-la-môn đã đi trốn phải hồi hương. Sau đó cả hai vị trở về cõi của mình. Còn vua tuân thủ lời khuyến giáo và thực hành các phước nghiệp.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị Ðộc Giáo Phật đắc Niết-bàn, vua là Ànanda và Ta chính là Sakka Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Củ và Hoa Sen (Tiền thân Bhisapuppha)

Ngài không được phép ngửi hương hoa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị Tỷ-kheo ấy đã rời Kỳ Viên và trú tại quốc độ Kosala gần một khu rừng. Một hôm ông xuống hồ sen, khi thấy một hoa sen, ông đứng tránh gió và ngửi mùi hương sen. Vị nữ Thần ở trong khu rừng ấy đe dọa ông:

– Này Tôn giả, ngài ngửi trộm hương, đây là một hình thức trộm cắp.

Ông hoảng sợ trở về Kỳ Viên, đến vái chào bậc Ðạo Sư và ngồi xuống một bên.

– Này Tỷ-kheo, lâu nay ông ở đâu?

– Bạch Thế Tôn, ở trong rừng nọ, và vị nữ Thần đe dọa con như vậy.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Ông không phải là người đầu tiên bị nữ Thần đe dọa khi ngửi hương hoa. Các bậc trí ngày xưa cũng đã từng bị đe dọa như vậy.

Và theo lời thỉnh cầu của vị Tỷ-kheo, ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở Kàsi. Khi lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Ðại học Takkasilà và sau đó trở thành nhà khổ hạnh sống gần một ao sen. Một hôm ngài bước xuống ao và đứng ngửi một đóa hoa đang nở, một nữ Thần ở trong hốc cây gần đó ngâm vần kệ đầu đe dọa ngài:

Ngài không được phép ngửi hương hoa,
Dù chỉ một hoa mới nở ra,
Ðó thật là hình thức đạo tặc,
Sa-môn, ngài trộm ngửi hương hoa.

Bồ-tát liền ngâm vần kệ thứ hai:

Ta chẳng hái, không bẻ gãy hoa,
Mùi hương ta ngửi tự đằng xa,
Ta không thể bảo nào duyên cớ
Nàng nói ta đang ngửi trộm hoa.

Cùng lúc ấy, có một người đang đào bới ngó sen và củ sen, làm gãy nát thân cây sen. Bồ-tát thấy thế, liền nói:

– Nàng gọi một người ngửi mùi hương từ đàng xa là ăn trộm. Sao nàng không nói vậy với người kia?

Thế là ngài ngâm vần kệ thứ ba để nói chuyện này:

Kẻ nọ đang đào bới củ sen,
Phá thân cây gãy, đó nhìn xem,
Sao nàng không bảo cách hành động
Kẻ ấy là bừa bãi, thấp hèn?

Nữ Thần liền ngâm vần kệ thứ năm và thứ sáu giải thích tại sao nàng không nói với kẻ kia:

Những người phóng túng sống buông lơi,
Như áo vú em, đáng chán rồi,
Ta chẳng nói năng gì kẻ ấy,
Song ta chiếu cố nói ngài thôi.

Khi bỏ dục tham của thế nhân,
Và đi tìm cách tịnh thân tâm,
Tội dù chỉ nhỏ như đầu tóc
Chẳng khác trên trời đám hắc vân!

Nghe nữ Thần cảnh báo như vậy, Bồ-tát xúc động ngâm vần kệ thứ sáu:

Hiển nhiên Thần nữ hiểu tinh tường,
Nên với ta, nàng đã đoái thương,
Nếu thấy ta rày còn tái phạm,
Xin nàng nói nữa, khẩn cầu nàng.

Sau đó, nữ Thần ngâm vần kệ thứ bảy:

Ta chẳng sống đây phụng sự ngài,
Chúng ta không ở mướn cho ai,
Xin ngài tự kiếm đường đi tới
Hạnh phúc tối cao giữa cõi đời.

Khích lệ ngài như thế xong, nữ Thần trở về nơi cư trú của nàng. Còn Bồ-tát nhiệt tâm nhập đại định về sau tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, nữ Thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền thân Vighàsa)

Hạnh phúc là ai sống giữa đời…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Ðông Viên liên hệ đến một số Tỷ-kheo thích lạc thú.

Trưởng lão Mahamoggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đã làm rung chuyển cả trú xứ của họ và cảnh báo họ. Tăng chúng bắt đầu bàn luận về lỗi lầm này tại Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư được kể sự việc trên, liền bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên họ thích lạc thú.

Và Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ. Có bảy anh em trong một làng ở Kàsi nhận thấy tai hại của lòng tham dục, liền rời bỏ thế tục và trở thành ẩn sĩ. Họ sống tại Mejjhàrannã, nhưng vẫn ham thích các lạc thú, không chuyên tâm tu tập và chỉ làm theo thói quen của vật chất.

Sakka Thiên chủ bảo:

– Ta muốn đi cảnh báo bọn này.

Do đó ngài biến mình thành chim Anh vũ (két) đến trú xứ của họ, vừa đậu trên cây vừa ngâm vần kệ đầu cảnh báo họ:

Hạnh phúc là ai sống giữa đời
Bằng tàn dư bố thí mà thôi,
Ðược người tán thán trên trần thế,
Số phận đời sau: lạc cõi trời.

Khi ấy, một người trong bọn họ nghe tiếng chim Anh vũ, liền gọi đám kia lại và ngâm vần kệ thứ hai:

Bậc trí phải chăng nên lắng tai
Khi Anh vũ nói giọng như người,
Hãy nghe, các bạn, chim ca tụng
Bọn chúng ta đây, rõ tuyệt vời!

Anh vũ liền ngâm vần kệ thứ ba phủ nhận điều này:

Chẳng phải ta ca tụng các thầy,
Bọn ăn xác chết, hãy nghe đây:
Các thầy ăn món đồ thừa thải,
Chẳng phải tàn dư bố thí này.

Khi nghe chim nói, họ đồng thanh ngâm vần kệ:

Xuất thế bảy năm, cạo tóc đen,
Nơi đây ta sống tháng ngày liền,
Ăn đồ tàn thực, sao chim trách,
Vậy thế ai người thật đáng khen?

Bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ năm khiển trách để họ phải ăn năn hối cải:

Món thừa sư, hổ, thú săn mồi,
Là thứ cần dùng của các người,
Quả thật chúng là đồ phế thải
Dù người gọi “chỉ tàn dư thôi”.

Nghe vậy, các vị ẩn sĩ lại hỏi:

– Nếu chúng ta không phải là người sống bằng tàn thực, thì xin cho biết họ là những ai?

Ngài liền ngâm vần kệ thứ bảy nêu rõ ý nghĩa đích thực của việc này:

Người nào bố thí các Sa-môn,
Ðể đáp ứng ngay mọi thứ cần,
Rồi thọ những gì còn để lại,
Sống nhờ của bố thí dư tàn.

Như vậy Bồ-tát làm cho họ ăn năn hối lỗi rồi trở về cõi của ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, bảy ẩn sĩ kia là các Tỷ-kheo thích lạc thú này và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Cút (Tiền thân Vattaka)

Bơ, dầu đủ món cao lương…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Khi thấy vị ấy tham lam, bậc Ðạo Sư bảo:

– Ðây không phải lần đầu ông tham lam, ngày xưa có lần do tham lam, ông không thỏa mãn với các xác voi, bò ngựa và hy vọng kiếm được nhiều thức ăn ngon hơn, ông đã vào rừng sâu.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con chim Cút sống ở rừng sâu bằng cỏ khô và hạt cây. Thời ấy tại Ba-la-nại có một con Quạ tham ăn, không hài lòng với các xác chết của voi, ngựa và nhiều súc vật khác, liền vào rừng kia với hy vọng tìm nhiều của ngon vật lạ hơn. Trong lúc ăn trái rừng, nó chợt thấy Bồ-tát liền nghĩ thầm: “Con chim Cút này rất mập, ta đoán nó ăn nhiều thức ngon ngọt, ta muốn hỏi nó về món kia và ăn để ta cũng mập hơn”.

Quạ đậu trên bụi cây cao hơn Bồ-tát, dù nó không hỏi, Bồ-tát vẫn chào nó và ngâm vần kệ đầu:

Bơ, dầu đủ món cao lương,
Chú ơi, thực phẩm chú toàn thơm ngon,
Cho tôi biết rõ nguồn cơn
Tại sao chú phải gầy mòn thế ư?

Nghe lời nầy, Quạ ngâm ba vần kệ đáp lại:

Ta đang sống giữa kẻ thù,
Lòng ta cứ phải ưu tư rã rời,
Hãi kinh đi kiếm miếng mồi,
Muốn thành béo mập, Cút ơi, cách nào?

Suốt đời Quạ sống lo âu,
Trí luôn cảnh giác, đương đầu nguy nan,
Miếng mồi kiếm chẳng đủ ăn,
Cút ơi, vì thế gầy mòn thân ta.

Cỏ khô, hạt thóc quả là
Thức ăn của Cút chẳng no béo gì,
Vì sao Cút mập thế kia,
Lại ăn ít ỏi, nói đi, bạn vàng!

Bồ-tát nghe vậy, ngâm các vần kệ giải thích lý do béo mập của mình:

Ta mong vừa đủ an nhàn,
Thong dong bay lượn quãng đường ngắn kia,
Kiếm ăn bất cứ vật gì,
Nên ta béo mập khó bì, Quạ ơi!

Tràn đầy hạnh phúc, an vui,
Trong lòng biết đủ, thảnh thơi tháng ngày,
Mục tiêu dễ đạt lắm thay,
Ðây phần ưu thắng đời này ta theo.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này và chim Cút chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Quạ (Tiền thân Kàka)

Ông bạn cũ ơi, hãy ngắm xem…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam. Hoàn cảnh này cũng giống như trên.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là chim Bồ câu sống trong cái thúng ở trong nhà bếp của một thương nhân Ba-la-nại. Một chú Quạ đến kết thân với Bồ câu và cùng sống ở đó. Ðến đây câu chuyện cần được trình bày đầy đủ chi tiết hơn. Người đầu bếp nhặt hết lông Quạ, rắc bột lên rồi chọc thủng một vỏ ốc bóng loáng đeo trên cổ Quạ và ném nó vào thúng.

Bồ-tát bay từ rừng về, thấy vậy, và ngâm vần kệ đầu để trêu ghẹo Quạ:

Ông bạn cũ ơi, hãy ngắm xem,
Nữ trang sáng rực rỡ đeo lên,
Bộ râu tỉa gọn oai ra phết,
Trông bạn thật tươi trước mắt nhìn!

Quạ nghe lời nầy, liền đáp vần kệ thứ hai:

Các lông, móng cứ mọc nhanh ghê,
Làm vương víu ta khắp mọi bề,
Thợ hớt tóc sau cùng bước tới,
Nên ta thoát lớp vỏ xù xì!

Sau đó Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba:

Dĩ nhiên Quạ được vặt lông đen,
Chú thợ cạo kia thật khéo khen!
Quanh cổ thì sao, xin nói rõ,
Cái gì lúng lẳng tựa chuông reng?

Tiếp theo Quạ ngâm hai vần kệ nữa:

Những người thanh lịch vẫn đeo hoài
Quanh cổ ngọc châu, thói ở đời,
Muốn bắt chước người, ta cũng vậy,
Bạn đừng tưởng đó chuyện đùa chơi!

Còn nếu bạn ganh tỵ bộ ria
Ðược khéo điểm tô chải chuốt kia,
Ta sẽ nhờ người này cạo giúp,
Rồi đeo ngọc, bạn cũng như ta.

Bồ-tát nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ sáu:

Không, chính ông phù hợp nhất đời
Với râu và ngọc khéo ra oai,
Thấy ông hiện diện gây phiền toái,
Ta giã biệt ông, cất bước thôi!

Cùng với các lời này, Bồ câu bay đi nơi khác, còn Quạ chết ngay tại chỗ ấy.

*

Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheođã được an trú vào Tam quá (Bất Lai). Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là vị Tỷ-kheo tham lam này, còn Bồ câu chính là Ta.

-ooOoo-

Chương VII
Phẩm bảy bài kệ

  1. Chuyện Ác Hạnh (Tiền thân Kukku)

Cái nóc nhà này cao thước rưỡi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một quốc vương. Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong tiền thân Tesakuna, số 521.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là quốc sư về thế sự cũng như thánh sự. Vua ấy đi theo tà đạo, cai trị bất chánh và thâu góp tài sản bằng cách đàn áp dân chúng. Bồ-tát muốn khuyến giáo vua, liền đi quanh quẩn tìm một ví dụ.

Bấy giờ, nội thất trong cung làm chưa xong, nên mái nhà trên ấy chưa hoàn chỉnh. Các cây rui chống đỡ nóc nhọn chỉ vừa mới được đặt vào đúng vị trí. Vua đã du ngoạn trong ngự viên, khi trở về cung, vua nhìn lên và thấy nóc nhà hình tròn, sợ nó sẽ rớt xuống, vua bước ra đứng bên ngoài, rồi lại nhìn lên và suy nghĩ: “Làm thế nào nóc nhà này đứng yên như vậy. Các rui này ra sao? Và vua liền ngâm vần kệ đầu hỏi Bồ-tát:

  1. Cái nóc nhà này cao thước rưỡi,
    Tám cây kèo lớn đỡ quây quần
    Gỗ sim-sa với sà-ra thẳng,
    Bởi vậy nóc nhà đứng vững chăng?

Nghe vậy, Bồ-tát suy nghĩ: “Ta đã có được một ví dụ để khuyến giáo nhà vua”. Ngài liền ngâm các vần kệ sau:

  1. Ba mươi rui nhỏ gỗ sa-ra
    Ðược xếp đều quanh dưới mái nhà,
    Áp sát vào nhau nâng thật vững,
    Cho nên nóc đứng thẳng ngay mà.
  2. Vậy người có trí được quây quần
    Với quốc sư hiền, bạn tận trung,
    Sẽ chẳng sa cơ lúc mạt vận,
    Như rui đỡ nóc mái thăng bằng.

Trong lúc Bồ-tát đang nói, vua xem xét kỹ hành vi xử thế của mình: “Nếu không có nóc nhà thì các cây rui không đứng vững; nóc nhà cũng không đứng vững nếu không được các cây rui nâng đỡ. Nếu các cây rui gãy thì nóc nhà sụp đổ. Cũng vậy, một vị vua ác hạnh không tập hợp các thân bằng, đại thần, quân đội, Bà-la-môn và gia chủ lại với nhau, và nếu đám quần thần tan rã vua không được nâng đỡ sẽ mất hết quyền lực, vì thế vua phải sống công chính”.

Ngay lúc ấy, đám thị nữ đem dâng vua một quả bưởi. Vua bảo Bồ-tát:

– Này Hiền hữu, hãy ăn bưởi này.

Bồ-tát cầm bưởi và thưa:

– Tâu Ðại vương, người nào không biết cách ăn bưởi sẽ làm cho nó đắng hoặc cay. Song người có trí biết cách lấy chất đắng ra, và không bỏ chất chua, hoặc làm hỏng hương vị của bưởi khi ăn bưởi.

Rồi dùng thí dụ này, ngài trình bày cho vua biết cách tạo tài sản chân chánh qua hai vần kệ:

  1. Ăn bưởi luôn phần vỏ đắng cay,
    Nếu không gọt vỏ với dao này,
    Chỉ ăn phần ruột là thơm ngọt,
    Nếu thêm vỏ thì hết ngọt ngay.
  2. Vậy người có trí chẳng hung tàn
    Thâu góp thuế trong các xóm làng,
    Tăng sản nghiệp nhưng không phạm tội.
    Bước đường chân chánh tạo danh vang.

Vua vừa tham vấn Bồ-tát vừa đi đến hồ sen, khi nhìn một hoa sen đang nở có màu sáng đẹp như mặt trời mới mọc, không bị nước làm ô nhiễm, nhà vua bảo:

– Này Hiền hữu, hoa sen kia mọc thẳng lên không bị nước làm ô nhiễm sắc hương.

Bồ-tát liền đáp lại:

– Tâu Ðại vương, một vị vua cũng phải như vậy.

Rồi Ngài ngâm các vần kệ này để khuyến giáo:

  1. Như hoa sen nở ở trong hồ
    Rễ trắng, nước trong bảo dưỡng cho,
    Dưới ánh mặt trời hoa nở đẹp
    Không hề bụi bặm chẳng bùn nhơ.
  2. Vậy người có đức hạnh đưa đường,
    Khéo luyện ôn nhu, đủ thiện lương,
    Như đóa sen trong hồ nước ấy,
    Bùn nhơ chẳng cấu uế tâm can.

Vua nghe lời Bồ-tát khuyên giáo từ đó về sau trị nước chân chính và thực hành các thiện sự, bố thí cùng nhiều phước nghiệp khác, nên được sinh lên thiên giới.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda và vị quốc sư có trí chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sư Tử Manoja (Tiền thân Manoja)

Cung nọ đã giương cong vút lên…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về một Tỷ-kheo thân cận bạn ác.

Hoàn cảnh đã được nêu đầy đủ chi tiết trong tiền thân Mahilàmukhata, số 26. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải lần đầu kẻ này thân cận bạn ác.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là Sư tử sống với Sư tử cái và hai con, một trai một gái. Sư tử con tên là Manoja. Khi lớn lên, nó lấy một sư tử cái làm vợ. Như thế cả bầy có năm sư tử.

Manoja thường giết trâu rừng và nhiều dã thú khác, nhờ đó nó đem thịt sống về nuôi cha mẹ, em và vợ. Một hôm trong chỗ săn mồi, nó thấy một chó rừng tên Giriya không chạy được và đang nằm sấp. Nó hỏi:

– Này bạn, sao thế?

– Tâu Chúa công, tôi muốn phục vụ ngài.

– Thế thì tốt.

Sau đó, nó đem chó rừng về hang, Bồ-tát thấy vậy bảo:

– Này con Manoja, chó rừng là loại độc ác tham tàn, hay xúi giục điều xấu, đừng đưa thứ chó này về ở gần con.

Song ngài không ngăn cản được nó.

Thế rồi một hôm, chó rừng muốn ăn thịt ngựa, liền nói với Manoja:

– Tâu Chúa công, trừ thịt ngựa ra, chúng ta không có gì ăn cả. Vậy chúng ta hãy đi bắt ngựa.

– Song nơi đâu có ngựa thế, bạn?

– Tại Ba-la-nại, cạnh bờ sông.

Manoja nghe lời khuyên này và cùng đi với chó đến nơi có bầy ngựa tắm dưới sông. Nó bắt một con ngựa, mang trên lưng chạy nhanh về miệng hang. Sư tử cha ăn thịt ngựa và bảo:

– Này con, bầy ngựa là tài sản của vua, mà vua chúa thường có nhiều mưu kế, lại nhiều người thiện xạ bắn cung. Sư tử ăn thịt ngựa không sống lâu được đâu. Từ rày con đừng bắt ngựa nữa.

Sư tử con không theo lời cha khuyên nhủ, cứ tiếp tục bắt ngựa. Vua nghe có con sư tử đến bắt ngựa, liền bảo làm một hồ nước cho ngựa ở trong kinh thành. Song sư tử vẫn đến bắt ngựa. Vua truyền làm chuồng ngựa với máng thức ăn, nước uống đem đến tận nơi cho chúng. Sư tử nhảy vượt bức tường và bắt ngựa từ chuồng ra. Vua liền truyền gọi một xạ thủ có tài bắn nhanh như chớp, hỏi anh ta có thể bắn sư tử chăng. Anh ta tâu có thể, rồi làm một tháp canh gần bức tường, nơi sư tử thường đến và đợi tại đấy.

Sư tử đến, để chó rừng ở một nghĩa địa bên ngoài, còn nó nhảy vào thành bắt ngựa. Người xạ thủ suy nghĩ: “Tốc lực của sư tử này quá nhanh khi nó đến”. Cho nên anh ta chưa bắn nó, song khi nó trở về mang theo con ngựa, bị vướng víu vì gánh nặng kia, người xạ thủ liền bắn một mũi tên nhọn vào phía đùi sau của sư tử. Mũi tên đâm xuyên suốt ra phía đùi trước và bay vút lên không. Sư tử thét lên:

– Ta bị thương rồi!

Sau khi bắn sư tử xong, vị thiện xạ búng dây cung vang lên như sấm. Chó rừng nghe tiếng sư tử gầm và tiếng cung vang rền, liền suy nghĩ: “Bạn ta đã bị bắn, chắc hẳn phải chết, thôi chẳng còn tình bạn gì với vật đã chết, ta muốn đi về hang cũ trong rừng kia”. Rồi nó ngâm hai vần kệ:

  1. Cung nọ đã giương cao vút lên,
    Dây cung phát tiếng sấm vang rền,
    Ma-no-ja, chúa sơn lâm ấy,
    Thân hữu của ta, bị giết liền.
  2. Than ôi, ta phải kiếm khu rừng,
    Cố sức hết lòng, thật gắng công,
    Ta phải tìm về nơi trú ẩn,
    Bỗng dưng tình bạn hóa thành không.

Sư tử con chạy vụt về ném xác ngựa trước miệng hang, rồi ngã chết liền. Thân quyến vội bước ra, thấy mình nó nhuộm đầy máu từ vết thương chảy xiết, vừa nằm chết vì đã đi theo bạn ác. Cha, mẹ, em và vợ sư tử lần lượt ngâm bốn vần kệ:

Cha:

  1. Số phận con ta chẳng thịnh hưng,
    Say mê, kết hợp ác thân bằng,
    Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
    Do bởi lời khuyên của chó rừng.

Mẹ:

  1. Lòng mẹ chẳng vui khi thấy con
    Kết giao với bọn ác thân bằng
    Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
    Máu chảy nhuộm đầy cả tấm thân.

Em:

  1. Cũng vậy bước đi kẻ thấp hèn
    Trong đời tăm tối phải nằm yên,
    Không hề nghe được lời khuyên nhủ
    Của bạn thật chân, bậc trí hiền.

Vợ:

  1. Phần số tệ tàn hơn biết bao
    Khi người ở địa vị trên cao
    Lại tin tưởng bọn người hèn kém,
    Nhìn chúa sơn lâm đã ngã nhào!

*

Và cuối cùng là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Ai theo bọn hạ tầng
    Chính nó bị bỏ ruồng;
    Ai thân người đồng đẳng
    Chẳng hề bị phụ phàng;
    Ai phục người tối thượng
    Sẽ mau chóng thịnh hưng.
    Vậy tìm người ưu việt
    Ðể có chốn nương thân.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, Manoja là vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác, em gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), vợ của sư tử là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), Sư tử mẹ là mẫu thân Ràhula và Sư tử cha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền thân Sutana)

Vua đã gửi ngươi một bát cơm…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng cha mẹ mình. Hoàn cảnh sẽ xuất hiện trong Tiền thân Sàma, số 540.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình nghèo, cha mẹ đặt tên ngài là Sutana. Khi lớn khôn, ngài làm việc kiếm tiền nuôi cha mẹ, đến thời cha ngài qua đời, ngài phụng dưỡng mẹ mình.

Thời ấy, vua Ba-la-nại thích săn bắn. Một hôm vua cùng quần thần đông đảo đi vào một khu rừng rộng khoảng một hai đặm, và truyền lệnh cho tất cả mọi người:

– Nếu có con nai nào chạy thoát ở điểm canh giữ của người nào thì người ấy bị phạt số tiền bằng giá con nai.

Sau khi dựng một túp lều được dấu kín bên vệ đường, quần thần dâng nó cho vua dùng. Bầy nai bị chấn động vì tiếng la hét của đám người bao vây nơi trú ẩn của chúng, rồi một con nai chạy về địa điểm vua canh giữ. Vua nghĩ thầm “Ta muốn bắn nó” rồi giương cung lên. Con vật biết mưu kế đánh lừa, thấy mũi tên sắp đến gần sườn liền ngã lăn tròn như thể trúng mũi tên. Vua nghĩ: “Ta đã bắn trúng nó và chạy lại bắt nai.”

Nhưng con nai vùng lên lao vụt nhanh như gió. Quần thần và mọi người kia đều cười nhạo vua. Ông liền đuổi theo con nai cho đến khi nó mệt nhoài thì rút kiếm chặt nó làm đôi. Rồi kéo con nai lên một khúc gỗ, ông khiêng nó lên như cái đòn gánh, vừa đi vừa nói: “Ta muốn nghỉ ngơi một lát”, ông đến gần cây đa bên vệ đường và nằm xuống ngủ say.

Một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) tên là Makhadeva tái sinh ở cây đa này, được Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) cho phép bắt mọi sinh vật nào đến gần nó để ăn thịt. Khi vua này thức dậy, Dạ-xoa bảo:

– Cứ ở lại đây, ngươi là món mồi của ta.

Rồi nó cầm lấy tay vua.

– Ngài là ai? Vua hỏi.

– Ta là Quỷ Dạ-xoa, sinh ra tại đây. Ta bắt mọi người đến nơi đây để ăn thịt.

Vua lấy hết can đảm hỏi:

– Thế ngài chỉ ăn thịt hôm nay hay ăn mãi?

– Ta sẽ còn ăn mãi mọi vật ta bắt được.

– Thế thì hãy ăn con nai này hôm nay và để ta đi về. Từ ngày mai ta sẽ gửi cho ngài một người cùng với một đĩa cơm mỗi ngày.

– Vậy hãy cẩn thận đấy. Hễ ngày nào không gởi ai đến thì ta sẽ ăn thịt ngươi.

– Ta là quốc vương ở Ba-la-nại, chẳng có việc gì ta không làm được cả.

Quỷ Dạ-xoa nhận lời hứa rồi để vua ra về. Khi vua đến kinh thành, ông đem chuyện ấy kể cho vị cận thần nghe và hỏi những gì cần phải làm.

– Tâu Ðại vương, có hạn kỳ nhất định nào không?

– Không.

– Thế thì Ðại vương đã tính việc sai rồi đấy. Nhưng không sao cả. Có rất nhiều tù nhân trong ngục.

– Vậy khanh cố sắp đặt việc này để cứu mạng ta.

Vị cận thần đồng ý, mỗi ngày bắt một tù nhân từ trong ngục gửi ra cho quỷ Dạ-xoa cùng với một dĩa cơm mà không nói gì với kẻ ấy cả. Quỷ Dạ-xoa ăn hết cả cơm lẫn người. Sau một thời gian các ngục thất đều trống vắng. Vua tìm không ra người đi đưa cơm, lòng run rẩy sợ chết. Vị cận thần an ủi ông và bảo:

– Tâu Ðại vương, lòng tham tài sản còn mạnh hơn lòng tham sống. Ta hãy gói một ngàn đồng tiền đặt trên lưng voi, rồi lấy trống truyền lệnh: “Ai muốn đem cơm cho quỷ Dạ-xoa và lãnh số tiền bạc này?”.

Vua nghe lời làm theo như vậy. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta chỉ làm công được một xu rưởi mỗi ngày khó lòng phụng dưỡng mẹ. Nay ta muốn lấy số tiền kia trao cho mẹ rồi đi gặp quỷ Dạ-xoa. Nếu ta thắng nó thì tốt, còn nếu không thì mẹ ta cũng sống an nhàn sung túc”. Vì thế ngài nói chuyện với mẹ, song bà bảo:

– Mẹ vừa đủ rồi, mẹ không cần tiền bạc.

Rồi bà ngăn cản ngài hai lần, nhưng lần thứ ba, ngài không xin phép mẹ nữa, mà đến gặp quan quân nói:

– Thưa các quan, hãy đưa ngàn đồng tiền, tôi nhận mang cơm đi.

Rồi đưa cho mẹ ngàn đồng tiền, ngài bảo:

– Mẹ thân yêu, đừng lo buồn, con sẽ thắng quỷ Dạ-xoa và đem hạnh phúc cho mọi người. Con sẽ trở về nhà khiến cho mẹ đang khóc than phải cười to lên đấy.

Rồi chào mẹ xong, ngài cùng quan quân đi yết kiến vua, rồi kính lễ vua và đứng tại đó. Vua hỏi:

– Này, thiện nam tử, cậu muốn đem cơm à?

– Tâu Ðại vương, phải.

– Thế cậu cần mang theo vật gì bên mình?

– Tâu Ðại vương, đôi hài bằng vàng của ngài.

– Tại sao thế?

– Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt kẻ nào đứng trên mặt đất dưới gốc cây của nó, còn tiểu tử sẽ đứng trên đôi hài, chứ không phải trên mặt đất.

– Thế còn vật gì nữa?

– Tâu Ðại vương, chiếc lọng của ngài.

– Tại sao thế?

– Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt kẻ nào đứng dưới bóng cây của nó, còn tiểu tử đứng dưới bóng chiếc lọng, chứ không phải bóng cây.

– Thế còn vật gì nữa?

– Tâu Ðại vương, thanh kiếm của ngài.

– Ðể làm gì?

– Tâu Ðại vương, ngay loài quỷ cũng sợ những người mang khí giới trong tay.

– Thế còn gì nữa chăng?

– Tâu Ðại vương, cái bát vàng của ngài, đựng đầy ngự thiện dâng lên ngài.

– Này thiện nam tử, tại sao vậy?

– Một người có trí khôn như tiểu tử mà phải ăn cơm gạo thô trong dĩa đất thì không thích hợp chút nào.

Vua chấp thuận và sai các quan đem đủ mọi thứ ngài đã yêu cầu. Bồ-tát thưa:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả, tiểu tử nguyện sẽ trở về hôm nay sau khi chiến thắng quỷ Dạ-xoa và đem lại an lạc cho ngài.

Thế rồi ngài cầm mọi thứ cần dùng và đi đến nới ấy, ngài sắp đặt mọi người đứng không xa nơi ấy rồi mang đôi hài vàng vào chân, đeo thanh kiếm vào đai, che chiếc lọng trên đầu và cầm bát cơm bằng vàng đến gặp Dạ-xoa.

Quỷ Dạ-xoa nhìn ra đường thấy ngài liền suy nghĩ: “Người này đến đây không giống bọn người đã đến trước kia, vì duyên cớ gì vậy?”.

Bồ-tát đứng gần cây, lấy mũi kiếm đẩy dĩa cơm vào dưới bóng cây rồi đứng gần bóng cây, ngâm vần kệ đầu:

  1. Vua đã gửi ngài một bát cơm,
    Lại thêm thịt nấu thật ngon thơm,
    Ma-kha có ở nhà không đấy,
    Xin hãy bước ra nhận để ăn!

Nghe vậy, quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: “Ta muốn đánh lừa nó, rồi sẽ ăn thịt nó khi nó bước vào bóng cây”. Con quỷ liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hãy bước vào trong, hỡi cậu trai,
    Với cao lương mỹ vị trên tay,
    Cả cơm cùng với thân người nữa,
    Này cậu, ta xơi tuyệt lắm thay!

Tiếp theo, Bồ-tát đáp hai vần kệ:

  1. Dạ-xoa sẽ mất vật to hơn
    Ðổi lấy vật này bé con con.
    Tất cả mọi người đều sợ chết,
    Chẳng còn ai đến biếu cao lương!
  2. Vậy ngài sẽ được cấp lương cao
    Tinh sạch nêm gia vị ngọt ngon.
    Song nếu ăn ta, thì khó kiếm
    Một người nào khác đến đem cơm.

Quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: “Cậu trai này nói có lý”, rồi đầy thiện ý, nó ngâm hai vần kệ:

  1. Su-ta-na, quả thật đúng thay
    Mối lợi ta như cậu tỏ bày,
    Hãy trở lại thăm hiền mẫu nhé,
    Ta cho phép cậu bước đi ngay.
  2. Lấy gươm, lọng, bát, cậu thanh niên,
    Hãy nhắm đường đi, cất bước liền,
    Thăm mẹ hiền trong niềm phấn khởi,
    Cho bà sống hạnh phúc bình yên.

Nghe lời Dạ-xoa, Bồ-tát hoan hỷ, ngài nghĩ thầm: “Bổn phận ta đã hoàn thành, quỷ Dạ-xoa đã được chinh phục, ta được hưởng tài sản và lời hứa của vua đã được thực hiện”. Ngài liền ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Dạ-xoa cùng với mọi thân nhân,
    Mong ước toàn gia được phước ân,
    Lệnh vua đã thực hành viên mãn,
    Tài sản ta nay được hưởng phần.

Ngài khuyến giáo quỷ Dạ-xoa và bảo:

– Này bạn, xưa kia bạn đã tạo ác nghiệp, bạn tham tàn độc ác, ăn thịt nhiều người nên tái sinh làm quỷ Dạ-xoa. Từ rày về sau đừng giết hại sinh mạng như vậy nữa.

Thế là ngài nêu rõ mọi công đức nhờ giữ giới hạnh và các nỗi khổ đau vì tạo ác nghiệp. Rồi an trú quỷ Dạ-xoa vào Ngũ giới, ngài bảo:

– Này, tại sao bạn ở trong rừng? Mau lên, ta sẽ để bạn cư ngụ cạnh cổng thành và bảo đem cao lương mỹ vị đến cho bạn.

Sau đó ngài ra đi cùng quỷ Dạ-xoa, bảo nó cầm kiếm cùng nhiều vật khác và đến thành Ba-la-nại. Quân sĩ báo tin Sutana đã trở về cùng quỷ Dạ-xoa. Vua cùng triều thần đi ra đón Bồ-tát và làm chỗ cư trú cho quỷ Dạ-xoa tại cổng thành, rồi sai người đem cao lương mỹ vị cho nó. Xong vua vào thành, lấy trống truyền lệnh hội họp toàn dân trong thành để tuyên dương công trạng của Bồ-tát và phong ngài chức vụ thống lãnh quân đội. Còn chính vua được an trú vào lời dạy của Bồ-tát, thực hành nhiều thiện sự, bố thí và các công đức khác nên về sau tái sinh cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ đã đạt Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, quỷ Dạ-xoa là Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay), vua là Ànanda và hiếu tử kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)

Làm sao thân lão biết tìm mồi…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên). Khi lớn lên, ngài đưa cha mẹ đã già và mù mắt vào ở trong hang thứu và đem thịt quạ cùng nhiều loại khác về nuôi hai vị. Thời ấy có một thợ săn đặt bẫy bắt chim thứu quanh nghĩa địa Ba-la-nại.

Một hôm Bồ-tát đi kiếm thịt đến gần nghĩa địa và sa chân vào bẫy. Ngài không nghĩ đến mình, mà chỉ nhớ đến cha mẹ già: “Giờ đây làm sao cha mẹ sống được? Ta chắc hai vị sẽ chết vì không biết ta mắc bẫy, sẽ bơ vơ khốn khổ và héo mòn dần trong hang núi ấy”. Do vậy ngài ngâm vần kệ đầu than khóc:

  1. Làm sao thân lão biết tìm mồi
    Trong chốn hang sâu của núi đồi?
    Ta bị buộc chân vào chiếc bẫy,
    Làm nô lệ của Ni-la thôi.

Con trai người thợ săn, nghe ngài than khóc, liền ngâm vần kệ thứ hai, chim Thứu ngâm vần kệ thứ ba và cứ liên tiếp xen kẽ như vậy:

Con của thợ săn:

  1. Chim Thứu, sao chim khóc ỉ ôi,
    Tiếng chim đưa đến tận bên tai,
    Ta chưa từng thấy hay nghe được
    Chim biết thốt ra tiếng giống người.

Chim Thứu:

  1. Ta nuôi phụ mẫu đã già rồi
    Ở trong hang nọ dưới chân đồi,
    Làm sao thân lão tìm mồi được
    Khi thứu trở thành nô lệ người?

Con của thợ săn:

  1. Kên kên nhìn xác chết đằng xa
    Hơn cả một trăm dặm vượt qua,
    Vì cớ sao chim không thấy rõ
    Lưới kia bẫy nọ thật gần mà?

Chim Thứu:

  1. Khi đời sắp đến vận suy tàn,
    Thần chết đang đòi hỏi số phần,
    Dù có đứng gần bên chiếc bẫy,
    Cũng không thấy bẫy đặt dây giăng!

Con của thợ săn:

  1. Thôi hãy về đi với lão thân
    Ở trong hang núi, hãy chăm nom,
    Về thăm cha mẹ trong an lạc,
    Chim được ta cho thỏa ước mong.

Chim Thứu:

  1. Hỡi thợ săn cùng cả họ hàng,
    Cầu mong hạnh phúc đến nhà chàng!
    Ta về với mẹ cha già yếu,
    Chăm sóc hai thân ở dưới hang.

Sau đó Bồ-tát được giải thoát khỏi nỗi sợ chết, vui mừng tạ ơn vừa ngâm vần kệ cuối cùng, vừa ngậm đầy thịt trong mỏ và bay về đưa mồi cho cha mẹ.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, người thợ săn là Channa (Xa-nặc), cha mẹ ta là thân quyến trong hoàng gia và Thứu vương là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Biệt hiệu của Chó rừng – Tiền thân Dabbhapuppha)

Này bạn A-nu, chạy tới ngay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Upananda, một người của bộ tộc Thích-ca (sakya).

Vị ấy xuất gia theo Giáo-pháp, nhưng lại từ bỏ các hạnh tri túc và những đức hạnh khác nên trở thành tham lam. Ðầu mùa mưa, ông đến ở thử hai ba tinh xá, để lại một cái dù hay chiếc hài ở một tinh xá, và một chiếc gậy hay bình nước ở một tinh xá khác, rồi chính ông đến an cư ở một tinh xá khác nữa. Ông bắt đầu trú mưa tại một tinh xá ở thôn quê và bảo:

– Chư Tỷ-kheo phải sống tri túc.

Rồi cố ra vẻ như đang làm cho mặt trăng xuất hiện trên trời, ông giải thích pháp môn đưa đến hạnh tri túc, tán thán đời sống tri túc với các nhu cầu tối thiểu. Nghe lời ông, Tăng chúng ném bỏ mọi y bát tốt đẹp, mang bát đất phấn tảo y (y bằng giẻ rách), ông liền đem các thứ kia về tư thất của mình. Khi mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavàranà) đã xong, ông chất đầy một xe chở đến Kỳ Viên.

Trên đường đi, dừng lại phía sau một tinh xá trong rừng, ông lấy dây leo quấn hai chân và nói:

– Chắc chắn có thể kiếm được vài thứ ở đây.

Rồi ông đi vào tinh xá. Có hai Tỷ-kheo già đã an cư mùa mưa ở đó, họ kiếm được hai tấm y vải thô và một chiếc mền lông mịn, rồi chẳng biết phải chia chúng ra sao, họ hoan hỷ khi thấy ông đến, nghĩ thầm: “Trưởng lão này sẽ chia các vật dụng cho hai ta”, liền nói:

– Này Hiền giả, chúng tôi không thể chia các y phục dùng cho mùa mưa này được, chúng tôi có bàn cãi về việc này, xin Hiền giả chia dùm chúng tôi.

Vị ấy bằng lòng, chia hai tấm y vải thô cho họ, còn ông lấy cái mền, và bảo họ:

– Vật này dành cho tôi là người biết Giới luật.

Rồi ông bỏ đi. Hai Trưởng lão này thích chiếc mền, liền cùng đi với ông đến Kỳ Viên và kể câu chuyện với chư Tăng hiểu biết luật, rồi hỏi:

– Có đúng là những vị biết Giới luật lại cướp bóc tài sản như vậy chăng?

Tăng chúng thấy đống y bát do Tỷ-kheo Upananda đem đến, liền hỏi:

– Này Hiền giả, Hiền giả thật có đại phước đức, Hiền giả đã tạo được nhiều thực phẩm và y phục thế kia!

Ông đáp:

– Này các Hiền giả, tôi có phước đức gì đâu? Tôi chỉ lấy được các thứ này theo cách như vầy như vầy.

Rồi ông đem mọi chuyện kể ra hết cho mọi người nghe.

Tại Chánh pháp đường, Tăng chúng nêu vấn đề thảo luận, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Upananda thuộc bộ tộc Thích-ca, rất tham lam tài vật.

Bậc Ðạo Sư thấy đề tài của các vị, liền bảo:

– Này các Tỷ-kheo, hành vi của Upannanda không phù hợp để tinh tấn. Khi một Tỷ-kheo giảng giải hạnh tinh tấn cho người khác thì trước tiên thì tự mình phải cho phù hợp rồi mới giáo giới người khác.

Giữ mình đúng mực trước tiên,
Rồi sau thuyết giảng, bậc hiền vị tha.

Bằng cách ngâm vần kệ Pháp cú này, Ngài giải bày Giáo pháp và nói:

– Này các Tỷ-kheo, không phải Upananda chỉ tham lam lần đầu, mà xưa kia kẻ ấy cũng đã cướp bóc tài vật của loài khác nữa.

Rồi ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa. khi vua Brahamdatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát làm một Thần cây bên bờ sông. Một con chó rừng tên Màyàvì, đã có vợ và sống một nơi gần bờ sông. Một ngày kia, vợ nó bảo chồng:

– Này chàng, thiếp có một niềm ao ước, thiếp muốn ăn cá hồng rohita tươi.

Chó rừng đáp:

– Cứ yên lòng, ta sẽ đem cá tươi về cho nàng.

Rồi nó ra phía con sông, quấn chân bằng dây leo đi dọc theo bờ. Lúc ấy có hai con rái cá tên Gambhìracàri và Anutìracàri đang đứng trên bờ rình bắt cá. Gambhìracàri chợt thấy một con cá hồng rohita lớn, liền nhảy xuống nước chụp lấy đuôi cá. Con cá quá mạnh vùng ra được lôi theo rái cá. Nó liền gọi bạn:

– Con cá này to lắm, vừa đủ cho hai ta.

Rồi nó ngâm vần kệ đầu:

  1. Này bạn A-nu, chạy tới ngay,
    Ta cầu khẩn bạn giúp ta đây,
    Ta vừa bắt cá này to lớn,
    Song nó kéo ta mạnh thế này!

Nghe vầy, con kia ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Gam-bhi, bạn tốt số dường nào!
    Móng vuốt bạn cầm vững mạnh sao!
    Chẳng khác đại bàng câu rắn nước,
    Ta câu cá nọ nhấc lên cao!

Sau đó cả hai rái cá kéo con cá hồng rohita đặt xuống đất và cắn nó chết xong, lại bảo nhau:

– Bạn chia cá ra nào.

Rồi chúng cãi nhau nhưng không chia cá được phải ngồi xuống, và để cá nằm đó. Lúc ấy chó rừng vừa bước tới chỗ ấy. Thấy chó, cả hai đều chào rất lễ phép và nói:

– Thưa Tôn ông có lông màu cỏ xám, con cá này do hai chúng tôi bắt được, rồi sinh chuyện cãi nhau vì chúng tôi không biết cách chia cá. Xin Tôn ông chia cá đều hai phần dùm cho.

Rồi chúng ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Một cuộc tranh giành giữa chúng tôi
    Tôn ông mang áo xám kia ôi!
    Xin ông ổn định dùm tranh chấp
    Cho thật công bằng giữa cả đôi.

Chó rừng nghe vậy, liền tự xưng anh hùng qua vần kệ:

  1. Ta đã giải phân lắm cạnh tranh
    Làm xong sứ mạng thật hòa bình,
    Chư Tôn hãy để điều tranh chấp
    Tại hạ công bình ổn định nhanh.

Ngâm vần kệ xong, chó chia cá và ngâm thêm vần kệ này:

  1. A-nu, hãy lãnh phần đuôi,
    Còn chú Gam-bhì, thủ cấp rồi,
    Phần giữa dành cho ta xử kiện,
    Trả công xứng đáng thế này thôi!

Như vậy, sau khi chia cá xong, chó rừng bảo:

– Các ông ăn đầu đuôi cá chứ đừng cãi nhau nữa.

Rồi ngậm khúc giữa vào mồm, nó chạy bay trước mắt cặp rái cá. Chúng ngồi ủ rũ, như thể vừa mất cả ngàn đồng tiền, rồi ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Nếu không tranh cãi chuyện vừa rồi,
    Chắc chắn là vừa đủ cá thôi,
    Nay bị chó rừng mang hết thịt,
    Chỉ còn để lại khúc đầu đuôi!

Chó rừng rất hài lòng, nghĩ thầm: “Nay ta đem cá hồng rohita về cho vợ ta”, rồi nó đi tìm vợ. Chó cái thấy nó đến, liền đon đả chào mừng và ngâm vần kệ:

  1. Như vua mãn nguyện được cầm quyền
    Thâu gọn giang sơn trị nước yên,
    Mãn nguyện ta nhìn chàng trở lại,
    Ngậm đầy trong mỏ cá tươi nguyên!

Rồi nó hỏi chó rừng cách nào kiếm được mồi ngon qua vần kệ:

  1. Chàng vốn sinh ra ở đất bằng,
    Làm sao bắt cá giữa dòng sông?
    Phu quân, chàng lập kỳ công ấy,
    Cho biết vì sao, thiếp ước mong.

Chó rừng ngâm vần kệ giải thích phương cách ấy cho vợ nghe:

  1. Vì cạnh tranh nên chúng yếu dần,
    Cạnh tranh làm chúng phải suy tàn,
    Cạnh tranh, rái cá mất phần hưởng,
    Vì vậy Mà-yà được miếng ngon.

*

Và một vần kệ khác nữa xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Cũng vậy, tranh giành giữa thế nhân,
    Tìm người xử kiện: nó chia phần,
    Gia tài của chúng suy tàn hết,
    Công khố nhà vua được thịnh hưng.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chó rừng là Upananda, hai con rái cá là hai người kia, và Thần cây chứng kiến câu chuyện chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền thân Dasanaka)

Bảo kiếm Da-san thích máu hồng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về âm mưu quyến rủ một Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.

Tỷ-kheo ấy thú nhận đã thối thất vì lý do này. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Nữ nhân ấy đã làm hại ông. Thời xưa ông cũng đã suýt chết vì tương tư kẻ ấy. Về sau nhờ các bậc trí ông được cứu sống lại.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi Ðại vương Maddava trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con một gia đình Bà-la-môn. Cha mẹ đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn lên, ngài đi học mọi nghệ thuật tại Takkasilà, và khi về Ba-la-nại Ngài trở thành quốc sư của vua Maddava về thế sự cũng như thánh sự. Ngài được danh hiệu bậc Hiền trí Senaka và được cả kinh thành sùng kính như mặt trăng, mặt trời.

Thời ấy con trai của vị tế sư hoàng gia đến yết kiến vua, thấy bà chánh hậu trang điểm ngọc vàng cực kỳ diễm lệ, đâm ra si tình, khi về nhà chẳng chịu ăn uống gì cả, cứ nằm dài ra. Bạn hữu liền hỏi thăm và chàng trai kể hết mọi chuyện. Vua hỏi:

– Con trai của vị tế sư hoàng gia không đến, việc này là thế nào?

Khi nghe duyên cớ, vua cho gọi chàng trai vào và bảo:

– Trẫm trao hoàng hậu cho cậu trong bảy ngày, cứ ở nhà cậu bảy ngày ấy xong, qua ngày thứ tám, cậu trả lại nàng cho ta.

– Thế thì tốt lắm, tâu Ðại vương.

Chàng trai đáp rồi đem hoàng hậu về nhà thọ hưởng lạc thú với nàng. Hai người đâm ra say mê nhau, và bí mật trốn khỏi nhà chạy sang một xứ khác, không ai biết họ đi đâu và đường đi của họ chẳng khác nào đường của con tàu trên biển cả.

Vua truyền đánh trống thông báo khắp kinh thành, nhưng dù đã tìm mọi nơi, họ vẫn không thấy nàng đã đến đâu cả. Sau đó nỗi đau buồn khủng khiếp vì thiếu nàng xâm chiếm trọn tâm can vua. Tim ông bừng nóng rực và trào máu ra ngoài! Tiếp theo đó, máu từ ruột gan chảy ra khiến bệnh trầm trọng thêm. Các ngự y tài danh đều không thể chữa trị được đành bó tay.

Bồ-tát suy nghĩ: “Bệnh này không phải do nội thân vua, mà do vua mắc tương tư vì không thấy hoàng hậu. Ta thử dùng vài phương cách chữa trị xem sao. “Ngài liền gọi hai quốc sư hiền trí của vua là Àyura và Pukkusa vào bảo:

– Ðức vua không có bệnh gì, ngoại trừ tâm bệnh chỉ vì ngài không thấy hoàng hậu đó thôi. Giờ đây ngài là bậc cứu hộ cao cả đối với thần dân. Ta quyết tìm mọi cách trị bệnh ngài. Ta muốn triệu tập một đám quần chúng vào sân chầu và bảo một người biết xảo thuật nuốt lưỡi kiếm sắc biểu diễn việc này. Ta sẽ đưa Hoàng thượng ra cửa sổ nhìn xuống đám đông. Ngài sẽ nhìn người nuốt lưỡi kiếm và hỏi: “Có việc gì khó hơn thế chăng?”. Lúc ấy, này Tôn giả Àyura, xin hãy đáp: “Nói: Ta sẽ từ bỏ vật này vật kia, còn khó hơn nữa”. Sau đó ngài sẽ hỏi Tôn giả Pukkusa, và Tôn giả cần phải trả lời: Tâu Ðại vương, nếu một người nói: “Ta từ bỏ vật này vật kia”, rồi lại không bỏ nó được, thì lời nói đó sẽ vô ích thôi. Không ai sống hay uống ăn bằng những lời như vậy, nhưng người nào hành động theo lời nói và đem cho một vật đúng theo lời hứa thì chính họ làm được một việc khó hơn việc kia nữa đấy”. Sau đó ta sẽ tìm cách tiến hành mọi sự tiếp theo.

Thế là ngài bảo tập họp một đám đông. Rồi ba bậc trí nhân ấy vào trình vua:

– Tâu Ðại vương, có đám đông trong sân chầu. Nếu ai nhìn xuống đó đổi sầu làm vui. Vậy xin Ðại vương hãy cùng chúng thần đến đó xem sao.

Ba vị rước vua đến hé mở cửa sổ cho vua nhìn thấy đám đông. Nhiều người lần lượt biểu diễn các xảo thuật mà mình biết. Sau cùng có một người nuốt lưỡi kiếm sắc cạnh dài ba mươi ba phân (33 phân Anh: khoảng 80 cm).

Vua thấy vậy suy nghĩ: “Người này đang nuốt lưỡi kiếm, ta muốn hỏi các bậc trí nhân này xem có việc gì khó hơn không?”

Rồi vua ngâm vần kệ đầu hỏi Àyura:

  1. Bảo kiếm Da-san thích máu hồng,
    Cạnh đều sắc nhọn thật hoàn toàn,
    Giữa đông người, nó ăn thanh kiếm,
    Chẳng có việc nào khó nữa chăng?
    Ta hỏi có gì đem sánh được
    Nhờ khanh giải đáp, hởi hiền nhân.
    Àyura ngâm vần kệ thứ hai đáp lời:
  2. Lòng tham dụ kẻ nuốt thanh gươm,
    Cho dẫu lưỡi gươm bén thập toàn,
    Song nói: “Ta cho, lòng tự nguyện”
    Là điều khó thực hiện vô cùng,
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Ðại đế Kiệt-đà, tôi giải phân.

Khi vua nghe lời Àyura, ông liền suy nghĩ: “Thế thì bảo: “Ta cho vật này” còn khó hơn nuốt thanh kiếm. Vậy ta đã nói: “Ta ban hoàng hậu cho con trai tế sư”, tức là ta đã làm một việc rất khó”. Nhờ thế nỗi đau buồn trong tâm vua lắng dịu được một chút. Rồi suy nghĩ: “Có gì khó hơn nói: “Ta cho người khác vật này” chăng?”, ông lại ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với Trí giả Pukkusa:

  1. Ày-ra đã giải đáp lời ta,
    Trí tuệ cao siêu quả thật là,
    Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
    Còn gì khó nữa hỡi, Pusk-sa,
    Nếu đem so sánh điều trên ấy,
    Hiền giả, xin mời giải đáp ta.

Trí giả Pukkusa ngâm vần kệ thứ tư đáp lại:

  1. Người ta không sống được bằng lời,
    Lời nói thốt ra uổng phí thôi,
    Song nếu đem cho không tiếc nuối,
    Việc này còn khó bội hơn rồi.
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Ðại đế, đây lời đáp của tôi.

Vua nghe vầy, suy nghĩ: “Trước tiên ta nói: “Ta sẽ đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư”, rồi ta đã làm theo lời hứa và đem cho nàng. Hiển nhiên ta đã làm một việc rất khó”. Do vậy, nỗi sầu của vua giảm bớt phần nào. Rồi ông chợt nghĩ: “Không có ai thông thái hơn Trí giả Senaka. Ta muốn hỏi vị ấy câu này”.

Ông liền ngâm vần kệ thứ năm hỏi ngài:

  1. Puk-sa đã giải đáp lời ta,
    Trí tuệ cao siêu quả thật là.
    Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
    Còn gì khó nữa, hỡi Sen-ka,
    Nếu đem so sánh điều trên ấy,
    Hiền giả xin mời giải đáp ta.

Senaka ngâm vần kệ thứ sáu đáp lời vua:

  1. Nếu người có của đã đem cho
    Bất luận là gì, dẫu nhỏ to,
    Ðừng tiếc nuối sau khi bố thí,
    Việc này quả thật khó hơn mà,
    Mọi điều gì khác đều không khó,
    Xin đáp Ðại vương Ma-kiệt-đà.

Vua nghe lời Bồ-tát, lại suy nghĩ: “Ta đã đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư do ta tự nguyện, nay ta lại không kiềm nỗi ưu tư, ta sinh phiền não, héo mòn: thật không xứng đáng với ta. Nếu nàng thương yêu ta thì nàng đã không bỏ vương quốc mà chạy trốn như vậy. Ta còn phải liên hệ gì với nàng đã không yêu thương ta và bỏ trốn đi?”.

Trong lúc vua suy nghĩ như vậy, mọi sầu não đều rơi rụng hết như giọt nước đổ trên lá sen, lập tức tâm vua được bình an. Ông hồi phục sức khỏe và an lạc ngâm vần kệ cuối cùng tán thán Bồ-tát:

  1. Ày-ra giải đáp lời ta,
    Thế rồi Hiền giả Puk-sa cũng vầy,
    Lời Sen-ka quả thật hay,
    Trong ba lời giải lời này tối ưu.

Sau khi tán thán, vua hoan hỷ ban thưởng ngài nhiều vàng bạc châu báu.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật. Khi các sự thật kết thúc, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, hoàng hậu là người vợ cũ, vua là là Tỷ-kheo thối thất, Àyura là Moggallàna, Pukkusa là Sàriputta và Hiền giả Senaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền thân Sattubhasta)

Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng. Hoàn cảnh chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Mahà-Ummagga, số 546.

*

Ngày xưa có vị vua tên là Janaka trị vì ở Ba-la-nại. Thời ấy Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn, cha mẹ đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn lên, ngài theo học các nghệ thuật tại Takkasilà rồi trở về Ba-la-nại yết kiến vua. Vua phong cho ngài chức vụ đại thần và ban cho ngài đại vinh hiển.

Ngài dạy vua về thế sự lẫn thánh sự. Là người thuyết Pháp khả ái, ngài an trú vua vào Ngũ giới, bố thí và hành trì trai giới và Thập thiện đạo, như vậy tức là an trú vua vào chánh hạnh. Toàn quốc độ được ở cảnh như thời có chư Phật xuất hiện. Vào các ngày trai giới nửa tháng một lần, nhà vua, các phó vương, cận thần đều tụ tập và trang hoàng phòng họp.

Bồ-tát thuyết Pháp trong một giảng đường tôn nghiêm trên bảo tọa bọc da nai, với uy lực của một vị Phật, lời ngài dạy chẳng khác gì lời dạy của chư Phật.

Thời ấy có một Bà-la-môn già nua, xin tiền bố thí được một ngàn đồng, để dành trong một giađình Bà-la-môn, rồi lại làm hành khất thêm nữa. Khi ông ra đi, gia đình nọ tiêu hết cả tiền. Sau đó ông trở lại đòi số tiền. Vì gia chủ không có tiền trả, nên gả con gái cho ông làm vợ. Vị Bà-la-môn già đem nàng về cư ngụ trong một làng Bà-la-môn không xa Ba-la-nại. Vì cô vợ còn trẻ nên không thỏa mãn- tham dục và phạm tà hạnh với một Bà-la-môn trẻ.

Ở đời có mười sáu việc không thể nào thỏa mãn. Ðó là mười sáu việc gì? – Biển không thỏa mãn với các dòng sông, lửa không thỏa mãn với nhiên liệu, vua không thỏa mãn với quốc độ, kẻ ngu không thỏa mãn với ác nghiệp, nữ nhân không thỏa mãn với ba việc ân ái, nữ trang và sinh con, Bà-la-môn không thỏa mãn với thánh kinh, bậc trí không thỏa mãn với Thiền định, bậc hữu học không thỏa mãn với danh vọng, người ly tham không thỏa mãn với khổ hạnh, người tinh tấn không thỏa mãn với nỗ lực, người hay nói không thỏa mãn với chuyện trò, nhà chính trị không thỏa mãn với hội nghị, người mộ đạo không thỏa mãn với việc phục vụ Giáo hội, người thích bố thí không thỏa mãn với việc bố thí, người đa văn không thỏa mãn với việc nghe Pháp, tứ chúng không thỏa mãn với việc yết kiến đức Phật.

Vì thế nữ nhân Bà-la-môn này không thỏa mãn việc ân ái, muốn đẩy chồng đi xa và phạm tà dục một cách táo bạo. Một ngày kia, cô ả nằm dài theo gian kế đã dự trù. Khi ông chồng hỏi:

– Nàng ơi, nàng làm sao thế?

Cô ả đáp:

– Chàng Bà-la-môn ơi, thiếp không thể làm việc nhà chàng được nữa, phải kiếm một nữ tỳ.

– Nàng ơi, ta không có tiền, vậy ta sẽ lấy gì để mua nữ tỳ chứ?

– Chàng hãy làm hành khất kiếm tiền mà thuê nữ tỳ.

– Thế nàng hãy sắp đặt vài vật để ta lên đường.

Cô ả đặt vào túi da đủ các thứ bột bánh đã nướng và chưa nướng xong trao cho lão. Lão Bà-la-môn đi qua mọi thôn làng thành thị, kiếm được bảy trăm đồng, nghĩ thầm: “Số tiền này đủ để mua gia nô nữ tỳ rồi”, lão liền trở về làng.

Ðến một địa điểm thuận tiện, để uống nước, lão mở túi xách ăn một ít bánh nướng, rồi đi uống nước mà không buộc miệng túi. Lúc ấy một con rắn hổ trong thân cây rỗng, ngửi mùi bánh bò vào túi nằm cuộn tròn ăn bánh. Lão trở lại, không nhìn vào túi, cứ buộc túi lại và vác lên vai ra đi.

Lúc ấy một vị Thần cây ngồi trên bộng thân cây ấy đến bảo cho lão biết trên đường đi:

– Này Bà-la-môn, nếu lão dừng lại trên đường, lão sẽ chết; còn nếu lão về nhà thì vợ lão sẽ chếtđấy.

Xong vị thần biến mất. Lão nhìn quanh, không thấy vị thần nên lòng kinh hoảng vì sợ chết, vừa đi đến cổng thành Ba-la-nại vừa khóc than.

Hôm ấy vào ngày rằm trai giới, ngày Bồ-tát thuyết Pháp, đang ngồi trên bảo tọa trang nghiêm và một đám đông đem hương hoa đủ loại đến từng đoàn nghe thuyết Pháp. Lão Bà-la-môn hỏi:

– Các người đi đâu thế?

Họ đáp:

– Này lão Bà-la-môn, hôm nay bậc Trí giả Senaka thuyết Pháp với giọng êm dịu và oai lực của một vị Phật. Lão không biết ư?

Lão suy nghĩ: “Họ bảo ngài là một bậc thuyết Pháp hiền trí, còn ta đang lo âu sợ chết, các bậc trí có khả năng diệt trừ các đại phiền não, vậy ta nên đến đó nghe Pháp”.

Vì thế lão cùng đi với họ; khi quần chúng và vua đã ngồi chung quanh Bồ-tát, lão đứng bên ngoài, không xa pháp tọa, với túi thức ăn trên vai và lòng sợ chết. Bồ-tát thuyết giảng chẳng khác nào ngài đang đưa cả dải thiên hà xuống trần giới hay đổ trận mưa đầy thực phẩm thiên giới cho đời.

Quần chúng vô cùng hoan hỷ tán thưởng, lắng tai nghe Pháp. Các bậc trí thường nhìn xa thấy rộng. Vào lúc ấy Bồ-tát mở đôi mắt có đủ năm vẻ đẹp nhìn khắp Hội chúng, thấy vị Bà-la-môn, liền nghĩ: “Cả Hội chúng đông đảo này tràn ngập hân hoan nghe Pháp và tán thưởng, chỉ trừ một Bà-la-môn ủ rũ khóc lóc. Chắc hẳn phải có nỗi sầu tư nào trong lòng khiến lão tuôn lệ. Cũng giống như tẩy rỉ sét với chất chua, hay làm một giọt nước rơi khỏi lá sen, ta sẽ thuyết Pháp cho lão giải sầu và an vui tâm trí”. Vì thế ngài gọi lão:

– Này lão Bà-la-môn, ta là trí giả Senaka, nay ta muốn giải mối sầu cho lão, hãy bạo dạn nói ra đi.

Ngài ngâm vần kệ đầu hỏi lão:

  1. Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền,
    Nước mắt chảy là cớ hiển nhiên,
    Lão mất gì, vào đây muốn kiếm
    Thứ gì? Hãy nói rõ ngay liền.

Sau đó, Bà-la-môn ngâm vần kệ bày tỏ duyên cớ nỗi sầu:

  1. Vợ chết, nếu tôi trở lại nhà,
    Còn không, tôi sẽ hóa ra ma,
    Ðiều này làm trái tim đau nhói,
    Xin giải vấn đề, hỡi Sen-ka.

Nghe vị Bà-la-môn nói, Bồ-tát bủa giăng tấm lưới tri kiến như ném lưới vào biển cả, và suy nghĩ: “Có nhiều nguyên nhân gây tử vong ở đời này: một số chết chìm ngoài biển, hoặc bị loài cá dữ ăn thịt, một số rơi xuống sông Hằng, hay bị cá sấu vồ, một số khác rơi từ cây xuống hay bị gai nhọn đâm, một số bị khí giới loại đánh vào người, một số khác ăn nhằm chất độc, bị treo cổ hay rớt xuống vực sâu, chết cóng vì giá buốt, hay các loại bệnh tấn công. Nay giữa mọi duyên cớ ấy, lão Bà-la-môn này phải chết vì cớ nào nếu lão ở nán lại trên đường đi hôm nay, hoặc vợ lão phải chết nếu lão về nhà?”.

Trong lúc suy xét, ngài thấy cái túi trên vai lão và nghĩ: “Chắc hẳn có con rắn chui vào túi, có lẽ vì nó đã nghe mùi bánh khi lão ăn sáng và đi uống nước mà quên buộc miệng túi xách. Sau khi uống nước xong, lão Bà-la-môn trở lại và có lẽ đã tiếp tục lên đường sau khi buộc túi và cầm túi lên mà không thấy con rắn bò vào. Nếu lão ở nán lại trên đường, đến tối lão sẽ tự nhủ lúc dừng chân: “Ta muốn ăn bánh”. Rồi mở túi ra, lão sẽ đặt tay vào, con rắn sẽ cắn tay lão gây tử vong. Ðây chính là nguyên nhân lão sẽ chết nếu ở lại trên đường. Nhưng nếu lão về nhà, túi ấy sẽ đến tay vợ lão, bà ta sẽ nói: “Ta muốn xem đồ đạc bên trong”, rồi bà ta mở túi ra và đặt tay vào, con rắn sẽ cắn bà ta bỏ mạng. Ðây chính là nguyên nhân vợ lão chết nếu lão về nhà hôm nay”. Ngài biết được điều này do trí của ngài tinh xảo về mọi phương tiện.

Lúc ấy ngài lại suy nghĩ: “Ðây chắc hẳn là con rắn hổ đen, táo bạo, không hề biết sợ, nên khi cái túi da đập vào sườn lão Bà-la-môn, nó chẳng nhúc nhích hay run rẩy gì cả. Nó cũng không tỏ dấu hiệu là nó đang có mặt tại Hội chúng đông đảo này, do đó nó phải là con rắn hổ đen bạo dạn, không biết sợ”.

Từ tri kiến tinh xảo các phương tiện, ngài biết điều này như thể ngài chứng kiến với thiên nhãn. Như vậy Ngài chẳng khác nào một người đứng gần đó nhìn con rắn bò vào túi, rồi quyết định sự việc bằng trí kiến tinh xảo của ngài. Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp câu hỏi của vị Bà-la-môn ngay giữa hội chúng triều đình:

  1. Suy xét mọi nghi hoặc trước tiên,
    Nay ta tuyên bố sự đương nhiên:
    La-môn, trong túi đồ ăn ấy
    Ðã lẻn chui vào rắn hổ đen!

Nói vậy xong, Ngài hỏi:

– Này lão Bà-la-môn, có thứ bánh nào trong túi xách của lão chăng?

– Thưa Trí giả, có.

– Thế lão có ăn bánh lúc điểm tâm sáng nay chăng?

– Thưa Trí giả, có.

– Thế lão đã ngồi đâu?

– Ở trong rừng, dưới một gốc cây.

– Thế khi lão ăn bánh xong và đi uống nước, lão có buộc miệng túi lại hay không?

– Thưa Trí giả, tôi không buộc.

– Khi lão đã uống nước và trở về, lão có buộc miệng túi sau khi nhìn vào trong không?

– Thưa Trí giả, tôi buộc miệng túi mà không nhìn vào trong.

– Này lão Bà-la-môn, khi lão đi uống nước, ta chắc là con rắn đã lẻn vào túi do ngửi mùi bánh mà lão không biết: đấy là trường hợp này. Vậy lão mau đặt túi xuống, để ngay giữa Hội chúng và mở miệng túi ra. Lấy gậy đập vào túi, rồi lão sẽ thấy con rắn hổ đen bò ra với chiếc mào giương rộng và rít lên. Lão sẽ hết hồ nghi. Ngài lại ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Cầm gậy đập lên chiếc túi dày,
    Im hơi, hai lưỡi chính con này,
    Trí ông hết rối vì nghi hoặc,
    Mở túi, rồi ông thấy rắn ngay!

Vị Bà-la-môn làm theo lời Bồ-tát bảo, mặc dù lão hết sức kinh hoàng chấn động. Con rắn bò ra khỏi túi khi đầu nó bị chiếc gậy đánh trúng, và nó dừng lại nhìn mọi người.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ năm giải thích vấn đề:

  1. Kinh hãi, lão ra giữa đám đông,
    Mở dây chiếc túi đựng đồ ăn,
    Một con rắn hổ bò hung dữ,
    Kiêu hãnh giương cao cả chiếc mồng!

Khi con rắn bò ra với chiếc mồng giương cao, đó là điềm báo hiệu Bồ-tát sẽ là vị Phật Chánh Ðẳng Giác. Ðám đông bắt đầu vẫy khăn và búng tay hàng ngàn người, bảy báu vật được ném tung ra như thể mưa rào, hàng ngàn tiếng hô: “Tốt lành thay!” vang dậy, ồn ào như đất lỡ.

Lời giải đáp một câu hỏi như vậy do uy lực của một bậc Giác Ngộ chứ không phải nhờ nguồn gốc sinh trưởng, cũng không phải uy lực của người giàu sang danh vọng. Vậy đó là uy lực gì?- Chính là uy lực của tri kiến. Người có tri kiến làm trí tuệ tăng trưởng, mở rộng cánh cửa đi vào các Thánh đạo, chứng đắc Niết-bàn bất tử tối thượng và thành tựu viên mãn các quả vị Thanh văn,Ðộc giác và Chánh Ðẳng Giác: Tri kiến là điều tối thắng giữa các đức tính đưa đến Niết-bàn bất tử tối thượng. Mọi thành phần khác đều là phụ thuộc.

Do vậy có câu tục ngữ:

  1. Người thiện bảo tri kiến tối ưu
    Như trăng đi giữa các vì sao,
    Tiền tài, đức hạnh, lòng công chánh,
    Là các nô tỳ bậc trí cao.

*

Khi câu hỏi đã được Bồ-tát giải đáp xong, một người nhử rắn làm một chiếc khăn bịt miệng rắn rồi đến chụp lấy nó và đem thả vào rừng.

Vị Bà-la-môn đi đến yết kiến vua, kính chào xong, lại ngâm nửa vần kệ tán tụng vua:

  1. Chúa thượng Jan-ka, lợi lạc thay,
    Ðại vương có bậc trí nhân này.

Sau khi ca tụng vua, lão cầm bảy trăm đồng tiền trong túi ra, vừa tán thán Bồ-tát, vừa ngâm một vần kệ rưởi bày tỏ ước muốn bố thí trong niềm hoan hỷ:

Trí ngài đáng sợ, hồ nghi biến,
Trước mắt ngài nhìn thấu suốt ngay.

  1. Này đây có cả bảy trăm đồng,
    Xin nhận lấy ngay vật hiến dâng,
    Vì chính nhờ ngài, tôi được sống
    Cùng nguồn an lạc của thân nhân.

Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Bậc trí không dùng vật cúng dâng
    Chỉ vì các khúc kệ ca ngâm,
    Tốt hơn, ta tặng luôn tiền ấy
    Trước lúc lão về lại cố hương.

Nói vậy xong, Bồ-tát đưa trọn số tiền trả lại vị Bà-la-môn và hỏi:

– Ai bảo lão đi kiếm số tiền này?

– Thưa Trí giả, chính tiện nội.

– Thế hiền nội già hay trẻ?

– Thưa Trí giả, tiện nội còn trẻ.

– Thế thì cô ả đang phạm tà hạnh với kẻ khác, nên đã bảo lão đi xa vì nghĩ cần phải hành động như thế cho an toàn. Nếu lão đem số tiền này về nhà, cô ả sẽ đem cho tình nhân số tiền do lão khổ công kiếm được. Vậy lão không nên về nhà ngay, mà phải để số tiền ngoài thành phố, dưới gốc cây đâu đó.

Nói xong ngài bảo lão ra đi.

Khi lão đến gần làng, lão chôn tiền vào một gốc cây, và về đến nhà lúc chiều tối. Lúc ấy vợ lão đang ngồi với tình nhân. Vị Bà-la-môn đứng ở cửa gọi to:

– Nàng ôi!.

Cô ả nhận ra tiếng lão, vội tắt đèn và ra mở cửa. Khi lão đã vào trong, cô ả dẫn kẻ kia ra cửa, rồi trở vào nhà, chẳng thấy món gì trong túi, liền hỏi:

– Này chàng Bà-la-môn, chàng kiếm được của bố thí gì trên đường đi thế?

– Một ngàn đồng tiền.

– Thế tiền đâu rồi?

– Nó được chôn ở chốn nọ, nhưng đừng lo, ngày mai ta sẽ đi lấy nó.

Cô ả liền đi báo cho tình nhân biết. Hắn đến đó lấy tiền ngay như thể tài sản của hắn vậy. Hôm sau, vị Bà-la-môn đến nhưng không thấy tiền đâu, liền đi tìm Bồ-tát, ngài hỏi:

– Này lão Bà-la-môn, có việc gì thế?

– Thưa Trí giả, tôi không thấy tiền đâu cả.

– Thế lão có nói cho vợ biết chăng?

– Thưa Trí giả, có.

Biết là cô vợ đã báo cho tình nhân rõ, Bồ-tát bảo:

– Này lão Bà-la-môn, thế có vị Bà-la-môn nào là bạn của vợ lão không?

– Thưa Trí giả, có.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ truyền người đem đến một số tiền đủ chi phí trong bảy ngày để cho lão và dặn:

– Hãy ra về, và hai vợ chồng lão hãy đãi tiệc mời mười bốn vị Bà-la-môn đầu tiên, gồm bảy người bạn lão và bảy người bạn của vợ lão. Rồi từ đó về sau cứ mỗi ngày bớt một vị khách cho đến ngày thứ bảy, lão chỉ mời một Bà-la-môn và vợ lão mời một. Khi ấy nếu lão thấy vị Bà-la-môn được vợ lão mời vào ngày thứ bảy ấy đã đến các lần trước, thì hãy báo cho ta.

Lão Bà-la-môn làm theo lời ngài, rồi đến trình Bồ-tát:

– Thưa Trí giả, tôi đã nhận thấy vị Bà-la-môn luôn luôn đến làm thực khách của nhà tôi.

Bồ-tát sai người đi theo lão, đem vị Bà-la-môn ấy đến và hỏi:

– Có phải anh lấy một ngàn đồng tiền của lão này dấu ở dưới gốc cây nọ chăng?

– Thưa Trí giả, tôi không lấy.

– Thế anh biết ta là Trí giả Senaka ư? Ta muốn bảo anh đem số tiền ấy về đây.

Hắn sợ hãi thú nhận:

– Tôi đã lấy số tiền ấy.

– Thế anh đã làm gì?

– Thưa Trí giả, tôi cất ở chỗ nọ.

Bồ-tát lại hỏi vị Bà-la-môn già kia:

– Này lão Bà-la-môn, lão muốn giữ vợ lại hay lấy vợ khác?

– Thưa Trí giả, cho lão được phép giữ vợ lại.

Bồ-tát sai người đi lấy số tiền và đem cô vợ lão đến, trao số tiền từ tay kẻ trộm ấy lại cho lão Bà-la-môn, rồi ngài trừng phạt kẻ trộm, đuổi hắn ra khỏi tỉnh và trừng phạt luôn cô vợ. Về sau ngài ban lão Bà-la-môn đại vinh dự bằng cách cho phép lão sống ở gần ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo đạt Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vị Bà-la-môn là Ànanda, vị Thần cây là Sàriputta, hội chúng là Tăng chúng của đức Phật và Trí giả Senaka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền thân Atthisena)

At-thi, lắm kẻ đến mong cầu…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại đền Aggàlava gần Àlavi, về các điều lệ xây tịnh thất.

Hoàn cảnh đã được nêu trong tiền thân Manikantha số 253. Bậc Ðạo Sư bảo Tăng chúng:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa trước khi đức Phật ra đời, các ẩn sĩ ngoại đạo dù được vua ban đặc ân, cũng không bao giờ cầu xin điều gì cả, vì thấy rằng cầu xin kẻ khác không đem lại an lạc thư thái.

Nói vậy xong Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn và được đặt tên là Nam tử Atthisena. Khi lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Takkasilà, và về sau, nhận thấy nỗi đau khổ của tham dục, ngài xuất gia tu tập và thành đạt các Thắng trí cùng các Thiền chứng, ngài sống ở vùng Tuyết Sơn. Sau đó xuống vùng dân cư tìm muối và dấm, ngài đến Ba-la-nại. Sau khi ở trong một lâm viên, hôm sau ngài đi khất thực tại cung đình.

Vua hài lòng trước phong cách oai nghi của ngài, liền cho người mời ngài vào, đặt ngài ngồi lên sàng tọa trên sân thượng và cúng dường thực phẩm. Khi ngài nói lời tùy hỷ công đức, vua rất hân hoan, và nhận được lời ngài hứa hẹn cư ngụ trong ngự viên, vua đến tham kiến Bồ-tát mỗi ngày hai ba lần. Một hôm vua hoan hỷ nghe ngài thuyết Pháp xong, liền ban cho ngài một điều ước:

– Xin ngài hãy nói cho trẫm biết bất cứ điều gì ngài ước nguyện, từ quốc độ của trẫm trở xuống.

Bồ-tát không đáp: “Hãy cho ta vật này vật nọ”, nhiều kẻ khác đòi hỏi những vật nào họ mong ước, thường bảo: “Cho tôi vật này”, và vua ban vật đó, nếu không ham thích nó nữa.

Một hôm vua suy nghĩ: “Nhiều người mong cầu đặc ân hoặc các khất sĩ thường xin ta vật này vật nọ, nhưng Hiền giả Atthisena cao quý này, từ khi ta ban điều ước, vẫn không xin gì cả. Ngài thật là bậc có trí tuệ và thiện xảo các phương tiện. Ta muốn hỏi ngài”.

Thế rồi, một hôm sau buổi điểm tâm, nhà vua ngồi một bên, hỏi ngài lý do vì sao nhiều người khác cầu xin ân huệ còn ngài thì không, và vua ngâm vần kệ đầu:

  1. At-thi, lắm kẻ đến mong cầu,
    Cho dẫu họ xa lạ biết bao,
    Lũ lượt xin ta ban thỉnh nguyện,
    Còn ngài, không ước vọng, vì sao?

Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hai kẻ cầu ân, hoặc chối từ,
    Thảy đều không đẹp ý bao giờ,
    Ðấy là duyên cớ, xin đừng giận,
    Khiến tiểu thần không thỉnh nguyện vua.

Nghe lời ngài, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:

  1. Người nào kiếm sống khẩn cầu hoài,
    Chẳng đến cầu ân lúc hợp thời,
    Làm kẻ khác suy tàn đức độ,
    Chính mình chẳng có kế sinh nhai.
  2. Người nào kiếm sống, khẩn cầu hoài,
    Thường đến cầu ân lúc hợp thời,
    Làm kẻ khác tăng dần đức độ,
    Chính mình cũng được kế sinh nhai.
  3. Bậc có trí không thấy hận sân,
    Khi người lũ lượt đến cầu ân,
    Nói đi, Thánh giả là thân hữu,
    Ðiều ước ngài không thể lỗi lầm.

Như vậy, dù được ban tặng cả vương quốc, Bồ-tát cũng không cầu mong gì. Khi nguyện vọng của nhà vua đã được phát biểu như vậy, Bồ-tát liền bày tỏ đường lối của ẩn sĩ:

– Thưa Ðại vương, người thế tục và gia chủ thường thích thỉnh nguyện, chứ không phải người xuất thế, vì từ khi phát nguyện xuất gia, ẩn sĩ phải sống đời thanh tịnh khác với gia chủ. Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu bày tỏ nếp sống ẩn sĩ:

  1. Bậc trí không hề thỉnh nguyện đâu,
    Thế nhân phải biết rõ như sau:
    Trí nhân thỉnh nguyện ngồi im lặng,
    Như thế là người trí thỉnh cầu.

Vua nghe lời Bồ-tát liền nói:

– Bạch Tôn giả, nếu một người phục vụ có trí tự nguyện cống hiến thân hữu mình những gì cần được cống hiến, thì trẫm xin tặng Tôn giả những vật như vầy:

  1. Ngàn bò trẫm tặng Bà-la-môn,
    Bó đỏ, thêm người hướng dẫn đường,
    Nghe các nghiệp ngài đầy thánh thiện,
    Trẫm nay phát khởi nghiệp hiền lương.

Khi vua nói vậy, Bồ-tát từ chối, bảo:

– Thưa Ðại vương, ta đã sống đời tu tập xa lìa cấu uế, ta không cần đàn bò.

Vua tuân thủ lời khuyến giáo của ngài, chuyên tâm bố thí và làm nhiều thiện sự khác nên được sinh lên thiên giới.

Còn Bồ-tát không hề gián đoạn Thiền định, nên tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ánanda và Atthisena chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hầu Vương (Tiền thân Kapi)

Người trí không nên ở chốn nào…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bị quả đất nuốt sống.

Thấy Tăng chúng đang bàn luận việc này tại Chánh pháp đường. Ngài bảo:

– Ðây không phải lần đầu Devadatta và hội chúng của kẻ ấy bị tiêu diệt, mà xưa kia cũng vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai vào loài khỉ sống trong ngự viên cùng cả đàn tùy tùng năm trăm con khỉ. Devadatta cũng được sinh làm khỉ, cùng sống tại đó với một bầy năm trăm khỉ khác.

Một hôm vị tế sư của nhà vua đi ra vườn tắm rửa, trang hoàng thân thể xong, một con khỉ tinh nghịch leo lên ngồi trên cổng vòng cung của ngự viên, thả cục phân rơi trên đầu vị ấy lúc ông đi qua cổng. Khi tế sư nhìn lên, nó lại thả thêm một cục phân vào miệng ông. Vị tế sư quay lại, hăm dọa bầy khỉ:

– Ðược lắm, ta sẽ biết cách trừng trị bây.

Rồi ông lại tắm rửa và ra về.

Bầy khỉ trình lại với Bồ-tát rằng vị tế sư giận và hăm dọa chúng như vậy.

Ngài thông báo cho cả bầy ngàn con khỉ:

– Ở gần nơi cư trú của kẻ sân hận là không an toàn, vậy cả đàn khỉ nên chạy trốn đi nơi khác.

Một con khỉ không vâng lệnh, giữ bầy khỉ của nó lại, không chạy trốn và bảo:

– Ta sẽ xét lại việc ấy sau.

Bồ-tát đem bầy khỉ đi vào rừng.

Một hôm, có một nữ tỳ giã gạo và phơi nắng một ít gạo, một con dê đến ăn gạo đã bị một câyđuốc đập vào mình, nó chạy trốn, mình cháy đỏ rực, vội chà mình vào vách lều cỏ gần chuồng voi. Ngọn lửa bắt vào lều cỏ lan qua chuồng voi, làm các lưng voi bị phỏng, các thú y được mời đến chăm sóc bầy voi.

Vị tế sư hoàng gia vẫn luôn tìm cơ hội bắt bầy khỉ. Lúc vị tế sư đang ngồi chầu nhà vua, nhà vua bảo:

– Này tế sư, nhiều con voi của ta bị thương và các thú y chuyên về voi lại không biết cách chữa trị, vậy khanh có biết chữa không?

– Tâu Ðại vương, thần biết.

– Cách gì thế?

– Tâu Ðại vương, mỡ khỉ.

– Làm sao có được thứ ấy?

– Có rất nhiều khỉ trong ngự viên.

Vua phán:

– Giết bầy khỉ để lấy mỡ.

Các xạ thủ đem cung tên đi giết cả năm trăm con khỉ. Một con khỉ già trốn thoát được dù nó bị thương do mũi tên, và chưa ngã ngay tại chỗ, nó chỉ ngã xuống khi đến nơi ở của Bồ-tát. Bầy khỉ bảo nhau:

– Nó đã chết khi vừa đến chỗ ở của ta.

Và chúng kể lại với Bồ-tát rằng con khỉ kia chết do vết thương ấy. Ngài bước ra ngồi giữa bầy khỉ, ngâm các vần kệ này để khuyến giáo chúng với lời khuyên của bậc trí, đó là: “Người nào ở gần kẻ thù đều phải chết như vậy”.

  1. Người trí không nên ở chốn nào
    Cừu nhân cư trú, dẫu dài lâu,
    Hay chỉ một, hai đêm cũng vậy,
    Ðến gần sẽ gặp nỗi sầu đau.
  2. Kẻ ngu là địch thủ cho ai
    Vẫn trót tin lời nó nói sai:
    Con khỉ ngu si đem đại họa
    Cho bầy của nó thế mà thôi.
  3. Một kẻ ngu si đứng trưởng đoàn,
    Vì kiêu căng muốn tỏ khôn ngoan,
    Sẽ không khác khỉ này gây họa,
    Mãi mãi đưa đường đến bại vong.
  4. Kẻ mạnh ngu si chẳng tốt lành,
    Lãnh phần bảo vệ cả đàn mình,
    Nó là tai họa cho đồng loại,
    Chẳng khác chim mồi đáng hãi kinh.
  5. Trưởng đoàn hùng dũng trí khôn ngoan
    Làm tốt để canh giữ cả đoàn,
    Chẳng khác Ind-ra bên Hội chúng,
    Là phần thưởng của các thân bằng.
  6. Người nào đủ giới hạnh hoàn toàn,
    Trí tuệ tinh thông, học tập luôn,
    Hành động người này đem phước lạc
    Cho mình cùng với các tha nhân.
  7. Vậy thì giới hạnh lẫn đa văn,
    Tri kiến học hành, luyện bản thân,
    Như thể vị hiền nhân độc trú,
    Hoặc lo bảo vệ đám thân bằng.

Như vậy Bồ-tát trở thành Hầu vương, và giảng giải đường lối học tập Giới luật.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy con khỉ không tuân lệnh là Devadatta, bầy khỉ của nó là Hội chúng của Devadatta, và Hầu vương có trí là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền thân Bakabrahma)

Chúng tôi tất cả bảy mươi hai…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này khi trú tại Kỳ Viên về Phạm thiên Baka.

Một tà kiến sinh khởi trong tâm vị Phạm thiên này, đó là: “Cõi sinh hữu này là trường tồn, thường hằng, vĩnh cửu, bất biến; ngoài nơi này ra không có sự cứu độ hay giải thoát gì nữa…”.

Trong một đời trước, vị Phạm thiên này đã thực hành Thiền định, vì thế được tái sinh vào cõi trời Quảng Quả (Vehapphala). Sau khi đã trải qua đời sống ở đó trong năm trăm kiếp (Kappa), vị ấy tái sinh vào cõi trời Biến Tịnh (Subhakinna). Sau khi đã trải qua sáu mươi bốn kiếp tại đó, vị ấy mạng chung và tái sinh vào cõi trời Quang Âm (Àbhassara), nơi đời sống kéo dài trong tám kiếp. Và chính tại đó, tà kiến này khởi lên trong tâm vị ấy.

Vị Phạm thiên này quên rằng mình đã từng sống ở các cõi Phạm thiên giới cao hơn và đã tái sinh vào cảnh giới này. Do nhận thức các điều trên, vị ấy chấp thủ tà kiến. Bậc Ðạo Sư thấu hiểu các tư tưởng của vị ấy và thật dễ dàng như một lực sĩ duỗi cánh tay cho thẳng ra hay cong cánh tay trở lại, Ngài biến mất ở Kỳ Viên và xuất hiện ở Phạm thiên giới ấy. Vị Phạm thiên thấy ngài liền thưa:

– Thiện lai Thế Tôn, xin Thế Tôn đến đây. Bạch Thế Tôn, thế giới này là trường tồn, thường hằng, vĩnh cửu, tuyệt đối, bất biến; thế giới này không sinh, không già, không chết, không biến hoại, không tái sinh. Ngoài thế giới này, không có sự cứu độ nào cao hơn nữa.

Khi lời này được vị Phạm thiên Baka nói ra, Thế Tôn bảo:

– Phạm thiên Baka đã si mê, đã lầm lạc khi nói rằng một vật không thường hằng là thường hằng, một vật không vĩnh cửu là vĩnh cửu, cùng những điều tương tự, như ngoài thế giới này không có sự cứu độ nào cao hơn nữa trong khi vẫn có sự cứu độ khác.

Nghe lời này, vị Phạm thiên suy nghĩ: “Thế Tôn đang khuyến giáo ta khi nhận ra chính xác những lời ta nói”.

Rồi như một kẻ trộm rụt rè sau khi bị đấm vài cái, vị ấy đáp:

– Ðệ tử đâu phải là tên trộm duy nhất? Còn nhiều vị này vị nọ cũng đều là các tên trộm khác nữa.

Rồi vị ấy nêu tên các vị Thiên cùng một hội chúng; như vậy vị Phạm thiên lo sợ đức Phật chất vấn, nên đã ngâm vần kệ đầu tiên nói lên các vị Thiên cùng hội chúng của mình:

  1. Chúng tôi tất cả bảy mươi hai,
    Chân chánh và cao cả tuyệt vời,
    Sanh, lão chúng tôi đà giải thoát,
    Cõi này là trí tuệ nhà trời,
    Không Thiên giới khác cao hơn nữa,
    Nhiều kẻ tán đồng quan điểm tôi.

Nghe lời này, Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ðời ngài ngắn ngủi ở thiên đàng,
    Tưởng đời trường thọ quả sai lầm,
    Một trăm ngàn kiếp trôi qua mất,
    Ta biết đời ngài quá rõ ràng.

Nghe vầy, Baka ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Thế Tôn, trí tuệ tử vô cùng,
    Sanh, lão, sầu nằm ở dưới chân:
    Xưa đã tạo nên bao thiện nghiệp,
    Thế Tôn cho đệ tử hay chăng?

Sau đó đức Thế Tôn ngâm bốn vần kệ kể cho vị ấy nghe những chuyện quá khứ:

  1. Xưa lấy nước ban phát những người
    Lúc đang cơn khát sắp tàn hơi,
    Dưới trời hạn hán như thiêu đốt,
    Thiện nghiệp ngài qua đã mấy đời,
    Ta biết là ta đều nhớ rõ,
    Như vừa tỉnh giấc mộng mà thôi.
  2. Sông E-ni, thuở nọ bên bờ,
    Ngài thả nhiều người được tự do,
    Trong lúc bị giam cầm chặt chẽ,
    Việc lành ngài tạo dẫu xa xưa,
    Song ta biết rõ ta còn nhớ
    Như thể mới vừa tỉnh giấc mơ.
  3. Ngày xưa trên bến nước sông Hằng,
    Ngài cứu thuyền người nọ thoát thân,
    Khi bị ác xà kia chụp lấy
    Vì thèm thịt sống, khỏi tai ương,
    Việc lành ngài tạo dầu xa lắc,
    Ta nhớ rõ như tỉnh giấc nồng.
  4. Ta chính Kap-pa, đệ tử ngài,
    Trí đức ngài, ta biết rõ mười,
    Thiện nghiệp ngài làm, ta nhớ kỹ.
    Như là mới tỉnh giấc mơ thôi.

Khi nghe các nghiệp quá khứ của mình do Bậc Ðạo Sư thuyết giảng, Baka cảm tạ và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thế Tôn biết mọi kiếp xưa xa,
    Tuệ giác toàn tri quả Phật-đà,
    Uy lực hào quang vinh hiển thực,
    Sáng ngời khắp cõi Phạm thiên ta.

*

Như vậy Bậc Ðạo Sư vừa tỏ bày uy lực của một đức Phật, vừa thuyết Pháp khai thị các Sự thật. Lúc kết thúc Pháp thoại, tâm của mười ngàn vị Phạm thiên được giải thoát khỏi các ô nhiễm cấu uế. Do đó, đức Thế Tôn trở thành nơi an trú của các vị Phạm thiên, rồi trở về Kỳ Viên từ cõi Phạm thiên, Ngài thuyết Pháp như trên và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Phạm thiên Baka là nhà khổ hạnh Kesava và đệ tử Kappa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền thân Gandhàra)

Làng phố, vũ công mười sáu ngàn…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên hệ giới điều về việc “tích trữ dược liệu”. Tuy nhiên, hoàn cảnh chuyện này đã xảy ra ở Vương Xá.

Khi Tỷ-kheo Pilindiyavaccha đến cung vua để giải thoát gia đình người giữ ngự viên, ông dùng thần thông lực biến cung vua thành tòa nhà bằng vàng, quần chúng hoan hỷ đến tặng ông năm thứ dược liệu. Ông đem phân phát khắp Tăng chúng. Do đó Tăng chúng có nhiều dược liệu và khi nhận được các dược liệu, họ chứa đầy các chai, hủ, bình, túi… và cất để dành. Dân chúng thấy vậy thì thầm bảo nhau: “Các Tỷ-kheo tham lam kia đang tích trữ đồ đạc trong tinh xá”.

Bậc Ðạo Sư nghe vậy liền công bố giới điều:

– Bất cứ dược liệu trị bệnh nào khi nhận được, phải được dùng trong vòng bảy ngày.

Và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi đức Phật ra đời, dẫu xuất gia theo ngoại đạo và chỉ giữ Ngũ giới, cũng đã khiển trách những ai tích trữ muối và đường cho ngày hôm sau; còn các ông ngày nay dẫu đã được xuất gia theo Giáo pháp giải thoát, lại tích trữ đồ đạc đến hai ba ngày ư?

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa Bồ-tát là vương tử của xứ Gandhàra. Khi vua cha băng hà, ngài lên ngôi vua trị nước chân chánh. Ðồng thời ở vùng Trung thổ, tại vương quốc Videha, có vị vua mệnh danh Videha cai trị. Hai quốc vương này chưa hề gặp nhau, nhưng lại là thân hữu và tin cậy lẫn nhau.

Thời ấy, loài người trường thọ: đời sống dài ba mươi ngàn năm. Một hôm, vào ngày trai giới trăng tròn, vua Gandhàra đã phát nguyện giữ giới và ngự trên bảo tọa giữa ngai vàng dành cho ngài, nhìn ra một cửa sổ rộng mở ở góc hướng Ðông, ngài ngồi thuyết giảng cho quần thần về bản chất giáo lý. Lúc ấy, thần Ràhu (La-hầu: Vua các Thần A-tu-la) đã che hết mặt trăng tròn đầy đang tỏa sáng cả bầu trời. Ánh trăng biến mất. Triều thần không thấy ánh trăng, liền tâu vua rằng thần Ràhu đã chụp lấy mặt trăng.

Vua quan sát mặt trăng, nghĩ thầm “Mặt trăng đã mất ánh sáng vì bị một biến động bên ngoài làm hỏng. Nay triều thần chính là mối phiền lụy của ta. Ta không nên để mất ánh sáng như mặt trăng bị thần Ràhu chụp lấy. Ta muốn rời quốc độ như mặt trăng chiếu trên bầu trời trong sáng và trở thành ẩn sĩ. Tại sao ta lại giáo giới người khác? Ta muốn ra đi, từ giã thân quyến, thần dân và giáo giới bản thân ta mà thôi: điều ấy mới thích hợp với ta”. Vì vậy ngài phán:

– Các khanh cứ làm gì tùy ý.

Rồi ngài trao quốc độ cho triều thần. Khi ngài đã từ bỏ vương quốc ở hai xứ Kashmir và Gandhàra, ngài sống đời tu hành. Khi chứng đắc các Thắng trí, ngài an cư mùa mưa ở vùng Tuyết Sơn, chuyên tâm vào sự an lạc của Thiền định.

Khi hỏi thăm các thương nhân, vua Videha bảo:

– Hiền hữu của ta có được khang an chăng?

Và được tin ngài đã ra đi đời sống tu hành, vua suy nghĩ: “Hiền hữu ta đã xuất gia tu tập, ta còn phải làm gì với quốc độ này?”

Vì thế ngài thoái vị ở kinh thành Mithilà dài bảy dặm, và vương quốc Videha rộng ba trăm dặm gồm mười sáu ngàn làng với các cửa hiệu đầy hàng hóa, mười sáu ngàn nữ vũ công, rồi cũng không nghĩ đến các hoàng tử và công chúa, vua lên vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành. Tại đó ngài chỉ sống bằng quả rừng trong đời độc cư thanh tịnh. Cả hai vị vua an tịnh độc cư như vậy, sau đó gặp nhau; tuy thế hai vị vẫn sống cùng nhau trong cảnh đời an tịnh với tình thân hữu.

Ẩn sĩ xứ Videha phục vụ ẩn sĩ xứ Gandhàra. Vào một đêm đầy trăng, trong lúc hai vị ngồi dưới gốc cây đàm luận đạo lý, thần Ràhu che khuất mặt trăng đang sáng tỏa khắp bầu trời.

Ẩn sĩ xứ Videha nhìn lên, hỏi:

– Tại sao ánh trăng bị mất?

Và khi thấy trăng bị thần Ràhu chụp, vị ấy hỏi:

– Bạch Tôn sư, tại sao nó che khuất mặt trăng làm cho tối tăm vậy?

– Này đồ đệ, đó là do duyên quấy nhiễu mặt trăng tên gọi là Ràhu, nó ngăn cản mặt trăng chiếu sáng. Chính ta khi thấy mặt trăng bị thần Ràhu che khuất, đã suy nghĩ: “Mặt trăng sáng trở nên tối vì bị quấy nhiễu từ bên ngoài. Nay quốc độ là mối phiến nhiễu đối với ta, ta muốn theo đời tu hành để quốc độ không làm ta đen tối như thần Ràhu làm tối mặt trăng kia. Như vậy, lấy chuyện mặt trăng bị thần Ràhu che khuất làm chủ đề của ta, ta từ giã vương quốc và sống đời tu hành”.

– Bạch Tôn sư, thế ngài là cựu vương nước Gandhàra ư?

– Chính phải.

– Bạch Tôn sư chính đệ tử là cựu vương Videha, trong quốc độ Videha và kinh thành Mithila, dù chúng ta chưa từng thấy nhau, chúng ta chẳng phải đã làm bạn với nhau đó sao?

– Thế chủ đề của Hiền hữu là gì?

– Ðệ tử nghe Tôn sư đã xuất gia tu tập nên suy nghĩ: “Chắc chắn ngài đã tìm thấy lợi ích của nếp sống ấy, đệ tử xem ngài là chủ đề của mình, nên từ giã quốc độ và xuất gia”.

Từ đấy trở đi, hai vị trở nên hết sức thân thiết, quý mến nhau và chỉ sống bằng quả rừng. Sau một thời gian an trú tại đó, hai vị từ Tuyết Sơn đi xuống tìm muối và dấm, dần dần đến một làng ở biên địa.

Dân chúng hoan hỷ vì phong cách hai vị, đã cúng dường và khi nhận được lời hứa, họ dựng thảo am để hai vị trú ban đêm và ở cả trong rừng nữa, rồi mời hai vị ở lại đó; bên vệ đường họ còn dựng một phòng ăn ở một nơi đẹp có nước chảy.

Sau khi đi khất thực từ làng biên địa, hai vị ngồi dùng món ăn trong thảo am kia rồi trở về chỗ cư trú của mình. Dân chúng cúng dường thực phẩm có hôm để muối lên một lá rồi đem đến cho hai vị, hôm khác lại đem thức ăn không có muối.

Một hôm họ cúng dường hai vị rất nhiều muối trong một cái rỗ bằng lá. Ẩn sĩ xứ Videha lấy muối đem vừa đủ phần Bồ-tát lúc dùng thức ăn, và cũng lấy phần vừa đủ cho mình, sau đó cất phần còn lại trong rổ lá đặt vào một cuộn cỏ, tự nhủ: “Cái này sẽ có ích cho ngày không có muối”.

Rồi một hôm nhận được thức ăn không có muối, ẩn sĩ xứ Videha đem món khất thực đến ẩn sĩ Gandhàra, lấy muối trong cuộn cỏ ấy ra và bảo:

– Bạch Tôn sư, hãy lấy muối.

– Dân chúng hôm nay không cho ta muối, vậy đồ đệ lấy đâu ra muối?

– Bạch Tôn sư, hôm kia dân chúng cho nhiều muối, nên đệ tử cất phần dư và bảo: “Cái này sẽ có ích cho ngày không muối”.

Bồ-tát liền quở trách vị này, bảo:

– Này kẻ ngu si kia, ông đã từ bỏ vương quốc Videha rộng ba trăm dặm, đã xuất gia tu hành và chứng đạt tâm ly dục, nay ông lại khởi lòng ham thích muối và đường!

Khuyến giáo như vậy xong, ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Phố xá, thôn trang mười sáu ngàn,
    Ông từ bỏ hết mọi giàu sang,
    Kho tàng của cải nhiều vô tận,
    Nay tích trữ gì đấy phải chăng?

Ẩn sĩ Videha bị khiển trách như vậy, không kham nhẫn lời khiển trách mà trở nên lạnh lùng bảo:

– Bạch Tôn sư, ngài không thấy lỗi của ngài, mặc dù ngài thấy lỗi của tôi. Ngài đã chẳng rời bỏ vương quốc và xuất gia, tự bảo: “Tại sao ta phải khuyến giáo kẻ khác? Ta muốn khuyến giáo bản thân ta mà thôi” ư? Thế sao nay ngài lại đang khuyến giáo tôi đấy?

Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ngài bỏ Gan-dha, mọi phố phường,
    Biết bao châu báu ở kho tàng,
    Không còn ban lệnh cho ai nữa,
    Nay lại truyền tôi lệnh ấy chăng?

Nghe vậy Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chính vì chân chánh, ta khuyên răn,
    Vì ghét những gì chẳng chánh chân,
    Khi nói cho ông điều chánh hạnh,
    Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.

Ẩn sĩ xứ Videha nghe Bồ-tát nói, đáp lại:

– Bạch Tôn sư, thuyết giảng cho người khác sau khi đã làm kẻ ấy đau buồn giận dỗi là điều không thích hợp, dầu có thuyết giảng đúng vấn đề đi nữa. Tôn sư đang nặng lời gay gắt với tôi như thể cạo đầu tôi với con dao cùn!

Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Bất cứ lời nào, nếu nói ra,
    Sẽ gây thương tổn đến người ta,
    Trí nhân không nói ra lời ấy,
    Cho dẫu tạo nên quá lớn mà!

Bồ-tát liền đáp vần kệ thứ năm:

  1. Người nghe ta rắc trấu hay không,
    Hay dẫu người kia bị tổn thương,
    Khi nói ra điều gì chánh hạnh,
    Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.

Nói vậy xong, ngài tiếp tục bảo:

– Này Ànanda, ta không cư xử với ông như người thợ gốm cư xử với đám nồi đất chưa nung đâu. Ta sẽ còn khiển trách nhiều lần nữa, vì “Cái gì là cốt lõi, cái ấy sẽ tồn tại”.

Do vậy, ngài cương quyết giữ cách xử sự phù hợp với lời giáo huấn của đức Thế Tôn. Ví như người thợ gốm giữa đám đồ gốm, sau một thời gian thường xuyên đập gõ lên chúng, chỉ chọn cái nồi đã nung kỹ, chứ không chọn cái nồi đất chưa nung, ngài cũng chọn người tốt như chiếc nồi được nung kỹ kia bằng cách khuyến giáo và khiển trách nhiều lần như thế. Rồi muốn thuyết giảng để nêu rõ cho vị ấy hiểu điều này, ngài ngâm vần kệ:

  1. Nếu trí đức không được luyện rèn
    Trong đời sống để mãi tăng thêm,
    Nhiều người phiêu bạt chân buông thả,
    Như thể trâu mù cứ bước lên.
  2. Song các trí nhân khéo luyện rèn
    Ðể cho thiện hạnh mãi tăng thêm,
    Chính nhờ đạo hạnh này thuần thục
    Nên các tha nhân bước tiếp liền.

Nghe lời này, ẩn sĩ xứ Videha nói:

– Bạch Tôn sư, từ nay về sau xin cứ giáo huấn đệ tử . Ðệ tử trót lỡ nói lời bất nhã với ngài, xin tha thứ cho đệ tử.

Rồi cúi đầu đảnh lễ cung kính, vị ấy được Bồ-tát thứ lỗi.

Như vậy hai vị đã sống hòa hợp với nhau và trở về Tuyết Sơn. Sau đó Bồ-tát dạy ẩn sĩ xứ Videha cách chứng đắc Thiền định. Vị ấy tuân thủ và thành tựu các Thắng trí cùng các Thiền chứng. Hai vị không bao giờ gián đoạn Thiền định nên về sau tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy ẩn sĩ xứ Videha là Ànanda và quốc vương Gandhàra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền thân Mahàkapi)

Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về các thiện nghiệp đối với thân quyến. Hoàn cảnh chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Bhaddasàla, số 444.

Tăng chúng bắt đầu bàn luận trong Chánh pháp đường, bảo nhau:

– Ðức Phật Toàn Giác đã làm nhiều thiện sự đối với thân quyến.

Khi Bậc Ðạo Sư hỏi Tăng chúng và được trình bày đề tài trên, Ngài đáp:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai làm thiện nghiệp đối với thân quyến.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai loài khỉ. Khi lớn lên, ngài có vóc dáng oai nghi lực lưỡng và cường tráng, cùng sống với một đàn tám mươi ngàn con khỉ ở Tuyết Sơn.

Gần bờ sông Hằng có một cây xoài (nhiều người khác bảo là cây đa) với nhánh chồi tỏa bóng mát và lá rậm rạp như một đỉnh núi. Trái xoài ngọt có mùi hương và vị tuyệt diệu, to bằng các bình nước. Trái từ một cành rơi xuống đất, từ một nhánh khác rơi xuống sông Hồng, từ hai nhánh khác rơi vào gốc cây.

Trong lúc ăn xoài cùng với loài khỉ, Bồ-tát nghĩ thầm: “Một ngày kia tai họa sẽ xảy đến cho ta do trái xoài rơi xuống nước”.

Vì thế không để lại trái xoài nào trên cành cây mọc trên bờ sông, ngài bảo bọn chúng ăn hết hoặc ném bỏ hoa đúng mùa ngay từ khi nụ hoa mới nhú bằng hột đậu.

Tuy thế, một xoài chín nằm kín trong một tổ kiến, nên cả tám mươi ngàn con khỉ không trông thấy, rớt xuống dòng sông và mắc vào cái lưới ở phía trên vua Ba-la-nại lúc ấy đang tắm sông vui đùa với một tấm lưới ở trên và một tấm ở dưới.

Khi vua đã vui đùa suốt ngày và sắp ra về lúc chiều tối, bọn người đánh cá đang kéo lưới lên, trông thấy trái cây, nhưng không biết loại gì, liền đem dâng vua, vua hỏi:

– Trái gì thế?

– Tâu Ðại vương, chúng thần không biết.

– Thế ai biết?

– Tâu Ðại vương, các người kiểm lâm.

Vua truyền gọi bọn người kiểm lâm và khi nghe họ bảo đó là trái xoài, vua lấy dao cắt nó ra, rồi trước hết bảo bọn kiểm lâm ăn xoài, sau đó chính nhà vua cũng ăn xoài. Hương vị xoài chín thấm nhuần khắp toàn thân vua. Do lòng ham muốn hương vị câu thúc, vua hỏi bọn kiểm lâm cây ấy ở đâu, và khi nghe rằng cây ấy ở trên bờ sông về hướng Tuyết Sơn, vua truyền ráp các chiếc bè lại và chèo ngược lên thượng nguồn của sông theo lộ trình được đám kiểm lâm hướng dẫn. Số ngày đi đường chính xác là bao nhiêu không được nêu ra.

Theo thời gian, họ đến nơi ấy, và bọn kiểm lâm trình vua:

– Tâu Ðại vương đó là cây xoài.

Vua dừng bè lại và cùng đám quần thần đông đảo đi bộ đến nơi, rồi truyền trải sàng tọa ngay dưới gốc cây, vua nằm ngủ sau khi đã ăn xoài và hưởng đủ mọi thứ hương vị tuyệt hảo. Khắp mọi phía quân lính canh gác cẩn thận và nhóm lửa lên. Khi mọi người đã ngủ yên, Bồ-tát cùng bầy khỉ đến đó lúc nửa đêm.

Tám mươi ngàn con khỉ chuyền từ cành nọ sang cành kia ăn xoài. Vua tỉnh giấc thấy bầy khỉ, liền đánh thức quân hầu và gọi đám xạ thủ đến bảo:

– Hãy bao vây loài khỉ đang ăn xoài để chúng không thoát được, rồi bắn cả đi. Ngày mai ta muốn ăn xoài với thịt khỉ.

Ðám xạ thủ tuân lệnh, đồng đáp:

– Muôn tâu, được lắm.

Rồi họ bao vây cả cây với cung tên sẵn sàng.

Bầy khỉ thấy họ, sợ chết vì chúng không thể trốn được, liền nhảy đến Bồ-tát và thưa:

– Tâu Ðại vương, các xạ thủ đang vây quanh cây và bảo: “Ta sẽ bắn chết loài khỉ lang thang trộm cắp này”. Chúng con phải làm gì bây giờ?

Chúng vừa đứng vừa run rẩy.

Bồ-tát bảo:

– Ðừng sợ, ta sẽ cứu mạng các con.

Vừa an ủi bầy khỉ như vậy xong, ngài leo lên một cành mọc thẳng đứng, rồi đi qua một cành khác dài về phía sông Hằng, xong lại nhảy vọt về cuối cành ấy, vượt qua một trăm tầm cung và hạ xuống một bụi cây trên bờ.

Khi xuống đến nơi, ngài đánh dấu khoảng cách và nói: “Ðó là khoảng cách ta đã vượt qua”. Rồi cắt một đọt tre sát gốc, lột vỏ và nói:

– Phần này sẽ được buộc vào cây ấy, và phần kia sẽ ở trên không.

Khi tính hai chiều dài như vậy, ngài quên phần buộc vào thắt lưng mình. Ngài cầm đọt tre buộc một đầu vào thân cây trên bờ sông Hằng và phần kia vào thắt lưng, sau đó nhảy vọt qua khoảng cách một trăm tầm cung ấy với tốc độ của mây bay theo gió cuốn.

Do không tính phần tre buộc vào thân mình, ngài không tới tận cây ấy. Vì vậy ngài lấy hai tay nắm chặt cành cây và ra hiệu cho cả đàn khỉ:

– Cầu chúc các con may mắn, qua nhanh lên, bước trên lưng ta mà đi dọc theo cây tre.

Cả tám mươi ngàn con khỉ trốn thoát được theo cách ấy, sau khi cung kính đảnh lễ Bồ-tát, xin phép ngài ra đi.

Thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là một con khỉ trong đàn kia tự nhủ: “Ðây là cơ hội để ta thanh toán kẻ thù”.

Vì thế vừa trèo lên cây, nó nhảy vọt và ngã trên lưng Bồ-tát. Tim Bồ-tát như muốn vỡ nát, vô cùng đau đớn. Sau khi gây ra nỗi đau khổ thống thiết cho ngài như vậy, nó liền bỏ đi, chỉ còn Bồ-tát một mình.

Lúc ấy vua tỉnh giấc thấy rõ mọi việc bầy khỉ đã làm cùng Bồ-tát, vua lại nằm xuống suy nghĩ: “Con vật này không kể đến tính mạng mình, đã cứu thoát cho cả đàn bình an”.

Khi trời sáng, vua hoan hỷ về Bồ-tát, lại suy nghĩ: “Giết hại chúa khỉ này thật không phải đạo, ta muốn đem nó xuống và săn sóc nó”. Vì vậy vua quay bè xuống sông Hằng và dựng một cầu cao ở đó để Bồ-tát nhảy xuống nhẹ nhàng, truyền đem tấm y vàng phủ trên lưng ngài và tắm rửa ngài trên sông, cho ngài uống nước đường, lau thân thể ngài thật sạch và tẩm dầu thơm đã lọc kỹ cả ngàn lần, sau đó trải một tấm da đã được thoa dầu lên sàng tọa và đặt ngài nằm ở đó, còn vua ngồi ở một chỗ thấp hơn.

Và vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ
    Cho cả đàn trốn thoát được bình an,
    Này khỉ kia, ngài với chúng họ hàng,
    Hay bọn chúng là gì ngài đó vậy?

Nghe lời này, Bồ-tát ngâm các vần kệ khuyến giáo vua:

  1. Tâu Ðại vương, tôi trông nom bọn ấy,
    Là Hầu vương, tôi làm chủ cả đàn,
    Khi bọn kia đầy rẫy nỗi kinh hoàng
    Vì các vị, lòng lo buồn đau đớn.
  2. Tôi nhảy qua một trăm tầm cung lớn
    Ðược trải dài trên vị trí nằm ngang,
    Rồi khi tôi đã buộc khúc tre non
    Thật vững chắc ở quanh sườn tôi đó,
  3. Muốn đến cây như vầng mây bão tố
    Ðược cuồng phong thổi bạt cực kỳ nhanh,
    Song mất đà, tôi chỉ đến đầu cành,
    Cầm lấy nó, bàn tay tôi thật vững.
  4. Khi tôi nằm trên cây treo lơ lửng
    Buộc chặt vào cành với khúc tre non,
    Bầy khỉ kia đã bước cả lưng còm,
    Giờ đây chúng được an toàn thoát nạn.
  5. Tôi không sợ nỗi đau vì thiệt mạng,
    Dẫu giam cầm tôi cũng chẳng đau buồn.
    Khi bình an hạnh phúc với cả đàn,
    Xưa bọn chúng, tôi đã từng cai trị.
  6. Một ví dụ dành cho ngài, Ðại đế,
    Nếu ngài mong học Ðạo lý Chánh chân:
    Niềm an vui hạnh phúc của toàn dân,
    Cùng quân đội, và kinh thành, chiến mã,
    Ðối với ngài đều thiết thân tất cả,
    Nếu ngài mong trị nước thật an bình.

Bồ-tát giáo huấn vua như thế xong liền từ trần. Vua gọi các đại thần đến truyền lệnh cho Hầu vương được thọ hưởng tang lễ như một quốc vương. Rồi vua truyền bảo đám phi tần:

– Các nàng hãy đưa Hầu vương ra tận nghĩa địa với tư cách là đoàn tùy tùng của Hầu vương, mặc y đỏ, xõa tóc xuống và cầm đuốc trong tay.

Các đại thần làm dàn hỏa táng với một trăm xe củi.

Sau khi đã chuẩn bị tang lễ của Bồ-tát theo nghi thức vua chúa, họ đem xương sọ của ngài đến trình vua. Vua truyền xây một đền thờ ở tại địa điểm hỏa táng Bồ-tát, làm lễ đốt đuốc và dâng hương hoa cúng dường. Vua lại truyền khảm vàng vào xương sọ, nâng nó lên cao trên đầu ngọn giáo và đặt tại cổng thành rồi cúng dường hương hoa khi vua đến Ba-la-nại. Sau đó truyền lệnh cho cả kinh thành trang hoàng thật trang nghiêm, nhà vua làm lễ suy tôn-xá lợi suốt bảy ngày.

Khi đã nhận phần xá-lợi và dựng đền thờ trong thành, vua đến đó cúng dường hương hoa suốt đời. Ðược an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua chuyên tâm bố thí cùng làm nhiều thiện sự khác và cai trị chân chánh nên về sau tái sinh thiên giới.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vua là Ànanda, đàn khỉ là Hội chúng này và Hầu vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền thân Kumbhakàra)

Cây xoài ta thấy ở rừng xanh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách lỗi lầm. Hoàn cảnh câu chuyện xuất hiện trong tiền thân Pàniya, số 459.

Thời ấy tại Xá-vệ có năm trăm người bạn cùng xuất gia tụ tập, an trú tại Tinh xá trên con Ðường Lát Vàng (tức Kỳ Viên), lại khởi lên dục tưởng lúc nửa đêm. Bậc Ðạo Sư quan sát các đệ tử ba lần ban đêm và ba lần ban ngày, tức sáu lần suốt ngày đêm, như chim dẻ cùi ấp trứng, như bò yak gìn giữ cái đuôi, như bà mẹ chăm sóc đứa con yêu quý, như người chột canh chừng con mắt còn lại. Vì vậy Ngài khiển trách ngay khi lỗi lầm vừa sinh khởi. Nửa đêm hôm ấy Ngài quan sát Kỳ Viên và biết tâm tư của chúng Tăng, Ngài suy nghĩ: “Nếu lỗi lầm này tăng trưởng giữa Tăng chúng, nó sẽ hủy hoại đời Phạm hạnh đưa đến Thánh quả. Ta muốn khiển trách lỗi lầm này ngay bây giờ và nêu rõ đời Phạm hạnh”.

Thế rồi Ngài rời Hương Phòng và gọi Tôn giả Àanda, truyền Tôn giả triệu tập chư Tăng tại đó đến họp lại và Ngài ngồi xuống sàng tọa đã soạn sẵn cho đức Phật. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, sống dưới sức chi phối của các dục tưởng là không chân chánh; nếu tham dục tăng trưởng sẽ gây họa lớn như một địch thủ. Mỗi Tỷ-kheo phải khiển trách một lỗi lầm dù nhỏ nhặt. Các trí nhân ngày xưa thấy rõ ngay cả mọi duyên cớ thật nhỏ, nên đã khiển trách mọi dục tưởng khi vừa mới khởi sinh, do vậy đã đắc quả Ðộc Giác Phật.

Nói xong, ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình thợ gốm ở ngoại ô Ba-la-nại. Khi lớn lên, ngài thành gia chủ có một con trai, một con gái và nuôi dưỡng vợ con với nghề gốm của ngài.

Thời ấy tại vương quốc Kalinga, trong kinh thành Dantapura, quốc vương mệnh danh Karandu đang dạo chơi với quần thần đông đảo trong ngự viên, chợt thấy ở cổng vườn một cây xoài nặng trĩu quả ngọt.

Từ trên lưng voi, vua đưa tay ra hái một chùm xoài, sau đó vào ngự viên ngồi trên bảo tọa ăn xoài và ban vài trái cho những kẻ được ân sủng. Từ khi vua hái xoài, đám triều thần, Bà-la-môn, gia chủ nghĩ rằng người khác cũng nên làm như thế, họ hái xoài xuống và ăn trái cây ấy. Sau đó họ đến nhiều lần trèo cây lấy gậy đập vào làm gãy cành lá tả tơi, họ ăn xoài và cũng không chừa lại những trái chưa chín.

Vua vui chơi trong ngự viên suốt ngày mãi tận chiều, đi ngang qua trên vương tượng, ngài bước xuống khi thấy cây xoài và đến gốc cây nhìn lên, suy nghĩ: “Sáng này cây tươi đẹp với cành nặng trĩu quả, nhưng đám người ngắm cảnh không thỏa mãn; nay, nó đứng kia không còn tươi đẹp nữa vì trái cây đã bị phá nát và rớt xuống hết rồi”.

Vua lại nhìn sang một cây kia không có trái và suy nghĩ: “Cây xoài này tươi tốt vì không sinh trái khác nào núi trọc chứa đầy châu báu. Cây kia vì sinh trái nên đã gặp tai họa: Ðời sống tại gia cũng giống như cây có trái, đời xuất gia giống như cây không trái, người giàu tiền hay sợ hãi, người nghèo khó chẳng sợ gì. Ta cũng chỉ muốn như cây không trái kia”.

Như vậy lấy cây sinh trái làm chủ đề, ngài đứng dưới gốc cây, quan sát Ba đặc tính: Vô thường, Khổ, Vô ngã và đạt Tuệ giác; ngài đắc quả Ðộc Giác Phật, liền suy nghĩ: “Từ nay thai tạng đã xa rời ta, tái sinh trong Ba cõi đã đoạn tận, các cấu uế của vòng luân hồi sinh tử đã được thanh tịnh, biển nước mắt đã khô cạn, thành xương khô đã sụp đổ, ta không còn tái sinh nữa”. Ngài đứng uy nghi như thể được trang điểm mọi thứ ngọc vàng.

Sau đó các đại thần bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài đứng đã quá lâu.

– Ta không phải Ðại vương, ta là Ðộc Giác Phật.

– Tâu Ðại vương, các Ðộc Giác Phật không giống ngài.

– Thế thì các vị ấy ra sao?

– Râu tóc các ngài được cạo sạch, các Ngài khoác y vàng, không còn lưu luyến gia đình bộ tộc, các ngài như mây trôi theo gió cuốn hay mặt trăng thoát khỏi thần Ràhu, và các Ngài an trú trên Tuyết Sơn, ở động Nandamùla. Tâu Ðại vương, các Ngài Ðộc Giác Phật là như vậy.

Ngay lúc ấy vua đưa tay lên sờ đầu lập tức các dấu hiệu của một gia chủ biến mất, và các dấu hiệu của một Sa-môn xuất hiện:

Bộ ba y, bình bát, với kim may,
Lưỡi dao cạo, đồ lọc nước, dây đai
Là tám món một Sa-môn cần có.

Tám món cần thiết của một Sa-môn như chúng vẫn thường được gọi, đã dính chặt vào thân Ngài. Ðương trên không, Ngài thuyết Pháp cho quần thần rồi bay qua bầu trời đến sơn động Nandamùla trên miền thượng Tuyết Sơn.

Trong quốc độ Candahar ở kinh thành Takkasilà, vị vua mệnh danh Naggaji ngự trên thượng lầu, giữa vương sàng, thấy một nữ nhân đeo vòng ngọc trên một tay, đang xay hương liệu gần đó, vua suy nghĩ: “Các vòng ngọc này không cọ xát hoặc kêu leng keng khi rời nhau”, và cứ ngắm nghía nàng ấy mãi. Sau đó, nàng ấy đặt chiếc vòng từ tay phải sang tay trái và dùng tay phải thu góp hương liệu rồi bắt đầu xay tiếp. Chiếc vòng trên tay trái chạm vào chiếc vòng kia gây tiếng động.

Vua quan sát hai chiếc vòng cọ xát vào nhau, gây âm thanh, liền suy nghĩ: “Vòng ấy khi để riêng không chạm vào vật gì cả, nay đụng vào vòng thứ hai gây tiếng động, khi hai ba chiếc vòng chạm nhau tạo thành tiếng ồn lớn. Nay ta trị thần dân ở hai quốc độ Cashmere và Candahar, ta cũng cần phải ở riêng như chiếc vòng độc nhất để tự trị chứ không trị kẻ khác nữa”. Như vậy lấy việc cọ xát hai chiếc vòng làm chủ đề, trong lúc ngồi đó, vua nhận thức Ba đặc tính trên và đạt Tuệ giác, đắc quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối câu chuyện cũng như trên.

Trong quốc độ Videha, tại thành Mithilà, quốc vương mệnh danh Nimi, sau buổi điểm tâm, được các triều thần chầu quanh mình, đứng nhìn xuống đường phố qua cửa sổ hoàng cung mở rộng. Một con diều hâu sau khi chụp được miếng thịt từ chợ, đang bay vụt trên không. Một vài con kên kên và các thứ chim khác, vây lấy diều hâu mọi phía, liên tiếp lấy mỏ mổ vào, lấy cánh đập và lấy chân đạp con kia để dành miếng thịt. Không chịu để cho chúng giết, diều hâu đành thả miếng thịt, một chim khác chụp ngay lấy, và bọn chúng lại mổ con kia như trước. Vua thấy bầy chim, suy nghĩ: “Ai lấy miếng thịt, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ miếng thịt, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Ai hưởng năm dục lạc, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ năm dục lạc, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Nay ta có mười sáu ngàn cung nữ, ta cần phải sống trong hạnh phúc sau khi từ bỏ năm dục lạc như diều hâu bỏ miếng thịt”.

Quan sát việc này với trí tuệ, ngay khi đứng tại đó, vua nhận thức ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và thành đạt viên trí của quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối cũng như trên.

Trong vương quốc Uttarapãncàla, tại kinh thành Kampilla, vị vua mệnh danh Dummukha, sau buổi điểm tâm, được trang điểm các món châu báu và quần thần vây quanh, đứng nhìn xuống sân chầu qua cửa sổ. Vào lúc ấy, có người mở cửa chuồng bò. Các bò đực từ trong chuồng đang chạy theo một con bò cái, một con bò đực lớn với cái sừng nhọn chợt thấy một con đực khác chạy đến, liền ghen tức lấy sừng nhọn đâm vào hông con kia. Do bị húc quá mạnh, nó đổ ruột ra ngoài chết ngay tại chỗ. Vua thấy cảnh này, suy nghĩ: “Mọi loài từ súc vật trở lên đều chịu khổ đau vì lòng dục, con bò này vì lòng dục phải chịu chết. Mọi loài khác đều bị tham dục gây phiền lụy. Ta cần bỏ hết mọi tham dục làm phiền lụy mọi loài”.

Như vậy trong lúc đang đứng, vua nhận thức Ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và thành đạt Viên trí của quả Ðộc Giác Phật. Phần cuối cũng như trên.

Sau đó, một hôm, bốn vị Ðộc Giác Phật, xét thấy đến thời đi khất thực liền rời động Nandamùla, sau khi chùi sạch răng bằng cách nhai cau tại hồ Anotatta, và sau khi đã hoàn tất mọi nhu cầu vệ sinh xong, các vị mang y bát dùng thần thông bay lên không, lướt qua các đám mây ngũ sắc, rồi hạ xuống không xa một ngoại ô của Ba-la-nại.

Tại một địa điểm tiện lợi, các vị khoác y, cầm bình bát đi vào vùng ngoại ô khất thực cho đến khi dừng lại trước cửa nhà Bồ-tát. Bồ-tát thấy các vị lòng hoan hỷ mời vào nhà ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, ngài rót nước cung nghênh và đãi các món thượng vị đủ loại cứng và mềm. Sau đó ngồi một bên, ngài kính chào vị trưởng thượng và nói:

– Thưa Tôn giả, đời tu hành của ngài quả thật tốt đẹp, các căn của Ngài thật an tịnh, làn da của Ngài thật trong sáng. Chủ đề suy tư gì đã khiến Ngài khởi đầu đời sống tu hành và xuất gia?

Cả bốn vị liền đáp:

– Tôi trước kia có tên như vậy, làm vua ở tại kinh thành nọ trong quốc độ kia…

Ðại khái như thế và theo cách này mỗi vị lần lượt ngâm vần kệ nêu nguyên nhân giã từ thế tục của mình:

  1. Cây xoài ta thấy ở rừng xanh,
    Ðen rậm, cao to, trái trĩu cành,
    Vì trái, con người đà phá gãy,
    Lòng ta chính thế muốn cầm bình.
  2. Vòng sáng nhờ tay thợ nổi danh,
    Người đeo một chiếc chẳng âm thanh,
    Chiếc kia va chạm gây huyên náo,
    Vì thế lòng ta muốn chiếc bình.
  3. Ðàn chim xâu xé vật cô thân,
    Ðơn độc mang theo miếng thịt ăn,
    Chim bị đánh đau vì miếng thịt,
    Lòng ta chính thế muốn ly trần.
  4. Bò đực kiêu căng giữa đám bò
    Vươn lưng, khỏe đẹp, bước chân ra,
    Chết vì lòng dục: sườn đâm mạnh,
    Do vậy lòng ta muốn xuất gia.

Bồ-tát nghe mỗi vần kệ đều nói:

– Tốt lành thay, thưa Tôn giả, chủ đề của Ngài thật thích hợp.

Và như vậy ngài tán thán mỗi vị Ðộc Giác Phật. Sau khi nghe các vị thuyết Pháp, ngài trở nên chán ngán đời sống tại gia.

Khi các vị ra đi, sau buổi điểm tâm, ngài ngồi thư thái, gọi vợ lại bảo:

– Này hiền thê, bốn vị Ðộc Giác Phật rời bỏ vương quốc trở thành Sa-môn nay sống không lỗi lầm, không chướng ngại, hưởng niềm cực lạc của đời tu hành. Trong lúc ấy ta phải tìm kế sinh nhai qua ngày. Ta còn phải làm gì với đời gia chủ nữa? Xin nàng nuôi các con và ở lại nhà.

Rồi ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Vua Ka-ran-du xứ Ka-lin-ga,
    Vua Nag-gà-ji xứ Gan-dhà-ra,
    Vua Dum-mu-kha xứ Pan-cà-la,
    Ðại đế Ni-mi xứ Vi-de-ha,
    Tất cả các ngài rời bảo tọa,
    Sống không lầm lỗi, giã từ nhà.
  2. Các ngài trông dáng tựa Thiên thần,
    Chẳng khác nào vầng lửa sáng bừng,
    Ta cũng muốn ra đi tiến bước
    Xa lìa mọi vật thế nhân mong.

Nghe lời ngài, bà vợ đáp:

– Này phu quân, từ khi thiếp nghe Giáo pháp của các vị Ðộc Giác Phật, thiếp cũng không muốn ở trong nhà nữa.

Và bà ngâm kệ:

  1. Thời cơ thiếp biết chính là đây,
    Chẳng có Ðạo Sư hơn các ngài,
    Chàng hỡi, thiếp mong xuất thế nữa,
    Như con chim được thoát bàn tay.

Bồ-tát nghe lời bà nói liền yên lặng, Bà vợ nôn nóng xuất gia tu hành trước ngài, và đang muốn đánh lừa ngài, liền giả vờ nói:

– Này phu quân, thiếp sắp ra hồ nước, chàng hãy chăm nom các con.

Rồi bà cầm chiếc bình như thể đi đến đó và bà đi thẳng đến các vị ẩn sĩ ngoại thành xin truyền giới xuất gia. Bồ-tát không thấy bà trở về, đành phải tự tay chăm sóc các con.

Về sau chúng lớn khôn hơn một chút và tự chúng có thể hiểu biết đôi chút, ngài muốn dạy chúng nấu cơm, nên ngài thường nấu một ngày cơm hơi cứng và sống, một ngày cơm hơi sống, một ngày cơm chín, một ngày cơm nhão, một ngày không có muối, một ngày quá nhiều muối. Bầy trẻ nói:

– Cha ơi, hôm nay cơm chưa chín, hôm nay cơm nhão, hôm nay không có muối, hôm nay quá nhiều muối.

Bồ-tát đáp:

– Ðúng vậy, các con thân yêu.

Rồi Ngài suy nghĩ: “Các con nay đã biết cơm nào sống, cơm nào chín, cơm nào có muối, cơm nào không: thế là chúng có thể sống riêng đời chúng rồi. Ta cần phải xuất gia”. Sau đó, ngài đưa chúng đến gặp đám thân quyến xong, ngài liền xuất gia tu hành, cư trú ở ngoại thành. Một hôm vị nữ tu khổ hạnh đi khất thực ở Ba-la-nại thấy ngài, liền kính chào và nói:

– Thưa Tôn giả, tôi chắc tôn giả đã giết bầy trẻ rồi.

Bồ-tát đáp:

– Ta không giết bầy trẻ, khi chúng có thể tự mình biết việc, ta mới xuất gia. Còn bà đã không quan tâm đến chúng và vui lòng với việc xuất gia trước ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thấy con biết mặn, nhạt khi ăn,
    Cơm sống, chín, ta đã bước chân,
    Nay để yên ta, người một nẻo,
    Ta cùng theo Giáo pháp chân nhân.

Khuyến giáo vị nữ tu khổ hạnh như vậy xong, ngài từ giã bà. Bà nhận lời khuyến giáo ấy, kính bái Bồ-tát và đi đến một nơi vừa ý.

Sau ngày ấy, hai vị không bao giờ gặp lại nhau. Bồ-tát chứng đắc Thắng trí được tái sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Khi các Sự thật kết thúc, năm trăm Tỷ-kheo đắc Thánh quả (A-la-hán.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy con gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), con trai là Ràhula (La-hầu-la), nữ tu sĩ là mẫu thân Rahula và nhà khổ hạnh ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền thân Dalhadhamma)

Chính con khuân vác tự ngày xanh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại rừng Ghosita (Cù-sư-la) gần Kosambi (Kiều-thưởng-di) về Bhaddavatika, con voi cái của vua Udena.

Bấy giờ cách con voi này được trang điểm vàng ngọc và dòng họ vua Udena sẽ xuất hiện trong tiền thân Màtanga, số 497. Một hôm con voi này ra ngoại thành sáng sớm gặp đức Phật được Thánh chúng vây quanh, trong vẻ oai nghi tối thượng của một bậc Giác Ngộ, đang vào thành khất thực, nó quỳ xuống chân đức Như Lai, than khóc và cầu khẩn Ngài:

– Bạch Thế Tôn, bậc toàn tri kiến, vị cứu khổ toàn thế giới, khi con còn trẻ và có khả năng làm việc, vua Udena, một vị minh quân đã thương yêu con và bảo: “Ðời sống của ta cùng vương quốc và Hoàng hậu đều nhờ nó tất cả”. Rồi ngài ban cho con đại vinh hiển bằng cách trang điểm mọi thứ vàng ngọc, ngài truyền trát chuồng voi với đất trộn hương liệu, treo các đồ vật có màu sắc rực rỡ chung quanh, thắp đèn với dầu thơm, đặt dĩa trầm xông tại đó, ngài lại truyền đặt một chậu bằng vàng tại chỗ con đại tiện, cho con đứng trên thảm màu và cho con ăn toàn cao lương thượng vị của vua. Nay con đã già và không làm việc được nữa, nên ngài tước bỏ mọi đặc ân ấy, con sống bơ vơ khốn khổ không ai bảo vệ chăm sóc, chỉ ăn toàn quả ketaka trong rừng, con chẳng có nơi nương tựa nào nữa. Xin Thế Tôn nói cho vua Udena nghĩ lại các công đức của con và phục hồi mọi vinh quang cũ cho con”.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Con hãy đi về, rồi ta sẽ nói với vua phục hồi mọi vinh quang cũ cho con.

Sau đó ngài đi đến cửa hoàng cung.

Vua mời đức Phật vào, thiết đãi trọng thể tất cả hội chúng theo hầu đức Phật.

Khi buổi thọ thực đã xong, Bậc Ðạo Sư nói lời tùy hỷ công đức và hỏi:

– Thưa Ðại vương, con voi Bhaddavatikà đâu rồi?

– Bạch Thế Tôn, trẫm không biết.

– Thưa Ðại vương, sau khi ban vinh hiển cho đám nô tỳ, ngài tước bỏ mọi ân huệ lúc chúng già là không phải đạo, vậy cần tỏ lòng biết ân chúng. Bhaddavatikà nay đã già, mòn mỏi vì tuổi tác và không được ai bảo vệ, chỉ sống bằng trái cây ketaka trong rừng. Ðại vương để cho nó bơ vơ như vậy lúc già yếu là không hợp lý.

Rồi kể các công đức của con voi Bhaddavatikà, Ngài bảo:

– Ðại vương hãy phục hồi mọi vinh quang cũ của nó.

Xong Ngài ra đi. Vua làm theo lời Ngài. Cả kinh thành truyền tin rằng vinh quang cũ của con voi đã được phục hồi nhờ đức Phật kể lại mọi công đức của nó.

Việc này được Tăng chúng biết và chư vị bàn luận trong lúc hội họp. Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đây là đề tài của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai làm cho nó được phục hồi mọi vinh quang cũ bằng cách kể các công đức của nó.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa có một vị vua mệnh danh Dalhadhamma cai trị tại Ba-la-nại. Thời ấy Bồ-tát thọ sanh vào gia đình một đại thần, khi lớn lên, ngài phục vụ nhà vua.

Ngài được vua ban nhiều vinh hiển và đứng địa vị một đại thần quan trọng nhất trong triều. Vua có một con voi cái rất dũng mãnh lực lưỡng. Nó đi một trăm dặm một ngày, làm mọi phận sự sứ thần của vua, khi ra trận nó chiến đấu oanh liệt, dẫm nát quân thù. Vua bảo:

– Con voi này thật hữu ích đối với ta.

Rồi vua ban cho nó mọi thứ trang điểm và vinh quang giống như vua Udena ban cho Bhaddavatikà ngày nay. Sau đó khi nó già yếu, vua tước hết mọi đặc ân trên.

Từ đó nó không được ai bảo vệ và chỉ sống bằng các thứ cỏ lá trong rừng. Một hôm các loại đồ gốm sứ trong cung vua không đủ dùng, vua truyền thợ gốm lại và phán:

– Ðồ gốm không đủ dùng.

– Tâu Ðại vương, tiểu thần không có bò kéo xe để mang phân bò về nung đất sét.

Vua nghe chuyện, liền phán:

– Con voi cái của ta đâu rồi?

– Tâu Ðại vương, nó đang phiêu bạt tùy ý.

Vua bảo đem nó cho người thợ gốm:

– Từ nay ngươi buộc nó vào xe rồi đưa đi chở phân.

Người thợ gốm đáp:

– Tâu Ðại vương, tốt quá.

Rồi gã làm theo lời dặn. Một hôm ra ngoại thành, voi cái chợt thấy Bồ-tát đi đến, liền quỳ xuống chân ngài vừa than khóc vừa nói:

– Thưa Tể tướng, thời con còn trẻ, đức vua xem con rất hữu dụng và ban con đại vinh hiển, nay con già yếu, ngài tước bỏ mọi đặc ân và không còn nghĩ đến con nữa, con không được ai bảo vệ và chỉ sống bằng cỏ lá trong rừng, gặp cảnh khốn cùng thế này ngài lại đem con cho người thợ gốm buộc vào xe chở phân; trừ Tể tướng ra, con không còn nơi nương tựa nào cả, chính Tể tướng đã biết mọi công lao con phục vụ đức vua, xin ngài cho con được phục hồi mọi vinh hiển đã mất.

Rồi voi cái ngâm ba vần kệ:

  1. Chính con khuân vác tự ngày xanh,
    Như vậy đức vua đã thỏa tình?
    Vũ khí con mang đầy trước ngực
    Xông pha chiến trận, bước hùng anh.
  2. Con đã lập nên lắm chiến công,
    Ðức vua giờ hẳn có quên chăng
    Bao lần phục vụ nhiều công trạng
    Như đã định cho các sứ thần?
  3. Nay con cô độc, quá bơ vơ,
    Chắc chắn mạng chung đã đến giờ,
    Phục vụ cho nhà người thợ gốm,
    Con đành làm vật kéo phân dơ!

Bồ-tát nghe chuyện, liền an ủi nó và bảo:

– Thôi đừng buồn khổ nữa, ta sẽ đi trình đức vua và phục hồi vinh dự cho con.

Vì thế khi vào thành, ngài đi đến chầu vua sau buổi điểm tâm và bắt đầu câu chuyện, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, có phải con voi cái mang tên kia đã ra trận chiến tại những nơi nọ với các vũ khí buộc đầy ngực; rồi ngày khác nó lại mang quốc thư ở cổ đi cả trăm dặm làm sứ giả cho Ðại vương, và Ðại vương ban cho nó nhiều vinh hiển chăng, nay nó đâu rồi?

– Trẫm đã giao nó cho người thợ gốm chở phân bò.

Bồ-tát liền đáp:

– Có hợp đạo lý chăng, tâu Ðại vương, khi giao nó cho người thợ gốm buộc vào xe chở phân?

Rồi để khuyến giáo, ngài ngâm bốn vần kệ:

  1. Do ích kỷ tham vọng cá nhân,
    Người ta ban phát mọi vinh quang,
    Như ngài đối với con voi nọ,
    Ném bỏ như nô lệ yếu tàn.
  2. Khi người quên hết các huân công.
    Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
    Mọi việc mà lòng đang dự tính
    Ngày sau chắc hẳn phải suy vong.
  3. Khi người ghi nhớ các công ơn
    Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
    Mọi việc mà lòng đang dự tính
    Ngày sau chắc hẳn sẽ thành công.
  4. Ta nói điều chân lý trọn lành,
    Cho thần dân tụ tập chung quanh:
    Phải luôn ghi nhớ công ơn cũ,
    Thiên giới dành phần sống hiển vinh.

Với lời khởi đầu này, Bồ-tát giáo hóa toàn thể dân chúng đang tụ tập ở đó. Nghe vậy vua ban cho con voi già mọi hiển vinh cũ, và về sau được an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua bố thí cùng thực hành nhiều thiện sự khác nên được sinh lên cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, voi cái là Bhaddavatikà, vua là Ànanda, vị đại thần chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Voi Con Somadatta (Tiền thân Somadatta)

Bước sâu vào tận trong rừng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về một Trưởng lão già cả.

Chuyện kể rằng vị Trưởng lão này truyền giới cho một Sa-di làm đệ tử, phụng sự vị ấy nhưng chẳng bao lâu lâm bệnh nặng qua đời. Trưởng lão đi quanh quẩn khóc than kêu gào vì cái chết của đệ tử.

Thấy vậy Tăng chúng bắt đầu bàn tán trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, vị Trưởng lão già cả này cứ lang thang kêu khóc vì một Sa-di chết, chắc hẳn vị ấy đã quên pháp môn quán tưởng về mạng chung.

Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài câu chuyện, Ngài bảo:

– Náy các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu người này khóc người kia chết.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên chủ. Một Bà-la-môn giàu tiền của, trước sống ở Ba-la-nại, sau giã từ thế tục và trở thành ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, nhặt củ quả rừng để ăn.

Một hôm đi tìm quả rừng, ông thấy một chú voi con, liền đem về thảo am. Ông xem nó như thể con mình gọi tên nó là Somadatta, nuôi nấng chăm sóc nó và cho nó ăn cỏ lá. Con voi lớn dần trở thành to lớn, song một hôm nó ăn quá nhiều nên phát bệnh vì bội thực. Vị khổ hạnh đem nó vào thảo am và đi tìm quả rừng. Song trước khi ông trở về, con voi đã chết. Khi đem về mớ quả, vị khổ hạnh suy nghĩ: “Các ngày khác con ta vẫn đón ta, sao không thấy hôm nay? Con ta bị việc gì chăng?”. Thế là ông than khóc và ngâm vần kệ đầu:

  1. Bước sâu vào tận trong rừng,
    Nó thường vẫn đến đón mừng ta ngay,
    Nhưng sao chẳng thấy hôm nay,
    Voi con đi lạc chẳng hay lối về?

Cùng với lời than khóc này, ông thấy con voi nằm cuối lối đi có mái che, liền ôm ngang cổ nó và ngâm vần kệ thứ hai tiếc thương nó:

  1. Chính voi vừa chết nằm kia
    Như búp măng bị cắt lìa nát thân,
    Voi nằm dưới đất ngã lăn,
    Con voi ta đã lìa trần, than ôi!

Ngay lúc ấy Sakka Thiên chủ quan sát cõi trần, suy nghĩ: “Vị khổ hạnh này từ giã vợ con để tu hành, nay lại than khóc con voi mà ông gọi là con, ta muốn đến thức tỉnh ông và làm cho ông suy nghĩ lại”.

Vì thế ngài xuất hiện trước thảo am, đứng trên không và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Sầu thương vật đã chết rồi,
    Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư,
    Thoát dây tục lụy, xuất gia,
    Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!

Nghe lời này, vị khổ hạnh ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Nếu người bầu bạn thú hiền,
    Thưa ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
    Buồn phiền vì mất bạn chơi,
    Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu!

Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ khuyến giáo ông.

  1. Người đời lắm kẻ ước ao
    Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương,
    Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
    Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
  2. Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
    Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
    Thì ta quyết phải hợp quần
    Ðể mà cứu mọi vật thân nhất đời!

Nghe lời Thiên chủ nói, vị khổ hạnh nghĩ lại và được an ủi, bèn lau nước mắt và ngâm các vần kệ cuối cùng tán thán Thiên chủ:

  1. Ví như ngọn lửa sáng ngời
    Ðổ thêm bỏ sữa cháy hoài thật cao,
    Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
    Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
  2. Lòng ta nhức nhối xót xa
    Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng,
    Ngài đà chữa trị vết thương,
    Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
  3. Mũi tên vừa được nhổ ra,
    Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi
    Lắng nghe Thiên chủ nhủ lời,
    Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.

Các vần kệ này đã được ngâm ở tiền thân Migapotaka, số 372.

Sau khi khuyến giáo vị khổ hạnh, Sakka trở lại cõi của ngài.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, voi con là Sa-di, vị khổ hạnh là Trưởng lão già cả này và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Susìma (Tiền thân Susìma)

Tóc ta đen nhánh từ ngày xưa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế.

Tăng chúng lúc ấy đang ngồi trong Chánh pháp đường tán thán Ðại sự Xuất thế của đức Phật. Khi thấy đây là chủ đề của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay ta lại làm Ðại sự Xuất thế và giã từ thế tục, khi Ta đã thực hành các công hạnh viên mãn (Ba-la-mật) trong hàng trăm ngàn kiếp, mà ngày xưa Ta cũng từ bỏ ngai vàng tại quốc độ Kàsi rộng ba trăm dặm và làm Ðại sự Xuất thế.

Và vì vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai của bà vợ vị tế sư hoàng gia. Trong ngày sinh ra ngài, hoàng hậu cũng sinh một con trai.

Vào ngày lễ đặt tên, bậc Ðại Sĩ được gọi là Nam tử Susìma, và hoàng nam được đặt tên Vương tử Brahmadatta.

Vua thấy đôi trẻ cùng sinh ra một ngày nên truyền đưa Bồ-tát giao cho nhũ mẫu cùng nuôi chung với vương tử. Cả hai trẻ lớn lên tươi đẹp như các Thiên tử trên trời.

Cả hai đều học đủ mọi ngành nghệ thuật ở Takkasilà và trở về nhà. Vương tử trở thành phó vương, cùng ăn uống, sống chung với Bồ-tát. Lúc vua cha băng hà, hoàng tử lên làm vua, ban cho Bồ-tát mọi vinh hiển và phong chức tế sư hoàng gia.

Một hôm tân vương truyền trang hoàng cả kinh thành, rồi được tô điểm rực rỡ như Sakka Thiên chủ, vua tham dự đám rước quanh kinh thành, ngự trên vai vương tượng chẳng khác nào bảo tượng Eràvana của Thiên chủ, trong niềm tự hào cùng với Bồ-tát ngồi phía sau trên lưng voi. Mẫu hậu nhìn ra từ cửa sổ trông thấy hoàng nam và chợt thấy vị tế sư sau lưng vua khi ngài từ đám rước trở về. Bà đâm ra si tình ngài, liền đi vào hậu cung nghĩ thầm: “Nếu ta không chiếm được chàng, ta sẽ chết tại đây”. Vì thế bà bỏ ăn uống và cứ nằm tại đó.

Vua không thấy mẹ liền hỏi thăm, khi nghe bà bị bệnh, vua đến hỏi thăm và cung kính hỏi bà bị bệnh gì. Bà không nói vì hổ thẹn. Vua liền ngự lên ngai, truyền chánh cung hoàng hậu đi tìm hiểu xem thái hậu bị bệnh gì.

Hoàng hậu đến, vừa hỏi thăm, vừa vuốt ve lưng mẫu hậu. Nữ nhân thường không dấu nhau các chuyện bí mật, vì thế chuyện bí mật kia được tiết lộ. Hoàng hậu liền đi trình vua. Vua bảo:

– Ðược rồi, ái khanh đi an ủi mẫu hậu, ta sẽ tôn vị tế sư lên làm vua và mẫu hậu lên làm chánh hậu của ngài.

Hoàng hậu liền đến an ủi thái hậu. Vua truyền mời vị tế sư đến kể lại vấn đề:

– Này Hiền hữu, hãy cứu mạng mẹ ta, khanh sẽ làm vua và mẹ ta sẽ lên làm chánh hậu, còn ta sẽ làm phó vương.

Vị tế sư đáp:

– Không thể được.

Song cứ bị khẩn cầu mãi, ngài bằng lòng và vua tôn ngài lên làm vua, mẫu hậu làm chánh hậu và chính mình làm phó vương. Tất cả mọi người đều sống hòa hợp, song Bồ-tát khô héo dần giữa cuộc sống tại gia. Ngài từ bỏ mọi dục lạc và hướng về đời tu hành.

Chẳng còn màng các lạc thú trần gian, ngài đi đứng nằm ngồi như tù nhân bị giam lỏng hay con gà trống trong lòng son. Chánh hậu suy nghĩ: “Hoàng thượng tránh mặt ta, ngài đi đứng nằm ngồi một mình, giờ đây ngài vẫn tươi trẻ, còn ta đã già và có tóc bạc. Giả sử ta kể cho ngài nghe chuyện ngài đã có tóc bạc, khiến cho ngài tin chuyện ấy và đến bầu bạn với ta chăng?”

Một hôm, làm như thể lau đầu vua, bà nói:

– Hoàng thượng sắp già rồi đấy, có sợi tóc bạc trên đầu hoàng thượng!

– Hãy nhổ nó ra và đặt vào tay trẫm.

Hoàng hậu nhổ một sợi tóc, nhưng lại ném nó đi và đặt vào tay ngài một sợi tóc bạc của bà. Khi thấy nó, nỗi sợ chết khiến mồ hôi đổ ra chảy xuống trán ngài, dù vầng trán bóng láng như một phiến vàng, ngài tự nhủ mình: “Này Susìma, ngươi đã già cỗi ngay tuổi thanh xuân, suốt bấy lâu nay ngươi chìm sâu vào vũng bùn dục lạc như thể con heo vùng quê lặn lội trong đầm lầy dơ bẩn, ngươi không thể xa rời bùn nhơ được. Hãy rời bỏ tham dục, và sống đời khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn. Nay đã đến thời xuất gia rồi”. Cùng với ý tưởng này, ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Tóc ta đen nhánh tự ngày xưa
    Vẫn mọc quanh vần trán của ta,
    Bạc trắng giờ đây, lưu ý nhé:
    Ðến thời tu tập giã từ nhà.

Như thế Bồ-tát ca tụng đời tu hành, nhưng hoàng hậu thấy bà đã làm cho ngài rời bỏ bà chứ không phải yêu thương bà, nên lòng sợ hãi, bà muốn cản trở ngài sống đời xuất gia, bằng cách ngâm hai vần kệ ca tụng dung sắc ngài:

  1. Tóc bạc thiếp đây, chẳng phải chàng,
    Từ trên đầu thiếp mới đưa sang,
    Vì chàng, thiếp nói điều hư vọng,
    Xin lượng thứ cho lỗi thiếp làm.
  2. Trông chàng tươi đẹp, dáng thanh tân
    Như một cây non trẻ giữa xuân,
    Hãy trị nước nhà, cười với thiếp,
    Ðừng tìm việc của tuổi thu đông!

Nhưng Bồ-tát đáp:

– Này hoàng hậu, bà đang nói đến những việc phải xảy đến: Khi tuổi tác chín muồi, tóc đen này phải ngã màu bạc như vôi, ta thấy sự biến hoại của xác thân theo năm tháng lúc đến tuổi lão thành, từ công nương cho đến mọi người khác, dù có dịu mềm như tràng hoa sen xanh, sáng đẹp như vàng ròng, và say sưa với niềm kiêu hãnh về tuổi xuân rực rỡ của mình. Này hoàng hậu, đó là kết thúc đáng sợ của mọi loài hữu tình.

Hơn nữa, muốn trình bày chân lý với oai lực của một vị Phật, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Ta thường trông thiếu nữ xuân thì,
    Uyển chuyển như cành lả lướt kia,
    Kiêu mạn vì hình dung diễm lệ,
    Mọi người say ngắm bước chân đi.
  2. Cũng chính nàng kia, ta ngắm trông
    (Trải qua đã tám, chín mươi năm)
    Run run chân bước, tay cầm gậy,
    Thân thể còng như ngọn liễu rung.

Trong vần kệ này bậc Ðại Sĩ nêu rõ nỗi khổ đau của dung sắc và giờ đây ngài tuyên bố nỗi bất mãn của ngài với đời tại gia:

  1. Những ý tưởng này ta xét luôn,
    Tư duy vẫn đến giữa đêm đơn,
    Ðời người thế tục ta không chuộng,
    Ðúng lúc tu hành phải bước chân.
  2. Dục lạc trong đời sống thế nhân
    Là nơi hèn yếu để nương thân,
    Trí nhân cắt đứt, theo đường khác,
    Bỏ dục lạc đầy đủ lực hùng.

Như vậy trong khi tuyên bố các lạc thú lẫn khổ đau của tham dục, ngài giảng bày chân lý với vẻ kỳ diệu của bậc Giác Ngộ, rồi ngài truyền đi mời thân hữu của ngài đến nhận lại vương quốc: ngài từ giã vinh quang và quyền lực giữa tiếng than khóc vang rền của thân bằng quyến thuộc, rồi trở thành bậc hiền nhân khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, và về sau chứng đắc Thiên định, ngài được tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và đem lại nguồn nước bất tử cho nhiều người, rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, chánh hậu là mẫu thân Ràhula, vua là Ánanda và vua Susìma chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền thân Kotisimbalì)

Ta mang thân xác của xà vương…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách lỗi lầm. Hoàn cảnh đưa đến chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân Pannna (không tìm được).

Vào dịp này Bậc Ðạo Sư nhận thấy năm trăm Tỷ-kheo sống trong Tinh xá trên Con Ðường Lát Vàng (Kỳ Viên) đang bị dục tưởng chi phối, liền tập hợp Tăng chúng lại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, cần phải hoài nghi nơi nào đáng hoài nghi, lỗi lầm vây phủ con người như rễ cây đa hay những cây tương tự mọc quanh các cây khác. Cũng vậy, ngày xưa một vị thần trú trênđỉnh cây bông vải thấy một con chim thả phân có các hột cây đa nằm giữa các cành cây bông vải, sinh lòng lo sợ rằng nơi trú ẩn của mình sẽ bị tàn phá vì chúng.

Và do vậy Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Thần cây trú trên ngọn cây bông vải. Một chúa chim thần cánh vàng, Kim sí điểu vương, biến hình dài một trăm năm mươi dặm, rồi rẽ nước đại dương bằng trận cuồng phong do đôi cánh đập mạnh, nó chụp lấy đuôi một vua rắn thần Nàga dài một ngàn trượng, khiến cho xà vương phải nhả hết mọi vật đã ngậm trong miệng, xong nó liền bay lên theo các ngọn cây về phía cây bông vải.

Xà vương suy nghĩ: “Ta sẽ làm cho nó thả ta ra để ta đi”. Vì vậy rắn thành dán sát đầu vào cây đa và quấn quanh cây thật chặt. Do sức mạnh của chú chim thần và thân xác khổng lồ của xà vương, cây đa bị bật gốc. Song xà vương vẫn không rời cây đa. Chúa chim thần mang cả xà vương lẫn cây đa đến cây bông vải kia, đặt rắn thần lên thân cây, mổ bụng ra ăn thịt mỡ. Sau đó nó ném xác rắn xuống biển.

Bấy giờ trên cây đa có con chim nhỏ bay lên khi cây đa bị ném bỏ, rồi đậu trên một cành cây cao gần cây bông vải. Thấy con chim, Thần cây liền run rẩy toàn thân vì sợ hãi, và suy nghĩ: “Con chim này sẽ thả phân nó rơi trên thân ta, rồi một cây đa hay cây sung sẽ mọc lên và lan tràn khắp thân cây, thế là nơi trú ẩn của ta sẽ bị phá hoại”. Lúc ấy cây bông vải rung chuyển tận gốc vì cơn kinh hãi của Thần cây. Kim sí điểu vương thấy cây rung chuyển như vầy, liền ngâm đôi vần kệ hỏi lý do:

  1. Ta mang thân xác của xà vương
    Cùng với thân ta lớn dị thường,
    Thân rắn kia dài ngàn trượng chẵn,
    Song cây không chuyển động kinh hoàng.
    2. Nay mang chim nhỏ bé ti ti
    So với ta đây chẳng sá chi,
    Cây lại run hoài vì sợ hãi,
    Hỡi cây bông vải, lý do gì?

Sau đó Thần cây ngâm bốn vần kệ giải thích lý do:

  1. Thịt mỡ ngài xơi, hỡi Ðiểu vương,
    Trái cây là thức của chim muông,
    Hạt đa, sung, với bồ-đề nữa,
    Nếu mọc, toàn thân ta chết luôn!
  2. Hạt ấy về sau sẽ mọc cây,
    Rồi che phủ cả hết thân này,
    Ta không còn có cây nào nữa
    Vì bị chúng che kín phủ đầy.
  3. Một khi cây đã lớn lên nhanh,
    Rễ mạnh quanh thân, rậm rạp cành,
    Chứng tỏ hạt do chim tích trữ
    Mang mầm hủy hoại đến cho mình.
  4. Loại cây mọc bám sẽ chôn thây
    Ngay cả cây rừng vĩ đại này,
    Vì vậy, Ðiểu vương, ta rúng động
    Khi ta lo sợ thấy như vầy.

Nghe lời thần cây, điểu vương ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Phải kinh hãi việc đáng kinh hoàng,
    Hiểm họa đến thân phải hộ phòng,
    Bậc trí lặng nhìn hai thế giới,
    Nếu gây kinh hãi, phải rời chân.

Nói vậy xong, điểu vương dùng sức mạnh đẩy con chim nhỏ ra khỏi cây ấy.

*

Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật bắt đầu bằng những lời: “Cần phải hoài nghi nơi nào đáng hoài nghi”. Khi các Sự thật kết thúc, năm trăm vị Tỷ-kheo được an trú vào Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Sàriputta là Ðiểu vương và Ta chính là Thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền thân Dhùmakàri)

Một hôm minh đế Yu-dhi-la…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về đặc ân của Ðại vương Kosala đối với một người khách lạ.

Chuyện kể rằng có thời vua không dành đặc ân cho các võ tướng cũ vẫn đến chầu vua như thường lệ, mà lại ban vinh dự và tỏ lòng hiếu khách đối với những người mới yết kiến lần đầu. Thời ấy vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên địa bị quấy phá. Nhưng các võ tướng cũ của vua không muốn giao chiến vì nghĩ rằng những võ tướng mới được hưởng đặc ân sẽ chiến đấu và đám người mới này cũng không muốn chiến đấu vì nghĩ rằng những vị tướng cũ sẽ làm việc ấy. Do vậy quân phiến loạn thắng trận.

Vua biết thất bại của mình là do sai lầm mình đã mắc phải khi ban ân huệ cho bọn người mới, liền trở về thành Xá-vệ. Vua quyết định hỏi đức Thế Tôn Ðại Trí xem mình có phải là ông vua duy nhất chịu thất bại vì lý do kia chăng. Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, Ðại vương không phải là trường hợp duy nhất, vua chúa ngày xưa cũng bị bại trận vì đã ban đặc ân cho đám người mới.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại thành Indapattana, ở quốc độ Kuru, có vị vua ngự trị mệnh danh là Dhananjaya, thuộc dòng họ Yudhithila. Bồ-tát được sinh vào gia đình vị tế sư của vua. Khi lớn lên, ngài học tập mọi nghệ thuật ở Takkasilà. Sau ngài trở về Indapattana và khi thân phụ từ trần, ngài trở thành vị tế sư hoàng gia kiêm cố vấn của vua về thế sự cũng như thánh sự. Danh hiệu của ngài là bậc Trí nhân Vidhùra.

Vua Dhananjaya coi thường các võ tướng cũ của mình và ban đặc ân cho các người mới. Sau đó vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên thùy có loạn; nhưng cả đám võ tướng cũ lẫn võ tướng mới đều không muốn giao chiến, mỗi phe đều nghĩ rằng phe kia sẽ chăm lo việc ấy. Do đó vua bại trận.

Khi trở về Indàpattana, vua nhận xét rằng sự thất bại ấy là do đặc ân mà mình đã dành cho đám người mới. Một hôm vua suy nghĩ: “Có phải ta là vị vua duy nhất từng bại trận vì ban ân huệ cho đám người mới, hay cũng có nhiều kẻ khác cùng chung số phận này trước kia? Ta muốn hỏi bậc Trí nhân Vidhùra”. Vì thế vua đưa lời chất vấn Trí nhân Vidhùra khi ngài đến yết kiến vua tại triều đình.

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ nêu rõ lý do lới chất vấn của vua:

  1. Một hôm minh đế Yu-dhi-la,
    Hỏi bậc Trí nhân Vi-dhù-ra:
    “Hiền hữu Bà-la-môn có biết
    Tim ai sầu thống thiết hơn ta?”

*

Nghe vậy, Bồ-tát đáp:

– Tâu Ðại vương, nỗi sầu của ngài chỉ là điều nhỏ nhặt. Ngày xưa, một Bà-la-môn chăn dê tên gọi Dhùmakàri nuôi một đàn dê lớn, và làm chuồng cho chúng ở trong rừng. Vị ấy đốt lửa xông khói và sống bằng sữa dê tại đó để chăm sóc đàn dê.

Khi thấy một bầy nai da vàng óng ả chợt đến, ông lại sinh lòng thương mến chúng và xao lãng bầy dê, ông tỏ hết lòng quý trọng bầy nai. Vào mùa thu, bầy nai lại di chuyển về vùng Tuyết Sơn. Trong lúc bầy dê chết dần như thế, bầy nai cũng khuất dạng sau rặng núi. Do quá khổ não, ông mắc bệnh xanh xao võ vàng và từ trần. Ông đã bày tỏ đặc ân với đám nai mới và phải chết vì chịu buồn khổ thống thiết hơn Ðại vương cả trăm ngàn lần.

Ngài liền ngâm vần kệ nêu rõ trường hợp này:

  1. Bà-la-môn có một bầy dê,
    Dòng họ Va-si sang trọng kia,
    Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
    Sống đời an lạc chốn sơn khê.
  2. Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
    Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
    Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
    Gần nhà mục tử Dhu-ma-kai.
  3. Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
    Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
    Ði lại tự do không bảo hộ,
    Cho nên chúng phải bị suy tàn.
  4. Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
    Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
    Nai phải đi tìm bao đỉnh núi,
    Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
  5. Mục tử thấy nai đã bỏ đi,
    Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
    Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
    Da dẻ ngày thêm một tái tê.
  6. Vậy người nào bỏ mặc thân bằng,
    Lại gọi người xa lạ thân thiết
    Như lão Dhu-ma-kai mục tử,
    Một mình, dòng lệ đắng cay tuôn.

Ðấy là câu chuyện do bậc Ðại Sĩ kể lại để an ủi vua. Vua được an ủi, lòng rất hoan hỷ liền ban tặng ngài nhiều châu báu. Từ đó trở đi, vua bày tỏ ân sủng đối với toàn dân, làm nhiều thiện sự công đức nên được sinh lên cõi Thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua xứ Kuru là Ànanda, Bà-la-môn Dhùmakàri là vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosala, và bậc Trí nhân Vidhùra là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền thân Jàgara)

Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một cư sĩ. Ðó là một đệ tử đã đắc Nhập lưu Ðạo.

Một hôm ông khởi hành từ Xá-vệ cùng với một đoàn xe đi theo đường rừng. Ðến một nơi có cảnh đẹp và nước chảy, người trưởng đoàn buộc xe ngựa lại, sửa soạn thức ăn đủ loại cứng mềm và tạm ở lại đó. Mọi người nằm xuống ngủ rải rác khắp nơi. Còn vị cư sĩ cứ đi vòng quanh gốc thân cây cạnh người trưởng đoàn. Lúc ấy năm trăm tên cướp dự định cướp đoàn xe. Cầm đủ mọi khí giới trong tay, chúng bao vây đoàn xe và chờ đợi. Khi thấy người cư sĩ đang đi dạo, chúng đứng đợi để bắt đầu đánh phá lúc ông đi ngủ. Nhưng ông cứ đi lại suốt đêm. Ðến tảng sáng, bọn cướp ném vũ khí cùng gậy đá chúng đã lượm, rồi bỏ đi và bảo:

– Này ông trưởng đoàn lữ khách, ông làm chủ tài sản này vì ông đã được cứu mạng nhờ người kia tỉnh thức thật tinh chuyên: Ông cần phải suy tôn ông ấy.

Mọi lữ khách thức dậy đúng giờ, thấy đám khí giới gậy đá do bọn cướp ném bỏ, liền bày tỏ lòng cung kính, biết ơn vị cư sĩ vì hiểu rằng họ sống được là nhờ ông.

Vị cư sĩ ấy đến nơi đã định, làm công việc xong, trở về Xá-vệ và đến Kỳ Viên: tại đó ông đến yết kiến và đảnh lễ đức Như Lai cung kính và ngồi dưới chân Ngài, rồi do lời Ngài yêu cầu, ông kể mọi chuyện cũ. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, không phải chỉ riêng ông tạo được công đức đặc biệt lớn nhờ tỉnh thức và hộ phòng, mà các bậc trí ngày xưa cũng đã làm như vậy.

Và theo lời thỉnh cầu của vị cư sĩ. Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn . Khi lớn lên ngài học tập đủ mọi nghệ thuật ở Takkasilà và trở về nhà sống đời gia chủ.

Sau một thời gian, ngài rời bỏ nhà và trở thành ẩn sĩ. Chẳng bao lâu ngài đắc các Thiền chứng và sống tại vùng Tuyết Sơn, ngài chuyên tâm đi và đứng, ngài chỉ kinh hành suốt đêm chứ không ngủ.

Một vị Thần cây ở cuối lối đi của ngài hoan hỷ nhìn thấy ngài như vậy và ngâm vần kệ đầu:

  1. Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ?
    Ai ngủ khi bao người khác dậy rồi?
    Ai là người hiểu câu đố của tôi?
    Ai có thể giải đáp tôi điều đó?

Bồ-tát nghe lời vị Thần cây, liền ngâm vần kệ này:

  1. Ta thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ,
    Ta ngủ khi bao người khác dậy rồi,
    Ta là người hiểu câu đố của ngài,
    Ta có thể giải đáp ngài điều đó.

Vị Thần cây ngâm vần kệ hỏi lại câu này:

  1. Sao ngài thức khi nhiều người đang ngủ?
    Và ngủ khi bao kẻ khác dậy rồi?
    Làm sao ngài hiểu câu đố của tôi?
    Và giải đáp điều này ngay lập tức?

Bồ-tát giải thích vấn đề này:

  1. Có nhiều kẻ vẫn quên rằng giới đức
    Nằm ở trong sự tiết dục điều thân,
    Vậy bao người đang ngủ giấc mơ màng,
    Còn ta thức, hỡi Thần cây cổ thụ.
  2. Tham, sân, si của số người nào đó
    Ðã không còn hiện hữu ở trong lòng,
    Vậy các người kia đã tỉnh giấc nồng,
    Ta còn ngủ, hỡi Thần cây cổ thụ!
  3. Vậy ta thức khi nhiều người đang ngủ,
    Và ngủ khi bao kẻ khác tỉnh rồi,
    Vậy là ta hiểu câu đố của ngài,
    Và giải đáp lại lời ngài rồi đó.

Khi Bậc Ðại Sĩ đã giải đáp lời này, vị Thần rất hoan hỷ và ngâm vần kệ tán thán:

  1. Lành thay ngài tỉnh thức khi người ngủ,
    Và ngủ khi bao người khác tỉnh rồi!
    Lành thay ngài hiểu câu đố của tôi,
    Lời giải đáp của ngài bao tốt đẹp!

Như vậy sau khi tán thán Bồ-tát, vị Thần cây trở vào nơi an trú của mình trên cây.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vị thần cây là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và nhà khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền thân Kummasàpinda)

Cúng dường chư Phật quý cao thay…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi).

Nàng nguyên là con gái của vị trưởng nghiệp đoàn bán vòng hoa, cực kỳ diễm lệ và hiền thục. Khi nàng được mười sáu tuổi, trong lúc đi đến vườn hoa cùng các thiếu nữ khác, nàng mang theo ba phần cháo sữa chua trong giỏ hoa. Khi nàng rời thành phố, nàng trông thấy đức Thế Tôn vào thành, tỏa hào quang rực rỡ và được Tăng chúng vây quanh, nàng đem cúng dường Ngài ba phần cháo ấy.

Bậc Ðạo Sư đưa bát của ngài ra nhận cháo. Nàng đảnh lễ chân đức Như Lai và lấy niềm hoan hỷ ấy làm chủ đề Thiền quán, nàng đứng sang một bên. Bậc Ðạo Sư mỉm cười, nhìn nàng. Tôn giả Ànanda tự hỏi tại sao đức Như Lai mỉm cười và hỏi Ngài vấn đề này. Bậc Ðạo Sư nói lý do:

– Này Ànanda, cô gái này hôm nay sẽ trở thành chánh hậu của vua Kosala do phước báo ba phần cháo này.

Còn cô gái tiếp tục bước đến vườn hoa. Ngay chính hôm ấy vua Kosala giao chiến với vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và thất bại phải đào tẩu. Trong khi đang đi ngựa, vua nghe tiếng nàng hát rất hấp dẫn liền thúc ngựa vào khu vườn. Công đức của cô gái đã đến thời chín muồi, vì thế khi thấy vua, nàng không chạy trốn mà đi đến cầm lấy dây cương nơi mũi ngựa. Vua ngồi trên lưng ngựa hỏi nàng đã có chồng chưa. Khi nghe nàng đáp chưa, ông xuống ngựa và đang mệt mỏi vì nắng gió, ông nằm nghĩ chốc lát trên đùi nàng. Sau đó ông đưa nàng lên ngựa, cùng đạo quân hùng hậu đi vào thành, đưa nàng đến tận nhà riêng.

Chiều hôm ấy vua phái một vương xa trong cảnh vô cùng vinh quang lộng lẫy đến rước nàng từ nhà nàng về đặt lên một bảo tọa đầy châu báu, làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh lên đầu) cho nàng và phong nàng làm chánh hậu. Từ đó trở đi, nàng trở thành hoàng hậu thân thiết tận tụy được vua sủng ái, nàng có đầy đủ năm vẻ yêu kiều của nữ nhi, lại có đủ đám nô tỳ trung thành và nàng lại là một tín nữ được nhiều hồng ân của chư Phật. Cả kinh thành loan tin rằng nàng được mọi vinh hoa ấy là vì nàng cúng dường Bậc Ðạo Sư ba phần cháo.

Một hôm Tăng chúng bắt đầu thảo luận trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Hoàng hậu Mallikà cúng dường đức Phật ba phần cháo, và do phước báo này, ngay chính hôm ấy bà được làm lễ quán đảnh phong ngôi hoàng hậu: Công đức chư Phật thật vĩ đại dường nào.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi chuyện và khi được biết đề tài thảo luận của Tăng chúng, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì nàng Mallikà trở thành chánh hậu của vua Kosala nhờ cúng dường đức Phật Chánh Ðẳng Giác ba phần cháo mà thôi, vì cớ sao? Ðó là nhờ đại hồng ân của chư Phật: Các trí nhân ngày xưa cúng dường các vị Ðộc Giác Phật cháo không có muối hay dầu nữa, song nhờ thế trong đời sau đạt được vinh quang của đế vương tại Kàsi rộng ba trăm dặm.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một nhà nghèo. Khi lớn lên ngài tìm kế sinh nhai bằng cách làm công cho một nhà giàu. Một hôm ngài mua bốn phần cháo ở cửa tiệm và suy nghĩ: “Cái này vừa đủ để ta ăn sáng”. Rồi ngài ra làm việc ngoài đồng. Khi thấy bốn vị Ðộc Giác Phật đang vào Ba-la-nại khất thực, ngài suy nghĩ: “Ta có bốn phần cháo này, giả sử ta đem cúng dường các vị đang đến Ba-la-nại khất thực?”. Vì thế ngài đi đến đảnh lễ các vị và nói:

– Thưa các tôn giả, con hiện đang cầm bốn phần cháo, con xin cúng dường các vị, mong các vị nhận lấy để cho con được phước đức đem lại an lạc lâu dài về sau.

Thấy các vị nhận lời, ngài liền rải cát và sắp đặt bốn chỗ ngồi, đặt các cành khô lên đó và mời chư vị Ðộc Giác Phật ngồi theo thứ tự. Ngài lấy rổ lá đem nước đến, rót nước cúng dường, và đặt bốn phần cháo vào bốn bình bát vừa đảnh lễ cung kính vừa thưa:

– Thưa các tôn giả, ước mong nhờ phước báo này con sẽ không sinh vào nhà nghèo nữa, ước mong đây sẽ làm nhân duyên cho con đắc quả vị Chánh Giác.

Các vị Ðộc Giác Phật dùng cháo xong, nói lời tùy hỷ công đức và trở về động Nandamùla. Khi kính chào các vị, Bồ-tát cảm thấy niềm hoan hỷ được tiếp xúc các Ðộc Giác Phật, và sau khi các vị đã khuất dạng, ngài đã đi làm công việc, ngài vẫn nhớ các vị mãi cho đến lúc mạng chung. Nhờ phước báo này, ngài tái sinh vào mẫu thai của chánh hậu thành Ba-la-nại. Ngài được đặt tên Vương tử Brahmadatta.

Từ lúc mới biết đi chập chững, nhờ năng lực nhớ lại những việc làm trong đời trước, ngài thấy rõ như thể soi bóng mình vào tấm gương sáng, rằng ngài tái sinh vào hoàn cảnh này do ngài đã cúng dường bốn phần cháo lên các vị Ðộc Giác Phật khi ngài là một tôi tớ đi làm thuê tại chính kinh thành này. Khi lớn lên, ngài học tập mọi môn nghệ thuật ở Takkasilà. Khi ngài trở về nhà, vua cha vô cùng hoan hỷ về các thành tựu của ngài nên phong ngài làm phó vương. Sau đó khi vua cha băng hà, ngài lên ngự trị quốc độ. Rồi kết hôn với công chúa tuyệt sắc của vua Kosala và phong nàng ngôi chánh hậu.

Vào ngày đại hội giương chiếc Lọng trắng che lên ngài, quần thần trang hoàng kinh thành như thể một kinh thành thiên giới. Ngài dự đám rước quanh thành phố rồi ngự lên thượng lầu được trang hoàng lộng lẫy, sau đó bước đến đài cao an tọa trên ngai vàng có lọng trắng giương phía trên.

Khi ngồi đó, ngài nhìn xuống nhìn thần dân đang đứng chầu, một phía là triều thần, phía kia là các Bà-la-môn và gia chủ sáng rực trong vẻ đẹp muôn màu sắc, một phía khác nữa là quần chúng cầm tặng vật đủ loại trong tay, kế đến là đoàn nữ nhạc vũ công gồm cả mười sáu ngàn nàng chẳng khác đoàn tiên tụ tập đông đủ trên Thiên đình.

Nhìn mọi vẻ huy hoàng làm say mê lòng người như thế, ngài nhớ lại đời trước của mình và suy nghĩ: “Chiếc lọng trắng kết tràng hoa bằng vàng và chân trụ bằng vàng khối này, bằng ngàn con voi và cỗ xe này, và cả lãnh thổ rộng lớn của ta đầy ngọc vàng châu báu, tài sản, mễ cốc đủ loại, các nữ nhân như tiên nữ trên trời, mọi cảnh vinh quang này đều thuộc riêng về phần ta thôi, đó là do công đức cúng dường bốn vị Ðộc Giác Phật bốn phần cháo: Ta hưởng được tất cả mọi sự này nhờ đó”.

Như vậy trong khi nhớ lại hồng ân của chư Ðộc Giác Phật, rõ ràng ngài đã tuyên dương công đức của ngài trong đời trước. Ý tưởng ấy làm toàn thân ngài tràn ngập hoan lạc. Niềm hoan lạc thấm tận tâm can khiến ngài ngâm vang hai vần kệ đầy cảm hứng ngay giữa quần thần:

  1. Cúng dường chư Phật quý cao thay,
    Người bảo đừng xem rẻ việc này,
    Ðem tặng cháo dù không có muối
    Cho ta phước báo lớn như vầy.
  2. Ngựa, voi cùng với đám trâu bò,
    Vàng, bạc, thóc ngô, cả nước nhà,
    Ðám mỹ nữ hình dung yểu điệu,
    Cúng dường đem quả đến tay ta.

Như vậy trong niềm hỷ lạc, Bồ-tát ngâm khúc hoan ca gồm hai vần kệ nhân ngày lễ giương chiếc Lọng trắng. Từ đó về sau, chúng được xem là khúc ca được quốc vương ái mộ và mọi người đều hát điệu ấy, từ các vũ nữ, vũ công, nhạc sĩ, cung nhân, thị vệ, cho đến dân chúng và ngay cả đám quần thần trong triều.

Sau một thời gian, chánh hậu mong muốn biết ý nghĩa bài hát, song bà không dám hỏi bậc Ðại Sĩ. Một hôm nhà vua đẹp ý vì một đức tính của bà, liền phán:

– Này ái hậu, ta muốn ban cho nàng một điều ước, hãy nhận đặc ân ấy.

– Tâu hoàng thượng, tốt lành thay thiếp xin nhận đặc ân ấy.

– Ái hậu muốn ta ban gì, voi ngựa hay thứ nào khác?

– Tâu hoàng thượng, nhờ ân sủng của hoàng thượng, thiếp không thiếu gì cả, thiếp không cần các thứ ấy. Song nếu hoàng thương ban cho thiếp một đặc ân, xin hãy nói cho thiếp biết ý nghĩa khúc ca của ngài.

– Này ái hậu, nàng cần gì đặc ân ấy? Hãy nhận thứ khác đi.

– Tâu hoàng thượng, thiếp không cần một thứ nào khác cả. Ðó là đặc ân thiếp muốn nhận.

– Ðược rồi, này ái hậu, ta sẽ nói điều ấy, nhưng không phải đó là điều bí mật nói riêng với nàng, mà ta muốn gióng tiếng trống khắp kinh thành Ba-la-nại rộng mười hai dặm này, ta muốn dựng ngôi đình bằng ngọc ngay tại cung môn và đặt một chiếc ngai bằng ngọc tại đó, rồi ta sẽ ngồi đó giữa quần thần, Bà-la-môn, cùng mọi người khác gồm cả mười sáu ngàn nữ nhân, và kể chuyện ấy.

Bà tuân lệnh. Vua truyền làm mọi việc như trên, rồi ngự lên ngai giữa đại chúng như Sakka Thiên chủ giữa chư Thiên. Hoàng hậu phục sức đủ mọi thứ nữ trang ngọc vàng, đặt một kim đôn, ngồi bên cạnh ở một vị trí thích hợp, rồi đưa mắt nhìn vua, bà thưa:

– Tâu hoàng thượng, xin hãy giảng giải cho thiếp biết ý nghĩa khúc hoan ca mà ngài thường hát trong niềm hỷ lạc, như thể làm cho mặt trăng xuất hiện trên bầu trời.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Hoàng thượng đầy vinh hiển, chánh chân,
    Khúc ca ngài hát đã bao lần,
    Trong niềm hoan lạc đầy tâm trí,
    Cho thiếp đặc ân biết ngọn nguồn.

Bậc Ðại Sĩ ngâm bốn vần kệ nêu rõ ý nghĩa khúc ca:

  1. Chính tại thành này, kiếp trước đây,
    Ở trong hoàn cảnh khác ngày nay,
    Ta là tôi tớ cho người khác,
    Làm mướn, song đức hạnh thẳng ngay.
  2. Một hôm rời tỉnh để làm công,
    Bốn Ðạo Sư kia, ta chợt trông
    Dáng điệu ly tham và tĩnh lặng,
    Thiện toàn trong Giới luật tu thân.
  3. Tư tưởng ta quy ngưỡng Phật-đà,
    Khi chư vị nghỉ dưới cây già,
    Chấp tay đảnh lễ, ta đem đến
    Thành kính cúng dường món cháo hoa.
  4. Thiện nghiệp tạo nên phước đức dày,
    Quả thành ta gặt được giờ đây:
    Vinh hoa phú quý đời vương giả,
    Quốc độ do ta cai trị này.

Khi hoàng hậu nghe bậc Ðại Sĩ giảng giải đầy đủ thành quả của thiện nghiệp ngài, bà hân hoanđáp:

– Tâu Ðại vương, nếu ngài nhận thấy rõ các thành quả của bố thí như vậy, từ nay về sau xin ngài nhận một phần cơm và đừng ăn cho đến khi nào chính ngài đã cúng dường thực phẩm lên các vị Sa-môn Bà-la-môn chân chánh.

Rồi hoàng hậu ngâm vần kệ tán thán Bồ-tát:

  1. Hãy ăn, khi nhớ cúng dường rồi,
    Chuyển bánh xe chân chánh khắp nơi:
    Hoàng thượng tránh xa điều bất chánh,
    Cầm quyền chân chánh nước non ngài.

Bậc Ðạo Sĩ ngâm vần kệ chấp nhận lời hoàng hậu:

  1. Ta vẫn tạo riêng một lối đường,
    Bước theo đạo lộ chánh chân luôn,
    Nơi người hiền thiện thường đi đến,
    Ðẹp mắt ta nhìn các Thánh nhân.

Sau khi nói xong, ngài nhìn dung sắc Hoàng hậu và bảo:

– Này mỹ hậu, ta đã kẻ đủ mọi thiện nghiệp ta làm đời trước, song giữa đám nữ nhân này không ai sánh kịp nàng về dung sắc và vẻ kiều diễm khả ái.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Ái hậu như tiên nữ cõi trời,
    Trông nàng rực rỡ vượt bao người,
    Vậy nhờ thiện nghiệp nào đưa đến
    Phước báo dung quang quá tuyệt vời?

Sau đó hoàng hậu ngâm vần kệ nêu phước nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ:

  1. Thiếp vốn nô tỳ một quý nương
    Ở hoàng cung của Am-ba-vương,
    Thiếp chuyên tâm thực hành khiêm tốn,
    Ðức hạnh và tu tập thiện ngôn.
  2. Rồi một ngày kia thiếp cúng dường
    Phần cơm vào bát một Sa-môn,
    Tâm tư thiếp ngập tràn từ ái,
    Nghiệp ấy quả này, tâu Ðại vương!

Theo đây, hoàng hậu cũng biết chính xác và kể lại đời trước của mình.

Như vậy cả hai vị đã công bố các nghiệp quá khứ xong, từ ngày ấy hai vị truyền lệnh xây sáu bố thí đường tại bốn cổng thành, giữa kinh thành và tại cung môn, rồi để khích lệ toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), hai vị thực hành đại bố thí, giữ các giáo đức và các ngày trai giới, nên lúc mạng chung được tái sinh cõi thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, hoàng hậu là mẫu thân Ràhula và vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền thân Parantapa)

Lo sợ kinh hoàng trong trí ta…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về âm mưu của Tỷ-kheo Devadatta định giết Ngài.

Tăng chúng bàn luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Devadatta dự định giết đức Như Lai, vị ấy đã thuê bọn xạ thủ, némđá trên núi xuống, thả voi say Nàgàgiri và dùng nhiều phương tiện diệt đức Như Lai.

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi đề tài thảo luận của các vị lúc ngồi đây. Khi các vị trình bày xong, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu các kẻ ấy dự định mưu sát ta. Song kẻ ấy không đủ khả năng thậm chí làm ta lo sợ, mà chỉ tạo khổ đau cho bản thân mình thôi.

Và do vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm vương tử của chánh hậu. Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi nghệ thuật ở Takkasilà và biết được thần chú hiểu tiếng kêu của súa vật. Sau khi lời thầy dạy đầy đủ, ngài trở về Ba-la-nại. Phụ vương phong ngài chức phó vương, nhưng dù vua đã làm như vậy, vua lại mong mỏi giết hại ngài và thậm chí không muốn nhìn thấy ngài nữa.

Thời ấy, một chó rừng cái đem hai chó con vào kinh thành theo một đường cống ban đêm, lúc mọi người đều nghỉ ngơi. Trong cung của Bồ Tát cạnh tư thất ngài, có căn phòng dành cho một người khách, kẻ ấy đã cởi giầy ra và đặt trên sàn nhà bên chân mình rồi nằm trên tấm ván, nhưng chưa ngủ.

Bầy chó con đói và kêu khóc. Mẹ chúng bảo theo giọng chó rừng:

– Này các con đừng làm ồn, có một người trong phòng kia, có một người trong phòng kia đã cởi giầy ra và đặt trên sàn nhà. Ông ta đang nằm trên tấm ván nhưng chưa ngủ. Khi ông ta ngủ rồi, mẹ sẽ đến lấy đôi giầy cho các con ăn.

Nhờ thần chú, Bồ-tát hiểu tiếng chó rừng và rời phòng mình, mở cửa sổ gọi:

– Ai ở trên đó?

– Tâu Ðiện hạ, thần là một lữ khách.

– Thế giày của ông đâu?

– Tâu, ở trên sàn.

– Hãy lấy giày treo lên.

Nghe lời này, chó mẹ nổi giận với Bồ-tát. Một hôm nó lại vào thành theo cách trên. Hôm ấy có kẻ say rượu bước xuống nước trong một hồ sen, rồi té vào đó chết chìm. Kẻ ấy có hai chiếc áo đang mặc trên người, một ngàn đồng tiền để ở áo trong và một chiếc nhẫn trên ngón tay.

Bầy chó con lại kêu khóc đòi ăn. Mẹ chúng bảo:

– Im đi các con, có một người chết trong hồ sen này, ông ta có nhiều của cải như vậy mà đang nằm trong hồ sen, mẹ sẽ cho các con ăn thịt ông ta.

Bồ-tát nghe tiếng chó, mở cửa sổ ra hỏi:

– Ai trong phòng kia?

Một người thức dậy thưa:

– Chính tiểu thần.

– Hãy đi lấy bộ áo, ngàn đồng tiền và chiếc nhẫn trên người đang nằm chết ở hồ sen đằng kia và làm cho xác chìm xuống để nó khỏi nổi lên mặt nước.

Người kia tuân lệnh làm theo. Chó rừng liền tức giận ngài:

– Hôm trước ngài cản trở các con tôi ăn đôi giày, hôm nay ngài lại cản chúng tôi ăn xác chết. Ðược lắm, vào ngày thứ ba kể từ đây, một địch vương sẽ đến bao vây kinh thành, phụ vương ngài sẽ truyền ngài ra trận, họ sẽ chặt đầu ngài. Tôi sẽ uống máu từ cổ ngài cho hả giận: ngài tự biến mình thành kẻ thù của tôi, vậy tôi quyết chí trả thù.

Như vậy chó cái vừa sủa vừa nhục mạ Bồ-tát. Rồi nó đem các con đi.

Vào ngày thứ ba, vị địch vương đến bao vây kinh thành. Vua bảo Bồ-tát:

– Này con thân yêu, hãy ra trận.

– Tâu phụ vương, con đã thấy trước một điềm báo hiệu. Con không thể đi vì sợ rằng con sẽ mất mạng.

– Ngươi sống chết có nghĩa gì đối với ta? Ði ngay!

Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh. Cùng đem đám gia nhân theo, ngài tránh cổng thành nơi địch vương đang đón quân và đi ra bằng một cổng khác ngài đã mở sẵn. Khi ngài ra đi, cả kinh thành như thể bị bỏ trống vì mọi người cùng theo ngài. Ngài đóng quân ở một khoảng đất rộng và chờ đợi.

Vua suy nghĩ: “Phó vương của ta đã bỏ trống kinh thành và chạy trốn với tất cả quân sĩ của ta, còn kẻ thù đang nằm quanh kinh thành. Ta chỉ là kẻ chết rồi”.

Nghe vua cha đã đào tẩu, Bồ-tát vào thành, đánh bại địch vương và chiếm lại quốc độ. Vua cha lúc ấy dựng lều lá bên bờ sông, sống bằng củ quả rừng. Vua và tế sư thường đi tìm trái cây. Còn cận thần Parantapa ở lại với hoàng hậu trong lều. Hoàng hậu lúc ấy đang có thai với vua, nhưng vì thường sống chung với Parantapa nên bà phạm tà hạnh với y.

Một hôm bà bảo với y:

– Nếu đức vua biết, chàng và thiếp đều không sống được đâu. Vậy hãy giết ngài đi.

– Bằng cách nào chứ?

– Ngài thường bảo chàng mang kiếm và áo tắm lúc ngài đi tắm, vậy hãy đem ngài đi xa người hộ vệ tại nơi tắm, rồi chặt đầu ngài và lấy kiếm chặt thân ngài thành nhiều khúc xong chôn xuống đất.

Y đồng ý. Một hôm vị tế sư đã đi ra tìm quả rừng, ông đã trèo lên một cây to gần nơi vua tắm và đang hái trái. Còn vua muốn tắm nên ra bờ suối cùng Parantapa mang thanh kiếm và áo tắm của vua.

Lúc vua sắp tắm, Parantapa muốn giết vua nhân dịp vua không có người hộ vệ, liền nắm cổ vua và nhấc kiếm lên. Vua sợ chết thét lớn. Vị tế sư nghe tiếng kêu và từ trên cây ông thấy rõ Parantapa đang ám sát vua, nhưng ông cũng quá kinh hoàng vội từ cành cây trụt xuống ẩn mình vào bụi rậm.

Parantapa nghe tiếng sột soạt lúc ông trụt xuống, nên sau khi giết vua và chôn xác xong, y suy nghĩ: “Có tiếng gì sột soạt từ cành cây trụt xuống gần đây, kẻ nào vậy?”. Nhưng không thấy ai, y tắm rửa và ra về.

Sau đó vị tế sư bước ra khỏi chỗ ẩn. Nay biết vua đã bị chặt khúc và chôn trong cái hố, ông tắm rửa và vì lo cho sinh mạng của mình, ông giả mù khi trở về lều.

Parantapa thấy ông, liền hỏi việc gì đã xảy ra cho ông. Ông giả vờ không nhận biết y và nói:

– Tâu Ðại vương, tiểu thần trở về với đôi mắt đã mù. Tiểu nhân đã đứng cạnh một tổ kiến trong rừng đầy rắn và hơi thở của một con rắn độc nào đó đã xông vào người tiểu thần.

Parantapa nghĩ vị tế sư đang nói chuyện với y như thể nói với vua vì ông không biết gì nữa, nên yên tâm bảo:

– Này vị Bà-la-môn, đừng lo, ta sẽ chăm sóc ngài.

Rồi y vừa an ủi ông vừa cho ông nhiều quả rừng.

Từ đó chính Parantapa đi kiếm trái cây. Về sau hoàng hậu sinh được một hoàng tử. Khi hoàng tử lớn lên, một hôm bà nói chuyện với Parantapa vào lúc tảng sáng nhân dịp ngồi nhàn nhã:

– Có ai thấy chàng lúc giết vua chăng?

– Không ai thấy ta cả, nhưng ta nghe tiếng động của vật gì trụt xuống từ bụi cây nọ, ta không biếtđó là người hay vật. Tuy thế, bất cứ lúc nào trong lòng ta nổi lên mối lo sợ cũng đều do duyên cớ bụi cây sột soạt kia.

Rồi y ngâm vần kệ đầu nói chuyện với bà:

  1. Lo sợ, kinh hoàng trong trí ta
    Phát sinh ngay cả chính bây giờ
    Ðều do thuở ấy người hay vật
    Lay động bụi cây ở chốn kia.

Hai người ấy tưởng vị tế sư đã ngủ, nhưng ông đang thức và nghe họ nói chuyện.

Một hôm, khi Parantapa đã đi vào rừng hái trái, vị tế sư nhớ đến bà vợ Bà-la-môn của mình, lại ngâm vần kệ thứ hai để than thân:

  1. Nhà vợ thân yêu ở cạnh đây,
    Nhớ thương làm dạ tái tê thay,
    Như Pa-ran hiện đang gầy ốm
    Vì sợ lá cành rung động cây.

Hoàng hậu hỏi ông đang nói gì thế. Ông đáp:

– Thần chỉ suy nghĩ trong dạ mà thôi.

Nhưng một ngày khác, ông lại ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nhà vợ ở Ba-la-nại thành,
    Thiếu nàng, ta héo hắt thân mình,
    Như Pa-ran hiện đang xanh tái
    Vì sợ bụi cây rúng rẩy cành.

Một ngày khác nữa ông lại ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Mắt nàng đen nhánh sáng long lanh,
    Giọng nói, nụ cười mỉm tuyệt xinh,
    Hồi tưởng làm ta tê tái dạ
    Như Pa-ran sợ động cây cành
    .

Theo thời gian, hoàng tử ấu thơ lớn dần đến mười sáu tuổi. Lúc ấy vị Bà-la-môn làm một cây gậy, cùng đi với cậu đến chỗ tắm và mở mắt ra nhìn. Hoàng tử hỏi:

– Này vị Bà-la-môn, ông không mù à?

– Ta không mù, nhưng nhờ cách này ta đã cứu mạng mình. Thế cậu có biết ai là thân phụ cậu không?

– Ta biết chứ.

– Người kia không phải là cha cậu đâu. Cha cậu là vua ở Ba-la-nại, người kia chỉ là kẻ hầu cận của hoàng gia, y đã thông gian với mẹ cậu và giết cha cậu tại chỗ này, rồi chôn xác đây.

Nói vậy xong, ông kéo bộ xương lên chỉ cho hoàng tử thấy. Hoàng tử tức giận hỏi:

– Thế ta phải làm gì bây giờ?

– Cứ đối xử với kẻ kia như cách y đối xử với cha cậu.

Rồi ông trình bày mọi việc cho hoàng tử và trong vài ngày, dạy cho hoàng tử cách dùng kiếm. Sau đó, một hôm hoàng tử cầm kiếm và áo tắm, rồi bảo:

– Cha ơi, chúng ta đi tắm nhé.

Parantapa đồng ý ra đi với cậu. Khi y bước xuống nước, hoàng tử cầm chỏm tóc y bằng tay trái và kiếm trong tay phải, bảo:

– Ngay tại đây, ngươi đã nắm chỏm tóc cha ta và giết ngài trong lúc ngài thét lên. Vậy ta cũng sẽ làm thế với ngươi.

Parantapa sợ chết, gào thét lên và ngâm hai vần kệ:

  1. Chắc tiếng động kia đến với ngươi
    Kể cho ngươi những chuyện xưa rồi:
    Chắc người thuở nọ rung cành lá
    Ðã đến kể ngươi chuyện thiếu thời.
  2. Ý tưởng điên rồ đến với ta
    Ðã cho ngươi biết chuyện bây giờ:
    Ngày xưa làm chứng, người hay vật,
    Ở đó và rung cổ thụ mà.
    Kế tiếp, hoàng tử ngâm vần kệ cuối cùng:
  3. Chính ngươi đã giết phụ vương thân
    Cùng với lời lừa phản dối gian,
    Ngươi dấu thây ngài trong bụi ấy,
    Giờ đây ngươi phải chịu kinh hoàng.

Nói vậy xong, cậu đâm y chết tại chỗ, vùi thây vào đó và lấy cành cây phủ lên. Sau đó rửa sạch kiếm và tắm xong, cậu trở lại lều lá. Cậu kể cho vị tế sư nghe cách cậu đã giết Parantapa và khiển trách mẹ cậu xong, cậu lại hỏi khi cả ba trở về Ba-la-nại:

– Chúng ta sẽ phải làm gì bây giờ?

Bồ-tát phong hoàng đệ làm phó vương, rồi thực hành bố thí và nhiều thiện sự khác, về sau mạng chung ngài tái sinh lên Thiên giới.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Devadatta là vua cha và Ta chính là vua con.

-ooOoo-

Chương VIII

Phẩm Tám Bài Kệ

  1. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền thân Kaccàni)

Mặc áo trắng và tóc xõa vai…,

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người phụng dưỡng mẹ mình.

Chuyện kể rằng đó là một thiện gia nam tử ở Savatthì (Xá-vệ). Khi cha mất, chàng chuyên tâm săn sóc mẹ, hầu hạ mẹ các công việc súc miệng đánh răng, tắm rửa v.v… và đem cháo cơm thức ăn cho mẹ. Bà mẹ bảo: “Này con, có nhiều phận sự khác trong đời gia chủ, con phải cưới một cô gái nhà đàng hoàng, cô ấy sẽ săn sóc mẹ, để rồi con đi làm công việc khác thích hợp hơn”. – “Mẹ ơi, chính vì lợi ích và niềm vui của con mà con hầu hạ mẹ, chứ ai khác có thể hầu để tăng gia sản của ta chứ”. – “Con không màng đến đời sống gia đình. Con muốn phụng sự mẹ, sau khi mẹ qua đời, con sẽ làm ẩn sĩ khổ hạnh.”

Bà mẹ cố nài ép con mãi, và cuối cùng không cần thuyết phục con hay được con chấp thuận, bà cứ đưa về một cô gái con nhà tử tế. Chàng cưới vợ và sống với nàng vì chàng không muốn trái ý mẹ, nên muốn bắt chước, nàng cũng chăm nom mẹ chồng chu đáo. Nhận thấy lòng tận tụy của vợ, chàng đem về cho nàng mọi thức ăn ngon lành mà vị ấy có thể kiếm được.

Theo thời gian, nàng dâu suy nghĩ ngu xuẩn theo kiểu kiêu hãnh của nàng: “Chàng cho ta mọi thức ăn ngon lành chàng kiếm được, chắc hẳn chàng mong muốn tống mẹ đi cho rảnh, vậy ta sẽ tìm cách làm việc đó”. Một hôm nàng bảo:

– Chàng ơi, mẹ mắng tôi lúc chàng đi vắng.

Người chồng không nói gì. Nàng suy nghĩ: “Ta sẽ chọc tức bà già và làm cho con trai bà ấy không chịu nổi mẹ nữa”.

Từ đó nàng đem cháo cho bà hoặc quá nóng hoặc quá lạnh, hoặc quá mặn hoặc quá nhạt. Khi bà lão than phiền cháo quá nóng hay quá mặn, nàng đổ thêm nước lạnh đầy dĩa, rồi khi nghe cháo quá lạnh hoặc quá nhạt, nàng thường kêu to:

– Mới đây mẹ bảo quá nóng và quá mặn, ai chiều chuộng bà cho được.

Lúc tắm rửa, nàng thường dội nước quá nóng lên lưng bà già, nghe bà bảo:

– Con ơi, lưng mẹ bỏng rồi đấy!

Nàng liền dội nước thật lạnh lên bà mẹ, rồi khi nghe bà than phiền, nàng bịa chuyện với hàng xóm:

– Bà già này khi thì bảo nước quá nóng, khi thì bảo nước quá lạnh, ai còn chịu đựng được sự trơ tráo của bà ấy nữa?

Nếu bà già than phiền giường bà đầy rệp, nàng sẽ đem giường ấy ra, và giũ mạnh vạt giường của nàng lên đó rồi mang nó về chỗ cũ, bảo bà:

– Tôi đã giũ nó rồi.

Bà già hiền lành lại bị rận rệp cắn nhiều gấp đôi trước kia, nên phải ngồi suốt đêm và than phiền bị rệp cắn suốt đêm, nàng đáp lại:

– Giường mẹ mới được giũ hôm qua và hôm kia nữa, ai có thể chiều chuộng mọi yêu sách của bà già này chứ?

Muốn làm cho con trai bà phản đối mẹ, nàng lại rải đờm dãi, tóc bạc khắp nơi, rồi khi chàng hỏi ai làm cho nhà cửa bừa bãi dơ bẩn như vậy, nàng thường bảo:

– Mẹ chàng làm đấy, nhưng nếu tôi bảo mẹ đừng làm vậy, thì mẹ lại la lối lên. Tôi không thể ở chung nhà với một bà chằn như vậy, chàng phải quyết định hoặc mẹ hoặc tôi ở lại đây thôi.

Chàng nghe nàng nói vậy liền bảo vợ:

– Nàng ơi, nàng còn trẻ và có thể ở nơi nào tùy ý, muốn đi đâu thì đi nhưng mẹ tôi già yếu, tôi là chỗ tựa của bà. Vậy nàng hãy đi về với người thân thuộc.

Khi nghe vậy nàng sợ hãi nghĩ thầm: “Chàng không thể xa cách người mẹ rất thân yêu đối với chàng. Còn nếu ta về nhà cũ, ta sẽ sống cuộc đời cô đơn khổ sở. Vậy ta muốn hòa giải với chồng và chăm sóc bà như xưa”. Từ đó nàng làm đúng như thời trước.

Một hôm vị cư sĩ này đến Kỳ Viên nghe Pháp, đảnh lễ bậc Ðạo Sư xong, chàng đứng một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có phải chàng vẫn không xao nhãng bổn phận cũ, và vẫn tận tụy chăm sóc mẹ già chăng.

Chàng đáp:

– Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Mẹ con đem về cho con một cô gái để làm vợ trái ý con, nàng ấy đã làm nhiều việc không xứng đáng như vậy.

Rồi chàng kể hết mọi việc cho Ngài nghe:

– Song nàng ấy không thể ly gián mẹ con với con được, nên bây giờ nàng ấy lại chăm sóc bà hết sức cung kính.

Bậc Ðạo Sư nghe chuyện và bảo:

– Ngày nay ông không nghe theo lời vợ, nhưng ngày xưa ông đã bỏ mẹ vì nghe lời vợ xúi giục và nhờ ta đưa bà ấy về lại cho ông chăm nom.

Rồi theo lời thỉnh cầu của chàng, Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một thanh niên trong gia đình nọ hết lòng chăm sóc mẹ già khi cha cậu từ trần, giống như phần duyên khởi chuyện này, các chi tiết cũng được nêu ra đầy đủ như trên. Nhưng trong trường hợp này, khi người vợ bảo nàng không thể sống với bà chằn kia và chàng phải quyết định một trong hai người phải ra đi, thì chàng theo lời vợ cho rằng mẹ mình có lỗi và bảo:

– Mẹ ơi, mẹ luôn gây chiến trong nhà này, từ nay mẹ đi sống nơi khác tùy ý mẹ.

Bà mẹ nghe vậy, vừa khóc vừa đi đến nhà bạn đâu đó, làm thuê chật vật để sống qua ngày. Sau khi bà ra đi, con dâu bà mang thai sinh con trai, nên thường rêu rao với chồng và hàng xóm rằng việc sinh con ấy chưa hề xảy ra trước kia, khi còn có bà chằn ở trong nhà.

Sau khi sinh con, nàng bảo chồng:

– Tôi chưa bao giờ sinh con lúc mẹ chàng còn ở trong nhà, nay tôi đã có con: như thế chàng có thể thấy rõ bà ấy đúng là bà già chằn thuở trước rồi đó.

Bà già nghe chuyện sinh con trai được dâu bà xem là do bà ra khỏi nhà, liền suy nghĩ: “Chắc chắn thần Công chánh đã chết trên đời này, vì nếu không phải như vậy, những kẻ này đã không sinh con trai và sống sung sướng sau khi đánh đuổi mẹ mình: Ta muốn làm lễ cúng tế thần Công chánh đã chết”.

Vì vậy một ngày kia, bà đem mè xay, gạo cùng một cái nồi và muỗng nhỏ, bà ra nghĩa địa đốt lửa trong cái lò làm bằng ba sọ người, rồi bà xuống suối tắm rửa đầu mình, giặt áo quần xong trở lại nơi lò lửa, xõa tóc ra và bắt đầu vo gạo.

Thuở ấy Bồ-tát là Thiên chủ Sakka, và các Bồ-tát luôn chú tâm cảnh giác. Ngay lúc ấy ngài nhìn xuống trần gian và thấy bà già khốn khổ kia đang làm lễ tống táng thần Công chánh như thể thần Công chánh đã chết. Muốn chứng tỏ uy lực của ngài trong sự cứu giúp bà, ngài giáng trần giả dạng một Bà-la-môn du hành trên đường, khi nhìn thấy bà, ngài rời đường cái đến đứng bên bà, bắt đầu câu chuyện bằng cách hỏi:

– Mẹ ơi, người ta thường không nấu cơm trong nghĩa địa. Mẹ định làm gì với cơm và mè này khi nấu xong?

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Mặc áo trắng và tóc xõa vai,
    Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
    Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
    Bà có dùng không lúc chín rồi?

Bà ngâm vần kệ thứ hai nói cho ngài biết:

  1. Ðạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn ăn
    Mè xay và cả món cơm hầm:
    Giờ đây đã chết thần Công chánh,
    Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần.

Thiên chủ, hiện thân của thần Công chánh, đáp vần kệ thứ ba:

  1. Khi quyết định, bà phải nghĩ suy:
    Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
    Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
    Công chánh Thần không thể chết đi.

Nghe ngài nói, bà già ngâm đôi vần kệ tiếp theo:

  1. La-môn, tôi chứng kiến rành rành,
    “Công lý chết rồi.” Tôi phải tin:
    Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
    Hiện giờ hưởng đại phồn vinh.
  2. Dâu của tôi ngày trước hiếm hoi,
    Ðánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
    Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
    Tôi bị lãng quên, bị bỏ rơi.
    Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ thứ sáu:
  3. Không phải đâu, ta sống mãi mà,
    Nay ta giáng thế, chính vì bà,
    Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
    Sẽ hóa tro trong lửa của ta.

Nghe thể bà lão kêu to:

– Than ôi, ngài vừa nói gì thế? Tôi sẽ cố sức giúp cháu tôi khỏi chết.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Thiên chủ, mong sao hợp ý ngài,
    Vì tôi, ngài đến tự trên trời,
    Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
    Ðược sống đời hòa thuận với tôi.

Sau đó Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Ka-ti sẽ mãn nguyện, vì bà
    Bị đánh, song bà tin tưởng ta
    Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
    Sống đời hòa thuận ở trong nhà.

Bấy giờ sau khi nói xong, Sakka Thiên chủ hiện ra đủ mọi vẻ uy nghi của ngài, dùng thần lực đứng trên không và nói:

– Kaccàni, bà đừng sợ, thần lực của ta, con và dâu bà sẽ đến đây đem bà về nhà, hãy sống hòa thuận với chúng.

Rồi ngài trở về cõi của ngài.

Nhờ uy lực của Thiên chủ, con và dâu bà nghĩ đến mọi tính tốt của bà trước kia và đi tìm khắp thôn làng, họ thấy bà đã đi về phía nghĩa địa. Họ theo con đường ấy và gọi bà, khi gặp lại bà, họ quỳ xuống chân bà xin lỗi và được bà tha thứ lỗi lầm cũ.

Bà vui mừng chào đón cháu nội. Vì vậy cả bọn họ cũng hoan hỷ trở về nhà và từ đó sống chung với nhau.

  1. Với con dâu thảo lại vui mừng
    Bà lão Ka-ti đã sống chung,
    Thiên chủ giải hòa xung đột cũ,
    Cháu con săn sóc thật ân cần.

Vần kệ này được cảm tác do Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Sau pháp thoại, bậc Đạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, người cư sĩ phụng dưỡng mẹ mình là người đang phụng dưỡng mẹ ngày nay, người vợ thời ấy là người vợ thời nay và Sakka Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền thân Atthasadda)

Ngày xưa thường gọi chốn này…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một tiếng động kinh hoàng không phân biệt được mà vua xứ Kosala đã nghe lúc nửa đêm. Hoàn cảnh này đã được tả trong Tiền Thân Lohakumbhi, số 314.

Tuy nhiên lần này, khi vua hỏi:

– Bạch Thế Tôn, việc trẫm nghe tám tiếng kêu ấy có mang lại điều gì chăng?

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương đừng sợ hãi: không có mối nguy gì xảy ra cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy. Những âm thanh kinh hoàng khó phân biệt như thế không chỉ một mình Ðại vương nghe được, mà các đế vương ngày xưa cũng đã từng nghe những âm thanh tương tự và dự định theo lời khuyên của các Bà-la-môn dâng tế lễ bốn loại sinh vật, nhưng sau khi nghe các bậc hiền trí khuyên nhủ, các vua ấy đã thả tự do cho bầy súc vật được thâu góp để tế đàn và truyền đánh trống ra lệnh cấm mọi việc sát sinh.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể câu chuyện đời xưa

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn có gia sản đến tám trăm triệu đồng tiền.

Khi lớn lên, ngài học mọi ngành nghệ thuật tại Takkasilà. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài xem xét tất cả các kho tàng, rồi từ bỏ mọi của cải bằng cách bố thí, đoạn trừ tham dục và đến vùng Tuyết Sơn trở thành một vị khổ hạnh chuyên tâm nhập định.

Sau một thời gian, ngài trở về chốn cư trú của quần chúng để tìm muối và dấm, đến tận Ba-la-nại, nghĩ ngơi trong ngự viên. Thời ấy vua Ba-la-nại nghe tám tiếng kêu lớn trong lúc đang ngủ trên vương sàng khoảng nửa đêm: đầu tiên, một con Hạc kêu trong vườn gần hoàng cung ; thứ hai, ngay sau khi Hạc kêu, một con quạ cái kêu từ cổng chuồng voi ; thứ ba, một con mọt kêu ở nóc hoàng cung ; thứ tư, chim Sơn ca thuần dưỡng kêu trong hoàng cung ; thứ năm, một con Nai thuần dưỡng cũng kêu tại chỗ ấy; thứ sáu, một con Khỉ thuần dưỡng cũng kêu tại đó ; thứ bảy, một vị tiểu Thần sống trong hoàng cung cất tiếng kêu than ; và thứ tám, ngay sau khi tiếng kêu cuối cùng ấy, một vị Ðộc Giác Phật thốt ra một âm thanh đầy hoan lạc khi bay qua mái hoàng cung tiến về phía ngự viên.

Vua rất kinh hãi khi nghe tám tiếng kêu trên, hôm sau liền tham vấn các Bà-la-môn. Họ đồng đáp:

– Tâu Ðại vương, tai họa sắp xảy ra với Ðại vương, hãy cho phép chúng thần dâng lễ tế đàng ngoài hoàng cung.

Rồi khi được vua cho phép họ làm điều sở thích, họ hoan hỷ đến và bắt đầu chuẩn bị tế đàn. Bầy giờ, một đệ tử trẻ tuổi của vị tế sư Bà-la-môn trưởng thượng rất thông thái đa văn, chàng thưa với thầy:

– Bạch Tôn sư, không nên gây nhiều việc sát hại sinh vật độc ác và thô bạo như vậy.

– Này đệ tử, con biết gì về việc này chứ? Cho dẫu chẳng có gì khác xảy ra, chúng ta cũng được ăn một mẻ cá thịt no nê thỏa thích!

– Bạch Tôn sư, đừng vì cái bụng mà tạo ác nghiệp đưa đến tái sinh trong địa ngục.

Nghe vậy, các Bà-la-môn kia tức giận vị đệ tử muốn làm hỏng các mối lợi của họ.

Vị đệ tử sợ hãi đáp:

– Thôi được, xin cứ tìm cách lấy thật nhiều cá thịt để ăn.

Rồi chàng rời kinh thành đi tìm một vị khổ hạnh thuần thành có khả năng ngăn cản vua việc tế đàn kia. Chàng vào ngự viên và thấy Bồ-tát, liền kính chào ngài và hỏi:

– Tôn giả không có lòng bi mẫn các sinh vật sao? Vua đã ra lệnh làm tế đàn gây chết chóc cho nhiều sinh vật, Tôn giả không muốn giải thoát cho cả đám sinh linh ấy sao?

Này thanh niên Bà-la-môn, ta không biết vua nước này, vua cũng không biết ta.

– Bạch Tôn giả, Tôn giả có biết hậu quả của các âm thanh mà nhà vua đã nghe sẽ ra sao chăng?

– Ta biết chứ.

– Nếu Tôn giả biết, tại sao Tôn giả không bảo cho vua?

– Này thanh niên Bà-la-môn, làm sao ta có thể kiêu hãnh đến bảo vua: “Ta biết!” đã chứ? Nếu vuađến hỏi ta, ta sẽ báo cho ngài.

Vị Bà-la-môn trẻ tuổi vội vàng đến cung đình, và khi được hỏi có việc gì, chàng bảo:

– Tâu Ðại vương, có một vị khổ hạnh biết nguyên nhân các âm thanh mà Ðại vương đã nghe. Vị ấy đang ngồi trên vương tọa trong ngự viên và bảo vị ấy sẽ trình bày với Ðại vương nếu Ðại vương hỏi. Xin Ðại vương hãy làm như vậy.

Vua vội vàng đến kính lễ vị khổ hạnh và sau khi ân cần chào nhau, vua ngồi xuống và hỏi:

– Có thật Tôn giả biết nguyên nhân tám tiếng kêu mà trẫm đã nghe chăng?

– Tâu Ðại vương, phải.

– Vậy xin Tôn giả nói cho trẫm.

– Tâu Ðại vương, không có gì nguy hiểm liên hệ đến các âm thanh kia. Trước hết, có một con Hạc trong ngự viên cũ của Ðại vương thiếu thức ăn nên đói lả gần chết và thốt tiếng kêu ấy.

Như thế, do tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng kêu của con Hạc, vừa ngâm vần kệ đầu:

Tiếng Hạc:

  1. Ngày xưa thường gọi chốn này
    Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
    Là nơi cư trú Hạc vương,
    Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
    Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
    Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.

– Tâu Ðại vương, đó là tiếng kêu của con Hạc trong cơn đói lả, nếu Ðại vương muốn nó khỏi đói, xin hãy ra lệnh dọn vườn sạch sẽ và đổ nước đầy ao.

Vua liền bảo một vị triều thần sai người làm việc này.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

Tiếng Quạ:

  1. Anh chàng một mắt Ban-ra
    Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
    Bầy chim mới nở, than ôi!
    Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?

Rồi ngài hỏi vua về tên của người trưởng đám quản tượng ở chuồng voi.

– Thưa Tôn giả, tên y là Bandhura.

– Tâu Ðại vương, y chỉ có một mắt ư?

– Thưa Tôn giả, phải.

– Tâu Ðại vương, có một con Quạ làm tổ trên cổng chuồng voi, nó đẻ trứng tại đó và đúng kỳ hạn trứng đã nở thành chim non. Mỗi khi người quản tượng ra vào chuồng voi để chăm sóc voi, y hay lấy cái móc đập vào con Quạ và tổ chim non để phá tổ. Con Quạ trong lúc nguy khốn chỉ muốn mổ mắt y nên thốt ra tiếng kêu ấy. Nếu Ðại vương có thiện ý với nó, xin hãy truyền Bandhura vào chầu và cấm y phá tổ quạ.

Vua truyền gọi Bandhura vào, khiển trách y và giao chuồng voi cho kẻ khác.

– Tâu Ðại vương, trên nóc hoàng cung có một con Mọt gỗ, nó đã ăn hết gỗ sung tại đó và không thể ăn thứ gỗ cứng hơn. Vì thiếu thức ăn và không thể bò ra ngoài, nên nó thốt tiếng kêu thứ ba để than vãn. Ðại vương không cần sợ nó.

Rồi nhờ tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng Mọt gỗ kêu vừa ngâm vần kệ thứ ba:

– Tiếng Mọt gỗ:

  1. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
    Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co,
    Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
    Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!

Vua bảo một cung nhân tìm cách giải thoát con mọt.

– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con chim Sơn ca thuần dưỡng nào chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

Tâu Ðại vương, con Sơn ca ấy héo mòn vì mong mỏi về rừng mỗi khi nó nhớ lại quãng đời cũ:

“Làm sao rời khỏi lồng này,
Làm sao trở lại rừng ấy thân tình?”

Vì thế nó thốt lên tiếng kêu thứ tư, xin Ðại vương chớ lo sợ việc ấy.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:

Tiếng Sơn ca:

  1. Ước gì rời chốn cung đình!
    Ước gì giải thoát thân mình tự do!
    Hân hoan bay lượn rừng già,
    Rồi ta xây tổ của ta trên cành.

Ngâm kệ xong, ngài thêm:

– Tâu Ðại vương, chim Sơn ca ấy đang mòn mỏi đợi chờ, xin Ðại vương thả nó ra.

Vua nghe theo lời ngài.

– Tâu Ðại vương, trong cung thất có con Nai thuần dưỡng nào chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

– Tâu Ðại vương, con Nai ấy là trưởng đoàn, nó nhớ nai cái và mòn mỏi vì nặng tình thương nai cái nên nó thốt tiếng kêu thứ năm. Ðại vương không nên sợ hãi chuyện ấy.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ năm:

Tiếng Nai:

  1. Ước gì rời chốn cung đình!
    Ước gì giải thoát thân mình vui sao!
    Uống dòng nước suối trong veo,
    Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!

Bậc Ðại Sĩ làm cho con Nai được giải thoát và nói tiếp:

– Tâu Ðại vương, có con Khỉ thuần dưỡng nào ở trong cung chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

Con Khỉ ấy là chúa đàn khi ở vùng Tuyết Sơn, nó thích thú bầu bạn với đám khỉ cái. Trước kia nó được một thợ săn tên Bharata đem về đây. Nay nó đang mòn mỏi mong ước trở về chốn cư ngụ xưa nên nó thốt tiếng kêu ấy. Xin Ðại vương đừng sợ chuyện này.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu:

Tiếng Khỉ:

  1. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
    Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô,
    Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
    Ước mong phước phận lão gia tràn trề!

Bậc Ðại Sĩ bảo thả con Khỉ ra và tiếp tục nói:

– Tâu Ðại vương, có vị tiểu Thần nào giữ kho báu ở trong cung chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ.

– Tâu Ðại vương, vị ấy nhớ lại đời sống cũ với một nữ thần, vợ vị ấy, nên trong lúc đau khổ vì dục vọng đã thốt lên tiếng kêu thứ bảy. Một hôm vị ấy cùng vợ trèo lên đỉnh non cao. Hai vị lượm hoa và tô điểm cho nhau nhiều loại hoa đủ màu sắc hương vị đặc biệt, nên không hề lưu ý rằng mặt trời đang lặn và bóng đêm bao trùm trong khi họ leo xuống. Nữ thần bảo: “Này chàng, trời tối rồi, chàng hãy xuống cẩn thận kẻo ngã”. Và vừa nắm tay chồng, nàng vừa đưa chồng xuống. Chính vì nhớ lại các lời nói của vợ mà vị Thần này thốt tiếng kêu, Ðại vương không cần phải sợ chuyện ấy.

Do tri kiến của ngài, ngài vừa giải thích trường hợp này một cách chính xác vừa ngâm vần kệ thứ bảy:

Tiếng vị Thần:

  1. Bóng đêm dày đặc kéo về
    Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
    “Xin chàng đừng ngã trượt chơn”,
    Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.

Như vậy Bậc Ðại Sĩ giải thích tại sao vị Thần thốt tiếng kêu và ngài bảo thả vị ấy ra, rồi nói tiếp:

– Tâu Ðại vương, còn âm thanh thứ tám là tiếng reo cực lạc. Một vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamùla biết rằng các hành (các điều kiện tái sinh) sắp đoạn tận đốc với vị ấy, liền đến nơi cư trú của quần chúng, và suy nghĩ: “Ta muốn chứng đắc Niết-bàn vô dư y trong ngự viên của Ba-la-nại. Quân hầu của vua sẽ chôn cất ta, làm lễ cúng dường và cung kính xá lợi của ta, nhờ vậy sẽ sinh lên cõi thiên”.

Vị ấy dùng thần lực bay đến đây và ngay khi chạm mái hoàng cung, vị ấy liền buông xả gánh nặng sinh tử và ca khúc hoan lạc làm chói sáng lối vào cảnh giới Niết-bàn.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám do vị Ðộc Giác Phật cảm tác:

Tiếng vị Ðộc Giác:

  1. Tái sinh đã tận với ta,
    Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
    Ðây đời cuối ở địa cầu
    Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.

Cùng với những lời cực lạc này, vị ấy đến ngự viên và đắc Niết-bàn vô dư y dưới gốc cây Sàla đang nở rộ hoa.

Rồi Bậc Ðại Sĩ đưa vua đến nơi vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn và chỉ cho vua phần nhục thân của Ngài. Thấy vậy, vua cùng đoàn quân đông đảo đem hương hoa đến cung kính làm lễ cúng dường.

Theo lời khuyên của Bồ-tát, vua đình chỉ việc tế đàn, cho mọi sinh vật được sống, truyền rao trống lệnh khắp kinh thành cấm sát sinh, cử hành đại lễ suốt bảy ngày, rồi làm lễ hỏa táng thân vị Ðộc Giác Phật rất trọng thể trên hỏa đài chất đầy hương liệu và xây tháp ở ngã tư đường.

Bồ-tát thuyết giảng Chánh pháp cho vua và khuyên nhủ vua tinh cần. Sau đó ngài trở về Tuyết Sơn, thực hành Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và không hề gián đoạn Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thưa Ðại vương, không có gì nguy hiểm cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy, vậy hãy đình chỉ tếđàn và ban sự sống cho các sinh vật này.

Rồi vua bảo truyền trống lệnh đi khắp kinh thành tha mạng các súc vật.

Xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy nhà vua là Ànanda, vị đệ tử Bà-la-môn là Sàriputta và nhà khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền thân Sulasà)

Này đây là chiếc vòng vàng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một nữ tỳ của ông Cấp Cô Ðộc.

Chuyện kể rằng vào một ngày lễ hội, khi nàng sắp đi cùng đám gia nhân đến một lạc viên, nàng xin nữ chủ nhân Punnalakkhanadevì (Phước Tướng) cho nàng một món nữ trang để đeo. Bà chủ cho nàng một món tư trang của bà trị giá một trăm ngàn đồng tiền. Nàng đeo vào cổ và cùng đám gia nhân đi đến chỗ vui chơi. Một tên trộm thèm món nữ trang kia, với dự định giết nàng để đoạt của, hắn lân la đến nói chuyện với nàng và tại khu vườn kia, hắn cho nàng ăn cá thịt và uống rượu mạnh. Nàng suy nghĩ: “Ta chắc chàng làm vậy vì chàng thích ta”. Vào buổi chiều tối khi mọi người nằm xuống nghỉ ngơi sau các cuộc chơi, nàng đứng dậy đi tìm hắn. Hắn bảo:

– Này cô nương, chỗ này không kín đáo, ta hãy đi xa hơn một chút.

Nàng suy nghĩ: “Bất cứ việc gì thầm kín đều có thể xảy ra tại nơi này. Chắc chắn anh chàng muốn giết ta và đoạt món nữ trang ta đang đeo. Vậy ta sẽ dạy anh chàng một bài học”. Vì thế nàng bảo:

– Thưa Tôn ông, em đang khát nước khô cổ họng vì uống rượu mạnh. Xin hãy kiếm cho em một ít nước.

Rồi đưa hắn đến giếng, nàng vừa bảo hắn kéo nước vừa chỉ cho hắn sợi dây thừng và chiếc gàu. Tên trộm thả gàu xuống. Rồi ngay khi hắn cúi mình để kéo nước lên, cô nữ tỳ, vốn rất lực lưỡng, liền đẩy mạnh hắn với đôi bàn tay và hất hắn xuống giếng. Nàng bảo:

– Mi chẳng chết vì cách này đâu.

Rồi ném một cục gạch lớn trên đầu hắn. Hắn chết liền tại chỗ. Khi nàng trở về thành và trả lại bà chủ món nữ trang, nàng bảo:

– Con suýt bị giết hôm nay vì món nữ trang ấy,

Rồi nàng kể toàn thể câu chuyện. Bà chủ kể chuyện với ông Cấp Cô Ðộc và ông trình với đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này gia chủ, đây không phải là lần đầu người nữ tỳ có trí thông minh phát xuất kịp thời, mà ngày xưa cũng vậy. Ðây không phải lần đầu giết kẻ ấy, mà trước kia cũng có lần giết nó.

Và theo lời của ông Cấp Cô Ðộc, ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, có một kiều nữ của kinh thành tên gọi là Sulasà, làm chủ một đoàn năm trăm kỹ nữ sang trọng, giá mỗi đêm hưởng lạc với nàng là một ngàn đồng tiền.

Cũng trong kinh thành này có một tướng cướp tên Sattuka, khỏe mạnh như voi, vẫn thường đột nhập các nhà giàu vào ban đêm để cướp của thỏa thích. Dân trong thành tụ tập lại lập cáo trạng tâu với vua.

Vua ra lệnh quân lính canh đóng rải rác khắp nơi để bắt tướng cướp và xử trảm. Họ trói tay hắn rađằng sau và vừa dẫn hắn ra pháp trường, vừa đánh roi khắp mình mẩy. Lúc ấy nàng Sulasà đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường, thấy tướng cướp bỗng nhiên đâm ra si tình hắn và suy nghĩ: “Nếu ta có thể giải nguy cho chàng chiến sĩ lực lưỡng này, ta sẽ từ bỏ cuộc đời xấu xa hiện nay của ta và sống chân chánh với chàng”.

Theo cách được tả trong Tiền thân Kanavera, số 318, nàng lấy lại tự do cho hắn bằng cách gởi một ngàn đồng tiền vàng và đến tặng viên thị trưởng rồi sau đó sống hạnh phúc hòa hợp với hắn. Sau chừng ba bốn tháng, tướng cướp suy nghĩ: “Ta sẽ chẳng bao giờ có thể ở một nơi như vầy, nhưng ta không thể ra đi tay không. Nữ trang của Sulasà trị giá một trăm ngàn đồng tiền. Ta muốn giết nàng và lấy của”.

Vì vậy một hôm hắn bảo nàng:

– Ái nương ơi, khi ta đang bị quân lính nhà vua kéo đi, ta hứa cúng lễ vật cho một vị thần cây trên đỉnh núi, nay vị ấy đang đe dọa ta vì ta không trả lễ. Vậy chúng ta hãy đi dâng lễ thần.

– Thưa lang quân, tốt lắm, chúng ta hãy chuẩn bị lễ vật gửi đi cúng thần.

– Này ái nương, gửi lễ vật cúng thần không công hiệu gì đâu. Chúng ta hãy cùng đi dâng lễ mang theo một món tư trang và đám hầu cận.

– Thưa lang quân, được rồi, chúng ta cùng làm vậy.

Hắn bảo nàng chuẩn bị lễ vật và khi họ đến chân núi, hắn bảo:

– Này ái nương, vị thần này thấy đông người sẽ không nhận lễ vật, vậy hai ta cùng đi lên núi dâng lễ.

Nàng thỏa thuận và hắn bảo nàng mang chiếc bình. Phần hắn đã chuẩn bị hết sức chu đáo. Khi cả hai đến đỉnh núi, hắn đặt lễ vật xuống gốc cây mọc cạnh bờ vực cao gấp trăm lần một người thuờng, và bảo:

– Này ái nương, ta không đến đây để dâng lễ vật, mà ta đến với ý định giết nàng rồi trốn đi với mọi tư trang của nàng, vậy hãy cởi ra hết và góp thành một bó trong áo khoác của nàng kia.

– Này lang quân tại sao chàng muốn giết thiếp?

– Vì tiền của nàng đấy.

– Lang quân ơi, hãy nhớ lại mọi việc tốt lành mà thiếp đã làm cho chàng. Khi chàng bị xiềng tay chân và kéo đi xử trảm, thiếp đã bỏ một anh chàng nhà giàu chỉ vì chàng và trả một số tiền lớn để cứu chuộc chàng. Dù thiếp có kiếm được một ngàn đồng tiền mỗi ngày, thiếp cũng không nhìn đến một nam nhân nào khác. Thiếp đã làm ân nhân của chàng như vậy. Xin chàng đừng giết thiếp. Thiếp nguyện trao cho chàng thật nhiều tiền và làm nô tỳ cho chàng.

Cùng với lời khẩn cầu này, nàng ngâm vần kệ đầu:

  1. Này đây là chiếc vòng vàng,
    Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
    Lấy đi tất cả chàng ôi,
    Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng!

Khi ấy Sattuka ngâm vần kệ thứ hai phù hợp với mục đích của hắn, đó là:

  1. Ðể vàng ngọc xuống, kiều nương,
    Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
    Ta nay muốn giết nàng liền
    Vì ta không chắc hưởng tiền hồi môn
    !

Trí khôn của Sulasà xuất hiện kịp thời, nàng suy nghĩ: “Tên cướp này không muốn cho ta sống, vậy ta sẽ đoạt mạng hắn trước bằng cách ném hắn xuống vực sâu”, và nàng ngâm hai vần kệ tiếp:

  1. Suốt bao năm tháng lớn khôn,
    Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
    Thiếp thề giữa cõi phàm trần
    Không người nào đã thiết thân hơn chàng.
  2. Ðến đây lần nữa cuối cùng,
    Thiếp xin kính lễ trong vòng bàn tay,
    Chẳng bao giờ ở đời này
    Ðôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng!

Sattuka không thể hiểu được mục đích của nàng, liền nói:

– Tốt lắm, này ái nương, hãy đến ôm ta trong tay nàng.

Salasà đi vòng quanh hắn cung kính cuối chào ba lần, vừa hôn hắn vừa bảo:

– Này lang quân, bây giờ thiếp sắp đảnh lễ chàng tứ phía.

Nàng đặt đầu nàng lên chân hắn, vái chào hai bên, xong đi vòng ra phía sau hắn như thể sắp vái chào hắn tại đó, rồi với sức mạnh như voi, nàng nắm hai cẳng hắn ném hắn lộn ngược đầu xuống dưới vực thẳm của tử thần cao gấp trăm ngàn lần một người thường. Hắn tan thân và chết tại chỗ.

Thấy việc này, vị thần trên đỉnh núi ngâm các vền kệ sau:

  1. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
    Không dành riêng với bọn nam nhi,
    Nữ nhi có thể nhiều minh trí
    Xuất hiện trong tình thế hiểm nguy.
  2. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
    Không dành riêng với bọn nam nhi,
    Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
    Dự định làm công việc kịp thì.
  3. Cô nàng bày tỏ trí khôn ngoan
    Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
    Ðã giết anh chàng này chẳng khác
    Giết con nai với chiếc cung giương.
  4. Người nào khi gặp cảnh cùng đường,
    Không thể vươn lên để thoát thân
    Sẽ ngã nhào như tên trộm ngốc
    Ngã vào trong vực thẳm tan xương.
  5. Còn kẻ tinh nhanh ấy sự tình
    Hiểm nguy đến với số phần mình,
    Như nàng được thoát thân ra khỏi
    Cừu địch bên mình đáng hãi kinh.

Như vậy Sulasà đã giết tên cướp nọ. Khi nàng xuống núi và đứng giữa đám hầu cận, họ hỏi chồng nàng đâu. Nàng bảo:

– Ðừng hỏi ta nữa!

Rồi leo lên xe, nàng đi thẳng về kinh thành.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy hai kẻ ấy chính là hai người bây giờ, và vị Thần núi ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền thân Sumangala)

Ý thức giận hờn, nét mặt cau…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khuyến giáo một vị vua. Trong dịp này, theo lời yêu cầu của vua, Bậc Ðạo Sư kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bố-tát được sinh làm hoàng tử của một chánh hậu. Khi lớn lên, vua cha băng hà, ngài lên làm vua và thực hành đại bố thí. Ngài có một người giữ ngự viên tên là Sumangala.

Thuở ấy một vị Ðộc Giáo Phật rời động Nandamùla để du hành khất thực, và khi đến Ba-la-nại, Ngài ở lại trong ngự viên. Hôm sau Ngài vào thành Khất thực. Vua đón Ngài với vẻ ân cần đặc biệt, mời Ngài vào cung ngồi trên bảo tọa, thiết đãi đủ món ăn thượng vị, loại cứng loại mềm, và nhận lời tùy hỷ công đức của Ngài xong, liền khẩn cầu Ngài hứa một lời rồi truyền đưa Ngài trở lại ngự viên.

Sau bữa điểm tâm, vua thân hành đền sắp đặt nơi cư trú để Ngài ở suốt ngày đêm và cho người giữ ngự viên Sumangala đến hầu cận Ngài xong, mới thở về thành. Sau đó vị Ðộc Giác Phật thường ăn uống tại cung vua và ở lại ngự viên một thời gian dài, còn Sumangala vẫn cung kính hầu hạ Ngài.

Một hôm Ngài ra đi, bảo Sumangala:

– Ta sắp đi đến làng kia vài ngày, song ta sẽ trở lại đây. Hãy trình với đức vua.

Sumangala liền trình lên vua việc này. Sau vài ngày ở tại làng kia,vị Ðộc Giác Phật trở lại ngự viên vào buổi chiều tối.

Sumangala không biết Ngài trở lại, nên cũng đã đi về nhà. Vị Ðộc Giác Phật cất y bát, và sau khi dạo chơi giây lát, Ngài ngồi xuống một phiến đá.

Hôm ấy có vài người khách lạ đến nhà người giữ ngự viên. Muốn nấu món súp và cà-ri đãi khách, y cầm cung đi giết một con nai nuôi trong ngự viên. Y đang tìm nai thì chợt thấy vị Ðộc Giác Phật, tưởng đó là một con nai lớn, y nhắm một mũi tên và bắn Ngài. Vị Ðộc Giác Phật mở khăn trùm đầu ra và gọi:

– Sumangala!

Vô cùng xúc động, Sumangala đáp:

– Thưa Tôn giả, con không biết Tôn giả đã về nên bắn Tôn giả vì tưởng là nai. Xin Tôn giả tha thứ cho con.

– Ðược lắm, nhưng ông sẽ làm gì bây giờ? Này, hãy rút mũi tên ra mau!

Y đảnh lễ rồi rút mũi tên ra. Vị Ðộc Giác Phật cảm thấy vô cùng đau đớn và đắc Niết-bàn vô dư y ngay tại đó. Người giữ vườn nghĩ rằng vua sẽ không tha thứ nếu biết chuyện này, y liền đem vợ con trốn đi.

Nhờ thần lực, cả kinh thành đều biết tin vị Ðộc Giác Phật đã đắc Niết-bàn và mọi người vô cùng xúc động. Hôm sau một số người vào ngự viên, thấy di hài của Ngài liền tâu trình vua rằng người giữ ngự viên đã chạy trốn sau khi giết vị Ðộc Giác Phật.

Vua cùng đông đảo tùy tùng đến lễ bái di hài ấy suốt bảy ngày, rồi hỏa táng trọng thể xong, lấy xá-lợi và xây tháp thờ. Sau đó vua vẫn thường cúng dường tháp xá-lợi và cai trị đúng Pháp.

Năm sau, Sumangala quyết đi tìm hiểu xem vua nghĩ về việc này ra sao, y đến yết kiến và hỏi một vị triều thần để xem vua nghĩ gì về y. Vị triều thần ca ngợi Sumangala trước mặt vua, nhưng vua làm như thể không nghe gì cả. Ông không nói thêm nữa, nhưng sau báo cho Sumangala biết vua không hài lòng về y.

Một năm sau nữa, y lại đến và năm thứ ba, y đem vợ con đến. Vị triều thần biết vua đã nguôi giận nên bảo Sumangala ở cung môn và tâu vua rằng Sumangala đã đến chầu. Vua truyền y vào, sau nghi thức chào mừng, vua hỏi:

– Này Sumangala, tại sao ngươi giết vị Ðộc Giác Phật là người mà ta đang cúng dường để tạo công đức?

– Tâu Ðại vương, tiểu thần không cố ý giết Ngài, nhưng chỉ vì duyên cớ này mà tiểu thần phạm tội.

Rồi y kể lại chuyện cũ. Vua bảo y đừng sợ, và vừa trấn an y vừa cho y giữ chức ngự viên như cũ.

Sau đó triều thần hỏi:

– Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không trả lời khi nghe những lời ca ngợi Sumangala hai lần trước và lần thứ ba nghe chuyện, Ðại vương lại truyền y vào chầu và tha thứ cho y?

Vua phán:

– Này Hiền khanh, một vị vua hành động vội vã lúc nóng giận là điều sai lầm, vì vậy trẫm im lặng lần đầu, và lần thứ ba khi trẫm hiểu mình đã nguôi giận, mới truyền gọi Sumangala.

Về việc này ngài ngâm các vần kệ nêu rõ phận quân vương:

  1. Ý thức giận hờn, nét mặt cau,
    Quân vương đừng giáng trận đòn đau,
    Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
    Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu.
  2. Ý thức tính tình bớt khắt khe,
    Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
    Khi nào vụ án đà thông hiểu,
    Hãy xác định các hình phạt thích nghi.
  3. Không giận mình và chẳng giận ai,
    Biết phân biệt rõ đúng và sai,
    Dù vua ngự trị trên quần chúng,
    Ðức hạnh khiến vua vĩ đại hoài.
  4. Vua chúa buông lung các việc công,
    Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
    Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
    Ðịa ngục đợi chờ lúc mạng chung.
  5. Người nào yêu đạo đức hiền nhân,
    Trong sạch vẹn toàn khẩu, ý, thân,
    Ðầy đủ từ tâm, an tịnh quý,
    Vượt qua hai thế giới phàm trần.
  6. Trẫm là vua chúa của thần dân,
    Sân hận không ngăn cản ý tâm,
    Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
    Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng.

Như vậy vua đã nêu rõ mọi đức tính của mình qua sáu vần kệ, tất cả triều thần đều hoan hỷ và tán thán các công hạnh vua qua lời tung hô:

– Các pháp thực hành đức hạnh ưu thắng như vậy thật xứng với Ðại vương!

Sau khi cả triều đình tán thán xong, Sumangala cung kính đảnh lễ vua và sau đó ngâm ba vần kệ ca ngợi ngài:

  1. Uy lực vinh quang của Ðại vương,
    Ðừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
    Thoát ly sân hận và kinh hãi,
    Trị nước trăm năm mãi lạc an.
  2. Vương tử có đầy đức tính trên
    Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
    Trị toàn dân với lòng công chánh,
    Khi bỏ cõi đời, đến cõi thiên.
  3. Lời nói thật chân với thiện hành,
    Dùng phương tiện tốt đạt công thành,
    Trấn an quần chúng còn dao động,
    Như đám mây mưa thật mát lành.

*

Sau bài Pháp thoại liên hệ việc giáo hóa vua Kosala, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn vô dư y, Sumangala là Ànanda và vua chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền thân Gangamàla)

Ðịa cầu nòng rực như than..,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành các ngày trai giới.

Một hôm bậc Ðạo Sư dạy các cư sĩ đang giữ ngày trai giới và bảo:

Này các cư sĩ, giới hạnh của các ông thật tốt lành, khi giữ ngày trai giới, các vị phải bố thí, trì giới không sân hận, khởi tâm từ và thực hành mọi phận sự trong ngày ấy. Các bậc trí nhân ngày xưa đạt đại vinh hiển dầu chỉ nhờ giữ được một phần các ngày trai giới.

Và theo lời thỉnh cầu của họ, Ngài kể câu chuyện đời xưa

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một phú thương trong kinh thành tên là Suciparivàra, gia sản lên tới tám trăm triệu đồng, chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác. Vợ con, toàn thể gia nhân của ông cho đến bọn chăn trâu bò đều giữ sáu ngày trai giới mỗi tháng.

Thời ấy Bồ-tát được sinh vào một nhà nghèo kiếm kế sinh nhai chật vật bằng cách làm thuê. Vì mong có việc làm, ngài đến nhà phú thương Suciparivàra, khi chào chủ xong, ngồi xuống một bên, và được hỏi đến đây có việc gì, ngài đáp:

– Tôi đến để xin việc làm công trong nhà ông.

Thời ấy, khi những người làm công đến, vị phú thương thường bảo họ:

– Trong nhà này mọi công nhân đều giữ ngày trai giới, nếu chú có thể giữ giới thì chú mới có thể làm việc cho ta.

Song đối với Bồ-tát, vị ấy không tỏ vẻ muốn nói đến chuyện giữ giới mà chỉ bảo:

– Tốt lắm, này thiện nam, chú có thể làm việc cho ta và trù liệu tiền lương của chú.

Từ đó Bồ-tát làm mọi công việc của phú thương một cách nhẫn nại nhiệt tình, không hề nghĩ đến nỗi mệt nhọc riêng mình, ngài đi làm từ sáng sớm đến chiều tối trở về.

Một hôm dân chúng làm lễ hội ở kinh thành, vị phú thương bảo người tỳ nữ:

– Hôm nay là ngày hội, cô phải nấu cơm cho công nhân thật sớm. Họ sẽ ăn sớm và giữ giới kiêngăn từ đó đến hết ngày.

Bồ-tát dậy sớm và đi làm việc. Trước đó không ai bảo ngài phải giữ giới kiêng ăn hôm ấy. Các công nhân kia ăn từ sớm và kiêng ăn. Vị phú thương cùng vợ con, gia nhân đều giữ giới kiêng ăn, mọi người đều trở về nhà riêng ngồi suy tư về các giới điều. Bồ-tát làm việc suốt ngày xong trở về nhà lúc trời tối. Người nữ tỳ đầu bếp đưa cho ngài nước rửa tay và một dĩa cơm lấy từ trong nồi. Bồ-tát bảo:

– Vào giờ này ngày thường rất ồn ào, thế mọi người đi đâu cả hôm nay?

– Họ đang giữ giới kiêng ăn và mỗi người đều về nhà riêng rồi.

Ngài suy nghĩ: “Ta không muốn làm người duy nhất phạm giới giữa nhiều người giữ giới như vậy”. Vì thế ngài đi hỏi vị phú thương xem có thể giữ giới kiêng ăn bằng cách thi hành mọi phận sự vào giờ đó không. Ông bảo ngài không thể thực hành mọi phận sự, bởi vì việc đó đã không được làm từ sáng sớm nhưng một nửa phận sự thì có thể làm được. Ngài đáp:

– Mong được như vậy.

Và thực hành phận sự ngay trước mặt chủ nhân, ngài bắt đầu giữ giới kiêng ăn, rồi về nhà nằm suy nghĩ về các giới điều. Vì ngài không ăn gì suốt ngày, nên vào canh cuối ngài cảm thấy đau nhói như dao đâm.

Vị phú thương mang cho ngài một số thuốc giảm đói và bảo ngài dùng chúng, nhưng ngài bảo:

– Tôi sẽ quyết không phá giới kiêng ăn, tôi đã nguyện trì giới dù phải thiệt mạng.

Cơn đau đớn trở nên mãnh liệt và đến tảng sáng ngài bất tỉnh. Họ bảo ngài sắp chết nên đem ngài ra ngoài, đặt vào một nơi an nghỉ. Ngay lúc lấy, vua Ba-la-nại trên chiếc vương xa cùng đoàn hộ tống đông đảo đến nơi ấy trong lúc diễu quanh kinh thành. Bồ-tát thấy vẻ huy hoàng của vua, sinh lòng ao ước làm vua và cầu nguyện điều ấy. Khi mạng chung, do kết quả việc giữ nửa ngày trai giới trên, ngài được nhập mẫu thai vị chánh hậu.

Bà trải qua đủ mọi nghi lễ của thời kỳ thụ thai rồi sinh một hoàng nam sau mười tháng. Hài nhiđược đặt tên là Udaya. Khi lớn lên, vương tử trở nên hoàn hảo trong mọi ngành học thuật, nhờ trí hồi tưởng các đời trước, ngài nhớ lại các công hạnh thuở xưa và nghĩ rằng chính nhờ một thiện nghiệp nhỏ tạo nên một phước báo lớn, ngài thường hát khúc ca hoan lạc nhiều lần. Khi vua cha băng hà, ngài được trao cả vương quốc và nhận thấy cảnh đại vinh quang của mình, ngài lại hát khúc ca hoan lạc cũ.

Một hôm dân chúng chuẩn bị lễ hội trong kinh thành. Một đám đông định tụ tập nhau định bày trò vui chơi giải trí. Một người gánh nước sống gần cổng Bắc thành Ba-la-nại đã dấu nửa đồng xu trong viên gạch ở bức tường bao quanh thành. Y sống chung với một người đàn bà nghèo khổ cũng làm nghề gánh nước. Vợ y bảo:

– Chàng ơi, hôm nay có lễ hội trong thành phố, nếu chàng có tiền, ta hãy đi vui chơi nhé.

– Nàng ơi, ta có tiền đấy.

– Bao nhiêu?

– Nửa xu.

– Ở đâu?

– Trong viên gạch bên cổng Bắc, cách đây mười hai do-tuần (dặm), ta chôn tiền tại đó. Song nàng có gì trong tay chăng?

– Thiếp có đấy.

– Bao nhiêu?

– Nửa xu.

– Vậy nửa xu của nàng và của ta hợp thành một xu. Ta sẽ đi mua một tràng hoa với một phần ba số tiền ấy, hương liệu với một phần ba và rượu nồng với một phần ba. Nàng hãy đi tìm nửa xu ở nơi cất tiền đem đến đây.

Y thích thú với ý tưởng do lời vợ gợi lên, liền bảo:

– Nàng ơi, đừng lo gì, ta sẽ đi tìm nửa xu về đây.

Rồi y ra đi. Y mạnh như voi, vừa đi khoảng hơn sáu dặm, và mặc dù trời giữa trưa, y vẫn rảo bước trên cát nóng như thể được rải than vừa tắt lửa vì y rất thích thú với nỗi ham muốn được bạc. Trong bộ y phục cũ màu vàng điểm thêm lá thốt nốt giắt bên tai, y vừa đi ngang sân chầu để theo đuổi mục đích của mình vừa ca hát.

Vua Udaya đứng bên cửa sổ mở, thấy y đi đến, không biết y là ai mà lại coi thường nắng gió như vầy, vừa đi vừa hát, liền bảo nô tỳ đi gọi y vào.

Y được lệnh:

– Hoàng thượng truyền gọi chú vào.

Nhưng y đáp:

– Hoàng thượng có nghĩa gì với ta chứ? Ta không biết hoàng thượng!

Y liền bị lôi vào và đứng chầu một bên.

Sau đó, vua ngâm hai vần kệ hỏi y:

  1. Ðịa cầu nóng rực như than,
    Ðất đai như đống tro than nóng bừng,
    Song ngươi ca hát vang lừng,
    Khí trời gay gắt chẳng nung ngươi nào!
  2. Mặt trời kia ở trên cao,
    Dưới này cát nóng khác nào lò than,
    Song ngươi ca hát lừng vang,
    Khí trời nắng gắt chẳng làm cháy ngươi.

Nghe lời vua, y liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chính vì tham dục đốt tôi,
    Chứ không phải ánh mặt trời nấu nung,
    Chính vì phận sự trong lòng
    Thúc tôi vội vã làm xong mọi phần.

Vua hỏi y có việc gì. Y đáp:

– Tâu Ðại vương, hạ thần sống gần cổng Nam với một người vợ nghèo. Vợ thần tỏ ý muốn chúng thần cùng vui chơi lễ hội nên hỏi thử thần có gì trong tay không. Thần bảo thần có tiền của chôn dấu trong bức tường cạnh cổng Bắc. Vợ thần bảo thần đi lầy tiền về để vui chơi . Những lời nói của vợ thần không rời tâm hồn thần và trong khi thần suy nghĩ mãi về chúng, tham dục cứ đốt cháy lòng thần. Công việc của thần là thế đấy.

– Vậy điều gì khiến ngươi thích thú nhiều đến độ ngươi xem thường nắng gió và vừa đi vừa hát?

– Tâu Ðại vương, thần hát vì nghĩ rằng khi tìm được của chôn dấu, thần sẽ vui chơi thích thú với vợ.

– Này thiện nam, thế của ngươi chôn dấu bên cổng Bắc được một trăm ngàn đồng tiền chăng?

– Tâu Ðại vương, không phải.

Sau đó vua hỏi liên tiếp có phải năm mươi ngàn, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, mười, năm, bốn ba, hai, một đồng tiền, nửa đồng tiền, bốn xu, ba xu, hai xu, một xu. Chàng trai đều đáp: “Không” trước các câu hỏi trên và nói:

– Chỉ nửa xu. Quả thực, tâu Ðại vương, đó là tất cả gia sản của thần. Nhưng thần đang hy vọng tìm ra nó rồi đi vui chơi với vợ, và trong niềm ước vọng thích thú kia, nắng gió không làm thần khó chịu.

Vua bảo:

– Này thiện nam, thôi đừng đi đến đó dưới nắng gắt này nữa. Ta sẽ cho ngươi nửa xu.

– Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận lời hứa của Ðại vương và lấy tiền, nhưng thần sẽ không bỏ nửa xu kia đâu. Thần không bỏ việc đi đến đó đem nó về đâu.

– Này thiện nam, hãy ở lại đây. Trẫm sẽ cho ngươi một xu, hai xu.

Rồi cứ đề nghị thêm nữa, vua tiếp tục nói mười triệu, một ngàn triệu, vô số vàng bạc, nếu chàng trai chịu ở lại. Nhưng y vẫn đáp:

– Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận tiền của, nhưng thần vẫn đi kiếm nửa xu kia!

Sau đó y được chiêu dụ bằng những lời vua hứa ban chức thủ kho, và nhiều chức vụ khác nữa, và cả chức vị phó vương. Cuối cùng y được đề nghị chia nửa vương quốc nếu y chịu ở lại. Khi ấy y mới chấp thuận! Vua bảo các Ðại thần:

– Này các khanh, hãy đưa hiền hữu của trẫm đi cạo râu, tắm rửa và trang điểm rồi đem người trở lại đây.

Họ tuân lệnh. Vua chia đôi giang sơn và tặng chàng trai một nửa. Song chuyện kể rằng y chọn phần nửa ở phía Bắc do lòng yêu thích nửa đồng xu cũ! Y được gọi là vua Nửa Xu. Hai vị vua đồng cai trị đất nước trong tình thân hữu hòa hợp.

Một hôm, hai vị cùng đi đến ngự viên. Sau khi vui chơi, vua Udaya nằm xuống kề đầu vào lòng vua Nửa Xu. Ngài ngủ thiếp, trong lúc đám hầu cận đi quanh quẩn vui chơi. Vua Nửa Xu suy nghĩ: “Tại sao ta chỉ được nửa vương quốc mãi thôi? Ta muốn giết vua này và làm vị vua độc nhất.”

Vì thế Vua Nửa Xu rút kiếm ra, nhưng khi nghĩ đến việc đâm vua này, vua Nửa Xu nhớ lại ngài đã đưa bạn mình từ chỗ nghèo hèn thành người đồng trị nước với ngài và ban cho bạn đại quyền lực. Nhận thức tư tưởng vừa khởi lên trong trí dự định giết một ân nhân như thế là vô cùng độc ác, vua Nửa Xu liền tra kiếm vào bao.

Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, ý tưởng lại khởi lên. Cảm thấy tư tưởng này khởi lên mãi sẽ đưa mìnhđến cái ác nghiệp, vua Nửa Xu vứt kiếm xuống đất và thức vua kia dậy, vừa nói vừa quỳ xuống chân ngài:

– Tâu Ðại vương, xin hãy tha tội cho tôi.

– Này Hiền hữu, bạn có làm gì sai trái với ta đâu.

– Tâu Ðại vương, tôi đã làm một việc như vậy.

– Này Hiền hữu, thế thì ta tha thứ cho bạn. Nếu như bạn muốn thì cứ làm vua một mình và ta sẽ làm phó vương phụng sự bạn.

Vua Nửa Xu đáp:

– Tâu Ðại vương, tôi không cần vương quốc, tham vọng ấy sẽ khiến tôi tái sinh vào cõi dữ. Quốc độ này của Ðại vương, xin nhận lấy nó, tôi muốn trở thành người khổ hạnh. Tôi đã lấy gốc rễ của dục tham, nó phát xuất từ ước vọng của con người. Vậy từ nay tôi không còn ước vọng như thế nữa.

Rồi ông ngâm vần kệ thứ tư trong niềm hoan lạc:

  1. Nhận ra tham dục, nguồn căn
    Ở trong ước vọng tiềm tàng khắp nơi,
    Ta không muốn nữa vì ngươi,
    Vậy ngươi, Tham dục, phải rời xa đi!

Nói vậy xong, ông ngâm vần kệ thứ năm thuyết Pháp cho quần chúng đang đắm say tham dục:

  1. Dục tham ít ỏi chẳng vừa,
    Dục tham nhiều chỉ mang ta khổ buồn.
    Này, luôn thiếu, ngu nhân,
    Nếu ngươi muốn đắc trí thông, bạn hiền!

Thuyết Pháp như vậy với quần chúng xong, ông giao quốc độ cho vua Udaya. Rời bỏ quần chúng đang khóc than với nước mắt đầm đìa, ông đến vùng Tuyết Sơn, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh và đạt Thắng trí. Trong thời gian vị ấy làm nhà khổ hạnh, vua Udaya ngâm vần kệ thứ sáu bày tỏ nỗi hoan lạc trọn vẹn:

  1. Thiểu dục đem ta mọi quả thành,
    U-da-ya đạt đại quang vinh,
    Người tinh cần được nhiều an lạc,
    Làm ẩn sĩ, buông bỏ dục tình.

Không ai biết ý nghĩa vần kệ này. Một hôm, chánh hậu hỏi ngài ý nghĩa trên. Vua không muốn nói. Thời ấy có người thợ hớt tóc trong triều tên là Gangamàla mỗi khi vào chầu vua thường dùng dao cạo trước, rồi sau kẹp tóc vua bằng cái nhíp. Vua thích việc trước, nhưng việc thứ hai làm vuađau. Về việc đầu, vua muốn thưởng cho y một đặc ân. Còn việc thứ hai, vua chỉ muốn chém đầu y thôi!

Một hôm vua nói chuyện với hoàng hậu, ngài bảo rằng người thợ hớt tóc trong triều là một tên ngu xuẩn. Khi hoàng hậu hỏi y phải làm gì trước, ngài bảo:

– Hãy dùng nhíp trước, rồi dùng dao cạo sau.

Hoàng hậu truyền gọi thợ hớt tóc vào và bảo:

– Này thiện nam, khi người tỉa râu đức vua, ngươi nên dùng cái nhíp kẹp râu tóc ngài trước, rồi dùng dao cạo sau. Nếu đức vua ban cho ngươi một điều ước, ngươi phải tâu rằng ngươi không cần gì cả, mà ngươi chỉ muốn biết ý nghĩa khúc ca của ngài thôi. Nếu ngươi làm vậy, ta sẽ cho ngươi nhiều tiền.

Y đồng ý ngay.

Hôm sau, khi y tỉa râu vua, y cầm cái nhíp trước. Vua hỏi:

– Gangamàla, đây là kiểu mới của ngươi ư?

– Tâu Ðại vương, phải – y đáp – thợ hớt tóc thường có kiểu mới.

Rồi y kẹp tóc vua với cái nhíp trước và dùng dao cạo sau. Vua liền ban cho y một điều ước.

– Tâu Ðại vương, thần không muốn gì cả. Xin Ðại vương cho thần biết ý nghĩ khúc ca ấy.

Vua hổ thẹn khi phải nói đến nghề nghiệp của mình trong thuở hàn vi đời trước, liền bảo:

– Này thiện nam, điều ước kia có ích lợi gì cho ngươi đâu? Hãy chọn điều khác.

Nhưng người hớt tóc cứ van xin điều ấy. Vua sợ thất hứa nên đồng ý. Như đã tả trong Tiền thân Kummàsapinda, số 415, vua truyền chuẩn bị mọi sự rất trọng thể rồi ngồi trên bảo tọa bằng ngọc, kể tất cả chuyện công đức trong đời vừa qua tại kinh thành này. Rồi ngài bảo:

– Ðiều ấy giải thích nửa vần kệ, còn nửa vần kia kể chuyện hiền hữu ta trở thành nhà khổ hạnh trong lúc ta làm vị vua độc nhất trong niềm tự hào, điều ấy giải thích phần thứ hai của ca khúc hoan lạc ấy.

Nghe vậy, người hớt tóc suy nghĩ: “Như vậy, đức vua được hưởng cả vinh quang này vì đã giữ nửa ngày trai gới. Ðức hạnh quả thật là chánh đạo. Giả sử ta cũng trở thành nhà khổ hạnh và tìm đường giải thoát cho ta được chăng?”

Người hớt tóc liền từ giã đám thân thuộc, tài vật thế gian, rồi xin phép vua trở thành nhà tu hànhđi về vùng Tuyết Sơn làm vị khổ hạnh. Khi nhận thức được ba đặc tính của các pháp hữu hình (vô thường, khổ, vô ngã), vị ấy đạt Thắng trí và trở thành vị Ðộc Giác Phật. Vị ấy có đủ các y bát nhờ thần lực.

Sau độ năm sáu năm ở trên núi Gandhamàdana (Hương Sơn), vị ấy muốn về thăm vua Ba-la-nại, liền bay qua không trung đến ngự viên, rồi ngồi trên vương tọa. Người giữ vườn trình nhà vua rằng Gangamàla nay là vị Ðộc Giác Phật, đã phi hành trên không và đang ngồi trong ngự viên.

Vua lập tức đến chào vị Ðộc Giác Phật và hoàng thái hậu cũng ra đi với con. Vua vào ngự viên, kính chào vị ấy và ngồi xuống một bên cùng đoàn tùy tùng. Vị Ðộc Giác Phật thân mật đàm đạo với vua và gọi ngài bằng tộc tánh:

– Này Brahmadatta, Hiền hữu có chuyên tâm tinh cầu, cai trị nước nhà đúng Pháp, thực hành bố thí cùng các thiện sự khác chăng?

Hoàng thái hậu liền nổi giận:

– Ðứa con nhà hớt tóc hạ tiện này không biết phận mình. Nó dám gọi hoàng nhi quý tộc của ta là “Brahmadatta”.

Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Khổ hạnh xả ly hết lỗi lầm,
    Thợ ghè, hớt tóc, mọi phàm nhân,
    Gan-ga nhờ đó thành vinh hiển,
    Liền gọi “Brah-ma” đấng quốc vương!

Vua vội ngăn cản mẫu hậu và tuyên bố mọi đặc tính của vị Ðộc Giác Phật, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Nhìn xem! Vào lúc phải vong thân,
    Khổ hạnh cho ta hưởng phước phần,
    Người lễ bái ta trong kiếp trước,
    Giờ đây vua chúa phải chào mừng.

Mặc dù vua đã ngăn cản thái hậu, cả đám quần thần đều đứng lên bảo:

Một người hạ tiện thế này dám xưng hô với Hoàng thượng bằng tên tộc như vậy là không đúng phép tắc.

Vua lại quở trách quần thần và ngâm vần kệ cuối tuyên bố các đức tính cuả vị Ðộc Giác Phật:

  1. Chớ trách Gan-ga nói thế này
    Bước đường đạo hạnh thiện toàn thay!
    Ngài đà vượt đại dương phiền não,
    Giải thoát khổ sầu chính tại đây.

Nói vậy xong, vua vái chào vị Ðộc Giác Phật và xin ngài tha lỗi cho thái hậu. Vị Ðộc Giác Phật đồng ý và đám quần thần của vua cũng được tha thứ luôn. Vua ước mong Ngài hứa về sau sẽ ở lại trong vùng lân cận, nhưng Ngài từ chối, rồi đứng trên không trước mắt đám triều thần, Ngài khuyến giáo vua xong trở về Hương Sơn.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các cư sĩ, các vị ấy giữ trai giới là việc cần phải làm.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn vô dư y, vua Nửa Xu là Ànanda, chánh hậu là mẫu thân Ràhula và vua Udaya chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền thân Cetiya)

Công lý tổn thương gây hiểm họa…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Tỷ-keo Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) bị quả đất nuốt sống.

Một ngày kia, Tăng chúng bàn luận trong Chánh Pháp đường về cách Devadatta nói dối như thế nào rồi bị chìm sâu vào lòng đất và đọa vào ngục Avìci (Vô gián). Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài thảo luận ấy, Ngài bảo:

– Ðây không phải lần đầu kẻ ấy chìm sâu vào lòng đất.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi trong thời tối sơ khai, có vị vua mệnh danh Mahàsamata với thọ mạng kéo dài một a-tăng-kỳ (asnkheyya) kiếp. Vị vương tử tên Roja, vị này lại sinh con trai là Vararoja và kế tiếp đó là Kalyàna, Varakalyàna, Uposatha, Mandhàtà, Varamandhàtà, Cara, Upacara, còn được gọi là Apacara.

Vua này trị vì quốc độ Ceti, ở kinh đô Sotthivati, có đấy đủ tứ thần thông: vua có thể đi trên trời, hoặc bay qua không gain, có bốn Thiên thần ở bốn phương bảo vệ vua với kiếm tuốt trần, thân hình vua tỏa mùi hương chiên-đàn, và miệng vua tỏa mùi hương sen.

Thời ấy vị tế sư hoàng gia tên là Kapila. Em trai của vị Bà-la-môn này là Korakalamba, được học chung thầy với vua. Thời Apacara còn là vương tử, đã hứa sẽ phong Korakalamba làm tế sư hoàng gia khi nào mình lên ngôi.

Khi vua cha băng hà, vương tử lên ngôi song không thể đưa Kapila ra khỏi chức vụ tế sư hoàng gia được, và khi tế sư Kapila đến chầu vua, vua vẫn bày tỏ nhiều đặc ân đối với vị ấy. Vị Bà-la-môn ấy quan sát điều này và nhận xét rằng một vị vua thường trị nước hoàn hảo nhất cùng với các quần thần đồng tuổi tác, còn chính ông có thể xin cáo quan về làm ẩn sĩ, nên đã trình:

– Tâu Ðại vương, nay lão thần đã già cả, lão thần có một con trai ở nhà, xin Ðại vương phong cho nó làm tế sư hoàng gia và lão thần sẽ trở thành ẩn sĩ.

Ông được vua chấp thuận phong con trai mình làm tế sư hoàng gia, sau đó ông đến ngự viên sống đời ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và ở gần con trai.

Còn Koralambaka cảm thấy căm hận anh mình vì ông đã không trao cho mình chức vị tế sư khi trở thành ẩn sĩ. Một hôm, vua nói chuyện thân mật với Koralambaka:

– Này Koralambaka, Hiền hữu không làm tế sư hoàng gia ư?

– Tâu Ðại vương không, huynh trưởng của thần xếp đặt việc ấy.

– Thế lệnh huynh chẳng trở thành ẩn sĩ rồi sao?

– Tâu vâng, song gia huynh đã để chức vụ ấy cho con mình.

– Thế thì hiền hữu hãy lo sắp xếp việc ấy.

– Tâu Ðại vương, thần không thể đặt gia huynh qua một bên rồi nhận lấy chức vụ do cha truyền con nối ấy.

– Nếu vậy, ta sẽ làm hiền hữu thành vị trưởng tế sư và vị kia làm phụ tá cho hiền hữu.

– Tâu Ðại vương, bằng cách nào?

– Bằng cách nói dối.

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương không biết gia huynh là pháp thuật sư cao cường có đại thần lực ư? Gia huynh sẽ dùng huyễn thuật đánh lừa Ðại vương, làm cho bốn vị Thiên thần biến mất, rồi làm cho một mùi hôi thối xông ra từ thân thể và miệng Ðại vương, lại làm cho Ðại vương rơi từ trời xuống đất và Ðại vương sẽ bị quả đất nuốt sống, vì thế Ðại vương không thể hành động theo lời nói dối kia được đâu.

– Ðừng lo gì, ta sẽ sắp xếp việc này.

– Tâu Ðại vương, khi nào Ðại vương thực hiện điều này?

– Vào thứ bảy kể từ đây.

Chuyện này lan truyền khắp kinh thành:

– Hoàng thượng sắp nói dối để làm vị trưởng thành phó và sẽ giao chức vụ cho vị phó. Lời nói dối là vật gì nhỉ, nó màu xanh, vàng hay màu khác nữa?

Quần chúng suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tương truyền đó là thời mọi người thế gian đều nói thật, người ta không biết từ “nói dối” nghĩa là gì cả.

Con trai vị tế sư nghe chuyện này liền nói với cha:

– Thưa cha, dân chúng bảo đức vua sắp nói dối để làm cha thành con thứ rồi giao chức vụ của cha cho chú con.

– Này con, đức vua sẽ không thể nói dối để tước đoạt địa vị này của ta đâu. Ðức vua sắp thực hiện điều này vào ngày nào?

Họ bảo ngày thứ bảy kể từ đây.
Hãy báo cho cha biết khi đến thời điểm ấy.

Vào ngày thứ bảy, một đám đông tụ tập trong sân chầu ngồi theo hàng hàng lớp lớp hy vọng thấy lời nói dối. Vị tế sư trẻ đi báo tin cho cha. Vua chuẩn bị lễ phục đầy đủ xong, xuất hiện ở khoảng không trên sân chầu giữa đám đông.

Vị ẫn sĩ bay qua không gian, trải tọa cụ bằng da trước mặt vua, ngồi trên đó giữa không gian và hỏi:

– Tâu Ðại vương, có thật là Ðại vương muốn nói dối làm người em thứ thành anh trưởng và giao chức vụ cho người ấy?

– Thưa Tôn sư, trẫm đã làm như vậy.

Sau đó, vị ẩn sĩ khuyến giáo vua:

– Tâu Ðại vương, lời nói dối là một cách phá hoại tàn khốc các đức tính tốt đẹp, nó tạo tái sinh vào bốn ác đạo, một vị vua nói dối sẽ tiêu diệt công lý, và vì phá hủy công lý, chính vua ấy cũng bị tiêu diệt.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Công lý tổn thương gây hiểm họa,
    Sẽ đền bù với giá tai ương,
    Vậy đừng làm tổn thương công lý,
    Sợ hiểm nguy ào đến Ðại vương.

Ngài lại khuyến giáo vua nhiều hơn nữa:

– Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương nói dối, bốn pháp thần thông sẽ biến mất.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thần lực xa lìa kẻ vọng ngôn,
    Miệng mồm hôi thối đáng kinh hồn,
    Bước chân không vững trong trời đất,
    Bất cứ kẻ nào đáp dối gian.

Nghe vầy, vua lo sợ nhìn Korakalambaka. Vị ấy bảo:

– Tâu Ðại vương đừng sợ, thần đã chẳng tâu Ðại vương như vậy từ đầu sao?

Và tiếp theo những lời lẽ tương tự như vây. Mặc dù đã nghe Kapila nói như vậy, vua vẫn tuyên bố câu xác định:

– Thưa Tôn sư, ngài là em thứ, còn Korakalambaka là anh trưởng.

Ngay lúc vua vừa thốt ra lời nói dối này, bốn Thiên thần bảo các vị không muốn hộ trì một người dối trá như vậy nữa, liền ném kiếm dưới chân vua và biến mất.

Miệng vua bốc mùi thối như trứng hư vỡ tung tóe và thân thể vua như ống cống mở nắp. Rồi từ trên không rớt xuống, vua đứng trên đất, như thế cả bốn thần lực đều biến mất. Vị tế sư bảo:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ, nếu Ðại vương nói thật, thần sẽ phục hồi mọi sự cho Ðại vương.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối giam ngài mãi
    Tại đất Ce-ti, đến tận cùng.

Ngài lại nói:

– Tâu Ðại vương, hãy xem: Bốn thần lực của Ðại vương biến mất vì nói dối lần đầu, xin Ðại vương suy xét lại, vì bây giờ vẫn còn có thể phục hồi chúng.

Nhưng vua đáp:

– Ðại sư muốn đánh lừa trẫm về việc này.

Vừa nói dối lần thứ hai như vậy, vua liền bị lún ngay xuống đất đến mắt cá chân.

Vị Bà-la-môn một lần nữa lại nói:

– Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Hạn hán vào thời phải đổ mưa,
    Và mưa trút xuống lúc mùa khô,
    Khi người nào cố tình gian dối,
    Ðối đáp vọng ngôn để hại ta.

Rồi ngài lài nói thêm một lần nữa:

– Do Ðại vương nói dối, Ðại vương bị lún vào mặt đất đến tận mắt cá chân, vậy xin đại vương suy xét kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Lời thật cùng bao Pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi tới cùng.

Nhưng lần thứ ba, vua nói:

– Tôn giả là em thứ và Korakalambaka là anh trưởng.

Vừa nói lời dối trá này, vua lại bị lún dần vào mặt đất đến tận đầu gối. Một lần nữa, vị Bà-la-môn nói:

– Xin Ðại vương suy xét lại.

Rồi Ngài ngâm vần kệ:

  1. Người lưỡng thiệt này, hỡi Ðại vương,
    Cũng như con rắn lắm mưu gian,
    Người nào vẫn cố tình lừa dối
    Ðối đáp những lời chẳng thật chân.
  2. Lời thật cũng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục đươc toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Rồi Ngài còn nói thêm:

Ngay bây giờ mọi sự vẫn có thể được phục hồi.

Vua chẳng quan tâm đến lời ngài, vẫn lặp lại lời nói dối lần thứ tư:

– Thưa Tôn giả, ngài là em thứ, và Korakalambaka là anh trưởng.

Vừa thốt lời này, vua bị chìm ngập đến tận hông. Vị Bà-la-môn lại bảo:

– Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.

Rồi Ngài ngâm vần kệ:

  1. Kẻ ấy như con cá, Ðại vương,
    Sẽ không có lưỡi ở trong mồm,
    Người nào vẫn cố tình gian dối,
    Ðối đáp những lời lẽ vọng ngôn.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Lần thứ năm vua lặp lại lời nói dối, và ngay đó bị chìm sâu xuống tận rốn. Vị Bà-la-môn một lần nữa kêu gọi vua xét kỹ và ngâm hai vần kệ:

  1. Kẻ ấy chỉ sinh được gái thôi,
    Sẽ không sinh được một con trai,
    Kẻ nào vẫn cố tình gian dối
    Ðối đáp vọng ngôn ở giữa đời.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Vua cũng không quan tâm, cứ lặp lại lời nói dối lần thứ sáu và chìm xuống tận ngực. Vị Bà-la-môn kêu gọi khẩn thiết một lần nữa và ngâm hai vần kệ:

  1. Bầy con không ở với người kia,
    Ở khắp mọi nơi chúng chạy xa,
    Người vẫn cố tình ưa nói dối,
    Ðáp lời hỏi với dạ gian tà.
  2. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
    Ðại vương hồi phục được toàn phần,
    Còn lời nói dối chôn ngài xuống
    Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.

Do thận cận ác bằng hữu, vua xem thường các lời trên và nói dối lần thứ bảy. Sau đó mặt đất há miệng ra và lửa địa ngục Avìci bùng lên kéo vua xuống.

  1. Chuyện kể bị truyền bởi trí nhân,
    Vị vua từng bước giữa không trung,
    Chìm thân, bị nuốt vào lòng đất
    Ngay đúng ngày quy định số phần.
  2. Vậy trí nhân không thể tán đồng
    Dục tham xuất hiện ở trong lòng,
    Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
    Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.

Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

Quần chúng kinh hãi bảo nhau:

– Quốc vương Ceti phỉ báng bậc hiền nhân và nói dối nên đã bị đọa vào ngục Avìci.

Năm vị vương tử của vua đến gặp vị Bà-la-môn và nói:

– Xin Tôn sư giúp chúng đệ tử.

Vị Bà-la-môn đáp:

– Phụ vương của các vị đã hủy diệt Chân lý, nói dối và phỉ báng hiền nhân: do vậy ngài đã vào hỏa ngục Avìci. Nếu công lý bị hủy diệt, nó sẽ hủy diệt lại ta. Các vị không được cư trú tại đây nữa.

Ngài lại bảo vị thái tử:

– Này Ðiện hạ thân yêu, Hãy rời kinh thành bằng cổng Ðông và tiếp tục đi thẳng, chàng sẽ thấy một vương tượng toàn trắng nằm phủ phục, thân chạm vào mặt đất ở bảy chỗ: hai ngà, vòi, và bốn chân. Ðó là dấu hiệu để chàng dựng kinh và cư trú tại nơi ấy. Tên kinh đô ấy sẽ là Hatthipura (Tượng Thành)

Ngài bảo vương tử thứ hai:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Nam và đi thẳng đến khi thấy một vương mã thuần bạch, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh đô ấy sẽ được gọi là Assapura (Mã Thành).

Ngài bảo vương tử thứ ba:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Tây và đi thẳng tới khi thấy một sư tử có bờm, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh đô ấy sẽ được gọi là Sìhapura (Sư Thành).

Ngài bảo vị vương tử thứ tư:

– Ðiện hạ rời đây bằng cổng Bắc và đi thẳng cho đến khi thấy một bánh xe làm toàn bằng ngọc, đó là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh thành ấy sẽ được gọi là Uttarapancàla (Thượng Luân Thành).

Ngài bảo vị vương tử thứ năm:

– Ðiện hạ không thể ở đây. Vậy hãy xây một đền thờ lớn trong kinh thành này, rồi đi về phía Tây bắc, và đi thẳng cho đến khi thấy hai ngọn núi đập vào nhau gây tiếng động “daddara”, đó sẽ là dấu hiệu để chàng dựng kinh đô và cư trú nơi ấy. Thành ấy sẽ được gọi là Daddarapura (Thành Daddara).

Cả năm vương tử đều ra đi, theo các dấu hiệu kia dựng kinh đô và an trú ở đó.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu Devadatta nói dối và bị chìm vào lòng đất.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vua Ceti là Devadatta và Bà-la-môn Kapila là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền thân Indriya)

Người nào tuân lệnh dục tham…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự quyến rủ của người vợ cũ đối với một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng một thiện gia nam tử ở Sàvatthi (Xá-vệ) nghe giáo pháp của bậc Ðạo Sư và nghĩ rằng thật khó cho một người tại gia có thể sống đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh, nên ông quyết định xuất gia tu hành theo giáo lý cứu độ để diệt tận khổ ưu. Vì thế ông để lại tài sản, nhà cửa cho vợ con, và thỉnh cầu bậc Ðại Sư truyền giới xuất gia cho mình. Bậc Ðạo Sư chấp thuận. Vì ông chỉ là Sa-di trẻ tuổi lúc khất thực cùng các vị giáo thọ, sư trưởng và Tăng chúng lại đông, nên ông không có được ghế ngồi trong nhà cư sĩ hoặc trong trai đường, mà chỉ có một ghế thấp nhỏ hoặc ngồi ở dãy ghế dài cuối chỗ các Sa-di.

Thức ăn chỉ được múc vội vã cho ông bằng cái muỗng lớn: ông nhận món cháo tấm, các món cứng thì hôi hám hoặc hư nát, hoặc các cọng rau đã khô héo, cháy sém và phần ăn này không đủ nuôi sống ông.

Ông liền đem các món ăn nhận được về cho người vợ cũ mà ông đã rời bỏ. Nàng cầm lấy bình bát, kính chào ông, đổ hết các thứ ấy ra và thay vào món cháo nấu thật ngon và cơm trộn sốt cà-ri. Vị Tỷ kheo bị lòng ham thích các huơng vị ấy lôi cuốn nên không thể rời vợ.

Nàng suy nghĩ rằng nàng sẽ thử thách tình cảm của ông. Một hôm, nàng bảo một trai làng chải chuốt sạch sẽ và đến nhà nàng ngồi cùng một đám người nhà của y mà nàng đã mời, và nàng cho cả bọn ăn uống vài thứ . Cả bọn ngồi ăn chơi thỏa thích. Nàng lại bảo buộc đôi bò vào xe và chiếc xe đợi sẵn sàng ở cửa nhà. Còn chính nàng ngồi ở nhà sau nấu nướng bánh mứt.

Chồng nàng đi đến đứng ở cửa. Thấy vậy, một lão bộc trình bà chủ rằng có một Tỷ-kheo ở cửa. Nàng bảo:

– Hãy ra chào vị ấy và bảo vị ấy qua nhà khác.

Nhưng dù y đã làm vậy nhiều lần, y thấy vị Tỷ-kheo vẫn đứng yên nên y lại trình bà chủ. Nàng bước ra, vén tấm rèm lên nhìn và kêu lớn:

– Ðây là cha bầy trẻ con tôi.

Nàng bước ra chào ông, vừa cầm lấy bình bát vừa mời ông bước vào, nàng đem thực phẩm cúng dường. Khi ông đã ăn xong, nàng lại kính lễ và nói:

– Thưa Tôn giả, nay Tôn giả là một bậc Thánh, trước kia chúng ta đã luôn chung sống cùng nhau trong ngôi nhà này. Song giờ đây, cuộc sống tại gia lại không thể thiếu người chủ nhà, vì vậy chúng ta sắp dời qua nhà khác và đi xa về vùng quê. Xin Tôn giả hãy nhiệt tâm làm thiện sự và tha thứ cho thiếp nếu thiếp làm điều sai trái.

Trong một lúc, chồng cũ của nàng cảm thấy như thể trái tim tan vỡ! Rồi ông đáp:

– Ta không thể rời nàng, xin nàng đừng đi. Ta sẽ trở lại đời thế tục. Hãy đưa cho ta y phục của người cư sĩ tại chỗ nọ, ta sẽ bỏ y bát và trở về với nàng.

Nàng đồng ý ngay. Khi vị Tỷ-kheo về tinh xá, trả bộ y bát lại cho vị giám hộ và giáo thọ, và khiđược hỏi lý do, ông giải thích là ông không thể rời vợ và sắp trở lại đời thế tục. Dù ông không muốn, các vị ấy vẫn dẫn ông đến bậc Ðạo Sư và kể cho ngài nghe rằng ông thối thất và muốn trở về đời thế tục. Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Chuyện này có thật chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Ai làm cho ông thối thất?

– Vợ cũ của con.

Này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy là nguyên nhân gây tác nghiệp của ông. Chính vì kẻ ấy mà ngày xưa ông đã sa đọa khỏi bốn cảnh giới Thiền định, và rất khốn khổ. Sau nhờ ta, ông được giải thoát cảnh khổ và tái tạo công năng Thiền định mà ông đã mất.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai vị tế sư hoàng gia và bà vợ vị ấy cũng là nữ nhân Bà-la-môn. Vào ngày ngài ra đời, có làn ánh sáng của binh khí lóe sáng khắp kinh thành vì thế ngài được đặt tên Jotipàla (người hộ trì ánh sáng hay Hộ Minh).

Khi lớn lên, ngài học đủ mọi ngành nghề nghệ thuật tại Takkasilà và chứng tỏ tài năng trước vua. Nhưng ngài lại từ giã địa vị của ngài không báo cho ai biết, ngài ra đi bằng cổng sau, vào rừng trở thành vị khổ hạnh ở thảo am Kavitthaka, được gọi là Sakkadatiya. Ngài chứng đắc Thiền định viên mãn.

Trong khi trú tại đó, hàng trăm vị trí giả đến tham kiến hầu cận ngài. Ngài được một hội chúng đông đảo theo học và bảy đệ tử. Trong số ấy, trí giả Sàlissara rời thảo am Kavitthaka để đến xứ Surrattha và trú bên bờ sông Sàtodikà cùng hội chúng vài ngàn trí giả khác.

Mendissara cùng vài ngàn trí giả sống gần thị trấn Lambacùlaka trong quốc độ của vua Pajaka.

Pabbata cùng vài ngàn trí giả sống trong một xứ ở miền rừng núi.

Kàladevala cùng vài ngàn trí giả sống trong núi rừng ở Avanti và Decan.

Kisavaccha sống độc cư ở gần kinh thành Kumbhavati, trong ngự viên của vua Dandaki.

Anusissa là thị giả của Bồ-tát ở chung với ngài.

Nàrada, em của Kàladevala độc cư trong thạch thất giữa quốc độ Aranjara có nhiều núi non ở vùng Trung thổ.

Bấy giờ không xa nước Aranjara có một thị trấn rất trù phú. Thị trấn này có con sông cả, nơi nhiều đàn ông đến tắm. Dọc theo bờ, các kỹ nữ xinh đẹp thường ngồi quyến rủ đám mày râu.

Vị khổ hạnh Nàrada thấy một nàng kỹ nữ, đâm ra si tình, mất hết Thiền lực và héo mòn vì khôngăn uống gì cả, cứ nằm dài trong lưới tình trói buộc suốt bảy ngày liền. Vị huynh trưởng Kàladevata nhờ quan sát biết nguyên nhân việc kia, liền phi hành qua không gian, vào biến động. Nàrada thấy vị ấy liền hỏi tại sao đến đây. Vị ấy đáp:

– Ta biết Hiền đệ bị bệnh nên đến chăm sóc đệ đây.

Nàrada giả dối bảo vị ấy đi về:

– Ðại huynh chỉ nói chuyện không đâu, toàn là hư vọng, hão huyền.

Nhưng vị kia từ chối ra đi và còn đem theo ba vị Sàlissara, Mendissara và Pabbatissara đến đó nữa. Nàrada lại bảo tất cả ra về theo cách trên.

Kàladevala liền bay đi tìm Ðạo Sư Sarabhanga và dẫn thầy đến đó. Khi bậc Ðạo sư đến, ngài thấy Nàrada đã rơi vào lưới kềm tỏa của tham dục và hỏi có đúng vậy không. Nàrada đứng lên nghe lời ngài, kính lễ thầy và thú nhận sự việc. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Nàrada, ai rơi vào lưới tham dục sẽ suy tàn trong khổ đau ở đời này và đời kế bị tái sinh vàođịa ngục.

Rồi Ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Người nào tuân lệnh dục tham,
    Mất hai thế giới, đời tàn về sau.

Nghe vậy, Nàrada đáp:

– Bạch Tôn sư, mưu cầu tham dục là hạnh phúc. Tại sao Tôn sư lại gọi hạnh phúc ấy là khổ đau?

Ðạo Sư Sarabhanya đáp:

– Vậy hãy nghe đây.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Hân hoan cùng với khổ đau
    Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
    Con từng thấy chúng chuyển luân,
    Hãy tìm hạnh phúc thật chân nhiệm mầu.

Nàrada đáp:

– Bạch Tôn sư, khổ đau này thật khó chịu đựng. Con không thể kham nhẫn nó được.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Này Nàrada, khi khổ đau đến cần phải chịu đựng.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Người nào kham nhẫn đối đầu
    Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
    Là người vững mạnh tiến lên
    Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền não xưa.

Song Nàrada vẫn đáp:

– Bạch Tôn sư, hạnh phúc của dục tình là hạnh phúc tối cao, con không thể nào rời bỏ nó được.

Bậc Ðạo Sĩ bảo:

– Không thể vì bất cứ lý do gì mà ta từ bỏ Giới hạnh.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Con đừng phá hủy tiêu ma
    Quãng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
    Chỉ vì dục vọng tham sân
    Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to.

Sau khi Ðạo Sư Sarabhanga đã tuyên thuyết Chánh pháp qua bốn vần kệ, trí giả Làladevala muốn khuyến giáo tiểu đệ liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Biết đời phiền lụy lo âu,
    Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
    Chẳng ham tích trữ tiền tài,
    Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan.

Vần kệ thứ sáu do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng của Ngài liên hệ đến lời khuyến giáo của Devala đối với Nàrada:

  1. De-va Trí giả Hắc nhan
    Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất đời:
    Ta không hề thấy có người
    Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham.

Sau đó Thánh giả Sarabhanga cảnh báo:

Này Nàrada hãy nghe đấy: kẻ nào trước tiên không muốn làm những gì đáng làm, về sau sẽ kêu khóc than van như chàng trai đi vào rừng thuở xưa.

Rồi Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

Ngày xưa trong một thị trấn ở thành Kàsi có một thanh niên Bà-la-môn, đẹp trai, mạnh khỏe, lực lưỡng như voi. Chàng suy nghĩ: “Tại sao ta phải nuôi cha mẹ bằng cách làm ruộng, hoặc phải lấy vợ sinh con, hoặc làm các thiện sự nọ kia? Ta chẳng muốn nuôi ai hoặc làm thiện sự gì cả, mà ta chỉ muốn vào rừng nuôi bản thân bằng cách săn nai”.

Thề rồi với năm thứ vũ khí, chàng vào Tuyết Sơn giết nai ăn thịt rất nhiều. Ở vùng Tuyết Sơn chàng thấy một thung lũng rộng lớn tứ bề có núi bao bọc, bên cạnh bờ sông Vidhavà, chàng liền sống ở đó với thịt thú săn được và nấu trên than hồng. Chàng lại suy nghĩ: “Ta sẽ không được khỏe mạnh mãi đâu, khi ta già yếu, ta sẽ không phiêu bạc trong rừng. Nay ta muốn bắt nhiều loại thú hoang vào trong thung lũng này, làm cổng rào lại và chẳng cần phải lang thang trong rừng nữa, ta cũng sẽ giết chúng và ăn thỏa thích”. Và chàng đã làm như vậy.

Thời gian trôi qua, chính điều ấy phải xảy ra, mọi thực tế của cuộc đời xuất hiện, chàng không còn sức điều khiển nổi tay chân, chàng không thể đi lại tự do đây đó, chàng không thể tìm được thức ăn uống, thân thể gầy gò khô héo như một bóng ma, lộ rõ mọi nếp nhăn nheo khắp mình như mặt đất mùa nắng. Chàng trở nên dị tướng, nhăn nheo, rã rời và vô cùng khổ sở.

Cũng như chàng kia, theo thời gian, vua nước Sìvi, mệnh danh là Sìvi, ước mong hưởng món thịt rừng nướng trên than hồng trong rừng già, liền giao phó quốc độ cho các đại thần, đem theo năm món vũ khí, đi vào rừng săn thịt nai để ăn. Vừa lúc vua đến chỗ ấy liền thấy người kia. Dù sợ hãi, vua cũng cố thu hết can đảm hỏi người kia là ai. Chàng đáp:

– Tâu Chúa công, tôi là một bóng ma đang hưởng nghiệp quả do tôi đã tạo. Thế Chúa công là ai?

– Ta là vua nước Sìvi.

– Tại sao Chúa công đến đây?

– Ðể ăn thịt nai.

– Tâu Ðại vương, tôi đã trở thành con ma trên đất vì tôi đã đến đây với mục đích ấy.

Rồi chàng kể đầy đủ chi tiết câu chuyện của chàng và để giải thích nỗi bất hạnh của mình, chàng ngâm các vần kệ cuối cùng:

  1. Chính tôi đây, hỡi Quân vương,
    Khác nào giữa chốn đấu trường địch quân,
    Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
    Vợ con, nhà ở bình an một thời,
    Ðã tiêu tan hết cả rồi,
    Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian.
  2. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
    Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
    Từ đời chân chánh lạc xa,
    Tôi như một cái bóng ma đọa đày.
  3. Nay tôi phải sống cảnh này
    Vì tôi tạo khổ não thay vui mừng.
    Quanh tôi như đám lửa bừng,
    Tôi không cảm thấy trong lòng hân hoan.

Cùng với các vần kệ ấy, chàng nói thêm:

– Tâu Ðại vương, do ham muốn dục lạc tôi đã tạo khổ đau cho nhiều loài khác và trở thành bóng ma ngay tại đời này. Xin Ðại vương đừng gây ác nghiệp, xin hãy trở về kinh đô của Ðại vương và thực hành thiện sự, bố thí cùng các phước nghiệp khác.

Nhà vua làm theo lời ấy và hoàn thành con đường lên Thiên giới.

Vị khổ hạnh xúc động vì lời tường thuật của Ðạo Sư Sarabhanga về câu chuyện trên. Vị ấy được cảm hóa, rồi sau khi kính lễ Tôn sư và được ngài tha thứ, nhờ các pháp môn chân chánh, vị ấy tái tạo năng lực Thiền định đã mất. Ðạo sư Sarabhanga không cho phép đệ tử ở lại đó nữa và đưa vị ấy cùng ngài về thảo am xưa.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy Nàrada là Tỷ-kheo thối thất này, Sàlissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là Kassapa (Ca-diếp), Kaccàna (Ca-chiên-diên), Anusissa là Ànanda (A-nan), Kisavaccha là Moggallàna (Mục-kiền-liên) và Đạo Sư Sarabhanga chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền thân Àditta)

Thứ gì ta cứu thoát ra…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về lễ vật cúng dường vô thượng. Lễ vật cúng dường tối thắng này được miêu tả đầy đủ trong tập Sớ giải Kinh Mahàgovindasutta (số 19, Trường bộ II)

Ngày hôm sau lễ cúng dường ấy, Tăng chúng bàn luận trong Chánh Pháp Ðường:

– Này các Hiền giả, vua Kosala sau khi xem xét kỹ, đã tìm được phước điền chính đáng và cúng dường lễ vật cao trọng lên Hội chúng do đức Phât đứng đầu.

Bậc Ðạo Sư đến và được kể lại đề tài câu chuyện trong lúc các vị ngồi đây, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, không lạ gì việc nhà vua, sau khi quan sát kỹ, đã cúng dường đại lễ vật vào phướcđiền vô thượng ở đời, các trí nhân ngày xưa cũng đã cúng dâng lễ vật như thế sau khi quan sát kỹ.

Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.

*

Ngày xưa vua Bharata trị vì tại Roruva trong quốc độ Sovìra. Vua thực hành Thập phương pháp, thu phục nhân tâm bằng Tứ nhiếp pháp, đối xử với quần chúng như cha mẹ đối với con, ban phát rộng rãi cho người nghèo, lữ hành, khất thực và những người đến cầu xin. Chánh hậu của ngài là Samuddavijayà đầy trí tuệ thông thái.

Một hôm ngài nhìn quanh các bố thí đường và suy nghĩ: “Tặng vật của ta đều bị đám tham lam vô dụng ngốn ngấu cả. Ta không thích như vậy. Ta muốn cúng dường những vị Ðộc Giác Phật đức hạnh xứng đáng lễ vật tối thượng. Các vị hiện sống ở vùng Tuyết Sơn. Ai sẽ đem các vị ấy về đây theo lời thỉnh cầu của ta và ta sẽ nhờ ai lãnh sứ mạng này?”

Ngài nói chuyện với hoàng hậu, bà đáp:

– Tâu Chúa thượng, không nên quan tâm lo lắng. Cứ gửi hoa đi, nhờ uy lực lễ vật cúng dường xứng đáng của ta, nhờ đức độ và lòng thành tín của ta, ta sẽ thỉnh cầu vị Ðộc Giác Phật, và khi các vị đến, chính ta sẽ cúng dường lễ vật cùng các món cần thiết.

Vua đồng ý. Ngài ra lệnh đánh trống khắp kinh thành rằng tất cả dân chúng trong thành phải giữ giới, còn chính ngài và toàn thể hoàng gia đều giữ mọi phận sự của ngày trai giới, thực hành đại bố thí.

Ngài truyền đem đến một chiếc hộp bằng vàng đựng đầy hoa lài, từ hoàng cung bước xuống và đứng giữa triều đình. Tại đó ngài phủ phục với năm phần chạm xuống đất, đảnh lễ về phương Ðông và tung vãi nắm hoa cùng những lời nguyện:

– Ðệ tử đảnh lễ các Thánh giả ở phương Ðông, Nếu đệ tử có chút công đức nào, xin các vị tỏ lòng từ bi thâu nhận các lễ vật này.

Vì không có các vị Ðộc Giác ở phương Ðông, nên hôm sau không vị nào đến.

Ngày thứ hai, ngài lại đảnh lễ phương Tây, nhưng cũng không ai đến.

Ngày thứ ba, ngài lại đảnh lễ phương Bắc, và sau khi đảnh lễ, ngài tung bảy nắm hoa cùng lời nguyện:

– Ước mong các vị Ðộc Giác ở vùng Tuyết Sơn thâu nhận các lễ vật cúng dường này.

Các hoa ấy bay đi xa rơi trên mình năm vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamùla. Sau khi quan sát, các vị hiểu rằng quốc vương đã thỉnh cầu các vị, vì thế các vị gọi bảy vị trong số đó lại bảo:

– Này các Tôn giả, vua thỉnh cầu các vị, xin hãy bày tỏ đặc ân cho ngài.

Các vị Ðộc Giác Phật này du hành qua không gian và hạ xuống hoàng môn. Khi thấy các vị, vua hân hoan đảnh lễ, mời các vị thượng lầu, tỏ lòng tôn kính trọng thể và cúng dường các lễ vật.

Sau buổi thọ thực, ngài lại mời các vị hôm sau và cứ thế đến ngày thứ năm, vua thiết đãi suốt sáu ngày. Vào ngày thứ bảy, ngài chuẩn bị cúng dường mọi vật dụng cần thiết, sắp đặt bảo tọa và cẩm đôn chạm vàng rồi đặt trước bảy vị Ðộc Giác các bộ ba y cùng các món ăn cần thiết của đời Thánh nhân.

Quốc vương cùng hoàng hậu trân trọng cúng dường các thứ này sau buổi thọ thực và đứng cung kính đảnh lễ. Ðể phát biểu lời tùy hỷ công đức, vị Trưởng lão của hội chúng ngâm hai vần kệ:

  1. Thứ gì ta cứu thoát ra
    Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
    Những gì sót lại sau cùng
    Sẽ còn đó mãi riêng phần ta thôi.
  2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
    Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
    Cứu mình bằng các thiện hành,
    Cúng dường bố thí để dành thật chân.

Như vậy, bằng cách bày tỏ niềm hoan hỷ, vị Trưởng lão khuyến giáo vua tinh cần giữ đức hạnh. Sau đó vị ấy bay lên không gian, xuyên thủng qua góc nhọn của cung điện và hạ xuống động Nandamùla. Các vật dụng cần thiết đã được cúng dường đều bay lên theo vị ấy và hạ xuống động. Còn toàn thân quốc vương và hoàng hậu tràn đầy niềm hoan hỷ.

Sau khi vị ấy ra đi, sáu vị kia lần lượt nói lời tùy hỷ công đức qua mỗi vần kệ:

  1. Người nào bố thí chánh nhân
    Kiên cường dõng lực, tinh cần tịnh tâm,
    Vượt dòng nước lũ Ma vương,
    Ðạt nơi an trú kim đường cõi thiên.

Vị thứ ba:

  1. Thiện hành nào khác trận tiền
    Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
    Cúng dường với cả tín tâm
    Ðời sau hưởng lạc là phần ngài thôi.

Vị thứ tư:

  1. Người cho làm đẹp ý trời,
    Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
    Cúng dường mang quả hưng long,
    Cũng như hạt giống gieo vùng phì nhiêu.

Vị thứ năm:

  1. Ai không hề nói lắm điều,
    Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
    Người đời gọi yếu, chê khinh,
    Chính vì sợ hãi giữ mình thanh lương.

Vị thứ sáu:

  1. Tạo nên phước nghiệp thông thường
    Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
    Phước nhiều đạt đến cõi thiên,
    Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư.

Vị thứ bảy:

  1. Phước là bố thí đem cho,
    Tuy nhiên Giáo pháp lợi to muôn phần,
    Xưa nay chứng tỏ bao lần,
    Nhờ đây bậc trí đạt toàn Lạc an.

Sau đó các vị ra đi cùng với các vật dụng cần thiết đã được cúng dường .

Còn vị Ðộc Giác Phật thứ bảy, trong lời tùy hỷ công đức ấy, tán thán Niết-bàn bất diệt với vua và giáo hóa ngài một cách cẩn trọng xong, liền trở về cảnh cũ như đã nói trên. Quốc vương và hoàng hậu thực hành bố thí suốt đời nên đã hoàn thành con đường lên thiên giới.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy các bậc trí thời xưa bố thí cúng dường có phân biệt.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn, Samuddavijayà là mẫu thân Ràhula (La-hầu-la) và vua Bharata chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền thân Atthàna)

Làm sao lặng sóng Hằng Hà…,

Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Bậc Ðạo sư hỏi vị ấy:

– Này Tỷ-kheo, có thật là ông đang thối thất?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

– Vì duyên cớ gì?

– Vì uy lực của dục tham.

– Này Tỷ-kheo, nữ nhân thật vô ơn, phản bội, không đáng tin cậy. Ngày xưa, các bậc trí không làm thỏa mãn một nữ nhân thậm chí đã cho kẻ ấy một ngàn đồng tiền mỗi ngày. Một hôm không nhận được ngàn đồng tiền, kẻ ấy đã sai người lôi cổ họ quẳng ra ngoài. Nữ nhân là loài bạc nghĩa thế đấy. Ông đừng rơi mình vào uy lực của dục tham vì duyên cớ ấy nữa.

Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta và công tử Mahàdhana, con của một phú thương ở Ba-la-nại, là bạn thân thiết cùng chơi với nhau và được giáo dục trong nhà một vị thầy. Vương tử lên ngôi khi vua cha băng hà và con vị phú thương vẫn ở gần vua mới.

Tại Ba-la-nại có một kỹ nữ sang trọng kiều diễm đang thời hưng thịnh. Con trai vị phú tặng nàng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, và thường xuyên hưởng lạc với nàng. Khi cha mất, chàng thừa kế tài sản và địa vị của cha, nhưng cũng không rời bỏ nàng mà vẫn tiếp tục cho nàng một ngàn đồng tiền mỗi ngày.

Một hôm chàng đi chầu vua vào buổi chiều. Trong lúc chàng đàm đạo với vua, mặt trời lặn và tối dần. Khi rời cung, chàng nghĩ: “Không còn thời giờ để về nhà rồi trở lại nữa, ta cứ đi thẳng đến nhà kỹ nữ ấy”. Vì thế chàng bảo đám hầu cận ra về và đi thẳng vào nhà một mình.

Khi thấy chàng đến, nàng hỏi xem chàng có đem ngàn đồng tiền không.

– Này ái nương, hôm nay ta ra trễ quá nên ta chỉ bảo đám hầu cận đi hết, chứ ta không về nhà, ta chỉ đến đây một mình, nhưng ngày mai ta sẽ trao tặng nàng hai ngàn đồng tiền.

Nàng suy nghĩ: “Nếu ta tiếp đón chàng hôm nay, chàng sẽ đến tay không các ngày khác nữa và thế là ta mất dần của cải. Vậy ta không muốn tiếp chàng hôm nay nữa.”

Vì thế nàng bảo:

– Thưa công tử, thiếp chỉ là một kỹ nữ, thiếp không ban đặc ân cho ai mà không có một ngànđồng, vậy công tử hãy đem tiền lại đây.

– Ái nương ơi, ta sẽ tặng nàng gấp đôi số tiền ấy ngày mai đây.

Và chàng cứ van xin nàng như vậy mãi.

Nàng kỹ nữ ra lệnh cho các nữ tỳ:

– Ðừng để người ấy đứng đó mà nhìn ta. Hãy lôi cổ y kéo ra ngoài và đóng cửa lại.

Họ làm theo lời nàng. Chàng suy nghĩ: “Ta đã cho nàng tám trăm triệu đồng tiền, tuy thế chỉ một ngày ta đến tay không, nàng đã bảo chúng nắm cổ ta tống ra ngoài. Ôi nữ nhân thật là độc ác, vô sĩ, vong ân, phản bội!”

Do vậy chàng quan sát mãi về ác hạnh của nữ nhân cho đến khi chàng thấy chán ngán, ly tham và bất mãn với cuộc đời thế tục. Chàng suy nghĩ: “Tại sao ta phải sống đời thế tục? Ta muốn xuất gia hôm nay và thành người khổ hạnh”.

Do vậy chàng không trở về nhà nữa cũng không yết kiến vua nữa, chàng rời kinh thành đi vào rừng. Chàng dựng thảo am bên bờ sông Hằng, cư trú tại đó như một ẩn sĩ khổ hạnh, đắc Thiền định viên mãn và sống bằng củ quả rừng.

Vua nhớ bạn vắng mặt lâu ngày và đòi bạn vào chầu. Khắp kinh thành ai cũng biết rõ cách nàng kỹ nữ đối xử với chàng nên họ tâu vua vấn đề ấy và thêm:

– Tâu Ðại vương, người ta bảo thân hữu của Ðại vương vì tủi nhục đã không trở về nhà, mà đã trở thành vị khổ hạnh sống trong rừng.

Vua truyền đưa nàng kỹ nữ vào, và hỏi nàng xem chuyện nàng đối xử với thân hữu ngài có thật như vậy chăng. Nàng thú nhận.

– Này nữ nhân bạc ác kia, hãy mau đến nơi Hiền hữu ta ở và đưa chàng về đây. Nếu không làmđược việc ấy, ngươi phải bị mất mạng đấy.

Nghe lệnh vua, nàng sợ hãi, vội lên xe ra khỏi kinh thành cùng đoàn tùy tùng đông đảo. Nàng đi tìm nơi an trú và nghe lời đồn, nàng đến đó kính lễ và cầu xin:

– Bạch Tôn giả, xin hãy tha thứ lỗi lầm thiếp đã phạm trong lúc mù quáng ngu si. Thiếp quyết không tái phạm nữa.

– Ðược lắm, ta tha thứ cho nàng, ta không giận nàng đâu.

– Nếu Tôn giả tha thứ cho thiếp, xin hãy lên xe cùng thiếp. Chúng ta cùng trở về kinh thành và ngay khi vào thành, thiếp xin dâng ngài mọi tiền tài trong nhà thiếp.

Khi nghe vậy, ngài đáp:

– Này cô nương, ta không thể đi với cô nương bây giờ đâu, nhưng khi nào những chuyện chưa từng xảy ra trên đời này sẽ xảy ra thì có lẽ ta sẽ đi.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Làm sao lặng sóng Hằng hà
    Như hồ sen nọ, sơn ca trắng ngần,
    Cây đào sinh trái cau vân,
    Thì điều như thế họa chăng có là!

Nhưng nàng lại nói:

– Mau lên, thiếp sắp đi rồi.

Ngài đáp:

– Ta sẽ đi.

– Khi nào?

– Vào thời như vầy như vầy.

Ngài đáp và ngâm các vần kệ còn lại:

  1. Bao giờ có đủ lông rùa
    Kết thành ba tấm áo đưa ta dùng
    Vào thời đông giá lạnh lùng,
    Thì điều như thế họa chăng có là!
  2. Bao giờ răng muỗi nhô ra
    Nàng xây cái tháp thật là khéo thay,
    Tháp kia không thể chuyển lay,
    Ðiều này chắc có cơ may, họa là!
  3. Bao giờ sừng thỏ mọc ra,
    Nàng làm thang đứng thật là khéo thay,
    Bậc thang trèo đến tận mây,
    Thì điều này có cơ may, hỡi nàng!
  4. Bao giờ chuột nhắt leo thang
    Cùng nhau ăn hết mặt trăng sáng ngời.
    Ðem La-hầu xuống mặt trời,
    Thì điều này hẳn có thời xảy ra!
  5. Khi đàn ruồi uống từng vò
    Rượu nồng đầy đủ, tự do reo mừng
    Ẩn mình trong đám than bừng,
    Thì điều như thế họa hoằn xảy ra!
  6. Khi bầy lừa khéo điểm tô
    Môi hồng, mặt trắng làm trò khéo thay
    Trổ tài múa hát thật hay,
    Ðiều này hẳn có cơ may, hỡi nàng!
  7. Bao giờ quạ, cú từng đàn
    Cùng nhau tụ họp luận bàn riêng tư,
    Tỏ tình âu yếm chuyện trò,
    Ðiều này có thể xảy ra, hỡi nàng!
  8. Bao giờ nhặt lá trên ngàn
    Từng cây rừng xuống kết làm dù che
    Chống mưa ồ ạt tứ bề,
    Có cơ xảy đến điều kia, hỡi nàng!
  9. Khi đàn chim sẻ cố mang
    Tuyết Sơn đủ vẻ huy hoàng hùng anh,
    Ngậm trong chiếc mỏ xinh xinh,
    Họa may có thể sự tình xảy ra!
  10. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
    Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
    Với lòng can đảm anh hùng,
    Ðiều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!

Như thế bậc Ðại Sĩ ngâm mười một vần kệ nêu rõ những sự kiện không thể xảy ra. Nàng kỹ nữ nghe xong, xin được ngài tha thứ và trở về Ba-la-nại. Nàng trình bày mọi việc với vua và xin tha mạng, vua liền ân xá cho nàng.

*

Sau pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nữ nhân thật là vô ơn, phản bội như thế.

Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vua là Ànanda và vị khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Báo (Tiền thân Dìpi)

Bác ơi, bác có được khang an…,

Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một con dê cái.

Một thời Trưởng lão Moggallàna ở trong một am thất có một cửa, trong một vùng đất được rào và núi đồi bao bọc. Lối đi có mái che của nhà gần cửa ấy. Một vài mục tử nghĩ rằng hàng rào ấy là chỗ tốt cho đàn dê, nên họ lùa dê vào đó và sống thoải mái.

Một hôm họ đến vào buổi chiều đem cả bầy dê đi. Nhưng có một con dê cái đã lang thang quá xa không thấy bầy dê ra đi, và bị bỏ lại một mình. Sau đó khi nó ra đi, một con báo thấy nó, muốn ăn thịt bèn đứng bên cửa của hàng rào. Dê cái nhìn quanh và thấy con báo. “Báo đứng đó vì muốn giết ta và ăn thịt”, Dê suy nghĩ: “Nếu ta quay đầu bỏ chạy, ta sẽ mất mạng. Vậy ta phải can đảm lên”. Rồi dê giương đôi sừng, vùng chạy thẳng trước mặt báo với tất cả dũng lực. Dê thoát được móng vuốt báo, dù con báo rung mình vì nó tưởng sẽ chụp được dê. Rồi chạy hết tốc lực, con dê bắt kịp cả đàn.

Vị Trưởng lão quan sát cách các súc vật ấy đối xử với nhau. Hôm sau vị ấy đi trình đức Như Lai:

– Bạch Thế Tôn, con dê cái đã đạt được một kỳ công nhờ có sẵn mưu lược và thoát được con báo.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Moggallàna, lần này con báo không bắt được dê, nhưng ngày xưa báo đã giết dê dù dê kêu lớn, rồi ăn thịt nó.

Và theo lời thỉnh cầu của Tôn giả Moggallàna, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa có thời Bồ-tát được sinh vào một làng ở quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà), trong một gia đình giàu. Khi lớn lên, Ngài từ bỏ tham dục và sống đời tu hành, đạt được Thiền định viên mãn. Sau khi sống rất lâu ở Tuyết Sơn, ngài đến Rajagàha (Vương Xá) để tìm muối và dấm, rồi về cư trú trong thảo am ngài đã dựng trong một thung lũng có rào chắn.

Giống như phần duyên khởi, các mục tử lùa bầy dê ra đi và cũng như trên, một hôm, khi một dê cái đi ra chậm hơn bầy kia, một con báo đợi sẵn ở cửa, nghĩ cách ăn thịt nó. Khi con Dê thấy con Báo, nó suy nghĩ: “Ðời ta tàn rồi, bằng một mưu kế nào đó ta phải dụ nó vào cuộc chuyện trò vui vẻ ân cần để làm dịu lòng nó và cứu mạng ta”. Vừa đứng từ xa bắt đầu nói chuyện thân thiện với con báo, Dê ngâm vần kệ đầu:

  1. Bác ơi, bác có được khang an,
    Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
    Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
    Cháu mong cùng bác kết thân bằng!

Nghe vầy, Báo suy nghĩ: “Con bé này muốn đánh lừa ta bằng cách gọi ta là ‘bác’, nó không biết ta hung dữ ra sao cả”. Vì thế Báo ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
    Và làm ta phải bị đau ghê,
    Tưởng rằng nhờ gọi ta là “bác”
    Cô được tự do để trở về!

Khi nói vậy, Dê đáp:

– Thưa bác, xin đừng nói như vậy.

Và nó ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Tôi đi phía trước mặt, thưa ngài,
    Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
    Ðuôi của ngài nằm sau phía ấy,
    Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi?

Báo đáp:

– Này Dê cái, cô nói gì vậy? Có nơi nào lại không có đuôi của ta trải ra chứ?

Và nó ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Suốt cả trong toàn bốn đại châu,
    Với sông hồ biển núi non cao,
    Ðuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
    Sao cẳng Dê không dẫm nó nào?

Khi nghe vầy, Dê cài nghĩ: “Con ác thú này không bị lời ngon ngọt quyến rủ. Vậy ta sẽ đáp lại nó như một kẻ thù”. Rồi Dê ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Ta biết đuôi ông ác thật dài,
    Vì ta đã được báo tin rồi,
    Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
    Lúc trước ta bay bổng giữa trời!

Báo lại nói ;

– Ta biết cô đã bay giữa trời. Nhưng khi cô đến, cô đã làm hỏng miếng mồi của ta bằng cách đáp xuống ấy!

Rồi Báo ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
    Bay qua không khí ấy mà thôi,
    Ðã làm kinh sợ đàn nai nọ,
    Vì thế mồi ta bị hỏng rồi!

Nghe vầy, Dê sợ chết không còn có thể tìm cớ nào khác nữa, liền kêu lớn:

– Bác ơi, xin đừng phạm một việc ác độc như thế, xin tha mạng cháu đi.

Nhưng dù Dê kêu lớn, Báo vẫn chụp vai nó, giết chết và ăn thịt Dê.

  1. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
    Song máu thịt kia mới thoả lòng,
    Dã thú chụp Dê vào cổ họng;
    Ác nhân không tỏ chút ân cần.
  2. Kẻ ác không sao biết tỏ ra
    Ân cần, chánh hạnh, tránh đường tà,
    Nó thù ghét những người lương thiện,
    Thượng sách là nên xáp lá cà!

Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

Một vị Thánh nhân khổ hạnh chứng kiến tất cả câu chuyện của hai con thú này.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Dê cái và con Báo là con Dê cái và con báo bây giờ, và vị Thánh nhân khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

Chương IX

Phẩm Chín Bài Kệ

  1. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)

Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất tuân Giới luật.

Chuyện kể rằng vị ấy là thiện gia nam tử, và được truyền giới vào Giáo pháp đưa đến giải thoát được các vị Pháp sư, giáo sư đầy thiện chí cùng các đồng Phạm hạnh giáo giới như vầy:

– Hiền giả phải đi tới hay đi lui như vầy, phải nhìn thẳng hay nhìn nghiêng như vầy, cánh tay phải duỗi ra hay co lại như vầy, các y trong và y ngoài phải được mang như vầy, bình bát phải được cầm như vầy. Khi Hiền giả nhận đủ các thứ ăn để nuôi thân, sau khi tự quán sát, Hiền giả phải thọ dụng nó như vầy, hộ phòng các căn như vầy.

Hiền giả phải tiết độ trong ăn uống và tỉnh giác. Hiền giả phải nhận thấy các bổn phận như vầyđối với chư Tăng đến và đi khỏi tinh xá. Ðầy là mười bốn qui tắc về phận sự của Tỷ-kheo và tám mươi trọng giới phải hoàn thành đúng đắn, và đây là mười ba pháp thực hành Dhuta về nếp sống cẩn trọng. Tất cả các giới điều này phải được hoàn thành một cách nghiêm túc.

Tuy thế, vị ấy bất tuân Giới luật và thiếu kham nhẫn, không chịu thọ giáo một cách kính cẩn, và không tuân lời thầy, lại bảo:

– Tôi không chỉ trích các vị. Tại sao các vị nói với tôi như vậy? Tôi biết điều gì ích lợi cho tôi vàđiều gì không có lợi.

Tăng chúng nghe được sự bất tuân Giới luật của ông liền kể lại các lỗi lầm của ông trong lúc các vị ngồi tại Chánh pháp đường.

Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận đề tài gì và truyền gọi Tỷ-kheo ấy đến hỏi:

– Này Tỷ-kheo, tại sao khi đã được truyền giới vào Giáo pháp đưa đến giải thoát, ông lại không nghe lời dạy của các vị giáo thọ có thiện ý kia? Ngày xưa ông cũng đã bất tuân lời dạy của các trí giả và gặp cuồng phong Verambha thổi thành tro bụi.

Sau đó Ngài kể lại chuyện đời xưa.

*

Một thuở nọ Bồ-tát được sinh làm chim Thứu (kên kên) trên núi Linh thứu. Bấy giờ con của ngài là Supatta, vua kên kên, cường tráng, đầy dũng lực và có đám tuỳ tùng nhiều ngàn kên kên. Thứu vương phụng dưỡng song thân. Do có sức mạnh, Thứu vương thường bay rất xa. Chim thứu cha vẫn thường khuyên nhủ:

– Này con thân, con đừng bay xa quá những điểm này.

Thứu vương đáp:

– Ðược lắm, thưa cha.

Nhưng một hôm trời mưa, Thứu vương bay cùng các kên kên khác, rồi rời đàn phía sau, một mình vượt giới hạn đã được khuyên bảo, nên thứu vương bay vào cuồng phong Veramba và bị thổi tan thành tro bụi.

Với Tối Thắng Trí, Đức Phật ngâm các vần kệ này minh hoạ các sự kiện trên:

  1. Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh,
    Một lối đi xưa cũ dẫn lên
    Những đỉnh núi non cao chót vót,
    Thứu con nuôi dưỡng các thân sinh.
  2. Ðôi cánh hùng cường đầy dũng lực,
    Thứu đem mỡ rắn tặng song thân,
    Khi cha nhìn Thứu bay cao quá,
    Liều lĩnh du hành, vẫy dạy răn:
  3. “Khi con quan sát, hỡi con thân,
    Quả địa cầu tròn với đại dương
    Bao bọc chung quanh, đừng tiến nữa,
    Trở về ngay nhé, khẩn cầu con!”

4 – 5. Thứu vương thường cất cánh lên mau,
Bay lượn vòng quanh cõi địa cầu
Với nhãn quan tinh tường thấu suốt,
Thứu con thấy rõ các rừng sâu,
Núi non phía dưới cao vời vợi,
Quả đất giống cha tả biết bao:

6- 7. Một quả cầu tròn giữa đại dương,
Nhưng khi vượt quá giới hạn thông thường,
Dẫu là chim thứu đầy oai lực,
Một trận đại phong thật nộ cuồng
Ðã thổi Thứu tan tành bỏ mạng,
Bất tài không địch nổi cuồng phong.

8 -9. Như vậy Thứu con bởi bất tuân
Tử vong bỏ mặc cả song thân.
Kẻ nào khinh bỉ kẻ già cả
Chế nhạo lời khuyên của trí nhân,
Cũng chết như chim khinh bậc trí,
Xem thường giới hạn bởi kiêu căng.

– Vì vậy, này Tỷ-kheo, đừng giống như chim Thứu này, mà phải tuân theo lời dạy của những người đầy thiện ý.

Khi được bậc Ðạo Sư giáo huấn như trên, từ đó về sau vị ấy biết vâng lời thầy.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Chim kên kên bất tuân lệnh ngày xưa là vị Tỷ-kheo không vâng lời ngày nay. Và chim cha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền thân Kosambi)

Khi giáo hội bị chia hai, ly tán…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Lâm Viên Ghosita (Cù-sư-la) gần Kosambi (Kiều-thưởng-di) về một đám người tranh chấp nhau ở Kosambi.

Sự kiện dẫn đến chuyện này có thể tìm được trong phần Luật tạng liên hệ đến Kosambi. Sau đây là tóm tắt câu chuyện. Tương truyền thời ấy có hai Tỳ- kheo sống cùng một tịnh xá, một vị thông hiểu Giới luật và vị kia thông hiểu Kinh điển. Một hôm, vị thứ hai có dịp đến chỗ rửa mặt xong, đi ra và bỏ sót một ít nước thừa để súc miệng trong cái ghè. Sau đó vị thông Giới luật đi vào và thấy nước, liền đi ra hỏi bạn xem có phải vị ấy đã để nước lại đó chăng. Ông đáp:

– Thưa Hiền giả, vâng.

– Sao, thế Hiền giả không biết đó là lỗi lầm ư?

– Không, tôi không biết.

– Này hiền giả, đó là lỗi lầm.

– Thế thì tôi sẽ sám hối việc ấy.

– Song nếu Hiền giả không có ý làm việc ấy thì đó không phải lỗi lầm.

Như vậy vị ấy là người không thấy lỗi lầm trong một việc có lỗi lầm. Vị tinh thông Giới luật bảo các đệ tử mình:

– Vị tinh thông Kinh điển này, dù đã phạm lỗi lầm, lại không biết việc ấy.

Khi gặp các đệ tử của vị Tỷ-kheo kia, họ bảo:

– Thầy của các vị dù phạm lỗi lầm, lại không nhận ra lỗi lầm.

Ðám này đi về thưa lại với thầy. Vị ấy bảo:

– Vị thông Giới luật này trước kia bảo đó không phải lỗi lầm, nay lại bảo đó là lỗi lầm. Vị này là kẻ nói dối.

Ðám đệ tử này đi nói với đám kia:

– Thầy của các vị là kẻ nói dối.

Do đó hai nhóm gây sự tranh cãi lẫn nhau. Về sau vị thông hiểu Giới luật, tìm được cơ hội đưa ra một hình thức tẩn xuất vị Tỷ-kheo đã không chịu nhận thấy sự vi phạm Giới luật của mình.

Từ đó về sau, các cư sĩ cung cấp bốn vật dụng cần thiết cho Tăng chúng cũng chia ra hai phe. Các Tỷ-kheo -ni nhận sự giáo huấn của các Tỷ-kheo, các vị Thần hộ pháp, cùng các thân hữu quyến thuộc của họ, cùng chư Thiên lên đến tận cõi Phạm thiên, thậm chí cả đám người ngoại đạo, cũng họp thành hai phái và tiếng huyên náo vang lên đến toàn cõi Phạm thiên.

Sau đó một Tỷ-kheo đến gần đức Như Lai, và thông báo quan điểm của phe tấn xuất là: “người kia bị tẩn xuất theo đúng Chánh pháp”. Và quan điểm của những kẻ theo phe người bị tẩn xuất là; “người ấy bị tẩn xuất một cách phi pháp”, cùng sự kiện một số người, dù bị phe tẩn xuất cấmđoán, vẫn tụ họp lại để ủng hộ vị ấy.

Ðức Thế Tổn bảo:

– Có sự chia rẽ, quả thật, có sự chia rẽ trong giáo hội.

Ngài đến gặp hai phe, nêu rõ sự tai hại trong vấn đề tẩn xuất đối với những người tẩn xuất, cùng sự nguy hại theo sau sự che dấu lỗi lầm đối với phe kia, rồi Ngài ra đi.

Lần khác, khi Hội chúng thực hành lễ Bồ-tát cùng các Tăng sự khác trong cùng một nơi, trong một khu vực, và lại tranh cãi ở trai đường cùng nhiều nơi khác, Ngài liền đưa ra điều luật rằng họ phải ngồi lại với nhau thảo luận lần lượt từng người một từ mỗi phe.

Khi nghe họ vẫn tranh cãi trong tinh xá, Ngài đến bảo:

– Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, chúng ta không được tranh cãi.

Một vị trong phe phi chính thống không muốn phiền nhiễu đức Thế Tôn, liền thưa:

– Xin đức Thế Tôn hãy tinh xá. Mong đức Thế Tôn được an tịnh độc cư, thọ hưởng cực lạc đã chứng đắc ngay tại đời này. Chúng con sẽ tự làm cho chính bản thân ô danh vì cuộc khẩu tranh, luận tranh, đấu tranh, giao tranh này.

Nhưng bậc Ðạo Sư bảo họ:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vua Brahmadatta, quốc vương ở Kàsi, trị vì tại Ba-la-nại, đã chiếmđoạt vương quốc của vua Dighati ở Kosala, và giết vua ấy, trong lúc sống ẩn tích mai danh. Ðến khi vương tử Dighavu tha mạng vua Brahmadatta, hai vị trở thành thân hữu trở về sau. Và như vậy chắc hẳn có nhiều khổ đau và thân ái giữa hai vị vua mang kiếm trượng ấy; quả thật, này các Tỷ-kheo, các ông cần hiểu rõ rằng các ông đang sống đời tu tập theo Pháp và luật được khéo giảng, thì các ông có thể tha thứ và tỏ từ tâm đối với nhau.

Giáo huấn Tăng chúng đến lần thứ ba, Ngài bảo:

– Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, không được tranh chấp nữa.

Và khi Ngài không thấy họ không ngừng lại trước lệnh của Ngài, Ngài ra đi và bảo:

– Quả thật đám người ngu si này giống như bị quỷ ám, chúng không dễ được thuyết phục.

Hôm sau đi khất thực về, Ngài nghỉ trong Hương Phòng và sắp đặt phòng cho thứ tự, rồi cầm y bát, Ngài đứng trên không và ngâm các vần kệ này giữa Hội chúng:

  1. Khi Giáo hội bị phân chia hai nhóm,
    Dân chúng thường mở miệng kêu vang:
    “Mỗi người đều tự tin tưởng khôn ngoan,
    Và nhìn kẻ láng giềng đầy khinh bỉ”.
  2. Tâm mê muội, chứa đầy niềm tự thị,
    Chúng mở mồm phạm thượng thật si cuồng,
    Vậy là do khẩu nghiệp, chúng sai đường,
    Chúng không biết ai dẫn đầu ra lệnh.
  3. “Người này nhục mạ tôi, người kia đánh
    Người thứ ba chiến thắng, cướp bóc tôi!”
    Những ai mang tư tưởng ấy trong người
    Không hề muốn giảm dần niềm sân hận.
  4. “Xưa nó nhục mạ tôi và đánh đấm,
    Nó thắng tôi và đàn áp tôi hoài!”
    Ai chẳng mang ý tưởng đó trong người,
    Sẽ xoa dịu hận thù, đem hoà hợp.
  5. Không hận thù, chỉ tình thương đơn độc
    Làm hận thù tiêu diệt, luật ngàn năm,
    Một số người khinh bỉ pháp điều thân.
    Song kẻ biết giải hoà là trí thiện.
  6. Nếu những kẻ bị thương trong tử chiến
    Cùng những người cướp của, đoạt mạng dân,
    Và những ai tàn phá nước lân bang,
    Nay có thể cùng cựu thù thân thiết,
  7. Thế tại sao chúng Tăng không hoà hiệp,
    Các ông nên tìm đồng bạn trí hiền,
    Kẻ đồng tâm để chung sống bình yên,
    Hiểm hoạ hết, bên người đồng tâm tính,
    Ông suốt ngày hân hoan trong Thiền định!
  8. Song nếu ông không gặp bạn thân tình,
    Thượng sách là ông phải sống một mình,
    Như hoàng tử bỏ ngai vàng điện ngọc,
    Hay voi già bước lang thang cô độc.
  9. Vậy ưu tiên chấp nhận sống độc thân,
    Bầu bạn ngu chỉ dẫn đến tranh phân,
    Hay đeo đuổi đường đời trong phóng dật,
    Như voi nọ trong rừng hoang đi lạc.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã nói như vậy xong, và Ngài vẫn không giải hoà được hội chúng này, Ngài liền đi đến làng Bàlaka, nơi làm muối, và thảo luận với Tôn giả Bhagu về sự an lạc của độc cư. Sau đó Ngài lại đến nơi cư trú của ba thiện gia nam tử và nói chuyện với họ về hạnh phúc hoà hợp.

Rồi Ngài du hành đến rừng Pàrileyyaka, cư trú tại đó ba tháng, và đi về thẳng Sàvatthi, chứ không trở lại Kosambi.

Quần chúng cư sĩ ở Kosambi thảo luận với nhau và bảo nhau:

– Hiển nhiên các Tôn Gỉa Tỷ-kheo ở Kosambi đã làm hại chúng ta rất nhiều, bậc Ðạo Sư bị các vị ấy quấy nhiễu nên ra đi. Chúng ta quyết không trân trọng kính chào các vị ấy, cũng không cúng dường vật và thực khi họ đến nhà, để rồi họ sẽ ra đi, hoặc hoàn tục, hoặc cầu hoà với bậc Ðạo Sư.

Và họ làm đúng như vậy.

Các Tỷ-kheo ấy bị túng quẩn vì hình thức xử phạt này, liền đến Sàvatthi thỉnh cầu đức Thế Tôn tha thứ.

*

Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:

– Thời ấy vua cha là Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), mẫu hậu là Mahàmàya (Mai-gia) và vương tử Dighàvu chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền thân Mahàsuka)

Bất cứ khi nào cây trái sinh…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.

Chuyện kể rằng vị ấy sống trong rừng gần một làng biên địa ở Kosabbi và nhận được lời giáo huấn từ bậc Ðạo Sư theo các đề tài Thiền quán. Dân chúng làm cho ông một an thất trong một nơi họ thường lui tới, cung cấp nơi cư trú cả ngày lẫn đêm và phụng sự ông rất tận tâm chu đáo. Ngay tháng đầu tiên ông an cư mùa mưa, làng ấy bị đốt sạch và dân chúng không còn một hạt thóc nên không thể cúng dường thực phẩm thơm ngon vào bình bát ông, cho nên mặc dù ông ở trong một nơi thoải mái, ông lại buồn khổ vì thiếu thực phẩm đến độ không thể nhập vào Thánh đạo hay Thánh quả được.

Vì vậy khi hết ba tháng mưa, ông đến yết kiến bậc Ðạo Sư, sau những lời ân cần chào hỏi, bậc Ðạo Sư bày tỏ huy vọng là mặc dù khó khăn về thực phẩm cúng dường, ông cũng có được một nơi an trú dễ chịu. Vị Tỳ- kheo trình Ngài về tình hình đã diễn tiến ra sao. Khi nghe ông có được một trú xứ an lạc, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, nếu sự tình là như vậy, một vị tu khổ hạnh nên dẹp bỏ các thói tham đắm, và tri túc với những thức ăn gì mình nhận được để hoàn thành phận sự của người xuất gia. Các bậc trí ngày xưa khi được sinh vào loài súc vật, dù chỉ sống bằng bụi bặm trong cây hư mục mà mình cư trú, cũng đã bỏ mọi tham dục, tự biết sống đủ để ở lại nơi kia và hoàn thành đạo lý về ân tình. Thế thì tại sao ông lại bỏ một nơi cư trú đầy an lạc chỉ vì thức ăn nhận được quá ít ỏi thô sơ?

Và theo lời thỉnh cầu của vị này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có vô số chim anh vũ (két) sống ở vùng Tuyết Sơn trên bờ sông Hằng trong một rừng sung. Vua Anh vũ ấy gặp lúc trái cây nơi mình cư trú đã hết màu, phải ăn bất cứ cái gì còn sót lại, dù là mầm, lá, vỏ cây hoặc giác cây và uống nước sông Hằng, vẫn thấy an lạc và tri túc nơi mình sống.

Do tâm trạng an lạc tri túc này, chiếc ngai của Thiên chủ Sakka rung động. Sakka tìm hiểu nguyên nhân và thấy Anh vũ này, rồi muốn thử thách công hạnh của chim, ngài dùng thần lực làm cho cây héo tàn, trở thành khúc thân cây mục đầy lỗ hỏng đứng trơ vơ bị mưa gió vùi dập, và bụi bặm bay từ các lỗ ấy!

Anh vũ vương vẫn ăn bụi cây và uống nước sông Hằng, không đi đâu khác và vẫn đậu trên ngọn cây, chẳng quan tâm gì đến nắng gió.

Thiên chủ Sakka nhận thấy Anh vũ sống rất tri túc, liền tự bảo: “Sau khi nghe chim nói về đức tính của tình bằng hữu, ta sẽ đến ban cho chim một đặc ân và làm phép cho cây sung sinh bất tử”.

Vì thế ngài giả dạng một Thiên nga cùng với hoàng hậu của ngài là Sujà đi trước biến hình thành một nữ thần A-tu-la, ngài đến rừng sung kia, đậu trên một khóm cây gần đó và ngâm kệ bắt đầu đàm thoại với Anh vũ:

  1. Bất cứ khi nào cây trái sinh,
    Bầy chim đói lại đến đầy cành,
    Song khi cây đã thành khô héo,
    Lập tức bầy chim bỏ chạy nhanh.

Sau lời này, ngài lại ngâm vần kệ thúc giục chim đi chỗ khác:

  1. Này ông mỏ đỏ, hãy đi mau,
    Ông vẫn ngồi mơ mộng, cớ sao?
    Hãy nói ta nghe, xuân điểu hỡi,
    Sao ông bám khúc gỗ khô nào?

Chim Anh vũ đáp:

– Này Thiên nga, do ân nghĩa, ta không rời bỏ cây này.

Rồi chim ngâm hai vần kệ:

  1. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
    Biết rõ mọi điều kiện, chánh chân
    Dầu sống, chết hay khi khổ lạc,
    Ðều không hề bỏ mặc thân bằng
  2. Ta muốn ân cần, giữ thiện tâm
    Với cây kết bạn đã lâu năm,
    Ta mong sống, dẫu lòng không nỡ
    Rời bỏ cây khô đã chết dần.

Sakka nghe chim nói, rất hoan hỷ, vừa ca ngợi chim vừa muốn ban cho chim một điều ước, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ta biết chim giao hữu thật tình
    Trí nhân chắc chắn phải hoan nghênh,
    Ta ban chim thứ gì chim mong muốn,
    Anh vũ, ước cho thoả ý mình

Nghe vầy, Anh vũ ngâm vần kệ thứ bảy nói lên điều mình ước:

  1. Thiên nga, nếu bạn muốn ban ân
    Mong ước cho cây sống lại dần
    Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
    Quả ngon tươi mát mọc đầy thân.

Rồi Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tam ban đặc ân này:

  1. Bạn nhìn! Cây quý quả sai đầy,
    Thích hợp cho chim ở chốn này,
    Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
    Quả ngon ngọt mát tươi thay!

Cùng với các lời này, Sakka bỏ lốt ngỗng, thị hiện phép thần thông cùng Hoàng hậu Sujà, lấy tay múc nước sông Hằng rảy vào thân cây sung. Lập tức cây mọc lên cành lá sum suê, đầy trái ngọt như mật, tạo thành một cảnh tượng kỳ diệu như đỉnh núi Ngọc Bích lồ lộ.

Anh vũ thấy vậy, vô cùng hoan hỷ, ngâm vần kệ thứ chín tán thán Thiên chủ Sakka:

  1. Ước mong Thiên chủ, mọi Thiên thân,
    Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
    Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
    Khi nhìn cảnh tượng đẹp huy hoàng.

Sau khi ban điều ước cho Anh vũ, và làm phép để cây sung mọc trái bất tử, ngài cùng Hoàng hậu Sujà trở về cõi của ngài.

Ðể minh hoạ chuyện này, các vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng được thêm vào đoạn cuối:

  1. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
    Lần nữa cây kia trổ trái dần,
    Ðế Thích cùng bà hoàng biến mất
    Về vườn Thiên lạc cõi Thiên thần.

*

Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này Tỷ-kheo, các bậc trí này xưa dù sinh làm súc vật cũng dứt bỏ tham ái. Thế tại sao nay ông đã được thọ giới trong Giáo pháp tối thượng này, lại còn theo các thói xan tham? Hãy về ở lại chỗ ấy.

Rồi Ngài trao cho vị này một đề tài Thiền quán, và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Sakka là Anurudda (À-na-luật-đà) và Anh vũ chính là Ta.

Vị Tỷ-kheo trở về và nhờ Thiền quán đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền thân Cullasuka)

Nhìn cây vô số ở quanh đây…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên liên hệ phẩm Verãnjà của Luật Tạng.

Sau thời an cư mùa mưa tại Verãnjà, khi bậc Ðạo Sư lên đường dẫn đến Sàvatthi, Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường thảo luận và bảo nhau:

– Này các Hiến giả, đức Như Lai vốn là một vị quý tộc Sát-đế-lỵ được bảo dưỡng tế nhị, dầu đã thành Phật có đủ thần thông lực, vẫn theo lời thỉnh câu của một Bà-la-môn ở Verãnjà an cư ba tháng với vị ấy. Rồi do áp lực của Ác Ma, Ngài không nhận được thực phẩm cúng dường từ tay vị Bà-la-môn ấy, thậm chí một ngày thôi, Ngài liền từ bỏ mọi tham dục và cứ ở lại nơi ấy suốt ba tháng sống bằng nước lã và một ít cám xay. Kỳ diệu thay là hạnh tri túc của các đức Như Lai!

Khi bậc Ðạo Sư đến hỏi đề tài thảo luận của các vị, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay Như Lai đã bỏ hết mọi tham dục, vì ngày xưa khi được sinh làm súc vật, Ngài cũng xả ly tham dục.

Và sau đó, Ngài kể một chuyện quá khứ. Bấy giờ toàn thể câu chuyện cũng được kể lại với đầy đủ chi tiết giống hệt như chuyện trước.

*

Sakka:

  1. Nhìn cây vô số ở quanh đây
    Toàn thể xanh tươi, trái mọc đầy,
    Cớ sao Anh vũ còn đeo đẳng
    Cây đã héo khô tội nghiệp này?

Anh vũ:

  1. Chúng ta hưởng thọ đã lâu năm
    Trái ngọt ngon mà cây đã mang
    Vậy dẫu trái nay không còn nữa,
    Cây cần phải được sự quan tâm.

Sakka:

  1. Cây chẳng còn sinh trái, lá nào
    Than ôi! Cây đã chết, vì sao?
    Nay chim còn trách bầy chim bạn
    Rằng chúng ta bay đi hết đã lâu?

Anh vũ:

  1. Chúng yêu cây bởi trái cây thôi,
    Nay trái cây không còn nữa rồi,
    Bọn ích kỷ ngu si tội nghiệp,
    Thân tình ân nghĩa tếch mù khơi!

Sakka:

  1. Ta đây công nhận mối ân tình,
    Chim có lòng chung thuỷ tốt lành,
    Ðức hạnh như là Anh vũ chúa,
    Trí nhân mãi mãi sẽ hoan nghênh.
  2. Ta muốn giờ đây ta tặng chim
    Ðiều gì chim ước nguyện trong tim,
    Ta cầu chim nói cho ta biết,
    Ðiều ước làm tâm được phỉ nguyền?

Anh vũ:

  1. Mong cây này lại có cơ may
    Sinh sản lá tươi, trái trĩu đầy,
    Ta sẽ vô cùng hoan hỷ thấy
    Bầy chim tìm được bảo toàn này!
  2. Thế rồi cây ấy được Sak-ka
    Rảy nước hồi sinh để mọc ra
    Cành lá sum suê đầy bóng mát,
    Xinh tươi khả ái vẫn như xưa.
  3. Ước mong Thiên chủ, các Thiên thần
    Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
    Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
    Khi nhìn cảnh tượng đáng hân hoan!
  4. Như vậy cây trái được sinh
    Nhờ lời Anh vũ nguyện ân tình,
    Sak-ka trở lại cùng hoàng hậu
    An hưởng vườn Thiên lạc hiển vinh

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Sakka là Anuruddha và Anh vũ vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền thân Hàrita)

Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất mãn.

Bấy giờ Tỷ-kheo này trở nên bất mãn sau khi nhìn thấy một nữ nhân phục sức lộng lẫy nên cứ để cho lông tóc, móng tay chân dài ra, và muốn hoàn tục. Khi ông miễn cưỡng bị các vị giáo thọ và giám hộ đưa đi yết kiến bậc Ðạo Sư, và được Ngài hỏi xem có đúng là ông thối thất chăng, và tại sao như vậy, ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chính vì uy lực của dục tham, sau khi nhìn thấy một nữ nhân xinh đẹp.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tham dục huỷ hoại công đức, hơn nữa, rất đáng nhàm chán, nó làm cho con người tái sinh vào địa ngục; thế thì sao tham dục này lại không đưa đến sự suy tàn của ông? Bởi vì trận cuồng phong vùi dập đỉnh núi Sineru (Tu-di) vẫn không ngần ngại cuốn đi một ngọn lá khô héo. Chính vì tham dục này, những người thực hành theo trí thức và trí tuệ, đã đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, dẫu là Thánh nhân vĩ đại, vẫn không đủ khả năng ổn định tâm tư nên sa đoạ đánh mất Thiền lực vi diệu.

Rồi ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh ở một làng trong một gia đình Bà-la-môn có tài sản đến tám triệu đồng, và do màu vàng ánh của ngài, cha mẹ đặt tên ngài là Harittacakumàra (Nam tử Kim sắc). Khi lớn khôn, và đã được giáo dục tại Takkasilà, ngài trở thành người gia chủ. Vừa khi cha mẹ từ trần, ngài đi thanh tra đủ các kho báu của mình và suy nghĩ: “Tài sản kho báu tiếp tục tồn tại, còn những người tạo ra nó lại mất cả rồi. Ta cũng tan thành tro bụi khi chết”.

Như vậy do nỗi sợ chết báo động, ngài thực hành đại bố thí, rồi vào vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành, đến ngày thứ bảy ngài thành tựu các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài sống ở đó một thời gian bằng củ quả rừng, rồi xuống núi tìm muối và dấm, dần dần ngài đến tận Ba-la-nại.

Ngài sống trong ngự viên và ngày hôm sau, khi khất thực ngài đến cửa cung vua. Vua rất hoan hỷ khi thấy ngài nên đã truyền mời ngài vào ngồi trên vương toạ dưới bóng mát của chiếc Lọng trắng và cúng dường ngài đủ thứ cao lương mỹ vị.

Khi lời nói lời tuỳ hỷ công đức, vua vô cùng đẹp ý hỏi:

– Bạch Tôn giả, ngài sắp đi đâu?

– Tâu Ðại vương, chúng tôi tìm một nơi an cư mùa mưa.

– Thế thì tốt lắm, bạch tôn giả. Vua bảo.

Rồi sau buổi điểm tâm, vua cùng đi với ngài đến ngự viên, truyền dựng am thất ban ngày lẫn banđêm cho ngài ở, chỉ định người giữ ngự viên làm hầu cận của ngài, rồi vua kính chào ngài ra về. Từ đó bậc Ðại Sĩ thường xuyên ăn uống ở cung vua và sống tại nơi ấy suốt mười hai năm liền.

Một hôm, vua đi dẹp loạn ở biên giới, nên đã giao phó hoàng hậu chăm sóc Bồ-tát, và bảo bà:

– Ðừng xao lãng việc phụng sự “Phước điền” của chúng ta.

Từ đó trở về sau, hoàng hậu tự tay phục vụ bậc Ðại Sĩ rất chu đáo.

Một hôm, hoàng hậu đã chuẩn bị thực phẩm của ngài xong, và vì ngài đến muộn, nên bà đi tắm nước hương thơm ngát, choàng chiếc y bằng lụa mỏng manh mềm mại, rồi mở cửa thượng lầu nằm xuống một vương sàng nhỏ để cho gió lùa trên thân thể bà.

Sau đó, Bồ-tát đắp hạ y và thượng y, cầm bình bát, du hành qua không gian đi vào cửa sổ ấy. Khi hoàng hậu vội vàng đứng dậy vì nghe tiếng sột soạt của các tấm y bằng vỏ cây trên thân ngài, chiếc y bằng lụa mỏng rơi khỏi người bà. Một đối tượng lạ thường đập vào mắt bậc Ðại Sĩ. Rồi một dục tưởng đã ẩn trong tâm ngài từ vô lượng kiếp, chợt bừng dậy như một con rắn nằm trong hộp, xua tan thiền lực của ngài.

Rồi không đủ khả năng ổn định tư tưởng, ngài đến chụp lấy hoàng hậu bằng đôi tay và hai vị lập tức kéo màn che phủ quanh người. Sau khi đã phạm tà dục với bà, ngài thọ thực và trở về ngự viên. Từ đó về sau, ngày nào ngài cũng đến làm như vậy.

Tà hạnh của ngài vang dậy khắp kinh thành. Các cận thần của vua dâng sớ tâu trình vua: “Nhà khổ hạnh Hàrita đang hành động như vậy như vậy”.

Vua suy nghĩ: “Họ nói như vậy để ly gián chúng ta” và vua không tin chuyện ấy.

Khi vua đã bình định vùng biên địa xong, liền trở về Ba-la-nại và sau buổi diễn binh oai nghi khắp kinh thành, vua đến gặp hoàng hậu và hỏi:

– Có thật Thánh nhân khổ hạnh Hàrita đã phạm tà dục với ái hậu chăng?

– Tâu Chúa thượng, quả đúng vậy.

Vua vẫn không tin lời bà và suy nghĩ. “Ta sẽ hỏi chính vị ấy”. Rồi đi đến ngự viên, vua vái chào ngài, ngồi kính cẩn một bên và ngâm vần kệ đầu để hỏi chuyện:

  1. Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng
    Tôn giả nay đang sống lỗi lầm,
    Trẫm chẳng tin lời đồn đại ấy,
    Ngài không phạm tội ý, thân chăng?

Ngài suy nghĩ: “Nếu ta nói ta không phạm tội lỗi, vị vua này sẽ tin ta, nhưng trên thế gian này, không có một căn cứ nào vững chắc bằng nói sự thật. Người nào từ bỏ sự thật, dù ngồi trong Bồ-đề đạo tràng linh thiêng cũng không để đạt quả Phật. Vậy ta cần nói sự thật”.

Trong vài trường hợp, một vị Bồ-tát có thể sát sinh, lấy của không cho, phạm tà dục và uống rượu nồng, nhưng vị ấy không được nói dối đi kèm với sự lừa phỉnh vi phạm chân lý của vạn vật. Vì thế ngài ngâm vần kệ thứ hai chỉ nói lên sự thật:

  1. Ta phạm ác hành, hỡi Ðại vương,
    Ðúng như Ngài đã được nghe rằng
    Mắc vào tà thuật trong trần thế,
    Ta đã đi sai lạc bước đường.

Nghe vậy, vua ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Trí tuệ uyên thâm của thế nhân
    Hoài công vô ích, chẳng xua tan
    Dục tham bùng dậy trong lòng dạ
    Của bậc trí nhân đã lạc đường.

Sau đó Hàrita nêu rõ cho vua thấy uy lực của dục tham qua vần kệ thứ tư:

  1. Bốn ác dục này ở thế gian
    Uy quyền lấn áp cứ lan tràn:
    Tham, sân, vô độ và si ám,
    Tri kiến không sao đứng vững vàng.

Vua nghe liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Thánh hạnh tràn đầy với trí minh
    Hà-ri Hiền giả đáng tôn vinh!

Hiền giả Hàrita ngâm tiếp vần kệ thứ sáu:

  1. Ác tâm, tham dục, do liên kết,
    Huỷ hoại trí nhân hướng Thánh hành.

Sau đó vua ngâm vần kệ thứ bảy khuyến nhủ vị ấy quẳng bỏ mọi tham dục:

  1. Vẻ đẹp trong tâm tịnh sáng ngời
    Bị hư vì ác dục sinh sôi,
    Quẳng ngay, hạnh phúc đang chờ đón,
    Quần chúng tuyên dương trí tuệ ngài.

Khi ấy Bồ -tát đã phục hồi năng lực Thiền định và quán sát sự đau khổ của tham dục, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Vì tham dục trói buộc thân này,
    Sinh sản cho ta quả đắng cay,
    Ta quyết cắt sâu cho tận gốc
    Mọi mầm tham dục khởi lên đây.

Nói vậy xong, ngài xin phép vua, rồi sau khi được chấp nhận, ngài về tham am tập trung nhãn lực vào đề tài và nhận định, sau đó bước ra khỏi am, ngồi bắt chéo chân trên không và giảng Chánh pháp cho vua, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, ta đã tạo nên sự chỉ trích của quần chúng vì ta cư trú một nơi mà ta không nên cư trú. Nhưng giờ đây xin Ðại vương hãy tỉnh giác hộ phòng. Còn ta sẽ trở về núi rừng thoát ly mọi ô nhiễm của nữ sắc.

Rồi giữa những giọt nước mắt và tiếng than khóc của vua, ngài trở về Tuyết Sơn, rồi không gián đoạn Thiền định, ngài lên cõi Phạm thiên.

Bậc Ðạo Sư biết toàn thể câu chuyện và bảo:

  1. Như vậy, Hà-ri bậc trí nhân
    Ðấu tranh vì Chánh pháp kiên cường,
    Vừa khi rời bỏ niềm tham dục,
    Hướng đến Phạm thiên tiến thẳng đường.

*

Sau khi ngâm vần kệ do Trí tuệ tối thắng, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục ấy đã đắc Thánh quả.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ vua là Ànanda, và Hàrita chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền thân Padakusalamànava)

Pà- ta bị cuốn bởi sông Hằng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi trú tại Kỳ Viên về một cậu bé.

Người ta đồn cậu bé ấy là con của một gia chủ tại Sàvatthi, chỉ có bảy tuổi đã có tài nhận ra dấu chân. Bấy giờ cha cậu bé có ý định thử tài con, liền đi đến nhà người bạn mà không cho cậu biết. Cậu bé chẳng cần hỏi cha đã đi đâu, cứ theo vết chân của cha cậu, đến đứng trước mặt cha. Vì thế một hôm cha cậu hỏi:

– Khi cha ra đi mà không nói với con, làm thế nào mà con biết cha đi đâu?

– Thưa cha, con nhận ra dấu chân của cha. Con có tài về chuyện này.

Sau đó, cha cậu lại muốn thử cậu, liền ra khỏi nhà sau khi ăn sáng, đi vào nhà kế cận, từ đó qua một nhà khác, từ nhà thứ ba ông lại quay về nhà mình, rồi sau đó đi ra cổng Bắc, xong đi một vòng quanh thành phố từ phải sang trái. Khi đến Kỳ Viên, ông đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống nghe Pháp. Cậu bé hỏi cha ở đâu, và người nhà bảo:

– Ta không biết.

Cậu lần theo dấu chân cha bắt đầu từ nhà bên cạnh đi theo đúng con đường cha cậu đã đi qua. Sau khi đánh lễ bậc Ðạo Sư, cậu đứng trước mặt cha. Và cha hỏi làm sao con đến đây được, cậu đáp:

– Con nhận ra dấu chân cha và lần theo dấu ấy đến đây.

Người cha nói:

– Bạch Thế Tôn, thằng bé này có tài nhận ra dấu chân. Muốn thử nó, con đã đến đây theo cách như vầy như vầy. Nó không thấy con ở nhà, cứ lần theo dấu chân đến đây.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Không lạ gì việc nhận ra dấu chân dưới đất. Các bậc trí nhân ngày xưa nhận ra dấu chân trên không gian.

Và theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Thời xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, vị chánh hậu bị vua chất vấn sau khi phạm tội tà dục, liền tuyên thệ:

– Nếu thần thiếp phạm tội với Chúa thượng, thần thiếp sẽ trở thành một con quỷ cái Dạ-xoa có mặt ngựa.

Sau khi chết, bà trở thành con quỷ cái có mặt ngựa sống trong hang đá ở một khi rừng rậm dưới chân núi và thường bắt những người qua lại trên con đường từ biên giới Ðông sang Tây để ăn thịt. Chuyện kể rằng sau khi phục vụ Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) suốt ba năm, quỷ cái nàyđược phép ăn thịt người trong một khu vực dài ba mươi dặm, rộng năm dặm.

Một hôm, một vị Bà-la-môn giàu sang, đẹp trai được một đoàn tuỳ tùng đông đảo hộ tống đi lên con đường ấy. Dạ-xoa liền thấy chàng liền cười lớn chạy xuống chụp chàng, còn đám tùy tùng chạy trốn cả.

Với tốc lực nhanh như gió, quỷ cái bắt được chàng Bà-la-môn ném lên lưng nó và đưa vào hang. Do xúc chạm với chàng trai, quỷ cái bị lòng dục chi phối và cảm thấy yêu mến chàng, nên thay vì ăn thịt chàng, nó lại lấy chàng làm chồng và cả hai sống hoà hợp với nhau.

Từ đó mỗi khi quỷ cái bắt được đàn ông, nó lấy áo quần, lúa gạo, dầu mỡ cùng với mọi thứ khác phục vụ chàng đủ món cao lương mỹ vị, còn nó vẫn ăn thịt người.

Khi nào nó đi xa, nó sợ chàng trốn thoát, nên vẫn lấy hòn đá lớn đậy miệng hoang trước khi đi. Trong thời gian họ sống an vui như vậy, thì Bồ-tát vừa từ giã từ đời trước và nhập vào mẫu thai của quỹ cái với vị Bà-la-môn. Sau mười tháng, quỷ cái sinh một con trai, nó vô cùng thương yêu cả vị Bà-la-môn lẫn hài nhi, nên nuôi nấng họ chu đáo. Dần dần khi cậu bé lớn lên, quỷ cái đặt con vào trong hang với cha, rồi đóng cửa lại.

Một hôm Bồ-tát biết mẹ đã đi xa liền giở hòn đá lên và đưa cha ra ngoài. Khi quỷ cái trở về, hỏi aiđã giở hòn đá, cậu bé đáp:

– Thưa mẹ, chính con, vì cha và con không thể ngồi trong tối mãi.

Do thương con, quỷ cái không nói lời nào nữa. Một hôm Bồ-tát hỏi cha:

– Thưa cha, miệng cha khác với miệng mẹ, vì sao vậy?

– Con ơi, mẹ con là quỷ Dạ-xoa sống bằng thịt người, còn cha là con người.

– Nếu vậy, tại sao ta sống ở đây? Mau lên, chúng ta quyết trở về nơi chốn loài người.

– Con ơi, nếu ta cố chạy trốn, mẹ con sẽ giết chết cả hai ta đấy.

Bồ-tát an ủi cha và bảo:

– Cha đừng sợ, việc đem cha trở về chốn loài người là phận sự của con.

Hôm sau, khi mẹ cậu đã ra đi, cậu đem cha chạy trốn.

Khi quỷ cái trở về thấy thiếu họ, nó liền chạy như gió bắt họ lại và nói:

– Này chàng Bà-la-môn, tại sao chàng bỏ chạy, chàng có thiếu gì ở đây chăng?

– Nàng ơi, xin đừng giận ta. Con nàng đem ta đi theo nó đấy.

Quỷ cái không nói gì thêm, do lòng thương con, nó an ủi hai cha con và mang họ trở về hang sau vài ngày bay vùn vụt.

Bồ-tát suy nghĩ: “Mẹ ta chắn hẳn phải có một ranh giới hoạt động. Giả sử ta hỏi mẹ về ranh giới mà mẹ có quyền hạn, rồi ta sẽ đi trốn bằng cách vượt qua ranh giới đó”.

Vì vậy, hôm ngồi kính cẩn bên mẹ, ngài hỏi:

– Mẹ ơi, những gì thuộc về mẹ đều truyền cho con; vậy mẹ nói cho con biết ranh giới vùng đất của ta.

Quỷ cái liền cho biết mọi phạm vi đất đai núi rừng ở mọi hướng và chỉ rõ khu vực dài ba mươi dặm rộng năm dặm ấy, xong lại bảo:

– Hãy xem nó nhiều như vậy đấy con à.

Sau hai ba ngày, khi mẹ đã vào rừng, ngài cõng cha lên vai và chạy nhanh như gió theo dấu hiệu mẹ ngài đã cho biết, ngài đến bờ sông làm ranh giới. Quỷ cái trở về thấy thiếu họ liền đuổi theo.

Bồ-tát mang cha ra giữa sông, còn quỷ cái đứng bên bờ thấy họ đã vượt phạm vi của nó, đành phải đứng lại và kêu:

– Con yêu quý ơi, hãy đến đây cùng với cha con. Mẹ có lỗi lầm gì nào? Có việc già không vừa lòng con về phương diện nào? Xin chàng hãy trở về mau!

Quỷ cái van xin chồng con như vậy.

Vị Bà-la-môn đã qua bên kia sông. Quỷ cái lại khẩn cầu con:

– Con yêu quý ơi, đừng làm như vậy. Hãy trở lại mau!

– Mẹ ơi, cha và con là người, còn mẹ là quỷ Dạ-xoa. Cha và con không thể ở mãi với mẹ được.

– Thế con không muốn trở lại à?

– Không mẹ ơi!

– Vậy nếu con không muốn trở lại mà sống trên thế giới loài người khổ lắm con ạ, những người không biết nghề gì thì không thể sống được. Mẹ có phép thuật cao cường, nhờ thần lực đó, ta có theo dõi dấu chân của người đã đi qua sau mười hai năm. Ðiều này sẽ làm kế sinh nhai của con. Này con, hãy nhận lấy phép thuật cao giá này.

Mặc dù lòng nặng trĩu đau buồn, do lòng thương con, quỷ cái cũng trao thần chú cho con. Bồ-tátđứng giữa sông chắp hai tay lại kính cẩn nhận thần chú và vái chào mẹ ngài:

– Mẹ ơi, con xin từ giã mẹ.

Quỷ cái bảo:

– Con ơi, nếu con không trở lại, mẹ không thể sống được.

Nó liền đấm vào ngực và ngay lập tức do sầu não vì con, tim nó tan nát ra nên nó chết tại chỗ.

Bồ- tát biết mẹ đã chết, liền gọi cha và đi làm giàn hoả thiêu xác mẹ. Sau khi dập tắt lửa, ngài cúng nhiều loại hoa đủ màu sắc, vừa than khóc, vừa cùng cha trở về Ba-la-nại.

Quân hầu tâu trình vua:

– Một cậu thanh niên có tài nhận ra dấu chân đang đứng chờ ở cửa.

Khi vua ra lệnh ngài vào chầu, ngài bước vào cung kính vái chào vua. Vua hỏi:

– Này Hiền hữu, khanh biết nghề gì?

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần biết theo dõi dấu chân của người đã trộm cắp tài vật cách mười hai năm trước và bắt lấy họ.

– Thế thì vào đây hầu hạ trẫm. Vua bảo.

– Tiểu thần muốn phục vụ Chúa thượng với tiền công mỗi ngày một ngàn đồng.

– Tốt lắm, này Hiền hữu, nhất định khanh sẽ phục vụ trẫm.

Rồi vua ban cho ngài một ngàn đồng tiền mỗi ngày.

Một hôm, vị tế sư hoàng gia trình vua:

– Tâu Chúa thượng, chàng thanh niên chưa sử dụng xảo thuật để làm gì cả nên ta không biết chàng có tài hay không, vậy bây giờ ta quyết thử tài chàng.

Vua sẵn sàng chấp nhận. Hai vị thông báo cho các vị thủ kho và lấy các châu báu có giá trị nhất từ lầu thượng xuống, rồi sau khi đi lẩn quẩn ba vòng quanh cung điện, họ đặt cái thang trên nóc tường và theo đó đi ra ngoài.

Sau đó họ vào Pháp đình, ngồi xuống rồi trở ra đặt cái thang trên tường và leo xuống và đi vào thành. Khi đến bờ hồ nước, họ đi vòng quanh ba vòng rào trang nghiêm rồi thả các báu vật vào hồ và trèo lên lầu thượng như cũ.

Hôm sau có tiếng huyên náo và nhiều người kêu:

– Các báu vật đã bị mất khỏi cung rồi.

Vua giả vờ không biết gì, triệu Bồ-tát đến bảo:

– Này Hiền hữu, nhiều báu vật vừa bị mất trộm khỏi cung, ta phải tìm ra dấu vết.

– Tâu Chúa thượng, đối với một người có khả năng theo dấu vết bọn trộm cắp và thu hồi bảo vật cách mười hai năm trước, thì chẳng có gì thần kỳ khi tìm được tài vật chỉ mất sau một ngày đêm. Tiểu thần quyết đem lại đủ, xin Chúa thượng yên tâm.

– Vậy Hiền hữu hãy thu hồi báu vật.

– Tâu Chúa thượng, được lắm.

Ngài nói xong đi đảnh lễ hương hồn mẹ, rồi vừa niệm thần chú vừa đứng yên trên thượng lầu, rồi trình vua:

– Tâu Chúa thượng, dấu chân của bọn trộm sẽ được tìm ra.

Sau đó theo dấu chân vua và vị tế sư, ngài vào cung thất, từ đó ra đi, ngài bước xuống khỏi thượng lầu và sau ba vòng đi quanh hoàng cung, ngài đến gần cái hồ. Ðứng bên hồ, ngài bảo:

– Tâu Chúa thượng, bắt đầu ở nơi này từ bức tường, tiểu thân thấy dấu chân trên không. Xin đem cho tiểu thần một cái thang.

Sau khi nhờ đặt cái thang sát tường, ngài leo xuống và tiếp tục theo dõi dấu vết, ngài đến Pháp đình. Rồi trở vào cung, ngài bảo đặt cái thang sát tường và từ đó ngài leo xuống đi đến hồ nước. Sau khi đi quanh hồ nước ba lần, ngài bảo:

– Tâu Chúa thượng, bọn trộm đã vào hồ này.

Và vừa lấy báu vật ra như thể chính ngài đặt chúng vào đó, ngài dâng vua và trình:

– Tâu Chúa thượng, hai đạo tặc này là người đặc biệt, chúng đã vào cung bằng cách này.

Quần thần búng ngón tay biểu lộ hân hoan cực độ và rất nhiều khăn quàng tung vẫy lên. Vua suy nghĩ:

“Có lẽ chàng trai này theo dõi dấu chân nên biết nơi bọn trộm cất báu vật, nhưng chàng không bắt được chúng”. Sau đó vua phán:

– Hiền hữu đã mang lại ngay báu vật được bọn trộm mang đi, nhưng khanh có thể bắt bọn trộm và đưa chúng cho trẫm chăng?

– Tâu Chúa thượng, bọn trộm ở đây, chúng không ở đâu xa.

– Chúng là ai thế?

– Tâu Ðại vương, bất cứ ai thích đều có thể làm kẻ trộm cả. Ðại Vương đã thu hồi báu vật rồi, sao Ðại Vương còn muốn bắt trộm làm gì nữa? Xin Ðại Vương hỏi chuyện ấy.

– Này Hiền hữu, trẫm ban cho khanh mỗi ngày một ngàn đồng tiền, vậy hãy đem bọn trộm đến cho trẫm.

– Tâu Chúa thượng, khi đã thu hồi báu vật, thì cần gì bắt bọn trộm nữa?

– Này Hiền hữu, đối với mọi người, bắt bọn trộm còn quan trọng hơn thu hồi báu vật.

– Thế thì, tâu Chúa thượng, tiểu thần sẽ không tâu với Chúa thượng: “Bọn trộm là những người này, người nọ”, nhưng tiểu thần sẽ kẻ một chuyện xảy ra đã lâu. Nếu Chúa thượng thông thái, Chúa thượng sẽ biết ý nghĩa của nó.

Rồi sau đó ngài kể một chuyện cổ.

* Chuyện vũ công Pàtala

– Tâu Ðại vương, ngày xưa có một vũ công tên là Pàtala sống không xa thành Ba-la-nại, trong một ngôi làng bên bờ sông. Một hôm y vào Ba-la-nại cùng với vợ, và sau khi kiếm tiền được nhờ múa hát, y ăn cơm uống rượu no say vào dịp lễ hội chấm dứt.

Trên đường về làng cũ, y đến bờ sông ngồi ngắm dòng nước chảy vừa uống rượu nồng. Trong lúc đang say không biết mình sức yếu, y bảo: “Ta sẽ buộc ống sáo lớn vào cổ và đi xuống sông”. Y dắt vợ trong tay bước dần xuống sông. Nước vào trong các lỗ ống sáo, rồi sức nặng của ống sáo làm y bắt đầu chìm xuống.

Nhưng khi vợ thấy y chìm dần, nàng bỏ mặc y, bước lên khỏi sông và đứng trên bờ.

Vũ công Pàtala lúc chìm lúc nổi và bụng trướng lên vì uống nước. Vì vậy vợ y suy nghĩ: “Chồng ta sắp chết, ta muốn xin chàng một bài hát và sẽ kiếm sống nhờ hát giữa đám đông”, và nói:

– Chàng ơi, chàng sắp chìm xuống nước, xin hãy cho thiếp một bài hát nhờ đó thiếp tìm ra cách nuôi thân.

Rồi nàng ngâm vần kệ:

  1. Pà-ta bị cuốn bởi sông Hằng,
    Ca vũ tài hoa tiếng lẫy lừng,
    Chàng hởi! Chàng trôi theo sóng nước,
    Xin chàng cho thiếp khúc ca ngâm.

Lúc ấy vũ công Pàtala nói:

– Nàng ơi, làm sao cho nàng một khúc ca bây giờ đây? Nước vốn là nguồn cứu khổ cho con người nay đang giết ta.

Và y ngâm một vần kệ:

  1. Những người đang bất tử mê man,
    Nhờ nước vào để cứu thương,
    Ta bị chết ngay trong sóng nước,
    Nơi nương tựa đã hoá tai ương!

Bồ -tát muốn giải thích vần kệ này, bảo:

– Tâu Ðại vương, giống như nước là nơi nương tựa của mỗi con người, cũng vậy là vua chúa đối với dân. Nếu hiểm hoạ phát sinh từ vua chúa, thì còn ai đề phòng được hiểm hoạ ấy nữa? Tâu Ðại vương, đây là một vấn đề bí mật. Tiểu thần vừa kể một câu chuyện mà người hiền trí có thể hiểu được. Xin Ðại vương có thể hiểu nó.

– Này Hiền hữu, trẫm không hiểu chuyện bí mật như thế này đâu. Hãy bắt bọn trộm đến cho trẫm.

Sau đó Bồ-tát nói:

– Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy nghe chuyện này và sẽ hiểu.

Rồi ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện người thợ gốm.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa trong ngôi làng ngoài cổng thành Ba-la-nại, có một người thợ gốm thường tìm đất sét đem về làm đồ gốm, và bao giờ cũng lấy đất sét ở một nơi mà y đào thành một cái hố sâu vào một hang núi.

Bấy giờ, một hôm y đang đào đất sét, một cơn giông bão trái mùa bùng lên làm mưa rơi tầm tã, gây ngập lụt và làm sụp một bên hố khiến y bị vỡ đầu. Y liền ngâm vần kệ, khóc than rên rĩ:

  1. Cái vật nhờ hạt nẩy mầm
    Ðể nuôi sống tất cả người trần,
    Ðã làm ta vỡ đầu ra đấy,
    Chỗ dựa thành tai hoạ bản thân.

– Tâu Ðại vương, giống như đại địa cầu vốn là nơi nương tựa của loài người, lại làm vỡ đầu chú thợ gốm, cũng vậy, khi vua vốn như là nơi nương tựa của toàn dân, lại đứng lên đóng vai kẻ trộm, thì còn ai có thể đề phòng hiểm hoạ ấy? Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có nhận ra tên trộm giả dạng trong câu chuyện này chăng?

– Này Hiền hữu, chúng ta không cần ý nghĩa ẩn kín trong đó. Hãy nói rõ: “Ðây là tên trộm” và bắt nó dẫn đến giao cho trẫm.

Vẫn bảo vệ nhà vua và không nói thành lời: “Chính Ðại vương là tên trộm”, ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện ngọn lửa.

Tâu Ðại vương, ngay chính kinh thành này, có một nhà người kia bị cháy. Y ra lệnh một người khác vào nhà đem tài sản của y ra. Ðến khi chính chủ nhà này vào nhà và đem đồ vật ra thì cánh cửa chợt đóng lại. Y bị khói toả mù mịt không thể tìm đường thoát ra và bị ngọn lửa lên cao hành hạ đau đớn, y ở trong nhà khóc vừa than vừa ngâm vần kệ này:

  1. Cái vật làm tan vỡ giá băng
    Và thiêu đốt hạt giống khô cằn,
    Ðang thiêu huỷ tứ chi ta đó,
    Chỗ dựa thành tai hoạ khổ thân
    .

– Tâu Ðại vương, có một người cũng giống như ngọn lửa, vốn là nơi nương tựa của quần chúng, lại đi ăn trộm một số lớn châu báu. Xin Ðại vương đừng hỏi tiểu thần về tên trộm này nữa.

– Này Hiền hữu, cứ đưa tên trộm đến cho trẫm.

Vẫn không nói rõ cho vua chính vua là kẻ trộm, ngài lại kể một chuyện nữa.

* Chuyện bội thực.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa chính tại kinh thành này có một người ăn thái quá nên không thể tiêu hoá thức ăn. Ðau đớn điên cuồng, y ngầm vần kệ than khóc:

  1. Thức ăn nuôi sống biết bao người
    Ðạo sĩ, La-môn giữa đời,
    Ðã giết chết ta đây trọn vẹn,
    Nơi nương tựa hoá khổ đau rồi.

– Tâu Ðại vương, có một người vốn như lúa gạo, là nơi nương tựa của toàn dân, lại ăn trộm tài vật. Khi tài vật đã được thu hồi, tại sao còn hỏi về tên trộm làm gì?

– Này Hiền hữu, nếu khanh có tài thì cố đem tên trộm đến cho trẫm.

Ngài kể một chuyện khác để làm cho vua hiểu.

* Chuyện gió thổi.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa ngay chính kinh thành này có ngọn gió thổi lên làm gãy tay chân một người. Y ngâm vần kệ than khóc:

  1. Những bậc trí nhân vẫn nguyện cầu
    Gió lành tháng sáu thổi lên mau.
    Gió nay làm tứ chi ta gãy,
    Chỗ dựa thành tai hoạ khổ đau!

– Tâu Ðại vương, như vậy quả thật hiểm nguy phát xuất từ nơi nương tựa của thần. Xin hãy hiểu chuyện này.

– Hiền hữu, hãy đem tên trộm cho trẫm.

Ðể làm cho vua hiểu, ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện cành cây.

– Tâu Ðại vương, ngày xưa trên triền núi Tuyết Sơn có một cây mọc lên chĩa ra nhiều nhánh làm nơi trú ẩn vô số chim muông. Một hôm hai cành cọ xát vào nhau. Khói bốc ra rừ đó và các đốm lửa rơi xuống. Thấy vậy, chim chúa ngâm vần kệ này:

  1. Lửa phát sinh ra ở ngọn cây
    Chúng ta an trú bấy lâu nay,
    Mau lên, giải tán bầy chim nhé,
    Chỗ dựa thành nơi hiểm hoạ đầy.

– Tâu Ðại vương, giống như cây kia là nơi nương tựa của chim muông, cũng vậy, vua là nơi nương tựa của thần dân. Nếu vua đóng vai kẻ trộm, thì ai còn đề phòng hiểm hoạ ấy nữa? Xin Ðại vương lưu ý điều này.

– Này Hiền hữu, cứ đem tên trộm đến cho trẫm.

Sau đó ngài lại kể một chuyện khác nữa:

* Chuyện giết mẹ già.

– Tâu Ðại vương, trong một làng ở Ba-la-nại, về phía tây một nhà quý tộc, có con sông đầy cá sấu hung dữ, gia đình ấy chỉ có một trai. Lúc cha mất, cậu con chăm sóc mẹ già chu đáo.

Dù con trai không muốn, bà mẹ vẫn đem một cô gái quý tộc về làm vợ chàng. Ban đầu, nàng tỏ ra yêu thương mẹ chồng, nhưng về sau dần dần nàng có đủ con trai con gái đông đúc, nàng muốn trừ khử bà đi.

Mẹ của nàng cũng ở nhà này. Trước mặt chồng, nàng tìm ra đủ mọi lỗi lầm của mẹ chồng để làm cho chồng có ác cảm với bà, và bảo:

– Thiếp không thể nuôi mẹ chàng được nữa. Chàng phải giết mẹ đi.

Khi chàng bảo:

– Sát nhân là chuyện hệ trọng, làm sao ta có thể giết mẹ được?

Nàng đáp:

– Khi nào mẹ chàng ngủ rồi, chúng ta sẽ đem bà đi, luôn cả giường chiếu đồ đạc, rồi ném bà vào sông cá sấu. Cá sấu sẽ kết liễu đời bà.

– Thế mẹ nàng ở đâu?

– Mẹ thiếp ngủ cùng phòng với mẹ chàng.

– Thế thì nàng đi đánh dấu vào chiếc giường mẹ ta nằm bằng cách buộc sợi dây thừng vào đó.

Nàng làm như vậy rồi bảo:

– Thiếp đã đánh dấu lên đó rồi.

Người chồng đáp:

– Hãy đợi ta một lát, để mọi người đi ngủ trước đã.

Rồi chàng nằm xuống giả vờ ngủ, sau đó, đi buộc sợi dây thừng vào giường mẹ vợ. Sau đó chàng đánh thức vợ dậy, cả hai cùng đi khiêng bà mẹ lẫn tất cả giường chiếu đồ đạc ném xuống sông. Bầy cá sấu giết chết bà ăn thịt ngay tại chỗ.

Hôm sau nàng khám phá mọi việc đã xảy ra cho chính mẹ mình, liền nói:

– Chàng ơi, mẹ thiếp đã chết rồi, nay ta hãy giết mẹ chàng.

Chàng bảo:

– Ðược lắm. Chúng ta làm một giàn hoả tại nghĩa địa, rồi thả bà vào đó để giết bà.

Thế là hai vợ chồng khiêng bà ra nghĩa địa trong lúc bà ngủ và đặt bà tại đó. Rồi người chồng hỏi vợ.

– Nàng có đem lửa theo không?

– Chàng ơi, thiếp đã quên rồi.

– Vậy đi tìm lửa đem về đây.

– Chàng ơi, thiếp không dám đi, còn nếu chàng đi, thiếp không dám ở lại đây. Vậy chúng ta cùng đi nhé.

Khi họ đi rồi, bà già tỉnh giấc vì gió lạnh, thấy đấy là nghĩa địa, bà suy nghĩ: “Chúng nó muốn giết ta, chúng đã đi tìm lửa. Chúng không biết ta mạnh dạn ra sao đâu”.

Bà liền lấy một tử thi đặt lên giường và lấy khăn phủ kín, rồi chạy đi trốn trong hang núi ở nơi ấy. Hai vợ chồng đem lửa về, tưởng tử thi ấy là bà già, họ đốt xác rồi ra về.

Có một kẻ trộm kia dấu một gói đồ vật trong hang núi ấy, lúc trở về thấy bà già, y suy nghĩ: “Ðây chắc là quỷ Dạ-xoa. Gói đồ đạt của ta bị quỷ ám”. Thế là y đi tìm thầy bùa trừ tà.

Thầy bùa đọc thần chú và đi vào hang. Bà già bảo:

– Ta không phải là quỷ Dạ-xoa, nào chúng ta cùng hưởng số báu vật này.

– Làm sao tin được chuyện này?

– Cứ đặt lưỡi ông trên lưỡi ta đây.

Thầy bùa làm theo, bà già cắn một khúc lưỡi của thầy và nhả xuống đất. Thầy bùa suy nghĩ: “Chắc chắn đây là quỷ Dạ-xoa”. Thầy bùa vừa chạy vừa la to, với cái lưỡi chảy máu ròng ròng. Hôm sau bà già mặc y phục sạch sẽ và đi lấy gói báu vật đem về. Nàng dâu thấy bà vội hỏi:

– Mẹ ơi mẹ tìm gói này ở đâu thế?

– Con yêu quí ơi, hễ ai bị đốt cháy trên giàn hoả trong nghĩa địa này đều tìm được một gói như vậy.

– Mẹ yêu quí ơi, thế con có thể tìm được gói này chăng?

– Nếu con cũng làm như ta thì con cũng có được.

Thế rồi nàng không nói gì với chồng, và trong lòng ước muốn có được số châu báu để đeo, nàngđi đến đó tự thiêu sống. Hôm sau, chồng nàng thấy vợ vắng, liền hỏi:

– Mẹ yêu quí ơi, giờ này sao con dâu mẹ chưa đến?

– Này đồ bất nhân kia, người chết làm sao trở về được?

Rồi bà già ngâm vần kệ:

  1. Một gái xuân xanh đẹp biết bao
    Với vòng hoa trắng đội trên đầu
    Dầu thơm sực nức chiên-đàn toả,
    Ðã được ta ngày trước đón dâu;
    Nương tử hân hoan mong ngự trị
    Trong nhà ta ở tự bao lâu;
    Con dâu đuổi mẹ đi nơi khác,
    Chỗ dựa thành tai hoạ thảm sâu!

– Tâu đại vương, giống như con dâu đối với mẹ chồng, cũng vậy, vua là nơi tựa của toàn dân. Nếu hiểm hoạ xuất phát từ đó, thì ta có thể làm gì được nữa? Xin đại vương hãy chú ý điều này.

– Này hiền hữu, trẫm không hiểu những việc khanh nói với trẫm. Cứ đem tên trộm lại đây cho trẫm.

Ngài suy nghĩ: “Ta muốn che chở vua”, rồi ngài lại kể một chuyện khác.

* Chuyện đuổi cha già

– Tâu Ðại vương, ngày xưa nay trong kinh thành này, một người kia sinh con trai đúng như lời nguyện cầu. Khi đứa con ra đời, người cha vui mừng hớn hở vì ý tưởng có được con trai, nên yêu quí nó lắm.

Khi đứa trẻ lớn lên, người cha cưới vợ cho con rồi dần dần ông già yếu không làm được việc nữa. Vì thế con ông bảo:

– Cha không làm việc được nữa, cha phải ra khỏi đây.

Rồi nó đuổi cha ra khỏi nhà.

Ông cha hết sức chật vật kiếm sống bằng nghề hành khất, vừa ngâm vần kệ vừa khóc than:

  1. Kẻ mà ta ước muốn sinh ra,
    Cũng chẳng hoài công mong đợi kia
    Lại đuổi ta đi: Nơi trú ẩn
    Hoá thành tai hoạ khổ thân ta.

– Tâu đại vương, giống như người cha già phải được đứa con khoẻ mạnh chăm sóc, cũng vậy, là toàn dân phải được vua bảo vệ, giờ đây mối hiểm hoạ lại xuất phát từ vua, người bảo vệ toàn dân. Tâu Ðại vương, xin hãy hiểu từ việc này rằng kẻ trộm là người như vậy như vậy.

– Trẫm không hiểu việc này, dù đó là sự thực hay không phải sự thực. Hoặc là ngươi phải mang kẻ trộm đến đây cho trẫm, hoặc chính ngươi là kẻ trộm ấy.

Vua cứ bảo chàng thanh niên như vậy mãi. Vì thế ngài hỏi vua:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương thực sự muốn kẻ trộm bị bắt chăng?

-Ðúng vậy, Hiền hữu.

– Thế thì tiểu thần sẽ công bố giữa quần chúng rằng kẻ trộm là người như vầy như vầy.

– Hãy làm như vậy, này Hiền hữu.

Khi nghe vua nói, ngài suy nghĩ: “Vua này không cho phép ta che chở nữa. Ta sẽ bắt tên trộm bây giờ”.

Khi quần chúng đã tụ tập đầy đủ, ngài vần kệ với họ:

  1. Này dân thành thị đến nông làng
    Tề tựu lắng nghe tất cả rằng:
    Kìa! Nước lạnh nay đang đang bốc cháy
    Chốn bình an phát xuất kinh hoàng.
    Ðại vương, Ðạo sĩ cùng than vãn
    Quốc độ bị cường đạo phá tan.
    Vậy mọi người dân lo tự vệ,
    Nơi nương tựa bỗng hoá tai nàn.

Khi quần chúng nghe nói vậy, họ suy nghĩ: “Vị vua này, mặc dù phải bảo vệ thần dân, lại đổ lỗi cho người khác. Sau khi chính tay vua bỏ báu vật vào hồ, vua lại bảo đi tìm kẻ trộm! Ðể cho vua khỏi đóng vai kẻ trộm trong tương lai, chúng ta phải giết hôn quân vô đạo này”.

Vì thế họ đứng lên với trượng, chùy trong tay đánh vua và vị tế sư cho đến chết tại chỗ. Rồi họ làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh phong vương) Bồ-tát và đưa ngài lên ngôi.

*

Sau khi kể chuyện này để làm sáng tỏ các Sự Thật, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, không kỳ diệu gì khi nhận ra dấu chân trên mặt đất, vì các bậc trí ngày xưa còn nhận ra chúng trên không nữa.

Lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ cùng con trai đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, người cha là Kassapa (Ca-diếp) và chàng thanh niên có tài nhận dấu chân chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca- Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền thân Lomasa Kassapa)

Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra…,

Bậc Ðại Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm thế tục.

Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy có thật ông đang mơ tưởng chuyện thế tục chăng, và khi ông công nhận làđúng như vậy, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, ngay cả người đạt danh vọng tối cao đôi khi cũng phạm vào một việc ô danh. Những tội lỗi như thế làm ô uế những vị thanh tịnh, huống nữa là một kẻ như ông.

Rồi Ngài một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vương tử Brahmadatta, con vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, và con trai vị tế sư hoàng gia tên là Kassapa là đôi bạn đồng học mọi nghệ thuật tại nhà một giáo sư. Dần dần khi vua cha băng hà, thái tử lên trị vì quốc độ. Kassapa nghĩ: “Hiền hữu ta đã lên làm vua và sẽ ban đại quyền lực cho ta. Song ta có cần gì quyền lực? Ta muốn giã từ đức vua cùng song thân và trở thành vị khổ hạnh”.

Vì vậy ngài vào vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành, vào ngày thứ bảy ngài thành đạt các Thắng trí và các Thiền chứng và tự kiếm sống bằng những thứ nhặt được giữa đồng hoang. Quần chúng đặt cho ngài biệt danh nhà khổ hạnh Lomasa Kassapa (Ca-diếp có nhiều lông tóc).

Vì hành hạ thân xác, và trở thành vị khổ hạnh khắc nghiệt cao độ. Do công năng khổ hạnh này, cung của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động. Sakka suy xét duyên cớ, quan sát ngài và suy nghĩ: “Vị khổ hạnh này nhờ công năng toả nhiệt độ mãnh liệt như thế, có thể khiến ta rớt khỏi ngai Ðế Thích. Ta sẽ phá huỷ khổ hạnh của vị ấy sau khi bí mật hội kiến với vua Ba-la-nại”.

Nhờ thần lực của một vị Thiên chủ, Ðế Thích vào cung của vua Ba-la-nại lúc nửa đêm và chiếu sáng toàn thể cung thất với hào quang trên thân, vừa đứng trên không trước mặt vua, Thiên chủ vừa thức vua dậy và nói:

– Thưa Ðại vương, dậy đi.

Vua hỏi:

– Ngài là ai? Vua hỏi.

– Ta là Sakka. Thiên chủ đáp

– Ngài đến đây vì duyên cớ gì?

– Thưa Ðại vương, Ðại vương có muốn quyền ngự trị duy nhất toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) này chăng?

– Dĩ nhiên trẫm muốn.

Nghe thế thiên chủ bảo:

– Vậy hãy đưa Lomasa Kassapa về đây và ra lệnh cho vị ấy làm lễ tế đàn bằng cách giết thú vật, rồi Ðại vương sẽ trở thành vĩ đại như Thiên chủ Sakka (tức Indra), thoát khỏi già chết, và cầm quyền khắp cõi Diêm- phù-đề.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra,
    Sẽ chẳng chết đi, cũng chẳng già,
    Ví thử Kas-sa-pa nhận lệnh
    Tế đàn sinh vật tại cung vua.

Nghe lời ngài, vua sẵn sàng chấp thuận. Sakka bảo:

– Thế thì đừng chậm trễ.

Rồi ngài biến mất.

Hôm sau, vua triệu vị quốc sư tên Sayha đến bảo:

– Này Tôn giả, xin đến gặp thân hữu Lomasa Kasaspa của trẫm và nhân danh trẫm nói với người như vầy: “Nếu Ðại vương khuyến dụ được ngài làm lễ hiến tế sinh vật, đại vương sẽ trở thành vị chúa độc nhất ở toàn cõi Diêm-phù-đề và sau đó ban ngài nhiều vùng lãnh thổ như ý ngài muốn. Vậy xin ngài cùng đi với tôi về làm lễ tế đàn”.

Vị ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, xin vâng.

Sau đó dùng trống lệnh truyền tìm chỗ vị khổ hạnh cư trú, và khi có người kiểm lâm bảo: “Tiểu thần biết”, Sayha liền đi theo sự hướng dẫn của y cùng một đoàn tuỳ tùng đông đảo, đến kính lễ vị hiền nhân và vừa cung kính ngồi một bên, vừa trình thông điệp của vua. Vị hiền nhân liền bảo:

– Này Sayha, Tôn giả nói gì vậy?

Rồi Ngài ngâm bốn vần kệ từ chối vị này:

  1. Không hải đảo nào giữa đại dương
    Ðược người canh giữ thật an toàn
    Hòng mong lôi cuốn ta, Tôn giả,
    Vào việc bạo tàn đại bất lương.
  2. Lòng tham lợi dưỡng với vinh danh,
    Tội ác từ đây vẫn phát sinh,
    Ðưa đến khổ ưu không gián đoạn
    Ác hành tai hại đáng chê khinh!
  3. Thà làm kẻ khốn khó ly gia,
    Khất thực kiếm ăn khắp mọi nhà
    Hơn phải tạo nên điều tội lỗi
    Sẽ mang ô nhục trút đầu ta.
  4. Thà cầm bình bát ở trong tay
    Ðể tránh thật xa tội lỗi này,
    Hơn chiếm được toàn quyền quốc độ
    Nhờ hành động ác độc như vầy.

Sau khi nghe ngài nói, vị quốc sư ra về trình vua. Vua suy nghĩ: “Nếu vị ấy không chịu đến đây thì ta làm gì được?”, rồi ngồi im lặng. Nhưng nửa đêm, Thiên chủ Sakka lại đến đứng trên không và bảo:

– Thưa Ðại vương, tại sao Ðại vương không truyền gọi ẩn sĩ Lomasa Kassapa về và ra lệnh vị ấy làm lễ hiến tế súc vật?

– Khi được lệnh truyền gọi, vị ấy đã từ chối về đây.

– Thưa Ðại vương, hãy trang điểm cho công chúa Candavatì (Nguyệt Nương), ái nữ của Ðại vương, và nhờ chính tay Sayha đưa nàng đi và bảo vị ấy: “Nếu Tôn giả muốn về dâng tế lễ, Chúa thượng sẽ ban thưởng công nương này làm vợ ngài”. Rõ ràng vị ấy sẽ sinh lòng say mê công chúa và về đây.

Vua sẵn sàng chấp thuận và hôm sau nhờ chính tay Sayha đưa công chúa đi. Sayha đem công chúa đến đó, và sau lời chào hỏi thông thường cùng ca ngợi vị hiền giả, vị quốc sư bảo đưa đến trình diện với ngài nàng công chúa diễm lệ khả ái như tiên nữ cung kính đứng xa xa.

Vị khổ hạnh mất ngay trí đức khi nhìn thấy nàng và chỉ nhìn thế thôi, ngài đã tiêu tan hết Thiền lực. Vị quốc sư thấy ngài đã đắm say luyến ái nàng, liền bảo:

– Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả muốn hiến tế, Chúa thượng sẽ ban công chúa này về làm vợ ngài.

Ngài rung động vì mãnh lực của tham dục liền hỏi:

– Chắc chắn Chúa thượng sẽ ban nàng cho ta chứ?

– Ðúng vậy, nếu ngài làm tế lễ, Chúa thượng sẽ ban nàng cho ngài.

– Tốt lắm. Nếu ta được nàng, ta sẽ làm lễ hiến tế.

Rồi đem nàng đi cùng ngài ngay lúc ấy với các chòm tóc bện của một vị khổ hạnh và mọi thứ khác, ngài leo lên chiếc vương xa lộng lẫy đi về Ba-la-nại. Còn vua, ngay khi nghe tin đang chắc chắn đến đó, liền chuẩn bị lễ đàn ở hố hiến tế sinh vật.

Khi thấy ngài đã đến, vua bảo:

– Nếu Hiền hữu dâng lễ hiến tế, trẫm sẽ sánh ngang với Thiên chủ Indra, và khi tế lễ hoàn tất, trẫm sẽ ban công chúa cho Hiền hữu.

Vị khổ hạnh Kasapa sẵn sàng chấp thuận.

Vì thế hôm sau vua cùng công chúa Candavatì đi đến hố hiến tế sinh vật. Tại đó có đủ loại súc vật bốn chân như voi, ngựa, bò đực và các loài khác đặt thành một dãy. Ẩn sĩ Kasapa lãnh việc hiến tế bằng cách giết chết tất cả bọn chúng.

Lúc ấy thần dân tụ tập quanh đó bảo:

– Hỡi Tôn giả Lomasa Kasapa, việc này không thích hợp cũng không xứng đáng với ngài, tại sao ngài làm như vậy?

Và vừa than vừa khóc, họ vừa ngâm hai vần kệ:

  1. Nhật, nguyệt đều mang đại lực thân,
    Thuỷ triều không nhượng lực phàm trần,
    La-môn, Ðạo sĩ đầy oai lực,
    Song vẫn kém xa lực nữ nhân.
  2. Nguyệt Nương cũng vậy, đã làm cho
    Ca-diếp Hiền nhân mắc tội to,
    Thúc giục ngài theo lời Chúa thượng
    Tế đàn sinh vật tại cung vua.

Vào lúc này để bắt đầu tế lễ, Kasapa nhấc bảo kiếm lên để đánh vào cổ vương tượng. Con voi thấy thanh kiếm, kinh hoàng sợ chết, liền rống thật lớn. Khi nghe tiếng voi rống, các súc vật kia, cả bầy voi ngựa, bò đực vì sợ chết, đồng rống lên thật lớn và quần chúng cũng kêu thét lên.

Kasapa nghe các tiếng rống kia, lòng xúc động và nghĩ lại các chòm tóc bện của mình. Lúc ấy ngài nhờ đến các chòm tóc, râu và lông phủ khắp ngực và toàn thân. Ðầy hối hận, ngài kêu lớn:

– Than ôi, ta đã phạm ác nghiệp không xứng đáng với tính cách của ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám bày tỏ xúc động của mình:

  1. Ác nghiệp này ta đã muốn làm,
    Chính là kết quả của lòng tham,
    Cái mầm dục vọng đang tăng trưởng,
    Gốc rễ nó, ta quyết cắt ngang.

Sau đó vua phán:

– Này Hiền hữu, đừng sợ, hãy dâng tế lễ và ngay bây giờ trẫm sẽ ban cho Hiền hữu công chúa Candavatì, cùng với vương quốc của trẫm và cả một đống châu báu cao ngất nữa.

Nghe thế, ẩn sĩ Kassapa đáp:

-Tâu Ðại vương, ta không muốn tội ác này tràn ngập tâm ta.

Rồi ngâm vần kệ kết thúc:

  1. Ðáng ghét bao tham dục thế thường
    Thà theo khổ hạnh tốt lành hơn,
    Ta làm ẩn sĩ nguyền ly dục,
    Ngài giữ nước nhà với Nguyệt Nương.

Cùng với những lời này, ngài tập trung vào một đối tượng Thiền quán. Khi phục hồi được định lực đã mất, ngài ngồi bắt chéo chân trên không, thuyết Pháp cho vua, khuyên nhủ vua tinh cần làm thiện sự và bảo vua huỷ bỏ tế đàn cùng ban lệnh ân xá cho quần chúng. Rồi thể theo lời thỉnh cầu của vua, ngài bay lên không trở về nơi an trú của mình. Trong thời gian ngài còn sống, ngài tu tập các Phạm trú Viên mãn (Tứ Vô lượng tâm ) và được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thuở ấy vị đại quốc sư là Sàriputta và vị khổ hạnh Lomassa Kasapa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền thân Cakkavàka)

Ðôi chim lông óng ả, màu vàng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.

Người ta bảo vị ấy tham muốn các vật dụng cần thiết trong đời sống xuất gia và bỏ quên mọi phận sự của một sư trưởng và giáo thọ hướng dẫn đệ tử, thường vào thành Sàvatthi thật sớm. Sau khi ăn cháo gạo tuyệt hảo với nhiều loại thực phẩm loại cứng tại nhà nữ cư sĩ Visàkha, lại ăn thêm suốt ngày nhiều loại cao lương mỹ vị với cơm thịt, và vẫn chưa thoả mãn, ông đi từ đó đến nhà ông Tiểu Cấp Cô Ðộc, cung vua Kosala và nhiều nơi khác nữa. Vì thế một hôm có cuộc thảo luận tại Chánh pháp đường liên hệ đến tính tham lam của ông.

Khi bậc Ðạo Sư biết đề tài Tăng chúng đang thảo luận, Ngài truyền đưa vị Tỷ-kheo đến và hỏi có thật ông tham lam chăng. Và khi ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn,

Bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông tham lam? Ngày xưa cũng vì tham ăn, không thỏa mãn với những xác voi chết, ông đã rời Ba-la-nại và lang thang quanh quẩn bờ sông Hằng, vào tận vùng Tuyết Sơn.

Và sau đó ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham lam đi quanh quẩn ăn xác voi chết, và không thoả mãn, nó nghĩ: “Ta muốn ăn mỡ cá trên bờ sông Hằng”. Rồi sau vài ngày ở tại đó ăn cá chết, nó vào vùng Tuyết Sơn sống bằng các loại quả rừng.

Khi đến một hồ sen rộng nhiều rùa cá, nó thấy hai con chim Thiên nga với bộ lông vàng óng ả sống bằng cây rong Sevàla, nó nghĩ: “Ðôi chim này thật mỹ lệ, đầy hảo tướng. Thức ăn của chúng chắc phải thích thú lắm. Ta muốn hỏi chúng đó là thức gì, rồi cũng ăn như thế và ta sẽ có màu lông óng ả kia”.

Vì vậy Quạ đến gần, sau lời chào hỏi ân cần theo thông lệ với đôi chim khi chúng đang đậu trên ngọn cây, quạ ngâm vần kệ ca ngợi chúng:

  1. Ðôi chim lông óng ả màu vàng
    Quanh quẩn đó đây, lạc thú tràn
    Chim loại gì người yêu mến nhất
    Là điều ta mong muốn biết cho tường.

Nghe vậy, Hồng nga ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Này Quạ, vượt lên mọi dã cầm,
    Hồng nga được hạnh phúc ban ân
    Mọi miền vang dậy tình thân ái
    Người lẫn chim đều vẫn tán dương
    Hãy biết Hồng nga là Ngỗng đỏ
    Bạo gan vùng vẫy nước sông Hằng

Nghe vầy, Quạ ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Trái gì sung mãn ở trên sông
    Tìm thấy “thịt” cho bạn Ngỗng hồng?
    Hãy nói món trời cho Ngỗng hưởng
    Ðể sinh sắc đẹp, lực tăng cường?

Hồng nga liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chẳng trái gì ăn ở giữa sông,
    Và đâu có: “thịt” với chim Hồng
    Sè-và-la ấy đem chà vỏ
    Làm thức ăn không có lỗi lầm.

Sau đó Quạ ngâm hai vần kệ:

  1. Ta chẳng thích lời ấy, Ngỗng hồng,
    Trước kia ta thưởng thức cần dùng
    Ðể nuôi ta sống, cần phù hợp
    Với dáng bề ngoài ta ước mong.
  2. Nay ta nghi hoặc, bởi ta ăn
    Gạo, muối, dầu, bơ, thịt, quả ngon
    Như các anh hùng say yến tiệc
    Khi vừa trở lại khải hoàn môn
    Vậy ta thưởng thức đầy hương vị,
    Song dẫu ta đang sống thật là sang,
    Hình dáng bề ngoài ta vẫn thế
    Bên Hồng nga chẳng thể ngang bằng!

Sau đó Hồng nga bảo cho Quạ biết lý do tại sao Quạ không đạt được dung sắc mỹ lệ trong khi chính Hồng Nga đã đạt được qua các vần kệ còn lại:

  1. Không thoả vì hoa quả rớt rơi
    Trong vùng nghĩa địa hoả thiêu người,
    Tham lam, Qua vẫn bay lơ lững
    Săn đuổi mồi ngon cám dỗ hoài.
  2. Song những ai mong phạm ác hành,
    Chỉ vì dục lạc, giết sinh linh,
    Lương tâm giày xéo thân mòn mỏi,
    Vẻ đẹp, tráng cường huỷ hoại nhanh.
  3. Vậy cái thiện nhân chẳng hại ai,
    Hình dung cường tráng, vẻ xinh tươi,
    Bởi vì mỹ sắc, ta cần biết,
    Chẳng phải thuộc vào thực phẩm thôi.

Như vậy Hồng nga dùng nhiều phương tiện chỉ trích Quạ. Sau khi Quạ bị khiển trách như vậy, nó bảo:

– Ta chẳng muốn có sắc đẹp cuả Thiên nga nữa.

Và nó bay đi xa với tiếng kêu quác quác.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã đắc Nhị quả (Nhất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này, Hồng nga mái là mẫu thân Ràhula và Hồng nga trống chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền thân Halidaràga)

Trong chốn rừng hoang vắng một mình…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một chàng thanh niên bị một thiếu nữ thô tục cám dỗ. Phần duyên khởi chuyện này sẽ xuất hiện trong Chương Mười ba, Tiền thân Cullàrada, số 477, tập IV.

*

Bấy giờ theo cổ tích này, cô thiếu nữ biết rằng nếu chàng thanh niên khổ hạnh phá huỷ giới đức, chàng sẽ rơi vào uy lực của nàng. Rồi nghĩ cách dụ dỗ chàng và đưa chàng trở lại cõi trần tục, nàng bảo:

– Giới đức được hộ phòng cẩn mật ở rừng sâu, nơi các đặc tính của dục lạc như sắc đẹp, tiếng hay và các thứ tương tự như thế không có mặt, nên giới đức ấy không mang lại nhiều kết quả; song nó sẽ mang kết quả sung mãn trong cõi đời thế tục khi đối diện trực tiếp với sắc đẹp, cùng các thứ kia. Vậy chàng hãy đi cùng thiếp về hộ phòng giới đức tại đó.

Và nàng ngâm vần kệ đầu:

  1. Trong chốn rừng hoang vắng một mình
    Con người có thể giữ tâm lành,
    Dễ dàng chịu đựng trò lôi cuốn,
    Song ở thôn quê hoặc thị thành
    Ðầy rẫy biết bao mùi cám dỗ
    Người vươn đến hạnh phúc tối cao minh.

Khi nghe vậy, chàng khổ hạnh trẻ tuổi đáp:

– Cha ta đã vào rừng. Khi người trở lại, ta sẽ xin phép người và đi theo nàng.

Nàng suy nghĩ: “Có lẽ chàng còn thân phụ. Nếu vị ấy thấy ta ở đây, vị ấy sẽ lấy đầu mũi đòn gánhđánh chết ta. Ta phải chạy trốn trước”. Vì thế nàng bảo chàng trai:

– Thiếp sẽ ra đi lên đường về trước chàng và để lại dấu chân sau đó, chàng cần phải đi theo thiếp.

Khi nàng đã đi rồi, chàng không đem củi về, cũng không lấy nước uống, mà chỉ ngồi thừ người suy nghĩ miên man, đến khi cha về, chàng cũng không ra đón.

Vì thế cha chàng hiểu con ngài đã rơi vào uy lực của nữ nhân, liền bảo:

– Này con, sao con chẳng tìm củi hay mang nước về uống, cũng chẳng có gì ăn, sao con chẳng làm gì cả mà chỉ ngồi người ra suy nghĩ?

Chàng trai khổ hạnh đáp:

– Thưa cha, người ta nói rằng giới đức được hộ phòng trong rừng hoang không đem lại kết quả mấy, nhưng nó sẽ phát sinh nhiều kết quả giữa của đời. Con muốn đi hộ phòng giới đức tại đó. Bạn đồng hành của con đã đi trước và bảo con theo sau. Vậy con muốn đi cùng bạn con. Nhưng khi sống tại đó, con phải cư xử theo cách nào?

Vừa hỏi câu này, chàng vừa ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thưa cha, xin giải toả nghi nan:
    Ví lỡ con đi lạc bước đường,
    Từ chốn rừng này vào xóm nọ,
    Người nào giữ đức độ hiền lương,
    Hay là môn phái nào tu tập
    Con phải noi theo thật chánh chơn?

Sau đó thân phụ chàng ngâm các vần kệ còn lại:

3-4. Một kẻ nào con tín nhiệm luôn,
Và con tạo được mối yêu thương,
Người này tin cậy lời con nói,
Tỏ với con kiên nhẫn nhịn nhường,
Người ấy chẳng bao giờ phạm lỗi
Về lời nói, ý tưởng hay thân,
Hãy đem người ấy vào lòng dạ
Theo sát người kia tựa bạn vàng

5-6. Với hạng người thay đổi lạ lùng
Như lời loài khỉ vượn nhảy lung tung,
Tính tình bất định, thì con nhớ
Ðừng hướng tâm giao kết bạn cùng,
Dù số phần con quanh quẩn mãi
Một mình trơ trọi ở trong rừng.

  1. Hãy tránh xa đường hướng ác hành,
    Như con tránh rắn dữ cho nhanh,
    Hay như người lái xe xa lánh
    Một lối đi gai gốc gập ghềnh.

8-9. Các nỗi khổ đau vẫn ngập tràn
Khi người hầu cận hạng si cuồng,
Ðừng giao kết bọn người ngu xuẩn,
Lời nói của cha phải phục tuân,
Làm bạn với phường vô trí ấy
Chỉ làm mồi khổ não đau buồn.

Khi được cha khuyến giáo như vậy, chàng trai đáp:

– Nếu con đi đến chỗ người đời, con không thể tìm được các bậc hiền trí như cha. Con sợ đến đó lắm rồi. Con muốn ở lại đây hầu cận bên cha.

Sau đó phụ thân chàng lại khuyến giáo nhiều hơn nữa và dạy chàng các nghi thức tu tập đưa đến Thiền định vi diệu. Rồi chẳng bao lâu, chàng trai phát triển các Thắng Trí và các Thiền chứng và về sau chàng cùng cha đều được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo mơ tưởng thế tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh trẻ tuổi là Tỷ-kheo có tâm hướng về thế tục này, cô gái thuở ấy là cô gái ngày nay và cha chàng chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cái Hộp (Tiền thân Samuggu)

Kìa đến từ đâu, các bạn ta?…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm hướng đến thế tục.

Chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư hỏi có thật vị ấy đang tham đắm thế tục chăng, và khi ông thú nhậnđúng như vậy. Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông ham muốn nữ nhân? Nữ nhân thật là độc ác, vô ơn. Ngày xưa các ác quỷ Asura (A-tu-la) nuốt nữ nhân vào bụng và dù canh giữ nữ nhân trong bụng, chúng cũng không thể làm cho nữ nhân trung thành với một nam nhân được. Vậy thì bằng cách nào ông sẽ có khả năng làm chuyện ấy.

Rồi sau đó Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát từ bỏ tham dục lạc thế gian, vào vùng Tuyết Sơn theo đời tu tập, ngài ở đó sống bằng quả rừng và phát triển các Thắng trí cùng các Thiền chứng.

Không xa thảo am của ngài, có một ác quỷ Asura (A-tu-la). Thỉnh thoảng nó đến gần bậc Ðại Sĩ và nghe Pháp, nhưng vẫn đứng trong rừng trên xa lộ, nơi có nhiều người tu tập, nó bắt họ và ăn thịt.

Thời ấy có một nữ nhân quý tộc ở quốc độ Kàsi, cực kỳ diễm lệ, sống ở một làng biên địa. Một hôm nàng đi thăm cha mẹ và khi trở về, ác quỷ này thấy bọn người theo hộ tống nàng liền hoá hình khủng khiếp nhảy vào họ. Bọn người này đánh rơi khí giới cầm trong tay và chạy trốn. Ác quỷ thấy giai nhân ngồi trên xe ngựa, đâm ra say mê nàng, liền đem nàng về làm vợ.

Từ đó ác quỷ đem cho nàng bơ sữa, gạo, cá, thịt và các món ăn khác, cùng trái cây để ăn và điểm trang nàng với đủ thứ y phục châu báu. Ðể canh giữ nàng cho an toàn, nó đặt nàng vào một cái hộp, rồi nuốt vào bụng và giữ nàng trong bụng.

Một hôm nó muốn tắm, liền đến hồ nước kéo hộp ra và đem nàng ra ngoài, nó tắm rửa, xoa dầu thơm cho nàng và khi đã mặc xiêm y cho nàng xong, nó bảo:

– Nàng hãy vui chơi giây lát ngoài trời.

Rồi không nghi ngờ có sự nghi hại nào, ác quỷ đi hơi xa để tắm.

Vừa lúc ấy chàng con trai của Vàyu, một tà thuật sư, đeo kiếm bên lưng, đang du hành trên không. Khi nàng thấy y, nàng đưa tay theo kiểu làm dấu hiệu cho y đến gần.

Tà thuật sư liền đáp xuống đất. Sau đó nàng đặt y vào hộp rồi ngồi lên đó, đợi ác quỷ Asura đến, trước khi nó bước lại gần chiếc hộp, nàng mở hộp ra và bước vào, nằm trên vị tà thuật sư, lấy xiêm áo của nàng phủ lên người y. Ác quỷ Asura đến nơi, không quan sát kỹ chiếc hộp cứ tưởng chỉ có cô nàng, nên lại nuốt hộp vào bụng và trở về hang.

Trong khi đi đường, nó suy nghĩ: “Ðã lâu lắm từ khi ta thăm vị ẩn sĩ khổ hạnh. Hôm nay ta muốn đi đảnh lễ ngài”. Còn ngài đã thấy nó từ đằng xa, biết rằng có hai người trong bụng ác quỷ, nên ngài ngâm vần kệ đầu bảo nó:

  1. Kìa đến từ đâu, các bạn ta?
    Chào mừng ba vị đến thăm nhà,
    Vui lòng ở với ta giây lát,
    Ta chắc các ngươi sống thuận hoà,
    Hạnh phúc, vì lâu ngày chẳng thấy
    Vị nào qua lại chốn đường xa.

Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: “Ta đã đến đây một mình để thăm vị khổ hạnh này, và ngài lại nói có ba người; ý ngài muốn ám chỉ gì vậy? Ngài nói vì biết rõ hiện trạng mọi việc, hay ngài hoá điên và nói nhảm nhí?” Sau đó nó đến gần ngài kính cẩn ngồi một bên và ngâm vần kệ thứ hai đàm đạo với ngài:

  1. Tôi đến thăm ngài chỉ một thân
    Chứ không người, vật khác đi cùng,
    Cớ sao ngài nói, thưa Tôn giả,
    “Kìa đến từ đâu, các bạn vàng,
    Tất cả ba người cùng đủ mặt
    Hôm nay quả thật đáng chào mừng!”

Vị khổ hạnh này đáp:

– Ngươi có thật sự muốn nghe lý do chăng?

– Thưa vâng, bạch Thánh giả.

– Vậy hãy nghe đây.

Ngài đáp và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Hãy biết rằng ngươi với vợ ngươi,
    Nằm yên trong hộp ấy là hai
    Ðược canh phòng kỹ trong lòng kín,
    Chơi với Và-yu Tứ thật vui!

Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: “Các tà thuật sư chắc chắn phải đầy các trò xảo quyệt, giả sử hắn cầm kiếm trong tay và rạch bụng ta ra để trốn thoát thì sao?”

Và vô cùng hốt hoảng, ác quỷ nhả chiếc hộp ra, đặt trước mặt nó.

Bậc Ðạo Sư muốn làm sáng tỏ vấn đề với Trí tuệ tối thắng của ngài, liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Ác quỷ vì gươm, thấy hãi kinh,
    Nhả ra chiếc hộp tự trong mình,
    Ðặt ngay xuống đất nhìn cô vợ
    Trang điểm vòng hoa thật đẹp xinh
    Như thế cô dâu cùng chú rể
    Và- yu Tử nọ hưởng men tình!

Chiếc hộp vừa được mở ra thì vị tà thuật sư niệm thần chú, vừa chụp thanh kiếm vừa vụt lên không. Khi thấy vậy, ác quỷ Asura hài lòng vì bậc Ðại Sĩ đến độ nó ngâm các vần kệ được gợi cảm hứng cốt để ca tụng ngài:

  1. Thánh giả nhãn quang thấy rõ ràng
    Ðắm chìm hạ liệt bọn nam nhân,
    Làm thân nô lệ cho nhi nữ,
    Tôi giữ nó vào trong bụng luôn
    Như chính đời tôi song khốn nạn,
    Nó chơi trò mất nết hư thân.
  2. Ngày đêm săn sóc nó, canh chừng
    Như ẩn sĩ chăm chút lửa rừng,
    Song nó vẫn sa vào tội lỗi
    Vượt ngoài vòng đạo lý công bằng.
    Dính vào nữ giới tất nhiên phải
    Gánh chịu bao ô nhục cuối cùng.
  3. Tưởng dấu trong mình, chẳng thấy ai,
    Nó là sở hữu của riêng tôi,
    Song tên nó chính là “dâm phụ”,
    Nó phạm tội kia trái đạo trời.
    Liên luỵ nữ nhân ắt phải chịu
    Nhận bao ô nhục đến tàn đời.
  4. Bọn nam nhi thật chỉ hoài công
    Ðịch với ngàn mưu chước nữ nhân.
    Tin tưởng hộ phòng là chắc chắn
    Cứ như vực thẳm cứ xuôi dần
    Xuống miền địa ngục bao chàng ngốc
    Nó đã lôi vào chỗ liệt vong.
  5. Người tránh lối đường của nữ nhi
    Sống đầy hạnh phúc thoát sầu bi,
    Thấy niềm cực lạc trong cô tịch,
    Xa lánh hồng nhan phản bội kia!

Cùng với những lời này, ác quỷ quì xuống chân bậc Ðại Sĩ, vừa tán thán ngài, vừa nói:

– Bạch Thánh giả, con đã được ngài cứu mạng. Vì nữ nhân độc ác kia, con suýt bị tà thuật sư giết chết.

Sau đó Bồ Tát thuyết Pháp cho nó và bảo:

– Ðừng làm hại nàng ấy. Hãy giữ giới hạnh.

Rồi ngài an trú nó vào Ngũ giới.

Ác quỷ nói:

– Dù con đã giữ nó trong bụng, con vẫn không thể giữ nó an toàn được. Vậy còn ai giữ được nó nữa?

Vì thế nó thả cho nàng đi, rồi trở về hang cũ trong rừng.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỳ kheo có tâm thế tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh có thần thông chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chó Rừng Pùtimunsa (Tiền thân Pùtimunsa)

Sao Pù -ti lại ngó trừng trừng…,

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc ngụ tại Kỳ Viên về việc chế ngự dục tham.

Có một thời nhiều tỳ kheo không hộ phòng các căn môn. Bậc đạo sư báo trưởng lão Ànanda:

– Ta phải giáo huấn các tỳ kheo này.

Và do tăng chúng thiếu sự điều phục thân tâm, Ngài triệu tập các tỳ kheo lại rồi ngồi trên bảo toạđược trang hoàng lộng lẫy, Ngài bảo các vị:

– Này các tỳ kheo, thật không chính đáng khi một tỳ kheo chịu sự chi phối của sắc đẹp cá nhân (tịnh tướng) khiến vị ấy sinh lòng luyến ái các đặc điểm thể chất hoặc tinh thần của con người, vì giả sử vị ấy chết ngay lúc ấy, vị ấy sẽ bị tái sinh vào địa ngục, ác thú, đoạ sứ; vậy các ông đừng sinh tâm luyến ái các đặc điểm thể chất cùng các thứ tương tự như thế. Một tỳ kheo nên để tâm đến các đặc điểm tinh thần hay thể chất. Những ai làm như vậy ngay trong cảnh đời hiện tại nàyđều bị hoàn toàn huỷ hoại. Vì thế, này các tỳ kheo, con mắt tham dục cần phải được tiếp xúc với cái đinh sắt nóng đỏ mới có ích lợi.

Ðến đây Ngài nói thêm chi tiết:

– Có lúc các ông cần quán sát tịnh tướng, và có lúc các ông đừng quan tâm đến nó. Vào lúc quán sát tịnh tướng, đừng quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật khả ái, nhưng hãy quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật bất khả ái. Như vậy các ông sẽ không bị đoạ lạc khỏi trú xứ chân chánh của mình. Và trú xứ này của các ông là gì? Ðó chính là Bốn Thiền quán chân chánh, Thánh đạo Tám ngành và Chín trú xứ siêu việt. Nếu các ông đi đúng trong lĩnh vực chân chánh này của mình, Ác Ma sẽ không tìm được lối vào; song nếu các ông bị tham dục chi phối và quán sát sự vật dưới ảnh hưởng của tịnh tướng cá nhân như con chó rừng Pùtimansa, thì các ông sẽ bị đoạ lác khỏi trú xứ chân chánh của mình.

Và cùng với các lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa dưới triều đại Brahmadatta, quốc vương ở Ba-la-nại, hàng trăm dê rừng trú trong một hang núi tại vùng rừng rậm trên sườn dãy Tuyết Sơn.

Không xa chỗ ở của chúng, có con chó rừng tên là Pùtimansa sống trong hang với vợ nó là Venì.

Một hôm nó quanh quẩn cùng vợ, rình rập bầy dê và suy nghĩ: “Ta phải tìm cách ăn thịt mấy con dê này”. Rồi nhờ mưu mẹo nó giết được một con dê. Cả hai vợ chồng nó nhờ ăn thịt dê trở thành lực lưỡng đẫy đà. Dần dần số dê giảm xuống.

Trong số đó có con dê cái khôn ngoan tên là Melamàtà. Dù nhiều mưu kế tài giỏi, chó rừng cũng không thể giết dê được, nên lúc bàn luận với vợ, nó bảo:

– Nàng ơi tất cả bầy dê đã chết hết. Chúng ta phải bày mưu ăn thịt dê cái này, giờ đây là kế hoạch của ta. Nàng phải đi một mình, làm thân với dê cái, rồi khi niềm tin tưởng đã phát sinh giữa nàng và nó, ta sẽ nằm xuống giả vờ chết. Sau đó, nàng đến gần dê cái, bảo: “Bạn ơi, chồng tôi đã chết, tôi đang khốn khổ, trừ bạn tôi không có ai cả. Vậy hãy đến đây cùng tôi than khóc và chôn xác chồng tôi”. Và cùng với những lời này, nàng hãy đến đưa dê lại đây với nàng. Sau đó ta sẽ nhảy lên cắn cổ nó giết đi.

Chó cái sẵn sàng đồng ý. Sau cuộc kết giao bằng hữu với dê cái, khi lòng tin tưởng đã vững chắc, nó nói với dê cái những lời do chồng nó đưa ra. Dê cái đáp:

– Bạn ơi, cả họ hàng nhà tôi bị chồng nàng ăn thịt. Tôi sợ lắm. Tôi không dám đi.

– Ðừng sợ gì cả, chó chết rồi làm sao hại bạn được nữa?

– Chồng chị có ác ý lắm nên tôi sợ.

Nhưng sau khi bị nài nỉ van xin mãi, dê cái suy nghĩ: “Chắc có lẽ nó chết thật rồi”, nên đồng ý đi với chó cái. Nhưng trên đường đi nó suy nghĩ: “Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra?”, nên sinh lòng nghi ngờ, nó bảo chó cái đi trước và đề phòng chó đực rất tinh tế.

Chó đực nghe tiếng chân của chúng liền suy nghĩ: “Con dê đến rồi”, nên ngẩng đầu lên và đảo mắt nhìn quanh. Dê cái thấy nó làm vậy liền nói: “Con chó khốn nạn độc ác này muốn dụ ta vàođể giết ta, nó nằm kia giả vờ chết”. Dê cái quay đi và chạy trốn.

Khi chó cái hỏi tại sao nó chạy trốn, dê cái ngâm vần kệ đầu nêu lý do:

  1. Sao Pù-ti lại ngó trừng trừng
    Vẻ chó nhìn dê thật ghét căm,
    Với bạn thế, ta cần thận trọng,
    Và nên chạy trốn thật nhanh chân.

Cùng với các lời này, dê quay đi và chạy thẳng về chỗ ở của nó. Chó cái không thể ngăn dê được, rất tức giận con dê và trở về bên chồng, ngồi than khóc. Lúc ấy chó rừng trách mắng vợ qua vần kệ thứ hai:

  1. Ve-ni, vợ dại, kém thông minh
    Lại khoe đã kết bạn thân tình,
    Bơ vơ trong bụi, ngồi than khóc,
    Vì bị Mê-la phỉnh gạt mình.

Nghe vậy, chó cái ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chàng cũng chẳng khôn khéo tý nào!
    Ngu si, chàng đã ngẩng đầu cao,
    Trừng trừng, chàng mở to hai mắt,
    Dù giả vờ nằm chết đó sao?
  2. Người nào khôn khéo đúng thời cơ
    Biết nhắm mắt và mở mắt to,
    Ai mở mắt nhìn không đúng lúc
    Như Pù-ti nọ, phải buồn lo!

Ðây là vần kệ xuất phát từ Trí Tuệ Tối thắng của đức Phật.

Nhưng chó cái lại an ủi Pùtimansa và bảo:

– Chàng ơi, đừng bực mình nữa, thiếp sẽ tìm cách mang dê lại đây, và khi nó đến chàng hãy canh chừng và chụp lấy nó.

Sau đó nó đi tìm dê cái và bảo:

– Bạn ơi, bạn đến thăm thật ích lợi cho chúng tôi, vì ngay khi bạn vừa xuất hiện, chồng tôi đã hồi tỉnh và nay đã sống lại rồi, xin hãy đến nơi nói chuyện thân tình với chàng.

Nói xong nó ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Tình bạn, trước đây hãy phục hồi,
    Xin đem bát cháo đến nhà tôi,
    Chồng tôi tưởng chết nay hồi tỉnh,
    Hãy viếng chàng, thăm hỏi thật vui.

Dê suy nghĩ: “Con chó cái khốn nạn độc ác này lại muốn dụ dỗ ta. Ta không nên hành động như một kẻ thù lộ diện mà ta sẽ tìm cách đánh lừa nó”. Dê liền ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Tình bạn cũ, nay muốn phục hồi
    Ta đem bát cháo, dạ mừng vui
    Với đoàn hộ tống ta đi đến
    Ăn tiệc tưng bừng, nhanh bước thôi.

Sau đó chó cái hỏi thăm đoàn hộ tống của dê và ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Những ai hộ tống bạn bên mình
    Ðể đãi bạn, tôi phải nhiệt tình,
    Danh tánh những ai thăm hỏi đó,
    Xin cho tôi biết thật chân thành.

Dê ngâm kệ thứ tám đáp lời:

  1. Chó săn nâu xám, bốn mắt lồi,
    Hình quỷ Jam-buk, hộ tống tôi,
    Thôi hãy về nhà, mau sửa soạn
    Dồi dào yến tiệc để chào mời.

Nó còn nói thêm:

– Mỗi chó hình quỷ này được năm trăm chó khác hộ tống, do vậy ta sẽ có một đoàn tuỳ tùng cả hai ngàn con chó canh giữ. Nếu chúng không thấy thức ăn, chúng sẽ giết luôn bạn và chồng bạn để ăn thịt đấy.

Nghe vậy chó cái kinh sợ đến độ suy nghĩ: “Ta đã chán ngán việc nó đến thăm nhà ta rồi. Ta sẽ tìm cách ngăn nó đến”. Rồi chó cái ngâm kệ:

  1. Ðừng rời nhà bạn, kẻo ta e
    Ðồ đạc sẽ nhanh chóng mất đi.
    Ta sẽ đem lời dê nhắn gửi,
    Ðứng yên! Ðừng nói nữa, ta về!

Cùng với những lời này, chó cái ra sức chạy vội vàng để tự cứu mạng và đem luôn cả chồng nó chạy theo. Rồi từ đó chúng không bao giờ dám trở lại chỗ ấy nữa.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Ta là vị Thần sống tại rừng ấy trên một cây cổ thụ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Gà Gô (Tiền thân Tittira)

Nó đã ăn tươi bọn trẻ thơ …,

Bậc đạo sư kể chuyện này trong lúc trú ngụ tại núi Linh Thứu, về dự định của Devadatta mưu sát Ngài.

Chính vào thời ấy Tăng chúng bắt đầu thảo luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, than ôi! Devadatta thật là hạ liệt và vô liêm sỉ biết bao! Vị ấy kết hợp với Thái tử Ajàtasattu lập mưu sát hại đức Phật Chánh Ðẳng Giác bằng cách mua chuộc bọn xạ thủ, lăn đá xuống đồi, và thả lỏng con voi Nalàgiri.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận việc gì lúc hội họp, và khi nghe kể đề tài câu chuyện, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia nữa, Devadatta cũng mưu giết ta, song cũng không thể làm gì cho ta kinh hãi được.

Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một giáo sư danh tiếng lừng lẫy thế giới tại Ba-la-nại dạy các học thuật cho năm thanh niên Bà-la-môn.

Một hôm vị ấy suy nghĩ: “Bao lâu ta còn ở đây, ta sẽ gặp trở ngại cho đời tu hành và các đồ đệ ta cũng không hoàn thành việc học của họ. Ta muốn về ẩn dật trong thảo am trên sườn núi Tuyết Sơn và dạy học ở đó.”

Vị ấy báo tin cho các đồ đệ, bảo họ đem mè, gạo xay, dầu, y phục đại loại như thế, rồi đi vào rừng dựng thảo am ở cạnh xa lộ. Mỗi vị đệ tử đến tự xây một thảo am cho mình. Thân quyến họ gửi gạo và các thứ kia, còn dân làng bảo nhau: “Người ta đồn một vị danh sư đang sống nơi kia trong rừng và thuyết giảng kiến thức học thuật”, liền đem quà lúa gạo đến tặng, các người kiểm lâm cũng tặng quà, lại có một người tặng bò cái và bê con để chư vị lấy sữa.

Bấy giờ, có một con tắc kè cùng hai con nó đến ở trong lều vị giáo sĩ, và một con Sư tử cùng một con cọp hầu hạ vị ấy. Một con gà gô cũng thường xuyên ở tại đó và do nghe giáo sư dạy thánh kinh cho đệ tử, con Gà dần dần hiểu ba tập Vệ-đà. Các Bà-la-môn trở nên thân thiện với Gà gô. Về sau, trước khi các thanh niên này đạt tinh thông các học thuật, thì vị giáo sư mất. Các đệ tử đem thi hài thầy hỏa thiêu, dựng một mô cát lên chỗ để tro, vừa than khóc vừa trang hoàng nơi ấy đầy đủ các loại hoa. Thấy vậy Gà gô hỏi tại sao họ khóc. Họ đáp:

– Thầy chúng ta đã mất trong khi việc học của chúng ta chưa hoàn mãn.

– Nếu chuyện là thế thì các vị đừng lo buồn nữa. Tôi sẽ dạy các vị kiến thức ấy.

– Làm sao Gà biết được?

– Tôi thường nghe giáo sư của các vị trong lúc giảng dạy các vị, nên đã học thuộc lòng ba tập Vệ-đà rồi.

– Thế Gà hãy truyền cho chúng tôi những gì Gà đã học thuộc lòng nhé.

Gà đáp:

– Nào lắng nghe đây.

Rồi Gà thuyết giảng mọi điểm khúc mắc cho họ, dễ dàng như người đưa nước suối từ núi cao xuống. Các thanh niên Bà-la-môn vô cùng hân hoan và thu thập kiến thức từ con Gà gô thông thái này. Con Gà gô đậu trên chỗ giáo sư danh tiếng ấy thường ngồi, và thuyết giảng về tri kiến Vệ-đà. Các thanh niên làm cho Gà đủ mật ong, hạt ngũ cốc rang trong chiếc đĩa vàng, lại còn tặng đủ thứ hoa có màu sắc rực rỡ và tỏ vẻ vô cùng tôn kính Gà gô.

Tiếng đồn vang dậy khắp Diêm-phù-dề (Ấn Ðộ) rằng một con Gà gô rừng đang dạy Thánh kinh cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Vào lúc ấy, dân chúng mở lễ hội lớn, tụ tập cùng nhau trên đỉnh núi. Cha mẹ các thanh niên này gửi lời nhắn các con đến xem lễ hội. Họ liền kể chuyện con Gà gô, rồi ủy thác Gà gô cùng thảo am của họ cho Tắc kè chăm nom, và họ ra đi đến nhiều kinh thành.

Lúc ấy một vị khổ hạnh lõa thể độc ác du hành đây đó bước tới chốn này. Khi thấy vị ấy, con Tắc kè đến nói chuyện thân thiện và bảo:

– Ở chỗ này chỗ kia, ngài sẽ thấy gạo, dầu và các món khác. Hãy nấu cơm và ăn uống no nê!

Nói xong nó ra đi kiếm mồi.

Sáng sớm kẻ ác kia nấu cơm và giết luôn hai tắc kè con ăn thịt làm một món ngon lành. Ðến trưa, y giết và ăn thịt luôn con gà gô thông thái, và con bê, đến chiều tối, y vừa thấy con bò về nhà liền giết nó luôn để ăn thịt. Rồi y nằm ngủ ngáy vang dưới gốc cây. Xế chiều tắc kè trở về thấy vắng hai con liền đi quanh tìm chúng. Một vị thần cây quan sát Tắc kè đang run rẩy toàn thân vì không tìm được các con thơ, liền dùng thần lực đứng trong bộng cây và nói:

– Này Tắc kè, đừng run nữa, các con nhỏ ấy cùng Gà gô, bê con và bò cái đều bị kẻ độc ác này ăn thịt rồi. Hãy cắn vào cổ cho nó chết đi.

Vị thần vừa nói chuyện như vậy với Tắc kè, vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Nó đã ăn tươi bọn trẻ thơ
    Dù con cho nó thật nhiều quà
    Răng con hãy cắn sâu vào cổ
    Ðứng để ác nhân trốn thoát ra

Sau đó Tắc kè ngâm hai vần kệ:

  1. Thâm tâm của nó tạo bùn nhơ
    Chẳng khác áo người giữ trẻ thơ
    Tôi e toàn thể thân mình nó
    Chống đỡ răng tôi mạnh lắm mà!
  2. Lỗi lầm kẻ hạ liệt vong ân
    Ðều thấy khắp nơi rõ ràng,
    Tâm nó chẳng bao giờ thỏa mãn
    Với bao tặng vật của trần gian

Tắc kè nói xong, suy nghĩ: “Kẻ này sẽ thức dậy và ăn thịt ta”. Nó liền trốn đi để cứu mạng mình.

Bấy giờ Sư tử và Cọp rất thân thiết với Gà gô, và đôi khi Gà gô cũng bay đi thuyết Pháp cho nó. Hôm ấy, Sư tử bảo Cọp:

– Chúng ta đi thăm Gà gô đã lâu rồi, chắc cũng đã bảy tám ngày. Vậy bạn hãy đi đen tin tức của Gà về đây.

Con Cọp thỏa thuận và đi đến nơi đúng lúc con Tắc kè đã chạy trốn, nó thấy kẻ gian ác ấy đang ngủ. Trên các bện tóc của y thấy có vài cái lông gà, và gần đó lại có đống xương bò cái và bê con. Cọp chúa trông thấy cảnh ấy, lại thiếu Gà gô trong lồng vàng, liền suy nghĩ: “Các con vật này chắc đã bị kẻ ác nhân này giết hết rồi”. Nó đá mạnh thức y dậy. Khi thấy Cọp, y vô cùng sợ hãi. Rồi con Cọp hỏi:

– Có phải ngươi giết và ăn thịt các con vật này chăng?

– Tôi chẳng giết cũng chẳng ăn thịt chúng.

– Kẻ khốn nạn ác độc kia, nếu anh không giết chúng thì hãy nói cho ta biết ai khác giết? Nếu anh không nói, anh phải chết đấy.

Sợ nguy đến tính mạng, y đáp:

– Vâng thưa ngài, tôi đã giết và ăn thịt các con tắc kè con, bò cái và bê con, song tôi không giết con Gà gô.

Mặc dù y cứ phản đối mãi. Cọp cũng không tin y và bảo:

– Anh từ đâu đến đây?

– Tâu ngài, trước đây tôi bán hàng rong để kiếm sống ở xứ Kàlinga và sau khi thử bán vài món xong thì tôi đến đây.

Nhưng sau khi người ấy đã kể hết mọi việc y làm, con Cọp bảo:

– Này ác nhân kia, nếu anh không giết Gà gô, thì còn ai khác làm việc đó? Này, ta sẽ mang anhđến trước Sư tử, chúa sơn lâm đấy.

Thế là Cọp ra đi dẫn theo kẻ ấy trước mặt. Khi Sử tử thấy Cọp mang y đến, nó liền ngâm vần kệ thứ tư để đặt câu hỏi:

  1. Ði đâu vội vã thế Su-bà,
    Sao kéo chàng trai trẻ thế ư?
    Có việc gì cần, đây muốn biết,
    Nói mau thành thật chớ chần chừ?

Nghe vậy Cọp ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Bạn quý Gà gô của chúng ta
    Hôm nay, tôi đoán, hóa thành ma
    Chuyện xưa kẻ ấy làm tôi sợ
    Nghe được hung tin của bạn Gà.

Sau đó Sư tử ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Chuyện xưa của kẻ ấy ra sao,
    Tội lỗi gì y thú nhận mau
    Ðã khiến Cọp nghi ngờ đại họa
    Xảy ra cho bạn quý ta nào?

Ðể trả lời Sư tử, Cọp chúa ngâm các vần kệ còn lại

  1. Trong nước Kà-ling nó bán rong
    Ði đường lởm chởm, gậy tay cầm,
    Ở cùng bọn đánh đu nhào lộn,
    Ðánh bẫy bao súc vật buộc chùm,
    Nó cũng thường chơi trò súc sắc,
    Lưới giăng bắt sống lũ chim muông,
    Ðánh nhau từng đám dùng đao trượng,
    Nó kiếm lời nhờ việc đếm đong.
  2. Phản bội lời thề, đánh nữa khuya,
    Bị thương, nó chảy máu dầm dề;
    Bàn tay nó cháy vì gan góc,
    Chụp lấy thức ăn nóng vụng về
    Nghe nó sống đời tồi tệ vậy,
    Ðó là tội ác chất đầu kia.
  3. Vì ta đều biết con bò chết,
    Giữa tóc người kia mấy sợi lông
    Xuất hiện, nên tôi đầy khủng khiếp
    Lo Gà gô bạn ắt vong thân.

Sư tử chúa hỏi người kia:

– Thế anh đã giết Gà gô thông thái rồi ư?

– Tâu chúa công, vâng, tôi đã giết.

Chúa Sư tử nghe y nói thật, nên muốn thả cho y ra đi, nhưng Cọp chúa bảo:

– Tên gian ác này đáng chết.

Và ngay tại chỗ, Cọp dùng răng xé y tan xác. Rồi Cọp đào hố quẳng thây vào đó.

Khi các thanh niên Bà-la-môn trở về, không thấy Gà gô, họ than khóc và bỏ nơi ấy ra đi.

*

Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngày xưa Devadatta cũng đã lập mưu giết Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy vị khổ hạnh là Devadatta, con Tắc kè là Kisàgotamì, con Cọp là Moggallàna, Sư tử là Sàriputta, vị giáo sư lừng danh thế giới là Kassapa và Gà gô thông thái chính là Ta.

-ooOoo-

Chương X

Phẩm Mười Bài Kệ

  1. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền thân Catu-Dvàra)

Thành sắt này xây bốn cổng cao…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phóng dật.

Các chi tiết câu chuyện đã được nêu ra trong số 427, chuyện Tiền thân đầu tiên của Chương IX. Ở đây, một lần nữa bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo này:

Có đúng như Tăng chúng nói rằng ông bất tuân giới luật?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ngài bảo:

– Ngày xưa, cũng vì bất tuân lời dạy bảo của các bậc trí nhân, mà ông phải nhận lấy một bánh xe sắc như dao cạo.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), tại thành Ba-la-Nại có một thương gia làm chủ tài sản đến tám trăm triệu đồng, nhưng chỉ sinh được một trai tên là Mittavindaka. Cha mẹ cậu nàyđã đi vào hướng Dự Lưu, song cậu vẫn là một kẻ theo ác hạnh, không có lòng tin vào Ðạo.

Về sau, khi cha cậu mất, mẹ cậu thay thế điều hành sản nghiệp ấy, bà bảo con như vầy:

– Này con, thân người khó được, vậy con hãy bố thí, tu tập công đức, giữ ngày trai giới và lắng tai nghe Pháp.

Cậu đáp lại:

– Này mẹ, không có chuyện bố thí, tu tập gì cả với con đâu, đừng bao giờ nhắc chúng với con nữa, con sống thế nào thì ngày sau con theo nghiệp đó.

Vào một ngày rằm trăng tròn, khi cậu cũng nói như trên, mẹ cậu đáp:

– Con ơi, hôm nay được dành làm ngày trai giới thanh tịnh. Vậy ngày nay con hãy phát nguyện giữ giới, đi viếng tinh xá và lắng nghe Pháp suốt đêm, rồi khi con trở về, mẹ sẽ cho con một ngàn đồng tiền nhé.

Vì tham số tiền ấy, cậu bằng lòng ngay. Ngay khi ăn sáng xong, cậu đi đến tinh xá, ở lại đó suốt ngày; song từ đầu hôm cho đến lúc canh tàn, chẳng một lời Giáo pháp này lọt vào tai cậu cả. Cậuđi nằm một nơi và ngủ thẳng giấc. Ngày hôm sau, từ tảng sáng, cậu rửa mặt và đi về nhà, ngồi phịch xuống.

Bấy giờ, mẹ cậu nghĩ thầm: “Hôm nay, sau khi nghe Pháp, con ta sẽ về từ sáng sớm, dẫn theo vị Trưởng lão đã giảng Pháp”. Vì thế, bà nấu cháo sẵn, với thức ăn đủ loại cứng và mềm, sửa soạn chỗ ngồi xong, đợi con về. Khi bà thấy con đi về một mình, bà hỏi:

– Này con, sao con không đưa về vị Pháp sư?

– Mẹ ạ, chẳng có Pháp sư nào giảng cho con cả. Cậu đáp.

Bà mẹ bảo:

– Thế thì con húp cháo này đi.

Cậu nói:

– Mẹ đã hứa cho con một ngàn đồng tiền, mẹ ạ. trước tiên mẹ hãy trao tiền cho con, rồi sau đó con mới húp cháo.

– Húp cháo trước đi con, rồi con sẽ được tiền kia mà.

Cậu bảo:

– Không được, con không muốn húp cháo cho đến khi con được tiền kia.

Thế là bà mẹ đặt túi tiền một ngàn đồng trước mặt cậu. Cậu liền húp cháo, xong cậu lấy túi tiền một ngàn đồng đi làm công chuyện của cậu; và cứ thế về sau, chẳng bao lâu cậu kiếm được hai triệu đồng tiền.

Lúc ấy, cậu chợt nghĩ ra rằng cậu muốn tậu lấy một con tàu rồi đi làm ăn trên đó. Thế là cậu sắm tàu, rồi bảo mẹ:

– Mẹ à con có ý định đi làm ăn trên tàu này.

Bà mẹ đáp:

– Con là con độc nhất của mẹ, mà trong nhà mình hiện có nhiều tài sản lắm rồi; còn biển cả lạiđầy nguy hiểm, con đừng đi.

Song cậu bảo:

– Con quyết ra đi, mẹ không thể cản con được đâu.

Bà tiếp:

– Này, mẹ cứ muốn cản con đấy.

Rồi bà cầm lấy tay cậu, xong cậu hất tay bà ra khiến bà ngã xuống, và trong chốc lát, cậu đã biến dạng, vội lên đường.

Vào ngày tháng bảy, nhân vì có mặt Mittavindaka, con tàu cứ đứng bất động trên biển sâu. Người ta rút thăm và cả ba lần đều trúng tay Mittavindaka. Thế là họ cho cậu một chiếc bè và nói:

– Ðừng để nhiều người phải chết chỉ vì một người này.

Rồi họ thả cậu trôi dạt trên đại dương, chỉ thoáng chốc sau, con tàu ấy đã lao nhanh vùn vụt trên biển.

Còn cậu trai trên chiếc bè trôi đến một đảo kia. Tại đó, trong một cung điện bằng thủy tinh, cậu chợt thấy bốn ma nữ. Trước kia, ma chúng thường phải chịu bảy ngày đau khổ và hưởng bảy ngày hạnh phúc. Ðược kết bạn với chúng, cậu thọ hưởng khoái lạc thần tiên. Rồi khi đến thời chúng phải chịu khổ hình, chúng bảo cậu:

– Thưa công tử, chúng em sắp xa chàng bảy ngày, trong lúc chúng em đi vắng, xin chàng ở lại đây và đứng lo buồn gì cả.

Nói xong, chúng giã từ.

Song cậu trai, lòng đầy khát vọng, lại ra khơi trên chiếc bè kia, và vượt đại dương, đến một đảo khác, tại đây trong một cung điện bằng bạc, cậu thấy tám ma nữ khác. Cứ như thế, cậu thấy trên một đảo nữa mười sáu ma nữ trong một cung bằng ngọc, rồi trên một đảo khác nữa, ba mươi hai ma nữ trong một cung bằng vàng. Cũng như trước kia, với các ma nữ này, cậu hưởng thọ lạc thú thần tiên, rồi khi chúng đi xa để chịu cực hình, cậu lại ra khơi lần nữa, lênh đênh trên đại dương, mãi cho đến cuối cùng cậu thấy một kinh thành có bốn cổng lớn và hào lũy bao bọc. Người ta bảo đó là ngục Ussada (Ngục bằng sắt hay Thiết vi Ðịa ngục), nơi mà nhiều chúng sinh bị đọa đầy, phải thọ lãnh các nghiệp báo của mình, song đối với Mittavindaka, nó lại có vẻ như một kinh thành tuyệt mỹ. Cậu suy nghĩ: “Ta muốn vào thăm kinh thành kia và làm vua tại đó.

Thế là cậu bước vào, vừa thấy một sinh linh đang chịu khổ hình phải mang một cái bánh xe sắc như lưỡi dao cạo, song đối với Mittavindaka dường như bánh xe dao trên đầu kẻ kia lại giống như đóa hoa sen nở, năm vòng xiềng xích trên ngực gã nào khác chiếc áo choàng rực rỡ sang trọng, dòng máu nhỏ giọt trên đầu gã như thể phấn bột gỗ chiên-đàn đỏ thắm ngát hương, còn tiếng gã rên la tựa tiếng ca êm dịu nhất trên đời. Vì vậy cậu đến gần và bảo:

– Này người kia, anh đã mang cái hoa sen ấy lâu rồi, nay hãy đưa cho ta.

Người ấy đáp:

– Thưa ngài, nó không phải là hoa sen đâu, mà nó là bánh xe sắc như dao cạo.

Cậu trai bảo:

– À, anh nói vậy vì anh không muốn đưa nó cho ta đấy thôi.

Gã tội nhân khốn khổ kia liền suy nghĩ: “Ắt hẳn các nghiệp quá khứ của ta đã tiêu trừ hết. Rõ ràng người này cũng như ta đi đến đây vì đã đánh mẹ nó. Ðược rồi ta sẽ cho nó đưa bánh xe dao này”. Gã liền bảo:

– Này đây, hãy cầm lấy hoa sen.

Cùng với lời nói trên, gã thả bánh xe dao trên đầu cậu, nó rơi xuống đỉnh đầu và nghiến sâu vào đó, lập tức, Mittavindaka biết ngay đó là bánh xe dao, cậu liền nói:

– Lấy bánh xe của anh lại!

Và cậu gào thét dữ dội trong cơn đau đớn, song kẻ kia đã khuất dạng mất rồi.

Vừa lúc ấy, Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng đông đảo đang đi kinh lý qua ngục Ussada, và đến tận nơi ấy, Mittavindaka trông thấy ngài, vội kêu lên:

– Tâu thiên chủ, Thượng đế của chư Thiên, bánh xe này đang đâm thủng và xé nát đầu con như thể cái chầy nghiền nát mớ hột cải, vậy con đã phạm tội ác gì?

Cậu vừa hỏi, vừa ngâm hai vần kệ này:

  1. Thành sắt này xây bốn cổng cao,
    Con nay mắc bẫy bước chân vào,
    Chung quanh con, lũy hào bao bọc,
    Con đã gây nên các nghiệp nào.
  2. Giờ đây đóng chặt các thành môn
    Và bánh xe này hủy diệt con
    Nào khác chim lồng, con bị bắt.
    Tại vì sao vậy, tấu Thiên vương?

Lúc ấy Thiên chủ ngâm các vần kệ này để giải thích vấn đề cho cậu rõ:

  1. Ngài có ngày xưa chục vạn đồng,
    Hai mươi lần nữa đấy, tôn ông,
    Tuy nhiên ngài vẫn không hề muốn
    Tai lắng nghe bằng hữu nói năng.
  2. Ngài đã vội vàng vượt đại dương
    Chất đầy nguy hiểm dọc đường trường,
    Nữ ma, bốn tám, ngài thăm viếng,
    Mười sáu nàng, theo kế tám nàng.
  3. Tiếp theo mười sáu, đến ba hai
    Tận hưởng dục tham cứ miệt mài,
    Nay hãy nhìn đây đầy phần tặng thưởng
    Bánh xe dục lạc ở đầu ngài.
  4. Ai đi đại lộ dục tham đầy,
    Con lộ thênh thang rộng lớn thay,
    Vô độ, chúng không hề thỏa mãn
    Thì phần chúng đội bánh xe này.
  5. Ai chẳng mong phân phát bạc vàng,
    Chẳng cầu tìm Chánh đạo bình an
    Cũng không biết phải làm như vậy,
    Phần bánh xe này chúng sẽ mang.
  6. Hãy suy kết quả việc ngài làm
    Gia sản ngài xem thật ngập tràn,
    Ðừng ước làm tài chủ bất chính,
    Thực hành điều bạn tốt khuyên răn,
    Về sau chẳng có bao giờ nữa
    Vòng bánh xe này đụng đến thân.

Nghe vậy, Mittavindaka tự nhủ: “Vị Thiên chủ này vừa giải thích thật chính xác những việc ta làm. Chắc chắn ngài cũng biết được mức độ trừng phạt ta”. Rồi cậu ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Vậy tấu Thiên vương, đến lúc nào
    Bánh xe này dính ở trên đầu?
    Mấy ngàn năm nữa? XIn ngài dạy,
    Ðừng để con hoài sức khẩn cầu.

Lúc ấy bậc Ðại sĩ tuyên bố vấn đề qua vần kệ thứ mười:

  1. Bánh xe này tiếp tục xoay vần,
    Mà chẳng hiện ra vị cứu nhân
    Nó dính đầu ngài cho đến chết,
    Này Mít-ta hỡi có nghe chăng?

Nói vậy xong Thiên chủ trở về cõi của Ngài, còn kẻ kia chìm vào cơn đau đớn cùng cực.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Tỷ-kheo phóng dật này là Mittavindaka, và Ta chính là Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền thân Kanha)

Ðằng kia nhìn kẻ sắc đen tuyền..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kapilavathu (Ca-tỳ-la-vệ) trong Bồ-đề Lâm (Rừng cây Ða), về một nụ cười.

Vào thời ấy, chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư đang du hành cùng Tăng chúng trong Bồ-đề Lâm, lúc chiều xuống, tại một chốn kia, Ngài mỉm một nụ cười. Trưởng lão Ànanda nói:

– Nguyên do gì, lý do gì khiến đức Thế Tôn mỉm cười? Ðức Như lai mỉm cười không phải là không có duyên cớ. Vậy ta muốn hỏi Ngài.

Thế là Tôn giả cúi đầu đảnh lễ cung kính hỏi về nụ cười kia, bậc Ðạo Sư bảo:

– Ngày xưa, này Ànanda, có một bậc Hiền trí tên là Kanha đã sống ở nơi đây, chuyên tâm thiền tịnh, và lạc thú trong thiền định, nên nhờ uy lực công đức của ngài mà cung của Sakka (Ðế Thích), Thiên phủ phải rúng động.

Song vì câu giải thích nụ cười kia chưa được rõ ràng lắm, nên theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, đức Phật kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một vị Bà-la-môn không con cái, nhưng của cải lên đến tám mười triệu đồng, vị này phát nguyện giữ giới đức và cầu tự. Trong lòng bà vợ vị Bà-la-môn này đang mang thai Bồ-tát, sau đó do màu da đen của ngài, vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ chọn tên ngài là Kanha – Kumàra tức Hắc nam tử

Ðến năm mười sáu tuổi, đầy vẻ uy nghi như một bức tượng bằng ngọc quý, ngài được phụ thân đưa đến học ở Takkasilà, nơi đây ngài được dạy đầy đủ các môn văn học nghệ thuật, xong trở về nhà. Sau đó cha ngài lại cưới cho ngài một cô vợ xứng đôi vừa lứa. Dần dần theo thời gian, ngài hưởng trọn gia sản của song thân.

Bấy giờ một ngày kia, sau khi kiểm tra các kho báu, đang lúc ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy, ngài cầm trong tay một cái đĩa bằng vàng, đọc được trên đĩa những hàng chữ do các bậc tiền nhân ngài ghi lại: “Rất nhiều tài sản do vị này kiếm được, rất nhiều tiền bạc do vị kia làm ra v.v…” Ngài nghĩ thầm: “Những vị tạo ra vàng bạc này bây giờ không còn nữa, song vàng bạc vẫn còn đó; không ai có thể mang chúng theo khi ra đi khỏi cuộc sống; ta không thể buộc vàng bạc thành một bó, rồi mang theo mình qua thế giới khác.

Thấy rằng của cải liên hệ đến Năm Ác dục, còn phân phát bố thí của cải này là việc tốt đẹp hơn; thấy rằng thân xác phù du này liên hệ với nhiều bệnh tật, còn tỏ lòng cung kính và nhân từ với những vị đức hạnh đem nhiều lợi lạc hơn; thấy rằng cuộc đời tạm bợ phù phiếm này chỉ thoáng qua chốc lát, còn tinh tấn hành trì thiền định là phần cao cả hơn. Vậy thì những vàng bạc phù phiếm này ta sẽ đem bố thí hết, vì làm như thế ta sẽ thọ hưởng phước đức hơn nhiều.”

Thế là ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sau khi xin đức vua thỏa thuận, ngài bố thí rất hào phóng.

Ðến ngày thứ bảy, thấy vàng bạc vẫn không suy giảm, ngài suy nghĩ: “Vàng bạc này có nghĩa gì đối với ta? Trong khi ta chưa bị tuổi già chế ngự, ta muốn ngay bây giờ phát nguyện xuất gia tu hành; ta quyết tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, ta quyết tái sinh lên cõi Phạm Thiên”. Thế là ngài ra lệnh mở các cửa lớn trong nhà ra, rồi bảo gia nhân lấy của cải đem, bố thí rộng rãi, vứt bỏ nó như một vật bất tịnh, ngài đoạn trừ các tham dục của nhãn quan, và những tiếng khóc than cùng nước mắt đông đảo của họ hàng quyến thuộc, ngài ra đi từ kinh thành, đến tận vùng Tuyết sơn.

Tại đó ngài sống theo lối độc cư, và khi đi tìm một chốn an lạc để trú thân, ngài thấy nơi này, rồi quyết định ở lại; chọn cây bầu làm nơi ăn chốn ở, ngài sống tại đó, ngủ ngay dưới gốc cây bầu ấy. Không bao giờ cư trú trong làng, ngài trở thành một người sống trong rừng, không bao giờ ngài dựng chòi lá, mà chỉ ở dưới gốc cây này, ở ngoài trời, thường an tọa, hoặc nếu ngài muốn nằm thì chỉ nằm trên mặt đất.

Ngài không dùng cái chày, mà chỉ dùng hàm răng nghiền nát thức ăn, ngài chỉ ăn những thức ăn không nấu bằng củi lửa, không bao giờ một thứ hạt còn vỏ lọt vào miệng ngài, ngài chỉ ăn ngày một lần và chỉ ngồi ăn một lần. Trên mặt đất, dường như ngài đã hòa cùng với tứ đại làm một, ngài sống hành trì giới đức của bậc xuất gia khổ hạnh. Trong Tiền thân ấy, như ta được biết, Bồ-tát rất thiểu dục.

Vì vậy chẳng bao lâu, ngài đạt các Thắng trí và các Thiền chứng (năm thần thông: Abhinnà; và tám cấp thiền: Jhànà) và ngài sống nơi ấy trong hỷ lạc của thiền định. Về trái cây rừng, ngài không đi đâu xa, khi trái cây mọc trên cây, ngài ăn trái; vào mùa hoa nở, ngài ăn hoa; khi lá mọc, ngài ăn lá; khi không còn lá nào ngài ăn vỏ cây. Vào buổi sáng ngài thường hái quả cây ấy, không bao giờ vì tham lam mà ngài đứng dậy đi hái quả cây nào khác. Ở nơi ngài ngồi, ngài dang tay ra lượm các trái cây trong tầm tay, ngài ăn các thứ trái cây đến tay ngài, không phân biệt ngon dở .

Trong khi ngài tiếp tục tìm lạc thú như vậy, nhờ thần lực công đức của ngài, chiếc ngai hoàng thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên (tương truyền chiếc ngai vàng này nóng lên khi Ðế Thích Thiên chủ sắp mạng chung, hoặc lúc phước đức của ngài đã tận diệt và kết thúc, hay khi có một vị Ðại sĩ cầu nguyện, hay do công năng đức độ của các Sa-môn, Bà-la-môn đầy uy lực.)

Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Kẻ nào muốn làm ta phải rời khỏi ngai đây?” vừa nhìn quanh, ngài thấy trong rừng sâu, ở một nơi kia bậc Hiền nhân Kanha đang sống nhờ nhặt trái rừng, ngài biết rằng đó là một trí nhân hành trì khổ hạnh cao độ, tất cả các căn đều được điều phục, ngài suy nghĩ: “Ta muốn đi đến gặp vị ấy. Ta muốn bảo người thuyết Pháp thật cao giọng, và sau khi nghe lời giảng Pháp đem lại an lạc này, ta sẽ làm người hoan hỷ một điều ước, và sẽ làm cho cây của người sinh quả không ngừng, rồi ta mới trở về đây. “

Sau đó nhờ thần thông lực, Thiên chủ vụt xuống trần, đứng ngay sau lưng bậc Hiền nhân, ngài ngâm vần kệ đầu tiên để thử xem bậc Hiền trí kia có bực tức khi nghe nhắc đến vẻ xấu xí của mình chăng:

  1. Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền,
    Sống ở nơi này cũng đất đen,
    Miếng thịt đang ăn đen xám xịt,
    Tâm ta chẳng thích đáng người hiền

Hiền nhân Kanha nghe ngài nói vậy:

– Ai nói với ta đấy?

Và nhờ thần thông lực, ngài nhận ra đó là Ðế Thích Thiên chủ, nên vẫn không cần quay đầu lại, ngài đáp vần kệ thứ hai:

  1. Dù toàn sắc đen, hỡi Ngọc hoàng,
    Tâm ta chân chính Bà-la-môn,
    Màu da chẳng lỗi, nhưng làm ác
    Khiến kẻ phàm nhân đen tối luôn.

Và rồi sau đó, khi đã giải thích nhiều loại lỗi lầm và chê trách những lỗi lầm đã biến con người thành những kẻ đen tối, cùng ca ngợi công đức, ngài thuyết giáo cho Ðế Thích Thiên chủ, chẳng khác nào ngài làm mặt trăng mọc lên giữa bầu trời.

Ðế Thích Thiên chủ nghe bài thuyết Pháp, lòng vô cùng hoan hỷ, liền ban tặng bậc Ðại Sĩ một điều ước và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nói năng khôn khéo, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng luôn
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Nghe vậy bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: “Ta biết thế nào rồi. Vị này muốn thử ta, xem ta có giận dữ khi nói đến vẻ xấu xí của ta không; nên ngài chê bai màu da của ta, thức ăn chốn ở của ta. Khi thấy rằng ta không giận, thì ngài vui vẻ, ban cho ta một điều ước, chắc chắn ngài tưởng ta hành trì cuộc sống này vì ước mong có thần lực của Sakka Thiên chủ hay Phạm Thiên, vậy nay để làm ngài tin tưởng, ta sẽ chọn bốn điều ước: ta ước được an tịnh, không sân hận đối với kẻ xung quanh ta, không tham cảnh vinh quang của các vị xung quanh ta, hay thèm muốn dục tình đối với các vị xung quanh ta”.

Suy nghĩ như vậy xong, để giải quyết mối nghi hoặc của Thiên chủ, bậc Hiền trí ngâm vần kệ thứ tư đòi bốn điều ước này:

  1. Thiên chủ Sak-ka của thế gian
    Chọn điều hạnh phúc, lệnh ngài ban,
    Ta mong thoát khỏi lòng sân hận,
    Ác độc, tiêu trừ mọi dục tham,
    Tất cả bốn điều này hạnh phúc,
    Ta thường mơ ước tận tâm can.

Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Hiền giả Kanha, khi chọn điều ước đã chọn bốn điềm an lạc không lỗi lầm. Bây giờ ta phải hỏi ngài về thiện ác liên hệ bốn điều này”. Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Ở trong ác dục với tham sân,
    Này hãy nói đi, hỡi Ðạo nhân,
    Ngài thấy điều gì là bất thiện,
    Trả lời ta nhé, hãy làm ơn.

– Vậy hãy nghe đây:

Bậc Ðại sĩ đáp lại và cảm khái ngâm bốn vần kệ này:

  1. Ác ý được nuôi bởi hận sân,
    Phát sinh từ nhỏ lớn lên dần,
    Nên lòng tràn ngập niềm đau xót,
    Vì thế ta không muốn giận hờn.
  2. Cứ vậy thông thường với ác nhân,
    Trước tiên lời nói, chạm vào thân,
    Kế đến đấm đá, rồi cây gậy,
    Sau hết lòe ra mũi kiếm trần,
    Khi có ác tâm, thường phẫn nộ,
    Nên lòng ta chẳng muốn hờn căm.
  3. Khi người, thúc dục bởi gian tham,
    Lừa đảo tăng dần với dối gian,
    Vội đuổi theo tiền tài cướp bóc,
    Vậy nên ta chẳng muốn tâm tham.
  4. Trói chặt xiềng gông bởi dục tình,
    Vẫn thường phát triển nảy sinh nhanh
    Trong tim, làm xót xa đau nhức,
    Ái dục, ta không muốn phận mình.

Khi các câu hỏi đã được giải thích xong, Ðế Thích Thiên chủ bảo:

– Thưa Trí giả Kanha, nhờ ngài, các câu hỏi của ta đã được giải đáp êm đẹp với trí tuệ của một bậc Giác Ngộ, ta rất hoan hỷ vì ngài; bây giờ xin ngài chọn một điều ước khác nữa.

Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Nói năng chân chính, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Lập tức Bồ-tát ngâm kệ:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
    Ngài bảo cho ta một đặc ân,
    Mong chốn núi rừng ta ẩn náu,
    Nơi nào ta trú ngụ đơn thân,
    Bệnh không làm hại niềm an tịnh,
    Hoặc phá niềm thiền lạc vỡ tan.

Nghe vậy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: “Khi chọn điều ước, Hiền giả Kanha không chọn điều gì liên hệ đến thức ăn, mà những gì ngài chọn đều liên quan đến đời sống tu hành.” Tâm càng hoan hỷ hơn, Thiên chủ lại cho thêm một điều ước khác và ngâm kệ:

  1. Nói năng thật khéo, bậc La-môn,
    Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
    Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Và Bồ-tát, khi nói lên điều ước của ngài, đã thuyết Pháp trong vần kệ cuối:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
    Ngài bảo cho ta một đặc ân,
    Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
    Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
    Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
    Lời nguyện này ta vẫn ước mong.

Như vậy trong sáu trường hợp, bậc Ðại sĩ lựa điều ước, ngài đều chỉ chọn những gì liên quan đến đời sống viễn ly. Ngài hiểu rõ thân người phải có bệnh và Ðế Thích chủ không thể trừ diệt căn bệnh của thân nghiệp; Ðế Thích Thiên chủ cũng không thể rửa sạch cho nhân thế trong ba cửa Thân, Khẩu, Ý. Mặc dù vậy, ngài vẫn chọn điều ước ấy với mục đích thuyết Pháp cho vị Thiên chủ.

Sau đó Ðế Thích Thiên chủ làm cho cây ấy sinh quả quanh năm, vừa chắp tay lên trán đảnh lễ ngài vừa bảo:

– Xin Hiền giả an trú ở đây không bệnh tật.

Rồi ngài đi về cõi của ngài. Còn Bồ-tát không bao giờ gián đoạn thiền định, nên về sau được sinh lên Phạm thiên giới.

*

Sau khi chấp dứt Pháp thoại này, bậc Ðại Sư bảo:

– Này Ànanda, đây là nơi Ta đã an trú ngày xưa.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và Hiền giả Kanha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền thân Catu-Posathika)

(Chuyện tiền thân này sẽ được kể trong Tiền thân Punnaka) (chưa được tìm thấy)

-ooOoo-

  1. Chuyện Bà La Môn Sankha (Tiền thân Sankha)

La-môn Tôn-giả, bậc uyên thâm …,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể ở Kỳ Viên về tứ sự cúng dường.

Chuyện kể rằng ở thành Xá-vệ, có một nam cư sĩ, sau khi nghe đức Như Lai thuyết Pháp, tâm rất hoan hỷ nên đã mời chư tăng vào ngày hôm sau. Tại cửa nhà, ông dựng lên một cái rạp trang hoàng lộng lẫy, rồi đi thưa trình rằng đã đến giờ. Bậc Ðạo Sư đến nơi với năm trăm vị Tỷ-kheo theo hầu, và ngồi trên bảo tọa lộng lẫy dành cho ngài. Vị cư sĩ, sau khi đã dâng cúng các lễ vật sang trọng lên hội chúng Tỷ-kheo với đức Phật là thượng thủ, lại mời tăng chúng ngày mai; và cứ thế, trong bảy ngày liền, vị này mời Tăng chúng đến cúng dường, và vào ngày thứ bảy lại cúng dường những vật dụng cần thiết. Trong buổi cúng dường này, ông tặng các đôi hài làm lễ vật đặc biệt. Ðôi hài dâng lên đức Phật trị giá một ngàn đồng vàng. Hai đôi hài cúng hai vị Ðại đệ tử (Xá-lợi phất và Mục -kiền-liên) trị giá năm trăm, còn những đôi trị giá hơn một trăm đồng dành cho các vị Tỷ-kheo khác.

Sau khi dâng cúng lễ vật đủ các thứ cần thiết cho chư Tăng, ông ngồi xuống trước đức Thế Tôn cùng với hội chúng của Ngài. Sau đó bậc Ðạo Sư đáp lời tùy hỷ công đức bằng một giọng vô cùng êm dịu:

– Này gia chủ, thí vật của ông thật hào phóng biết bao, ông hãy hoan hỷ. Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã có những người nhờ cúng dường một đôi hài lên một vị Ðộc Giác Phật mà kết quả việc bố thí đó là tìm được chỗ an trú trên biển cả không có nơi an trú; và nay ông vừa cúng dường cho toàn thể hội chúng của đức Phật mọi vật dụng cần thiết cho mỗi Tỷ-kheo, thì công đức biết bao, nếu không phải là lễ dâng hài này sẽ làm nơi an trú cho ông về sau?

Và theo lời thỉnh cầu của ông. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, thành Ba-la-nại có tên là Molinì. Trong khi vua Brahamadatta trị vì ở Molinì, một người Bà-la-môn tên là Sankha giàu có lớn, đã xây bố thí trường ở sáu chỗ, một ở mỗi cổng thành, một ở giữa thành và một ở cửa nhà ông. Hằng ngày ông bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền và cho các kẻ lữ hành cùng kẻ ăn xin rất rộng rãi.

Một ngày kia ông suy nghĩ: “Một khi kho của cải hết, ta không còn gì để bố thí nữa. Vậy trong lúc kho chưa cạn, ta muốn lấy con tàu đi đến xứ Vàng và sẽ mang của cải về”. Thế là ông bảo đóng tàu, chất đầy hàng hóa và khi từ biệt vợ con, ông bảo:

– Bà và con hãy lo bố thí không ngừng cho đến khi ta trở về.

Nói xong, ông cầm lấy dù, mang giày cùng gia nhân hướng mặt về hải cảng, rồi đúng ngọ ông khởi hành.

Vào lúc ấy một vị Ðộc Giác Phật trên đỉnh núi Gandhamàdana (Hương Sơn), đang nhập định, thấy vị kia lên đường tìm kiếm vàng liền suy nghĩ: “Một bậc Ðại sĩ đang vượt biển để tìm vàng. Có gặp gì trên biển cả gây trở ngại cho vị này chăng? Rồi sẽ có. Nếu ông thấy ta, sẽ dâng ta đôi giày và chiếc dù. và kết quả việc đi cúng dường này là ông sẽ tìm được nơi an trú khi tàu đắm trên biển. ta muốn giúp đỡ ông.”

Vì thế bay qua không gian, Ngài hạ xuống, không xa chỗ kẻ lữ hành kia, rồi tiến đến gặp ông, dẫm chân trên cát nóng, nóng như thể một đống tro đang cháy bỏng trong luồng gió dữ dội và ánh mặt trời gay gắt. Vị Bà-la-môn nghĩ thầm: “Ðây là cơ hội để tạo công đức, ta phải gieo một hạt giống ngày hôm nay tại chốn này”. Lòng vô cùng hoan hỷ, ông vội vã đi đến đảnh lễ Ngài:

– Thưa Tôn-giả, – ông nói – xin Tôn giả vui lòng ra khỏi con đường này trong chốc lát, đến dưới gốc cây kia.

Sau đó, khi đến chỗ ngồi gốc cây, ông lau phủi hết cát cho Ngài, rồi trải thương y ra mời Ngài ngồi xuống, với nước sạch thơm ngát, ông rửa chân Ngài, xoa dầu thơm ngào ngạt, và từ chân của chính mình, ông rút ra đôi hài lau sạch, xoa dầu thơm xong, mang vào cho Ngài, cúng dường Ngài đôi hài cùng với chiếc dù, xin Ngài mang hài và che dù trên đầu Ngài khi ngài lên đường. Vị Ðộc Giác Phật muốn làm ông vui lòng nên nhận lễ vật, và trong khi vị Bà-la-môn chiêm ngưỡng Ngài để tăng trưởng tín tâm, Ngài bay lên về lại núi Gandhmàdana.

Còn Bồ-tát với tâm đầy hoan hỷ, tiến ra hải cảng và lên thuyền.

Khi ra đến đại dương vào ngày thứ bảy, con thuyền nứt ra và họ không thể tát hết nước được. Tất cả mọi người lo sợ cho mạng sống mình, đồng thanh kêu gào, mỗi người kêu cầu một vị thần linh riêng của mình. Bậc Ðại Sĩ, chọn một người hầu, xoa dầu khắp mình mẩy, ăn một đống đường mịn hòa với bơ tươi cho thỏa thích, cho kẻ kia cùng ăn, rồi ngài leo lên cột buồm. Ngài bảo:

– Về hướng kia là kinh thành của ta.

Vừa chỉ tay về hướng ấy, vừa gạt bỏ nỗi sợ hãi về các loài rùa, cá, ngài lặn mất cùng với gã gia nhân một khoảng xa chừng một trăm năm mươi cubit (1 cubit = 45cm). Ðám người kia chết đuối cả, còn bậc Ðại Sĩ cùng gã gia nhân bắt đầu tiến lên trên biển cả. Trong bảy ngày liền, ngài tiếp tục bơi. Ngay cả giờ phút ấy, ngài vẫn giữ trọn ngày trai giới, súc miệng với nước mặn.

Lúc bấy giờ một nữ thần tên là Mani-Mekkhalà, nghĩa là Ngọc Ðới, đã được lệnh của Tứ Thiên vương: “Nếu gặp tàu chìm, và tai họa xảy đến cho người đã quy y Tam Bảo, hoặc đầy đủ giới đức, hoặc phụng thờ cha mẹ, thì nàng phải lo cứu độ”. Và để bảo vệ cho các người như vậy, nữ thần an trụ trên mặt biển. Nhờ thần lực của bà, bà không cần canh phòng trong suốt bảy ngày ấy, song đến ngày thứ bảy, nhìn lướt trên mặt biển, bà thấy vị Bà-la-môn Sankha đức độ kia, nên suy nghĩ: “Kẻđằng kia đã bị rớt xuống biển, đến nay là ngày thứ bảy rồi, nếu ông chết đi thì ta mắc phải tội nặng lắm.”

Vì thế sinh lòng lo lắng, bà vội đổ vào chiếc đĩa bằng vàng đầy đủ mọi thức ăn thiên giới, phi nhanh như gió đến phía ngài, rồi dừng lại trước mặt ngài trên không và bảo:

– Này Bà-la-môn, ngài không ăn gì đã bảy ngày rồi, vậy ăn thức này đi.

Vị Bà-la-môn nhìn bà đáp:

– Cất thức ăn của nàng đi, ta đang giữ giới kiêng ăn.

Kẻ gia nhân của ngài không thấy nữ thần, mà chỉ nghe âm thanh nên nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn này nói lảm nhảm, ta chắc vì cơ thể ngài yếu đuối lại nhịn đói đã bảy ngày nên đang đau đớn và sợ chết, ta muốn an ủi ngài.” Và gã liền ngâm vần kệ đầu:

  1. La-môn Tôn giả, bậc uyên thâm,
    Tôn giả vốn đầy đủ thánh tâm,
    Ðồ đệ Thánh sư, sao lại phải
    Hoài tâm vô cớ nói lầm bầm,
    Trong khi chẳng có ai đây cả
    Ðối đáp ngoài tôi, lúc luận đàm?

Vị Ba-la-môn nghe gã, biết rằng gã không thấy vị thần kia, nên bảo:

– Này hiền hữu, không phải ta sợ chết đâu, song đang có một vị khác ở đây để đàm đạo với ta đó.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Xuất hiện Thiên thần rực ánh quang,
    Tặng ta tiên phạn để ta ăn,
    Cao sang trên đĩa vàng bày sẵn
    Ta đáp nàng “không” dạ lạc hoan.

Sau đó gã ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nếu như người thấy một Thiên thần,
    Người hãy yêu cầu một đặc ân
    Xin đứng chấp tay van vị ấy,
    Cho hay Thiên nữ hoặc phàm nhân?

– Bạn nói phải lắm – vị Bà-la-môn bảo.

Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Nương tử nhìn ta vẻ thiết thân,
    Bảo ta: “Cần lấy thức này ăn”,
    Hỏi nàng cao cả đầy uy lực,
    Là nữ nhi hay một nữ thần?

Vị nữ thần lấp tức ngâm hai vần kệ:

  1. Ta, nữ thần uy lực đại cường,
    Nơi này vội đến giữa trùng dương,
    Tràn đầy từ mẫn, tâm hoan hỷ,
    Vì cứu ngài trong bước cuối đường.
  2. Nhìn đây thực phẩm, chốn an lành,
    Nhiều loại cỗ xe, đủ dáng hình,
    Cho ngài làm chủ quyền tất cả,
    Những gì ao ước tự tìm mình.

Khi vừa nghe vậy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ đắn đo: “Ðây là nữ thần giữa đại dương – ngài tự nhủ – bà tặng ta vật này vật nọ. Cớ gì bà lại muốn đem tặng chúng cho ta? Có phải vì một công đức nào đó của ta hay do quyền lực riêng của bà mà bà làm như thế? Ðược, ta sẽ hỏi.” Và ngài chất vấn điều này qua vần kệ thứ bảy:

  1. Thưa, vậy tiên nương chính nữ hoàng,
    Nắm quyền bao lễ vật nàng ban,
    Mỹ nương yểu điệu, mày thanh tú,
    Nghiệp quả nào ta tạo đấy chăng?

Vị nữ thần nghe ngài hỏi, nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn này đã hỏi thế, chắc vì ngài tưởng ta không biết ngài đã làm việc lành nào. Ta muốn nói ngay cho ngài rõ”. Vì vậy bà đáp ngài qua vần kệ thứ tám:

  1. Trên đường nóng bỏng kẻ đơn thân,
    Khát nước, mệt nhừ, lại nhức chân,
    Ngài đã dừng, mang tài vật cúng,
    Ngày nay lễ ấy được hồng ân.

Lúc bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài nghĩ thầm: “Ô kìa giữa đại dương khó vượt qua này, việc cúng dường đôi hài trở thành một đại phước báo cho ta. Ôi việc dâng lễ vật lên một vị Ðộc Giác Phật thật tốt lành thay!” Rồi trong niềm đại hân hoan, ngài ngâm kệ thứ chín:

  1. Xin chiếc thuyền bằng ván khéo xây,
    Thuận buồm xuôi gió, chạy như bay,
    Mà không thấm nước trên đường biển
    Không thể dùng xe cộ chốn đây,
    Xin chở ta về Mo-lí gấp,
    Làm sao vừa kịp đúng hôm nay.

Nữ thần rất đẹp ý khi nghe những lời này, liền làm phép cho chiếc thuyền hiện ra, được làm bằng bảy báu vật, chiều dài tám trăm cubit (1 cubit = 45cm), chiều rộng sáu trăm cubit, chiều sâu hai mươi sải (sải= 1,82m). Có ba cột buồm bằng ngọc bích, dây buộc bằng vàng, cánh buồm bằng bạc, các mái chèo và bánh lái đều bằng vàng ròng cả. Trong thuyền, vị nữ thần chất đầy bảy báu vật, rồi ôm lấy vị Bà-la-môn đưa lên chiếc thuyền huy hoàng kia. Bà không chú ý đến gã hầu cận, song vị Bà-la-môn vẫn chia phần cho gã hưởng phước lành. Gã sung sướng quá và nữ thần kia cũng ôm gã đặt lên thuyền nữa. Liền đó bà đưa thuyền đến kinh thành Molinì và sau khi đã chất đầy châu báu vào kho nhà vị Bà-la-môn, bà trở về nơi an trú mình.

*

Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng, đã ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Thần nữ hân hoan, hạnh phúc tràn,
    Làm cho xuất hiện, chiếc thuyền thần,
    Ðem San-kha với người hầu cận
    Về đến kinh đô đẹp tuyệt trần.

Còn vị Ba-la-môn suốt đời ở nhà bố thí thật rộng rãi không ngừng và giữ giới hạnh, nên khi mạng chung ngài cùng các gia nhân đi lên cộng trú với chư Thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ ấy chứng đắc Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa sắc) là nữ thần, Ànanda là người hầu, và Bà-la-môn Sankha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Ðề (Tiền thân Culla-Bodhi)

Ví thử người ta bắt quý nương…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người tính hay nóng giận.

Người này, sau khi đã xuất gia, tu tập, hành trì Giáo pháp đưa đến giải thoát, an lạc trọn vẹn, lại không thể chế ngự cơn giận của mình. Ông lòng đầy bực tức, hiềm hận; song lại ít nói nên khi phẫn nộ, bị lôi cuốn vào cơn nóng giận, ông trở nên gay gắt chua cay và khó dạy bảo. Khi nghe nói đến tính hay nóng giận của ông, bậc Ðạo Sư cho gọi ông vào và hỏi có thật là ông hay nổi giận như lời đồn chăng. Vị này đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn,

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tính nóng giận phải được chế ngự, vì một kẻ hành ác hạnh như vậy không thể nào có nơi an trú được dù trong đời này hoặc đời sau. Tại sao sau khi tu tập pháp môn giải thoát của đức Phật tối thượng không có lòng sân giận, cớ gì ông lại tự mình tỏ ra hay phẫn nộ? Các bậc trí nhân ngày xưa, ngay cả những vị hành trì giáo pháp khác với chúng ta cũng đã kềm chế được lòng phẫn nộ.

Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, trong một thị trấn ở xứ Kàsi có một vị Bà-la-môn rất giàu vàng bạc, gia sản đồ sộ song lại không có con, nên bà vợ cầu mong con trai. Vào thời ấy Bồ-tát từ cõi Phạm thiên đi xuống trần, nhập mẫu thai của bà, rồi vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ chọn cho ngài cái tên Bodhi-Kumàra hay là Nam tử Trí Tuệ. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngàiđi đến Takkasilà, nghiên cứu đủ các môn học thuật, và sau khi về nhà, dù ngài không muốn, cha mẹ ngài vẫn đi cưới một thiếu nữ về làm vợ ngài, từ một gia đình cùng chung giai cấp với ngài. Nàng ấy cũng xuống cõi trần từ Phạm thiên giới, có nhan sắc tuyệt thế, chẳng khác nào một vị tiên nữ. Cả hai vị trở thành vợ chồng, song cả hai chẳng ai mong muốn chuyện đó cả. Chẳng bao giờ có ai phạm vào dâm dục, cũng chẳng kẻ nào liếc mắt nhìn kẻ kia một cách say đắm, ngay cả trong giấc ngủ, hai vị cũng không hề bao giờ có hành động tương tự, cả hai vị đều sống thanh tịnh như thế.

Sau một thời gian, khi song thân đều mất cả, ngài lo việc tang lễ cho thi hài cha mẹ chu đáo. Bậc Ðại Sĩ gọi vợ đến, bảo nàng:

– Này quý nương, nàng hãy giữ lấy gia sản tám trăm triệu đồng này và sống đời hạnh phúc.

– Không phải vậy đâu, mà đó là phần của phu quân.

Ngài bảo:

– Ta không cần vàng bạc, ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn, trở thành một ẩn sĩ và tìm nơi cư trú ở đó.

– Vậy thưa phu quân tôn quý, chỉ nam giới mới được xuất gia tu hành thôi chăng?

Ngài đáp:

– Không phải vậy, nữ giới cũng được.

– Vậy thì thiếp, cũng không muốn nhận lấy thứ chàng đã phun khỏi miệng, vì thiếp cũng không ham thích vàng bạc gì hơn chàng, thiếp cũng muốn thành ẩn sĩ như chàng.

– Này quý nương, tốt lành thay!

Rồi hai vị đem phân phát bố thí phần lớn tài sản và xuất gia. Ðến một vùng đất an lạc dựng am thất ẩn sĩ, các ngài sống bằng trái cây rừng mà các ngài kiếm được, và cứ sống như vậy mười năm tròn, song vẫn chưa chứng đắc Thiền định của bậc Thánh.

Thế là sau một thời gian sống tại đó, hưởng hạnh phúc của cuộc đời ẩn dật suốt mười năm liền, các ngài ra đi ngang qua vùng quê để tìm muối và đồ gia vị, và thuận đường đến Ba-la-nại liền vào trú chân trong vườn ngự uyển.

Bấy giờ, một ngày kia vua thấy người giữ ngự viên đến dâng một món quà trong tay, ngài phán:

– Trẫm muốn liên hoan trong ngự viên, vậy hãy sắp xếp cho chỉnh tề.

Và khi hoa viên đã được dọn dẹp sạch sẽ sẵn sàng, vua ngự vào đó cùng đám cận thần hộ tống đông đảo.

Lúc đó cả hai vị ở trên một chỗ trong ngự viên, an hưởng lạc thú của cuộc sống tu hành. Còn vua khi đi ngang qua ngự viên, thấy hai vị ngồi đó; và khi mắt ngài chợt bắt gặp vị nữ nhân diễm lệ khả ái kia, ngài say mê ngay. Lòng ngài rúng động vì khát vọng dục tình, ngài quyết định hỏi nàng có liên hệ gì đối với ẩn sĩ kia; nên khi đi đến gần Bồ-tát, vua hỏi ngay câu ấy. Bồ-tát đáp:

– Tâu đại vương, nay nàng ấy chẳng có liên hệ gì đối với ta cả; nàng chỉ cùng chung đời sống tu hành với ta thôi, song trước kia ta còn sống ở chốn trần tục, thì nàng ấy đã là vợ ta.

Nghe vậy, vua thầm nghĩ: “Như vậy, vị này bảo nữ nhân kia chẳng là gì đối với ông cả, song khi còn sống đời thế tục, nàng ấy đã là vợ ông. Ðược rồi, nếu ta dùng vương quyền bắt lấy nàng thì ông làm gì được? Cho nên ta muốn chiếm nàng”. Và vua vừa đến gần vừa ngâm vần kệ:

  1. Ví thử người ta bắt quý nương,
    Mắt tròn, và cướp khỏi Tôn ông,
    Người yêu ngồi đó đang cười nụ,
    Ngài sẽ làm gì, hỡi Ðạo nhân?

Bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ hai để đáp câu hỏi này:

  1. Khi đã khởi lên, nó chẳng rời
    Chẳng bao giờ nữa, suốt đời tôi,
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Dập tắt nó thời mới nhú thôi.

Bậc Ðại Sĩ trả lời như vậy, lớn tiếng như sư tử hống. Song nhà vua dù đã nghe thế, vẫn không thể nào chế ngự được con tim say đắm của mình, do nỗi si mê mù quáng, liền ra lệnh cho vị cận thần phải bắt nàng kia vào cung.

Vị cần thần tuân lệnh dẫn nàng đi, dù nàng đã thở than khóc lóc rằng làm ác nghiệp phi pháp là thói thường của thế gian, còn Bồ-tát nghe tiếng nàng kêu khóc, ngài chỉ nhìn một lần thôi, không nhìn nữa. Vì thế nàng bị đưa vào cung trong lúc đang kêu gào thê thảm.

Vua xứ Ba-la-nại không còn chần chờ ở ngự viên nữa, mà nhanh chóng trở về cung, triệu nàng đến chầu và ban cho nàng nhiều vinh dự cao sang. Song nàng bảo những vinh quang đó chẳng có giá trị cả, và chỉ đời sống độc cư là cao thượng thôi. Vua thấy không thể dùng cách gì để chinh phục được tim nàng, nên truyền giữ nàng trong một phòng biệt lập và bắt đầu suy nghĩ: “Ðây là một người đàn bà khổ hạnh không màng mọi thứ vinh quang này, và vị ẩn sĩ cũng không hề tỏ ra giận dữ khi người hầu bắt đi một nữ nhân tuyệt mỹ như vậy. Song những ẩn sĩ thường có mưu sâu lắm; chắc chắn ông đang lập mưu để hại ta. Ðược rồi, ta muốn trở lại gặp ông và tìm hiểu tại sao ông vẫn ngồi đó.” Và thế là không thể ngồi yên được, vua đi vào ngự viên.

Lúc ấy Bồ-tát đang ngồi vá chiếc y. Vua chỉ đi một mình nên đến tận nơi, bước nhẹ nhàng không gây tiếng động. Bồ-tát vẫn tiếp tục vá áo, chẳng nhìn đến vua. Vua nghĩ: “Người này chẳng muốn nói gì với ta vì đang tức giận đấy. Kẻ khổ hạnh này đúng là gã bịp bợm, trước tiên thét lớn: “ta không muốn để lòng căm hận khởi lên chút nào, song nếu nó khởi lên, ta quyết dập tắt nó ngay lúc còn nhỏ nhoi”, rồi sau đó lòng căm phẫn cứ đeo đẳng dằng dai nên gã không muốn nói chuyện với ta đó!”. Với ý nghĩ này, vua ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ngài lớn tiếng khoe hay,
    Chừng một lát trước đây,
    Nay lặng thinh vì giận
    Ngài ngồi đó vá may.

Khi bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài hiểu vua tưởng ngài im lặng vì tức giận, nên muốn tỏ ra là ngài không hề bị lòng phẫn nộ chi phối, ngài ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Hễ lúc nào sinh khởi nó rồi,
    Chẳng bao giờ nó chịu rời tôi,
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Tôi dập nó thời mới nhỏ nhoi.

Khi nghe những lời này, vua suy nghĩ: “Có phải người này nói đến lòng sân hận hay điều gì khác nữa? Ta muốn hỏi ông cho rõ”. Rồi vua ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Gì đó mà không thể bỏ ngài,
    Chẳng bao giờ hết, suốt trong đời?
    Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
    Ngài dập tắt gì lúc nhỏ nhoi?

Vị kia đáp:

– Thưa Ðại vương, như thế nỗi sân hận thường đem lại nhiều đau khổ, nhiều tai hại, tàn khốc; nó chỉ vừa khởi lên trong ta, song nhờ nuôi dưỡng lòng từ mẫn, ta đã dập tắt được nó.

Rồi ngài ngâm các vần kệ sau để thuyết giảng về nỗi khổ đau vì hiềm hận:

  1. Con người không nó, thấy minh quang,
    Có nó, mù đui trước nẻo đàng,
    Nó khởi trong ta không thoát được,
    Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
  2. Ðiều gì làm thích thú cừu nhân,
    Kẻ muốn tâm ta phải khổ buồn,
    Phát khởi trong ta không thoát được,
    Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
  3. Cái điều, nếu nổi dậy trong mình.
    Che khuất người ta trước hạnh lành,
    Ðã phát trong ta không thoát được,
    Căm hờn, nuôi dưỡng bởi vô minh.
  4. Ðiều làm tổn phước đức vô song,
    Khiến kẻ bị lừa bỏ lập công,
    Mãnh liệt, phá tan, đầy khủng khiếp,
    Không rời ta nữa, ấy là sân.
  5. Ngọn lửa lên cao, sẽ lớn hơn,
    Nếu mỗi nhiên liệu được khơi tròn,
    Bởi vì ngọn lửa lên cao mãi,
    Nhiên liệu tự mình phải cháy luôn.
  6. Cũng vậy trong tâm trí kẻ đần,
    Người không có thể nhận chân ra rằng
    Phát sinh phẫn nộ từ tranh cãi
    Bởi vậy thanh danh phải bại tàn.
  7. Phẫn nộ nào tăng tựa lửa hừng
    Với mồi than củi cháy bừng bừng,
    Như trăng nửa tháng đêm trời tối,
    Ðức hạnh tiêu hao, hủy hoại dần.
  8. Người nào chế ngự được lòng sân,
    Như lửa mà không có củi than,
    Như trăng nửa tháng trời dần sáng,
    Công đức người kia cứ mãi tăng.

Khi vua đã nghe bậc Ðại Sĩ thuyết Pháp xong, lòng rất hoan hỷ, nên ra lệnh cho một cận thần đi dẫn người đàn bà đến, và mời vị ẩn sĩ vô sân kia cùng ở lại với nàng trong ngự viên để an hưởng lạc thú của cuộc sống độc cư và vua hứa sẽ chăm sóc bảo vệ cho hai vị như bổn phận của mình. Sau đó nhà vua xin hai vị tha thứ lỗi lầm và kính cẩn từ tạ ra về. Thế là hai vị ấy ở lại đó.

Dần dần về sau, người đàn bà ấy từ trần và sau khi nàng qua đời, vị ẩn sĩ trở về vùng Tuyết Sơn, tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, làm cho Tứ Vô lượng tâm (bốn Phạm trú: Từ, Bi, Hỉ, Xả) sinh khởi trong lòng, nên ngài được sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Vào đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo hay sân hận kia đã được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, mẫu thân của Ràhula (La-hầu-la) là nữ ẩn sĩ ấy. Ànanda là vua kia và vị ẩn sĩ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Câu Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền thân Kanhadìpàyana)

Bảy ngày tâm trí được thong dong…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Hoàn cảnh này sẽ được giải thích trong Tiền thân Kusa (số 531). Khi bậc Ðạo Sư hỏi lời đồn ấy có đúng không và vị Tỷ-kheo ấy đáp là đúng, thì ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, thuở xưa trước khi đức Phật xuất hiện ở đời, các bậc trí nhân, ngay cả những vị hành trì một nếp tu tập không theo Chánh pháp, trong suốt hơn năm mươi năm bước đi trong Thánh hạnh mà không thích thú nhiệt tâm, song vì bản tính thận trọng khôn ngoan, nên không bao giờ nói cho ai hay biết là các ông đã thối thất. Còn nay tại sao ông đã hành trì Giáo pháp của Ta đưa đến giải thoát, và ông đang đứng trước mặt một đức Phật Thế Tôn như Ta, sao ông dám bộc lộ sự thối thất của ông trước bốn hàng đệ tử? Tại sao ông không giữ được tính thận trọng e dè?

Nói xong, Ngài kể một chuyện đời xưa.

*

Ngày xưa, trong quốc độ Vamsa, một vị vua trị vì tại Kosambi mệnh danh là Kosambika. Thời ấy có hai vị Bà-la-môn ở một thị trấn kia, mỗi vị đều có tài sản tám trăm triệu đồng và là bạn thân thiết của nhau, cả hai ông, sau khi đã nhận thức sự tai hại của tham dục, và đã phân chia của cải ra để bố thí, liền từ bỏ thế tục ngay giữa tiếng than khóc của nhiều người thân, khởi hành về phía Tuyết Sơn, dựng am ẩn sĩ ở đó cho mình. Tại chốn ấy trong năm mươi năm liền, hai vị sống đời ẩn sĩ, nuôi thân bằng trái cây, củ rừng mà hai vị tình cờ kiếm được; song các vị không thể nào chứng đắc Thiền định.

Sau năm mươi năm ấy đã trôi qua, các vị đi du hành qua vùng quê xin muối và đồ gia vị, lại đến vương quốc Kàsi. Trong một thị trấn của quốc độ này có một gia chủ tên là Mandavya, đã từng là một thân hữu tại gia ngày trước của ẩn sĩ Dìpàyana. Hai vị liền đi đến thăm ông Mandavya này; vừa trông thấy hai vị, ông chủ nhà vô cùng thích thú, liền xây cho hai vị một am tranh, cung cấp đầy đủ mọi loại vật dụng cần thiết của cuộc sống ẩn sĩ. Hai vị ở đó ba bốn mùa, rồi từ giã ông, tiến về Ba-la-nại, tại đây hai vị vào ở trong nghĩa địa trồng toàn cây Atimuttaka. Khi Dipàyana đã ở đó một thời gian như ý muốn, ngài trở về nơi người bạn xưa lần nữa; còn Tôn-giả Mandavya, ẩn sĩ kia, vẫn ở chỗ cũ.

Lúc bấy giờ, một ngày kia có tên đạo tặc gây cướp bóc trong thị trấn, và trở về từ nơi ấy cùng một số của cải cướp được. Các gia chủ, lính canh, chạy ra cùng la to “kẻ trộm” và kẻ trộm bị các người này đuổi gấp, đã thoát thân qua một ống cống và trong lúc đang chạy quanh gần nghĩa địa, gã làm rơi gói đồ ở cửa nhà lá của vị ẩn sĩ ấy. Khi các chủ nhà thấy gói này, đồng kêu to:

– À đồ khốn kiếp! Anh là quân trộm cướp ban đêm, còn ban ngày anh đi quanh quẩn giả dạng tu hành.

Rồi vừa phỉ báng, vừa đấm đá, họ đem vị này vào yết kiến vua.

Vua không bảo điều tra gì cả mà chỉ nói:

– Dẫn nó đi ra và đóng cọc vào nó.

Họ đem ông đến nghĩa địa, đặt ông vào cái cọc bằng gỗ cây keo. Song cây cọc không chịu đâm qua thân của vị ẩn sĩ, kế đó họ mang vào cái cọc khác, song cái này cũng không đâm thủng ông, kế đó là cái cọc sắt, cũng không thể đâm thủng thân ông được. Ông tự hỏi hành động nào trong quá khứ của mình đã gây nên sự việc này, liền quan sát quá khứ, trong tâm ông khởi lên tri kiến về các đời trước, nhờ vậy nhìn lại quá khứ, ông thấy những việc đã làm từ lâu, đó chính là việcđâm thủng một con ruồi trên một mảnh gỗ mun.

Chuyện kể rằng trong một đời trước, ông là con trai một người thợ mộc. Một bữa nọ, cậu đi đến chỗ người cha thường đốn cây và cậu đã dùng một mảnh gỗ mun đâm thủng một con ruồi như thể đóng cọc vào nó. Chính ông phát giác ra tội ác kia vào giờ phút nguy kịch này. Ông nhận thức rằng không thể nào thoát khỏi ác nghiệp cũ được, nên bảo đám quân hầu của vua:

– Nếu các ông muốn đóng cọc ta, hãy lấy cái cọc bằng gỗ mun.

Họ làm theo, và đóng cọc vào vị ấy xong, họ để lại một tên quân canh giữ vị ấy và ra đi.

Bọn lính canh từ một nơi ẩn nấp quan sát mọi việc xảy ra cho vị ấy. Lúc bấy giờ, Dìpàyana suy nghĩ: “Ta đã gặp đạo hữu của ta cách đây lâu rồi”, liền muốn đi tìm bạn. Khi nghe tin bạn đã bịđóng cọc treo lên suốt ngày bên vệ đường, ông liền đi đến đứng bên bạn và hỏi bạn đã làm gì.

– Chẳng làm gì cả. Vị ấy đáp.

Vị kia lại hỏi:

– Thế hiền hữu, ta chẳng thấy sân hận gì những kẻ đã bắt ta, cũng chẳng hiềm hận vua; chẳng có nỗi oán hờn nào trong tâm ta cả.

– Nếu quả vậy, thì bóng mát của một vị đức độ như thế này cũng đủ đem lại an lạc cho đời ta rồi.

Cùng với những lời này, ông ngồi xuống cạnh cây cọc. Từ thân của Mandavya rơi xuống vài giọt máu trên thân người bạn. Vì chúng rơi xuống làn da vàng óng và khô đi như thể các chấm đen trên đó, khiến cho ông có tên Kanha hắc nhân Dìpàyana từ đó về sau. Và ông cứ ngồi yên tại chỗ suốt đêm.

Ngày hôm sau, bọn quân canh đến kể mọi chuyện với vua, ngài bảo:

– Ta đã hành động quá hấp tấp.

Rồi vua vội vã đến nơi, hỏi Dìpàyana chuyện gì đã khiến ông ngồi bên cây cọc. Ông đáp:

– Tâu Ðại vương, thần ngồi đây để canh bạn. Nhưng xin cho biết người này đã làm gì, hay bỏ dở việc gì chưa làm, mà Ðại vương đối xử như vậy?

Vua giải thích là vấn đề chưa được điều tra. Vị kia đáp:

– Tâu Ðại vương, một vị vua phải hành động cẩn trọng; một người thế tục phóng túng, ham mê dục lạc là điều không hay v.v…

Và ông còn khuyến cáo nhà vua thêm những việc tương tự như thế nữa.

Khi vua thấy Mandavya vô tội, ngài ra lệnh nhổ cọc lên. Nhưng dù bọn chúng gắng hết sức, cũng không nhổ lên được. Mandavya bảo:

– Tâu Ðại vương, thần phải chịu mang sự ô nhục này là do một lỗi lầm đã phạm thời xa xưa, nên không thể nào nhổ cọc ra khỏi thân này được. Song nếu Ðại vương muốn cứu mạng thần, xin bảo đem đến cái cưa, xẻ cái cọc ngang sát lớp da.

Vua bảo làm như thế; nên phần cây cọc nằm trong thân ông vẫn còn đó. Vì chuyện kể rằng trước kia có lần ông cầm một viên kim cương nhỏ đâm thủng ống mật của một con ruồi nọ để nó khỏi chết, cho đến lúc nó tận số. Nhờ vậy ông cũng không chết luôn. Chuyện kể như thế.

Còn nhà vua đảnh lễ hai vị ẩn sĩ, xin thứ lỗi, rồi đem hai vị vào trú ngụ trong ngự viên, và chăm sóc hai vị tại chỗ ấy. Cũng từ đó, Mandavya được gọi là “Mandavya mang-cái-cọc”, cứ sống ở nơi này gần gũi nhà vua. Phần Dìpàyana, sau khi chữa lành vết thương cho bạn xong, lại trở về với bạn xưa là gia chủ Mandavya. Khi gia nhân nhận thấy vị này đi vào am thất cũ, liền đi báo với gia chủ. Ông chủ nghe tin lòng rất hoan hỷ, cùng với vợ con đem nhiều hương liệu, tràng hoa, dầu,đường đi đến am thất, đảnh lễ Dìpàyana, rửa chân và xoa dầu thơm cho vị này xong, đem mời nước uống và ngồi lắng nghe câu chuyện ẩn sĩ Mandavya mang-cây-cọc.

Bấy giờ con trai của gia chủ là nam tử Yannadatta, đang chơi đùa với quả cầu ở cuối mái hiên. tại đó, có một con rắn trong một ổ kiến. Trái cầu của cậu trai bị ném xuống đất, chạỵ tọt vào lỗ kiến kia và rơi nhằm con rắn. Vì không biết sự này, cậu thò tay vào lỗ. Con rắn tức giận cắn tay cậu, khiến cậu ngã xuống bất tĩnh vì nọc độc của rắn quá mạnh. Sau đó cha mẹ cậu thấy con bi rắn cắn, liền nâng con dậy đem đến vị ẩn sĩ kia, đặt cậu nằm dưới chân vị này và nói:

– Thưa Tôn giả, các bậc tu hành thường biết các cây thảo dược và bùa chú, xin Tôn giả chữa trị cho con chúng tôi.

– Ta đâu biết gì về thảo dược, ta chẳng làm nghề y sĩ bao giờ.

– Thưa Tôn giả, ngài là bậc tu hành xin thương xót thằng bé này và thực hiện một lời Nguyện cầu Chân thật.

– Ðược lắm – vị ẩn sĩ đáp – ta sẽ thực hiện một lời Nguyện cầu Chân thật.

Rồi vừa đặt đặt lên đầu Yannadatta, ông vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Bảy ngày tâm trí thật thong dong,
    Thanh tịnh sống đời ước lập công,
    Từ đó năm mươi năm ẩn dật,
    Chú tâm ta bộc bạch lời chân;
    Nơi đây ta sống dù không muốn,
    Lời thật này mong tạo phước ân,
    Khiến nọc độc không còn hiệu lực,
    Cậu trai này sẽ tỉnh lên dần.

Chẳng bao lâu khi lời Nguyện cầu Chân thật này được thực hiện, thì chất độc phóng ra từ ngực của Yannadatta và chui xuống đất. Cậu bé mở mắt nhìn cha mẹ và kêu:

– Mẹ ơi!

Rồi cậu quay người nằm im. Lúc ấy Hắc nhân Dìpàyana bảo người cha:

– Này, ta đã dùng hết khả năng của ta, nay đến thời bạn dùng khả năng của mình đi.

Người cha đáp:

– Vậy tôi sẽ thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật.

Rồi vừa đặt tay lên ngực con trai, ông vừa ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chẳng chút quan tâm vật cúng dường
    Ta đem đãi mọi khách qua đường,
    Song người hiền trí chưa hề biết
    Ta đã tự kiềm chế bản thân;
    Dù bố thí, ta lòng miễn cưỡng,
    Cầu mong lời thật tạo hồng ân,
    Làm cho nọc độc thành vô hiệu,
    Thằng bé này đây được tỉnh dần.

Sau khi ông thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật này, từ lưng cậu bé nọc độc xuất ra và chui xuống đất. Cậu ngồi dậy, nhưng chưa thể đứng lên được. Lúc ấy người cha bảo người mẹ:

– Này phu nhân, ta đã dùng hết khả năng của ta, bây giờ chính bà dùng năng lực của mình phát nguyện Lời Chân thật để làm cho con bà đứng lên và đi được.

Bà vợ đáp:

– Tôi cũng có một sự thật muốn nói ra, nhưng trước mặt quí vị tôi không thể nói được.

Ông bảo:

– Này phu nhân, hãy dùng hết mọi phương cách làm cho con ta bình phục.

Bà đáp:

– Thế thì tốt lắm.

Và lời Nguyện cầu Chân thật của bà được đưa ra trong vần kệ thứ ba:

  1. Rắn nọ cắn con mới nãy giờ,
    Nằm trong lỗ ấy hỡi con thơ,
    Và cha con đó, này ta bảo,
    Là một, trong tim mẹ hững hờ,
    Mong sự thật này mang phươc đức,
    Nọc tan, con trẻ tỉnh hồn mơ!

Chẳng bao lâu lời Nguyện Cầu Chân thật này được thực hiện thì tất cả nọc độc đều tuôn ra và chui xuống đất. Yannadatta đứng dậy, toàn thân cậu đã được tẩy sạch hết chất độc, nên cậu bắtđầu chơi đùa. Khi cậu bé đã hồi tỉnh như thế xong, gia chủ Mandavya hỏi về tâm tư của Dìpàyana qua vần kệ thứ tư:

  1. Người ta xuất thế, trí quang minh,
    Thuần thục, tâm không chút bất bình,
    Trừ bạn Kan-ha, sao thối chất,
    Chẳng mong tiến bước đạo tu hành?

Ðể đáp lại lời này, vị kia ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Xuất thế rồi quay lại cõi trần,
    Chắc người ta nghĩ: “Kẻ ngu đần!”,
    Chính điều này khiến ta lùi bước,
    Ta vẫn hành trì đạo Thánh nhân
    Tuy vậy ta không còn phát nguyện,
    Ta theo Thánh đạo bởi nguyên nhân:
    Ðược lời khen ngợi từ người trí,
    Là cách người hiền thiện trú thân.

Sau khi đã giải thích lối suy nghĩ của mình như vậy xong, vị này hỏi Mandavya lần nữa qua vần kệ thứ sáu:

  1. Nhà bạn đây như thể quán ăn,
    Chứa đồ ẩm thực để cung dâng
    La-môn, trí giả cùng du khách,
    Thỏa mãn cơn khao khát, đói lòng,
    Xong sợ điều gì gây tiếng xấu,
    Nên lòng miễn cưỡng lại cho không.

Ðến lượt Mandavya giải thích ý tưởng mình qua vần kệ thứ bảy:

  1. Giữ gìn Thánh hạnh các cha ông,
    Là thí chủ ban phát rộng lòng,
    Theo gót xưa, ta đầy cẩn trọng,
    Sinh thời đường lối của gia tông,
    Sợ mình sẽ biến thành suy thoái,
    Nên miễn cưỡng lòng vẫn biếu không.

Sau khi nói xong, Mandavya hỏi vợ qua vần kệ thứ tám:

  1. Khi còn thiếu nữ trí ngây thơ,
    Ta cưới bà về tự nhạc gia,
    Bà chẳng bảo lòng ta lãnh đạm
    Làm sao bà sống cả đời bà,
    Không tình gắn bó, không thương mến,
    Bà đã vì đâu ở lại nhà,
    Hỡi quí phu nhân đầy yểu điệu,
    Sống đời lạnh lẽo thế cùng ta.

Bà vợ đáp qua vần kệ thứ chín:

  1. Chẳng phải là nề nếp cổ phong,
    Cho người làm vợ lại thay chồng,
    Chẳng bao giờ thế, nên tôi vẫn,
    Giữ thói lề kia, kẻo ngại rằng
    Tôi bị người xem là thoái hóa,
    Chính niềm lo sợ tiếng đồn hung,
    Khiến tôi ở lại và chung sống
    Chẳng có tình yêu, vẫn lạnh lùng.

Sau khi vừa nói điều này ra xong, một ý nghĩ chợt đến với bà: “Nay ta đã nói điều bí mật kia với chồng ta rồi, cái điều bí mật chưa hề bao giờ được nói ra cả! Chắc chàng sẽ giận ta lắm; vậy ta muốn được xin lỗi chàng ngay trước mặt vị ẩn sĩ này vốn là bạn chân tình của nhà ta!” Với mục đích trên, bà ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Giờ đây thiếp lỡ nói rồi,
    Những điều chẳng đáng nên lời nói ra
    Vì con, mong ước thứ tha,
    Không gì hơn được mẹ cha nồng tình,
    Yan-na, con của chúng mình
    Trước đây đã chết, hồi sinh bây giờ!

– Thôi phu nhân hãy đứng dậy đi – Mandavya nói – tôi tha lỗi cho bà rồi. Từ nay bà đừng vô tình với tôi nữa; rồi tôi sẽ không bao giờ buồn phiền gì bà đâu.

Còn Bồ-tát bảo Mandavya:

– Trong khi thu thập được nhiều của cải bất chính, rồi bạn lại phân phát bố thí rộng rãi, song không có lòng tin rằng hành động ấy là hạt giống an lành mang lại dị thục quả, như thế là bạn sai lần đấy. Trong tương lai, bạn hãy tin tưởng vào công đức của lễ vật bố thí, và bạn hãy bố thí cúng dường.

Vị gia chủ hứa làm như vậy, và đến phiên mình nói với Bồ-tát:

– Thưa Tôn giả, chính Tôn giả cũng sai lầm khi nhận lễ vật của chúng tôi cúng dường trên bước đường Thánh hạnh mà lòng không phát nguyện tu hành. Giờ đây để cho hạnh nghiệp của Tôn giả mang lại nhiều phước quả dồi dào, xin từ nay về sau Tôn giả tiến lên trong Thánh đạo với lòng an tịnh thanh thản và tràn đầy thiên lạc.

Rồi hai ông bà giã từ bậc Ðại sĩ và ra về.

Từ đó về sau, bà vợ thương yêu chồng mình, gia chủ Mandavya giữ tâm thanh tịnh, đem của cải bố thí với đầy đủ lòng tin; còn Bồ-tát xua tan hết lòng thối thất, và tu tập các Thắng trí thiền định nên được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là gia chủ Mandavya; Visàkhà (Tỳ-cá-khư) là bà vợ, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Mandavya mang-cái-cọc, và Hắc nhân Dìpàyana chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Ða (Tiền thân Nigrodha)

Người ấy là ai, ta chẳng hay …,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Một bữa nọ, các Tỷ-kheo bảo vị này:

– Này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa, bậc Ðạo sư cứu độ hiền hữu rất nhiều! Từ bậc Ðạo Sư, hiền hữu đã thọ đủ Tiểu giới và Ðại giới; hiền hữu đã học Tam Tạng là tiếng nói của đức Phật; hiền hữu đã làm phát khởi Thiền định trong tâm hiền hữu; vinh quang là lợi lạc của đấng Thập Lực thuộc về hiền hữu.

Nghe vậy vị này liền đưa lên một cọng cỏ và nói:

– Ta không thấy một điều lợi lạc nào mà Sa-môn Gotama đã tạo cho ta cả, dù chỉ bằng cọng cỏ này.

Tăng chúng bàn tán việc ấy trong Chánh Pháp đường. Khi bậc Ðạo Sư bước vào, Ngài hỏi các vị ấy đang bàn luận điều gì trong lúc ngồi đó. Các vị trình lên Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu, mà từ lâu cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa đã vô ơn và phản bội thân hữu.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện đời xưa:

*

Ngày xưa một vị Ðại vương danh hiệu là Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị ở thành Ràjagaha (Vương xá) .

Một thương nhân trong thành ấy cưới về nhà cho con trai mình một cô vợ, đó là con gái của một thương nhân ở thôn quê. Song nàng ấy không sinh sản gì. Theo thời gian, vì nguyên cớ đó, lòng kính trọng đối với nàng giảm đi; cả nhà thường nói chuyện cho nàng có thể nghe được như vầy:

– Khi có một người vợ không sinh sản trong nhà, con trai ta làm sao nối dõi tông đường được?

Khi chuyện này cứ đến tai nàng mãi, nàng tự nhủ: “được rồi, ta sẽ giả vờ mang thai để đánh lừa họ”.

Thế là nàng hỏi vú già tốt bụng của nàng:

– Ðàn bà có thai phải làm gì?

Và khi được chỉ bảo những điều cần làm để giữ gìn thai nhi, nàng dấu kín thời kỳ hành kinh của nàng, lại tỏ ý thích ăn các vị chua mới lạ. Vào lúc tay chân bắt đầu to lên, nàng nhờ chúng bạn đập vào tay chân, và lưng cho đến khi chúng sưng phồng lên; dần dần nàng bó quanh người nàng bằng giẻ vụn và vải làm cho thân thể có vẽ lớn dần; lại bôi đen hai đầu vú nàng, và chỉ trừ bà nhũ mẫu ấy ra, chẳng ai được phép ở bên nàng lúc nàng tắm rửa. Chồng nàng cũng tỏ ra chăm sóc nàng chu đáo cho phù hợp với hoàn cảnh ấy.

Sau chín tháng trôi qua trong cảnh này, nàng tỏ ý muốn trở về nhà sinh con trong nhà cha mẹ mình. Vì vậy nàng từ giã cha mẹ chồng, lên xe cùng một số gia nhân từ bỏ thành Vương Xá lại đằng sau, thẳng tiến lên đường.

Lúc bấy giờ trước mặt nàng có một đoàn xe ngựa đang du hành, và lúc nào nàng cũng đến vào khoảng giờ ăn điểm tâm ở địa điểm mà đoàn xe kia vừa mới ra đi. Vào một đêm kia, một người đàn bà nghèo khổ trong đoàn xe đã hạ sinh một con trai dưới gốc cây đa; và nghĩ rằng nếu không có đoàn xe ấy bà không thể đi thêm được nữa, song nếu bà sống, bà có thể nhận được hài nhi ấy, nên bà quấn nó lại, để nó nằm dưới gốc cây đa. Vị thần cây này săn sóc hài nhi: đó không phải là một đứa bé bình thường, mà chính là Bồ-tát đã xuất hiện ở đời trong hình thức ấy.

Vào giờ ăn sáng, đoàn lữ hành kia đến nơi đó. Còn nàng ấy cùng nhũ mẫu của nàng đi riêng ra chỗ bóng mát của cây đa để rửa ráy, chợt thấy hài nhi có màu vàng chói nằm đó. Lát sau, nàng gọi bà nhũ mẫu bảo rằng mục tiêu của họ đã đạt được rồi; nàng liền mở các lớp vải quấn bụng ra, tuyên bố hài nhi ấy là con nàng và nàng vừa mới sinh ra nó.

Các kẻ hầu cận lập tức dựng lều để dành chỗ ở riêng cho nàng, và vô cùng hân hoan gởi một lá thư về thành Vương Xá. Cha mẹ chồng nàng đáp thư lại rằng vì hài nhi đã ra đời nên nàng không cần phải trở về nhà cha nàng nữa, mà hãy quay lui. Vì vậy nàng lập tức trở về Vương Xá. Và giađình chồng thừa nhận hài nhi ấy nên khi hài nhi được đặt tên, họ đặt tên nó theo chốn nó ra đời, là Nigrodha Kumàra hay Cậu bé Ða.

Cùng ngày hôm ấy cô con dâu của một thương nhân trên đường về nhà cha ruột để sinh con, đã cho ra đời một bé trai dưới cành cây nên họ đặt tên nó là Sakka Kumàra hay Cậu Nhành. Và cùng ngày hôm đó, vợ của người thợ may làm việc cho thương nhân này lại sinh một con trai giữa đống vải vụn của nàng, họ nên đặt tên nó là Pottika hay Chú bé Nhồi bông.

Nhà đại phú thương cho đi tìm hai hài nhi ấy về, vì chúng sinh cùng một ngày với công tử Ða, và cho nuôi chúng với nhau.

Các đứa trẻ lớn lên, về sau đi đến Takkasilà để hoàn thành việc học tập. Cả hai nam tử con các thương nhân nhận được hai ngàn đồng để trả học phí cho thầy giáo, công tử Ða bảo trợ việc học tập cho Pottika.

Khi việc học hành đã hoàn tất, các ông từ giã thầy giáo và ra đi với ý định tìm hiểu phong tục dân quê, nên cứ ngao du mãi, vừa lúc đến thành Ba-la-nại, liền nằm xuống nghỉ ngơi, trong một ngôi đền thờ.

Khi ấy vua Ba-la-nại đã băng hà được bảy ngày rồi. Có tiếng trống lệnh loan báo khắp kinh thành rằng ngày mai sẽ có xe hoa hành lễ. Ba người bạn ấy đang nằm ngủ dưới gốc cây, vào tảng sáng, Pottika thức dậy, vừa ngồi vừa xoa bóp chân cậu Ða. Có vài con gà trống đang gáy trên cây ấy, con gà trên đọt cây làm rơi một cục phân trên con gà ở gần gốc cây. Con này hỏi:

– Cái gì rớt trên ta thế này?

Con kia đáp:

– Xin tôn ông đừng giận, ta không cố ý làm như vậy.

– Thế chú tưởng thân ta là chỗ để chú thả phân ra hay sao? Chú không biết giá trị của ta, điều ấy đã rõ quá!

Nghe vậy con gà kia đáp lại:

– Ô kìa, ngài cứ thịnh nộ mãi, dù ta đã nói là ta không cố ý làm việc đó. Thế xin cho biết giá trị của ngài ra sao?

– Hễ bất kỳ ai giết ta ăn thịt sẽ được một ngàn đồng tiền sáng nay. Ðó không phải là điều đáng tự hào hay sao?

– Úi chà! Úi chà! Gà kia đáp lại. Tự hào gì cái việc vặt vãnh ấy! Này, nếu cứ giết ta và ăn mỡ của ta sẽ trở thành vua ngay sáng nay. Còn nếu ăn thịt ở bụng sẽ thành đại tướng; ai ăn thịt ở ức sẽ thành quan giữ ngân khố.

Pottika nghe lọt hết mọi chuyện này. Cậu suy nghĩ: “Một ngàn đồng tiền…! Cái gì đây? Ðược làm vua là tuyệt nhất!”

Thế là nhẹ nhàng trèo lên cây, cậu nắm lấy con gà trống gáy trên đọt cây, giết nó đi và nướng gà trên than hồng, đem mỡ gà cho cậu Ða, thịt bụng cho cậu Nhành còn chính mình ăn thịt quanh xương ức. Khi đã ăn xong, cậu bảo:

– Thưa công tử Ða, hôm nay ngài sẽ làm vua; thưa công tử Nhành, hôm nay ngài sẽ làm đại tướng; còn tôi sẽ làm quan giữ kho báu.

Hai cậu kia hỏi làm thế nào biết được chuyện ấy, cậu liền kể lại hết.

Vì vậy vào khoảng giờ ăn buổi cơm sáng trong ngày, ba cậu vào thành Ba-la-nại. tại nhà một vị Bà-la-môn, các cậu được ăn một bữa cháo gạo, với bơ tươi và đường, rồi từ kinh thành các cậu vào ngự viên.

Cậu Ða nằm xuống một phiến đá, hai cậu kia nằm bên cạnh. Vừa lúc ấy dân chúng cử hành lễ rước xe hoa cùng với năm biểu tượng của vương quyền (kiếm, lọng, miện, hài, quạt) trên đó. (Các chi tiết câu chuyện này sẽ được tả trong câu chuyện Tiền thân Mahàjanaka, số 539, tập VI). Vương xa tiến vào và dừng lại, đứng sẵn sàng để các vị bước lên. “Chắc có một bậc Ðại nhân tài đức ở đây”. Viên quan tế lễ tự nhủ. Ông bước vào ngự viên, nhìn thấy cậu thanh niên này, rồi giở lớp vải dưới bàn chân cậu để quan sát các dấu hiệu trên đó. Ông bảo:

– Ô kìa, người này có số được làm vua toàn cõi Diêm phù-đề (Ấn Ðộ), chứ nói gì chỉ một thành Ba-la-nại.

Và ông ra lệnh cho chuông trống, thanh la nổi lên.

Cậu Ða thức dậy ném tấm vải trùm mặt ra, liền thấy một đám đông vây quanh cậu! Cậu quay nhìn quanh quẩn nằm im một lát rồi trở dậy ngồi xếp bằng đôi chân…Vị tế sư quỳ xuống bảo:

– Tâu Thần nhân, vương quốc này thuộc về ngài.

– Ðược rồi, cứ như vậy. Cậu đáp.

Vị tế sư liền đặt cậu ngồi trên một đống báu vật rồi làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh), phong vương cho cậu.

Khi được phong vương như vậy rồi, vua ban chức Ðại tướng cho bạn Nhành, rồi vào kinh thành trong cảnh uy nghi trọng thể, còn Potika cũng đi vào với hai ông.

Từ ngày ấy trở về sau, bậc Ðại Sĩ cai trị rất đúng pháp tại Ba-la-nại.

Một ngày kia chợt nhớ đến song thân, ngài bảo tướng Nhành:

– Này hiền hữu, ta không thể sống thiếu cha mẹ được. Vậy hãy đem một đoàn người về tìm song thân ta.

Song tướng Nhành từ chối:

– Ðó không phải là việc của hạ thần. Ông bảo.

Sau đó ngài bảo Pottika làm việc ấy. Pottika tuân lệnh lên đường tiến về nhà song thân của vua Ða, nói cho hai vị biết là con trai của họ đã lên làm vua, và mong họ đến ở với ngài. Song họ từ chối, bảo rằng họ đã có cả thế lực lẫn giàu sang rồi, đầy đủ như vậy, họ không muốn đi nữa. Chàng cũng đi mời song thân tướng Nhành đến triều, nhưng họ cũng chỉ thích ở lại đấy hơn; và đến khi chàng về mời chính song thân mình, họ bảo:

– Chúng ta sống bằng nghề may vá, thế đủ rồi, đủ rồi.

Và họ cũng từ chối như các người kia.

Vì chàng không đáp ứng nguyện vọng các vị lão thân, chàng đành trở về Ba-la-nại. Chàng nghĩ rằng sẽ về và nghỉ ngơi cho đỡ mệt nhọc vì cuộc hành trình tại nhà vị Ðại tướng trước khi yết kiến vua Ða, liền đến nhà kia. Chàng bảo người canh cổng:

– Xin báo cho Ðại tướng biết thân hữu Pottika đến đây.

Người ấy tuân lệnh. Song tướng Nhành vẫn mang mối hiềm hận đối với chàng, vì tướng ấy bảo chàng kia đã giao vương quyền cho thân hữu Ða thay vì chính mình cho nên khi nghe lời nhắn này, tướng quân nổi cơn thịnh nộ:

– Thân hữu như vậy ư? Ai là thân hữu của nó? Nó chỉ là thằng thô tục, hạ đẳng, ngu ngốc. Hãy tóm lấy nó ngay!

Thế là chúng đánh đá chàng, nện nhừ tử bằng chân cẳng, cùi chỏ một trận nên thân, rồi tóm cổ chàng quẳng ra đường.

Chàng suy nghĩ: “Nhành được chức vụ Ðại tướng nhờ ta, thế mà nay nó phản bội, độc ác, đã đánh đập ta rồi quẳng ta ra đường. Song còn bạn Ða là bậc hiền nhân, biết ân nghĩa và lương thiện, và ta sẽ đi gặp bạn ấy.”

Thế là chàng đến cửa cung, đưa tin vào nhà vua rằng thân hữu của ngài là Pottika đang chờ ở cửa.

Vua mời chàng vào, khi thấy chàng đến gần, ngài liền đứng dậy, tiến đến đón chàng, chào hỏi rất thân thiết; ngài ra lệnh cạo râu tóc và chăm sóc chàng chu đáo rồi trang điểm cho chàng bằng các loại ngọc vàng, đãi tiệc chàng đầy đủ thức cao lương mỹ vị. Xong xuôi nhà vua lại ân cần ngồi bên chàng hỏi thăm song thân mình, chàng tường trình cho ngài biết hai vị đó từ chối việc đến đây ở.

Lúc bấy giờ tướng Nhành thầm nghĩ:” Chắc Pottika sẽ phỉ báng ta vào tai đức vua, song nếu ta đến bên ngài, gã sẽ không thể nói được.” Vì thế chàng này cũng đến đó. Còn Pottika, dù có Nhành hiện diện, vẫn tâu với vua:

– Tâu chúa thượng, khi hạ thần mệt nhọc vì đường xa, đã đến nhà tướng Nhành, hy vọng nghỉ ngơi tại đó trước rồi đến yết kiến ngài sau. Song tướng Nhành bảo: “Ta chẳng biết gã đó!” Rồi đối xử tàn tệ với hạ thần, và tóm cổ hạ thần quẳng ra ngoài! Xin Chúa thượng tin lời hạ thần nói.

Cùng với các lời này, chàng ngâm ba vần kệ:

  1. Người đó là ai, ta chẳng hay,
    Ai là thân phụ của người đây,
    Nhành còn hỏi: Nó là ai đó?
    Ða hỡi, nghĩ sao trước việc này?
  2. Ðầy tớ Nhành kia cứ y lời
    Ðấm, thoi, tát, đánh khắp người tôi,
    Rồi còn chụp lấy tôi vào cổ,
    Từ đó lôi tôi quẳng phía ngoài.
  3. Phản bội như vầy đối với tôi,
    Chỉ người độc ác mới làm thôi,
    Vong ân bạc nghĩa là ô nhục,
    Gã cũng bạn ngài, Chúa thượng ôi!

Nghe những lời này, vua Ða liền ngâm bốn vần kệ

  1. Ta chẳng hề nghe, cũng chẳng hay
    Một ai từng nói chuyện như vầy,
    Xấu xa như bạn đang tường thuật,
    Nhành ấy vừa làm tại chốn đây.
  2. Bạn cùng ta, sống với Sàk-kha,
    Ðồng bọn chí tình thưở đã qua,
    Bạn đã giành phần cho mỗi một,
    Hướng quyền vương tước, tặng hai ta,
    Vinh quang ta được là nhờ bạn,
    Còn có gì nghi hoặc nữa mà.
  3. Khi hạt ném trong ngọn lửa hồng,
    Cháy rồi, hạt chẳng thể gieo trồng
    Ta làm việc thiện cho người ác,
    Cũng vậy, nó tàn lụi diệt vong.
  4. Chúng chẳng như nhiều kẻ biết ơn,
    Những người đức hạnh, bậc hiền lương,
    Ðất lành, hạt chẳng hề quăng bỏ,
    Như việc làm cho các thiện nhơn.

Trong khi vua Ða ngâm kệ trên, tướng Nhành đứng im tại chỗ. Sau đó vua hỏi:

– Nào bạn Nhành, bạn có nhận ra anh chàng Pottika này không?

Gã đành câm lặng. Vua liền truyền xử gã này qua những lời của vần kệ thứ tám:

  1. Tóm tên hèn hạ bội ân này,
    Tư tưởng nó đà xấu ác thay,
    Ðâm nó! Vì ta cho nó chết,
    Nghĩa gì đời nó với ta đây?

Sau khi Pottika nghe nói vậy, liền suy nghĩ trong lòng: “Chớ nên để kẻ ngu si này chết vì ta!” nên chàng ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðại vương, mong mở lượng từ bi,
    Thật khó tìm đời sống mất đi,
    Chúa thượng dung tha cho nó sống,
    Thần mong thằng khốn chẳng sầu chi.

Khi vua nghe vậy, ngài tha tội cho Nhành; và ngài muốn ban chức Ðại tướng cho Potika, song chàng không nhận. Rồi vua phong chàng chức Chưởng khố, và với chức vụ đó, chàng xét xử cácđám thương nhân. Trước kia chẳng có chức vụ đó, song chức vụ này tồn tại từ đây về sau. Dần dần với thời gian, quan Chưởng khố Pottika được phước đầy đủ con trai con gái, đã ngâm vần kệ cuối cùng để giáo hóa các con:

  1. Ta cần sống với Ni-gro-dha
    Chẳng tốt gì hầu hạ Sà-kha,
    Nếu phải sống cùng Nhành, đại tướng,
    Thà nên chịu chết với vua Ða.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các ông thấy rằng trước kia Ðề bà đạt đa cũng đã vô ơn bạc nghĩa rồi.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời đó, Ðề-bà-đạt-đa là Sàkha, Ànanda là Pottika, và Nigrodha chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Hành (Tiền thân kkala)

Chẳng rau để luộc, cũng không hành…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một cư sĩ phụng dưỡng cha mình.

Chuyện kể rằng người này tái sinh vào một gia đình nghèo khó. Sau khi mẹ mất, chàng thường dậy sớm vào buổi sáng và soạn tăm xỉa răng cùng nước súc miệng, sau đó đi làm thuê hay cày ruộng ngoài đồng, chàng thường nấu cháo gạo nuôi cha theo phong cách phù hợp hoàn cảnh mình. Cha chàng bảo:

– Này con, con phải làm mọi việc từ trong nhà ra ngoài đường. Thôi để cha kiếm vợ cho con, nàng ấy sẽ làm việc nhà thay con.

Chàng đáp:

– Thưa cha, nếu có đàn bà đến nhà này, họ sẽ không làm cha con ta yên tâm được đâu. Xin cha đừng mơ tưởng chuyện đó nữa. Khi cha còn sống, con muốn phụng dưỡng cha, và khi cha từ trần, con sẽ biết việc gì cần làm.

Song người cha đi kiếm về một cô gái, dù con mình không muốn, và nàng ấy lo chăm sóc chồng và cha chồng; tuy vậy, nàng là người hèn hạ. Lúc bấy giờ chồng nàng hài lòng vì nàng đã săn sóc cha chàng, và bất cứ món gì chàng tìm được để làm nàng vui lòng, chàng đều đem về cho nàng và nàng đưa cho cha chồng. Rồi có lúc người đàn bà ấy suy nghĩ: “Bất cứ cái gì chồng ta kiếm được đều đem cho ta, chứ không cho cha chàng chút nào cả. Rõ ràng là chàng chẳng quan tâm gì đến cha. Ta phải tìm cách gây xích mích giữa ông già và chàng, rồi ta sẽ đuổi ông già ra khỏi nhà.”

Vì thế từ đó, nàng bắt đầu đem nước quá lạnh hoặc quá nóng cho ông lão, thức ăn thì nàng bỏ muối quá nhiều hoặc chẳng bỏ chút muối nào, cơm nàng nấu cứng ngắc hoặc mềm nhão; nàng cố làm đủ mọi thứ như vậy để khiêu khích ông lão. Rồi khi ông lão tức giận, nàng mắng lại:

– Ai hầu nổi một ông già như thế này?

Nàng vừa nói vừa gây chuyện ồn ào. Nàng khạc nhổ khắp mặt đất rồi thức chồng nàng dậy và bảo:

– Xem kìa, cha chàng làm thế đó! Thiếp mãi van xin cha đừng làm thế này thế nọ, mà cha chỉ nổi giận. Hoặc cha chàng, hoặc thiếp phải đi ra khỏi nhà này.

Lúc ấy người chồng bảo:

– Này nàng, nàng còn trẻ, nàng muốn ở đâu tùy ý, song cha ta đã già, nếu nàng không thích ông cụ, thì nàng cứ đi khỏi nhà.

Lời nói ấy khiến nàng khiếp sợ. Nàng quỳ xuống chân ông lão xin ông thứ lỗi và hứa từ nay sẽ không làm thế nữa, rồi lại bắt đầu săn sóc ông lão như trước kia.

Vị cư sĩ đáng trọng ấy trước tiên quá lo âu vì cách đối xử của nàng, nên bỏ việc đến yết kiến bậc Ðạo Sư để nghe thuyết Pháp, song khi nàng đã hồi tâm, chàng lại đến. Bậc Ðạo Sư hỏi tại sao chàng không đến nghe Ngài thuyết giảng bảy tám ngày nay. Chàng kể lại mọi việc xảy ra. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Lần này, ông không chịu nghe vợ, và không đuổi cha ra khỏi nhà, nhưng trong một đời quá khứ, ông làm theo lời vợ bảo, đã đem cha ra bỏ trong một nghĩa địa và đào cho ông lão một cái hố. Vào thời kỳ ông sắp giết cha, Ta được bảy tuổi và nhờ ta kể công đức cha mẹ và cản ông khỏi tội giết cha. Thời đó ông đã nghe lời Ta, và nhờ việc săn sóc cha trong lúc ông lão còn sống mà ông được sinh lên Thiên giới. Thời ấy Ta đã thuyết giảng và báo cho ông biết trước để đừng bỏ rơi cha khi sinh vào một đời khác; vì duyên cớ này nên ngày nay ông không chịu nghe theo lời người đàn bà kia bảo, và cha ông không bị giết hại.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, trong một làng kia ở Kàsi, một gia đình nọ có một con trai duy nhất tên gọi Vasitthaka. Chàng này nuôi nấng cha mẹ, và sau khi mẹ mất, chàng phụng dưỡng cha như đã tả ở phần đầu. Nhưng có chỗ khác ở đây là: Khi người đàn bà bảo: “Nhìn kia kìa! Cha chàng làm thế đó, thiếp cứ mãi van xin cha chàng đừng làm thế này thế nọ, cha chỉ nổi giận”, nàng lại nói tiếp:

– Này phu quân, cha chàng hung dữ, độc ác lắm, vì cứ mãi gây sự cãi vã. Một lão già lụ khụ như vậy, lại bị bệnh hoạn giày vò, sắp chết đến nơi rồi, nên thiếp không thể ở cùng nhà với ông lão được. Trước sau gì ông lão cũng chết già thôi, vậy chàng hãy đem ông lão ra nghĩa địa, đào hố ném ông vào và lấy cái cuốc đập đầu ông đi; khi ông chết rồi hãy xúc đất lấp hố lại, và để mặc đó.

Cuối cùng, vì cứ nghe mãi những lời đinh tai nhức óc, chàng bảo:

– Này nàng ơi, giết người là việc hệ trọng, bằng cách nào ta có thể làm thế được?

Vợ đáp:

– Thiếp sẽ chỉ cho chàng một cách.

– Vậy cứ nói đi.

– Nào, phu quân, rạng ngày mai, hãy đến nơi cha chàng ngủ, nói thật lớn với ông lão để mọi người đều nghe được, rằng có một con nợ của cha ở một làng kia mà chàng đã đến gặp, nhưng gã không chịu trả tiền cho chàng. Nếu ông lão chết, thì gã ấy chẳng bao giờ trả nợ nữa. Vậy hãy nói rằng hai cha con sẽ cùng lái xe đến đó vào buổi sáng, rồi đến giờ đã định, chàng hãy cột đôi bò vào xe, đưa ông lão đến nghĩa địa. Khi chàng đến đó, hãy chôn ông vào cái hố và la to lên như thể chàng bị cướp giữa đường và bị thương, rồi gội đầu mà ra về.

Chàng bằng lòng làm theo lời bàn ấy và sắp sẵn chiếc xe bò lên đường. Lúc bấy giờ người ấy có một con trai lên bảy tuổi, nhưng rất khôn ngoan và thông minh. Cậu bé nghe lọt những chuyện mẹ nói, và nghĩ thầm: “Mẹ ta thật là một ác phụ, đang cố thuyết phục cha ta giết ông nội. Ta muốn ngăn cản cha ta khỏi tội giết người này.”

Cậu ta liền chạy nhanh đến nằm cạnh ông nội. Vào giờ phút người vợ dặn dò, Vasitthaka đã sắp sẵn chiếc xe bò. Chàng bảo:

– Cha ơi, dậy đi, ta đi đòi nợ.

Rồi chàng đặt cha ngồi vào xe. Song cậu bé ngồi vào xe trước tiên. Vasitthaka không thể cản conđược, nên cùng đem cậu đi ra nghĩa địa với họ. Sau đó, đem cha già và con trai ra để ngồi riêng một nơi với chiếc xe, còn chàng bước xuống lấy cuốc và cái giỏ đến một nơi, dấu mình cho họ khỏi thấy rồi bắt đầu đào một lỗ vuông lớn. Cậu bé đi xuống theo cha và làm như thể không biết việc gì đang xảy ra, cậu ngâm vần kệ đầu tiên để mở lời:

  1. Chẳng rau để luộc, cũng không hành,
    Chẳng bạc hà, cây để nấu canh,
    Nếu chẳng cần, sao cha bới đất
    Một mình, trong nghĩa địa rừng xanh?

Rồi cha cậu đáp lại bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ông nội già nua, quá yếu gầy,
    Do nhiều bệnh hoạn, khổ tràn đầy,
    Cha chôn ông nội trong mồ đó,
    Cha chẳng muốn ông sống thế này.

Nghe thế, cậu bé đáp lại qua nửa vần kệ:

Cha cầu việc ấy, tội đà gây,
Vì việc làm này độc ác thay!

Cùng với những lời trên, cậu bé chụp lấy cái cuốc từ tay cha cậu và bắt đầu đào một hố khác không xa đó mấy.

Cha cậu liền đến gần hỏi tại sao con đào hố đó, cậu đáp lại bằng cách ngâm hết vần kệ thứ ba:

  1. Con sẽ thờ cha lúc tuổi già
    Như cha đối xử với ông nhà,
    Theo phong tục ấy trong gia tộc,
    Con cũng chôn cha dưới hố mà.

Người cha đáp lại qua kệ thứ tư:

  1. Thằng bé nói lời ác nghiệt thay,
    Ông cha sao mắng mỏ như vầy!
    Nghĩ rằng con trẻ rầy la bố,
    Với bạn chí tình, tệ lắm đây!

Khi người cha nói vậy xong, cậu bé khôn ngoan ngâm ba vần kệ, một để đáp lời và hai để làm thành khúc thánh đạo ca:

  1. Con không tồi tệ hoặc hung tàn,
    Con đối với cha, dạ thiết thân,
    Nhưng việc này cha làm đại ác,
    Sức nào gỡ lại, nếu sai lầm?
  2. Người ác ý làm, hỡi Vat-tha,
    Hại người vô tội, mẹ cùng cha,
    Ðến khi người ấy thân vong hoại,
    Ðịa ngục phải vào, chắc chẳng xa.
  3. Người dùng cơm nước, hỡi Vat-tha,
    Ðem phụng dưỡng luôn mẹ với cha,
    Người ấy đến khi thân hủy hoại,
    Sẽ lên Thiên giới hiển nhiên mà.

Người cha sau khi con thuyết giáo, liền ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Thấy con không tàn nhẫn, vong ơn,
    Ðối với cha đầy dạ mến thương,
    Chính bởi cha vâng lời của mẹ,
    Ðịnh làm việc ác thật kinh hồn.

Khi nghe vậy, cậu bé bảo:

– Thưa cha, đàn bà hễ khi làm việc ác mà không bị khiển trách, thì còn tái phạm mãi. Vậy cha phải uốn nắn mẹ con để cho mẹ sẽ chẳng bao giờ làm lại một việc như vậy.

Rồi cậu ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Vợ cha là ác phụ vô lương,
    Bà đã sinh con, chính mẹ con,
    Ta hãy đuổi bà ra khỏi cửa,
    Sợ bà gây việc khác cha buồn.

Nghe lời đứa con khôn ngoan, Vasittha rất hoan hỷ bảo:

– Nào ta đi con!

Chàng lại ngồi vào xe bò với cha và con mình.

Lúc bấy giờ người đàn bàn gây tội ác ấy cũng sung sướng lắm vì tưởng rằng đã tống được con người xui xẻo ra khỏi nhà rồi. Nàng trét đầy phân bò ướt trên sàn và nấu một mẻ cháo gạo. Song khi nàng ngồi trông ra con đường mà họ sẽ trở về, nàng thấy họ đang tiến đến: “Kìa chàng ta đã về, lại có lão già xui xẻo ấy nữa”. Nàng suy nghĩ, lòng đầy tức giận: “Hừ! Ðồ vô dụng”. Nàng la lớn:

– Sao, đem về cái của nợ chàng đã mang đi vứt ấy à?

Vasittha không nói một lời, và mở tháo dây chiếc xe bò ra. Rồi chàng bảo:

– Cô nói gì thế?

Chàng đánh cho nàng một trận nên thân, rồi chụp đầu nàng tống ra khỏi cửa, cấm nàng đừng bao giờ đến làm bẩn cửa nhà chàng nữa. Rồi chàng tắm cho cha và con, chính chàng cũng tắm luôn, và cả ba ngồi ăn cháo gạo. Còn người đàn bà độc ác liền đến ở nhà khác vài ngày.

Sau đó cậu bé bảo cha:

– Cha ơi, về việc này mẹ con chưa hiểu đâu. Bây giờ ta thử chọc tức bà ấy đi. Cha tung tin trong làng kia có cô cháu gái của cha, muốn săn sóc cha, ông và con, vì vậy cha định đem cô ấy về, rồi cha lấy hoa tươi và dầu thơm để lên xe, và cứ đi quanh vùng suốt ngày đến tối mới về nhà.

Chàng làm theo như vậy. Những bọn đàn bà trong xóm nhà chàng đến bảo nàng:

– Chị có nghe nói chồng chị đã đi kiếm một cô vợ khác ở một chỗ nào đó chăng?

Nàng kêu lên:

– Ôi thế là ta tàn đời rồi, chẳng còn chỗ nào dành cho ta cả!

Nhưng nàng muốn hỏi thăm con nàng, vì thế nàng vội vã đi tìm con, sụp xuống chân nó, kêu khóc lên:

– Trừ con ra, mẹ chẳng có nơi đâu nương tựa nữa! Từ nay về sau mẹ cố quyết chăm sóc cha con và ông nội như thể chăm sóc ngôi bảo tháp tuyệt đẹp vậy. Cho mẹ vào nhà lần nữa đi con!

– Vâng thưa mẹ – Cậu đáp – Nếu mẹ không làm gì như trước thì con sẽ để mẹ vào, thôi mẹ hãy vui lên nào.

Và khi cha cậu về, cậu ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Bà vợ cha kìa, bạc ác thay,
    Người sinh con trẻ, chính là đây,
    Như voi được luyện rất thuần thục,
    Cho trở lui, người tội lỗi này.

Cậu nói thế với cha xong, liền đi gọi mẹ cậu vào. Nàng làm lành với chồng và cha chồng xong, từđó tánh tình thuần thục tràn đầy đức độ chân chính, và săn sóc cả cha, chồng cùng con chu đáo. Cả hai vợ chồng cương quyết theo lời con khuyên nhủ, chuyên bố thí và làm các thiện sự, rồi được sinh lên cộng trú với Thiên chúng.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, người con hiếu thảo được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ hai cha con và nàng dâu ấy cũng là những người này, còn cậu bé khôn ngoan ấy chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền thân Mahà Dhamma-Pàla)

Tục lệ nào hay Thánh đạo nào…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể sau khi Ngài đã thành bậc Chánh Ðẳng Giác, trong chuyến thăm viếng Kapilapura lần đầu tiên, Ngài trú ngụ tại Bồ-đề Lâm (Rừng cây Ða), và nói về việc phụ vương không chịu tin lời đồn.

Vào lúc ấy, chuyện kể rằng Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), sau khi cúng dường một buổi tại cung điện của ngài cho đức Phật dẫn đầu hai mươi ngàn vị Tỷ-kheo, suốt buổi trò chuyện với Ðức Phật rất vui vẻ, và nói:

– Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn hành trì khổ hạnh, có vài thần nhân đến gặp ta, đứng trên không và bảo: “Thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), Vương tử của Ðại vương đã chết đói”.

Bậc Ðạo Sư liền hỏi:

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tin chuyện đó không?

– Bạch Thế Tôn, ta không tin. Ngay cả khi các thần nhân đến, bay lượn trên không và bảo ta như vậy, ta cũng không tin, mà còn bảo rằng Vương tử của ta không chết được cho đến khi chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác dưới gốc cây Bồ-đề.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Tâu Ðại vương, xưa kia, vào thời Mahà Dhammapàla, ngay khi một vị giáo sư lừng danh thiên hạ đến bảo: “Con ngài đã chết, đây là xương của chàng”, Ðại vương cũng không tin và bảo: “Trong gia tộc ta, bọn chúng không bao giờ chết trẻ”. Vậy thì làm sao bây giờ Ðại vương tin được?

Rồi theo lời thỉnh cầu của phụ vương, bậc Ðạo Sư kể một chuyện ngày xưa.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta làm vua tại Ba-la-nại, trong nước Kàsi có một ngôi làng tên là Dhammapàla, nó mang tên này vì có gia tộc một vị Dhammapàla, nghĩa là Hộ Pháp, cư ngụ tại đó. Do hành trì Mười Thiện đạo, vị Bà-la-môn ấy nổi tiếng ở vùng mình cư trú là một vị Hộ Pháp (Dhammapàla). Trong nhà vị ấy, ngay cả các tôi tớ cũng bố thí, tôn trọng đạo đức và giữ ngày trai giới.

Thời ấy, Bồ-tát tái sinh vào gia đình trên, vị gia chủ đặt tên ngài là Nam tử Hộ Pháp (Dhammapàla Kumàra). Vừa khi đến tuổi khôn lớn, cha chàng trao cho chàng một ngàn đồng vàng, và gửi chàng đến học ở Takkasilà. Chàng đến đó, học tập với một vị giáo sư lừng danh thế giới và trở thành đệ tử trưởng trong hội chúng gồm năm trăm nam tử.

Vào lúc ấy, trưởng nam của vị giáo sư từ trần, và vị giáo sư được đám đệ tử vây quanh, giữa các bà con quyến thuộc, vừa than khóc vừa cử hành tang lễ con trai trong nghĩa địa. Lúc ấy, vị giáo sư cùng thân bằng quyến thuộc và tất cả các đồ đệ đều than khóc kêu gào, chỉ riêng Dhammapàla không khóc cũng chẳng than. Sau khi năm trăm nam tử từ nghĩa địa về, họ ngồi xuống trước vị giáo sư và nói:

– Ôi, chàng trai thật tốt đẹp, non trẻ thế mà phải chia lìa cha mẹ trong tuổi thanh xuân!

Dhammapàla đáp:

– Non trẻ thay, đúng như các hiền hữu nói! Này, tại sao chàng chết ở tuổi thanh xuân? Trẻ con phải chết lúc còn niên thiếu thật là chẳng hợp lý chút nào.

Chúng bạn liền đáp lại:

– Này Tôn giả, thế Tôn giả không biết rằng những người dù trẻ như vậy cũng phải chịu chết sao?

– Ta biết điều ấy lắm, nhưng lúc còn non trẻ, chúng không chết; người ta chết lúc người ta già.

– Thế không phải mọi pháp hữu vi đều giả tạm nhất thời hay sao?

– Chúng thật là giả tạm, đúng vậy, nhưng lúc tuổi còn niên thiếu, con người không chết, chỉ khi già người ta mới chết thôi.

– Ồ, thế đó là tục lệ trong gia tộc ngài sao?

– Phải, đó là tục lệ của gia tộc ta.

Bọn thanh niên liền kể câu chuyện này cho vị giáo sư ấy nghe. Ông cho gọi Dhammapàla đến, hỏi chàng:

– Này Dhammapàla, có phải trong gia tộc con chẳng có người nào chết trẻ chăng?

– Thưa thầy, chính phải, đúng như vậy. Chàng đáp.

Nghe nói thế, vị giáo sư nghĩ thầm: “Chàng nói chuyện này thật hi hữu lắm thay! Ta muốn lên đường tới gặp cha chàng và hỏi chuyện ấy, nếu quả thực vậy, ta sống theo giới luật chân chánh kia.”

Thế là sau khi đã làm xong mọi việc cần làm cho cậu trưởng nam, khoảng bảy tám ngày sau đó, ông cho gọi Dhammapàla đến bảo:

– Này con, ta sắp đi xa nhà, vậy lúc ta đi vắng, con phải dạy bảo các đệ tử của ta.

Nói thế xong, ông đi tìm xương của một con dê rừng, rửa sạch và ướp hương, rồi đặt vào giỏ, sau đó mang theo mình một chú tiểu đồng, ông rời Takkasilà dần dần đi đến làng kia, tại đó ông hỏi đường đi đến nhà vị Ðại Hộ Pháp và dừng lại ở cửa.

Người đầy tớ đầu tiên của vị Bà-la-môn trông thấy vị này, dù đó là ai, cũng cất dù từ tay ông, cởi giày, cầm lấy túi xách trên tay tiểu đồng. Ông nhờ báo với thân phụ chàng rằng đây là giáo sư của nam tử Dhammapàla đang đứng ở cửa.

– Tốt lành thay!

Các gia nhân nói, rồi đi mời vị thân sinh ra gặp ông. Vị thân sinh vội vã đến thềm và nói:

– Xin mời vào.

Và ông dẫn đường vào nhà mình. Vừa mời khách ngồi xuống tọa sàng, và ông làm bổn phận của chủ nhân như rửa chân vị kia v.v…

Khi vị giáo sư đã dùng cơm xong, và hai vị ngồi đàm đạo thân thiết với nhau, vị giáo sư bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, nam tử Dhammapàla của ngài có trí tuệ sáng suốt, tinh thông ba tập Vệ-đà và mười tám công trình học thuật, nhân vì rủi ro đã mất mạng. Các pháp hữu vi đều giả tạm, xin ngài chớ đau buồn vì chàng.

Vị Bà-la-môn vỗ tay cười lớn.

– Tại sao ngài cười, thưa Tôn giả Bà-la-môn? Vị giáo sư hỏi.

Vị này đáp:

– Bởi vì không phải con tôi chết đâu; chắc là người khác.

Vị kia nói:

– Không đâu, thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính con trai ngài chết chớ không phải người khác. Hãy nhìn kỹ xương chàng đây và tin tôi.

Nói thế xong, ông dở đống xương ra và nói:

– Ðây là xương con trai ngài.

Người cha đáp:

– Có lẽ xương dê rừng hay xương chó, chứ con trai tôi không chết được. Trong gia tộc ta bảy đời nay chưa hề xảy ra chuyện như là chết lúc tuổi còn non; vậy ngài đang nói sai sự thật.

Rồi cả nhà cùng vỗ tay và cười lớn.

Khi thấy việc kỳ diệu như thế, vị giáo sư rất hoan hỷ nói:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, lề lối này trong gia tộc ngài không phải là không có nguyên nhân, đó là đám thanh niên không hề chết yểu. Tại sao các ngài không chết yểu?

Ông hỏi bằng cách ngâm vần kệ đầu:

  1. Tục lệ nào hay Thánh đạo nào
    Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
    Bà-la-môn, nói ta duyên cớ
    Người trẻ trong dòng chẳng chết sao?

Lúc ấy vị Bà-la-môn giải thích những công đức gì đã đem lại kết quả là trong gia tộc mình không ai chết trẻ cả, ông ngâm các vần kệ sau:

  1. Ta không lời dối, sống hiền chân,
    Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
    Ðiều bất thiện ta đều tránh cả,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  2. Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
    Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
    Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
    Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
  3. Trước khi bố thí, dạ hân hoan,
    Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
    Khi bố thí xong, không hối tiếc,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  4. Ta mời đám lữ khách, La-môn,
    Khất sĩ, Sa-môn, mọi kẻ cần,
    Ta đãi uống, ăn, người đói khát,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.
  5. Cưới vợ, không khao khát vợ người,
    Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
    Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
    Nên các con không sớm bỏ đời.
  6. Con được sinh từ vợ chính chuyên,
    Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
    Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
    Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
  7. Gắng làm chân chánh đạt cao thiên,
    Sống vậy, từ cha đến mẹ hiền,
    Ðến mọi gái trai, anh chị nữa,
    Nên không ai chết giữa thanh niên.
  8. Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
    Trai gái thảy đều sống thiện lương,
    Ngay bọn nô tỳ thấp kém nhất,
    Nên không ai chết giữa thanh xuân.

Và cuối cùng, qua hai vần kệ này, ngài tuyên thuyết thiện nghiệp của những người bước trên đường chân chánh:

  1. Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân,
    Khéo hành Chánh đạo đạt hồng ân,
    Phúc này ban tặng người làm chánh,
    Người chánh không vào chốn khổ thân.
  2. Ðạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
    Như cây che bóng giữa mưa tràn,
    Thằng con sống được nhờ hành thiện,
    Tâm thiện cho người Hộ Pháp-an;
    Còn đó là xương khô kẻ khác,
    Ðống xương Tôn giả mới vừa mang.

Khi nghe vậy, vị giáo sư đáp:

– Cuộc hành trình của ta thật an lạc lắm thay, nó mang lại nhiều kết quả, chứ không phải là không có kết quả!

Ðang lúc lòng đầy hoan hỷ, ông xin lỗi thân sinh Dhammapàla và nói thêm:

– Ta đến đây và mang theo mình một đống xương dê rừng, cố ý để thử ngài. Chứ con trai của ngài hiện đang bình yên mạnh khỏe. Xin ngài truyền cho ta những điều luật bảo tồn cuộc sống của gia tộc ngài.

Lúc ấy vị kia viết quy luật ấy vào một ngọn lá. Sau khi lưu lại chỗ đó vài ngày, vị thầy trở về Takkasilà và khi đã dạy cho Dhammapàla đủ mọi tài nghệ và học thuật xong, ông cho phép chàng ra về cùng với một đoàn tùy tùng đông đảo.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại như vậy cho Ðại vương Suddhodana xong, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Ðại vương được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, người cha và người mẹ là hoàng tộc của Ðại vương ngày nay, vị giáo sư là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đám tùy tùng là các đệ tử đức Phật, và Ta chính là nam tử Hộ Pháp.

-ooOoo-

  1. Chuyện Kê Vương (Tiền thân Kukuta)

Chớ đặt lòng tin bọn dối lừa…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Veluvana (Trúc Lâm) về vấn đề mưu toan sát hại.

Trong Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo đang bàn luận bản chất độc ác của Ðề-bà-đạt-đa:

– Này các Hiền giả, lạ quá, Ðề-bà-đạt-đa đang mưu toan sát hại đấng Thập Lực bằng cách mua chuộc đám xạ thủ và nhiều người khác.

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:

– Này, các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi với nhau tại đây?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:

– Ðây không phải là lần đầu người ấy toan hành thích Ta, mà đã có lần như vậy ngày xưa.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, tại Kosambi (Kiều-thưởng-di: một kinh thành trên sông Hằng), có một vị vua cai trị mệnh danh là Kosambaka. Vào thời ấy, Bồ-tát đầu thai làm con của một gà mái sống trong một rừng tre, sau đó làm chúa cả đàn gà hàng trăm con trong rừng. Không xa đó, có một con Diều hâu tìm cơ hội bắt từng con gà trong đàn và ăn thịt, dần dần nó ăn hết mọi con gà, chỉ còn Bồ-tát một mình sống sót. Song ngài rất thận trọng trong lúc kiếm mồi, và sống trong một rừng tre rậm. Tại đây Diều hâu không thể nào đến gần được, vì thế nó bắt đầu suy tính lập mưu gì để dụ dỗ ngài mà bắt lấy.

Sau đó nó đậu trên một cành cây gần đó, và gọi:

– Này Kê hiền hữu, chuyện gì khiến ngài sợ ta? Ta mong muốn kết bạn với ngài. Giờ đây ở một nơi kia (nó nói tên nơi đó) có đầy thức ăn, chúng ta hãy cùng nhau đến đó ăn và sống bầu bạn với nhau.

– Không, thưa Tôn ông tốt bụng! Bồ-tát đáp. Giữa ngài và ta không thể có tình bằng hữu được, xin hãy đi đi.

– Thưa Tôn giả, vì các tội ác trước đây của ta, nên ngài không thể tin ta bây giờ, nhưng ta hứa với ngài rằng ta sẽ chẳng bao giờ làm như vậy nữa.

– Không, ta không muốn có bạn như vậy, hãy đi nơi khác, ta nói rồi đấy.

Ðến lần thứ ba, Bồ-tát từ chối:

– Với một người hay vật có những đặc tính như vậy – ngài bảo – chẳng bao giờ nên kết tình bằng hữu cả.

Rồi Ngài làm cho cả khu rừng rộng vang dội nên các vị thần hoan nghênh trong lúc ngài cảm hứng nói lên bài Pháp này:

  1. Ðừng đặt lòng tin bọn dối lừa,
    Những ai chỉ biết lời riêng tư,
    Hoặc người đã phạm nhiều điều ác,
    Những kẻ tỏ ra quá phụng thờ.
  2. Lắm kẻ bản tâm giống lũ bò,
    Tràn đầy khao khát với tham ô,
    Nói lời thành thật nâng niu bạn,
    Song chẳng hề hành động thế mà.
  3. Bọn chúng chìa tay lạnh trống trơn,
    Nói lời che dấu cả tâm hồn,
    Bọn người phù phiếm, ta nên tránh,
    Những kẻ không hề biết nhớ ơn.
  4. Nam nữ nào tâm chóng đổi thay,
    Ðừng tin tưởng các bọn người này,
    Cũng đừng tin kẻ theo chiều hướng
    Làm hiệp ước rồi lại phá ngay.
  5. Người bước theo đường ác vẫn đi
    Ðến làm mọi việc cực gian nguy,
    Liều thân, vô định, đừng tin nó,
    Kiếm sắc trong bao có khác gì?
  6. Nhiều kẻ nói năng thật dịu lành,
    Những lời không phải tự tâm thành,
    Lòng tin chớ đặt vào trong chúng,
    Cố lấy lòng nên giả thật tình.
  7. Khi kẻ ác tâm ấy ngắm xem
    Thức ăn hoặc lợi nhuận kề bên,
    Nó hành động ác và đi mất,
    Nhưng nó làm nguy bạn trước tiên.

Bảy vần kệ này được vị Kê vương ngâm lên. Rồi vần kệ tiếp theo được vị Pháp vương đọc, đây là những lời phát xuất từ Trí tuệ của bậc Chánh Ðẳng Giác:

  1. Lắm kẻ thù ra vẻ thiết thân,
    Ra tay giúp đỡ sẵn sàng luôn,
    Như Gà rời bỏ Diều hâu ấy,
    Tốt nhất nên lìa những ác nhân.
  2. Người nào không nhạy bén nhìn xa
    Ý nghĩa việc làm diễn biến ra,
    Phải chịu bao cừu nhân chế ngự,
    Ăn năn hối hận buổi sau mà.
  3. Nhanh trí, người nào nhận thấy ngay
    Việc làm mang ý nghĩa nào đây,
    Như Gà tránh bẫy Diều hâu ấy,
    Vậy tránh cừu nhân, phải chạy bay.
  4. Bẫy đó thông thường lại dối gian,
    Giết người, dấu kín giữa rừng hoang,
    Như Gà xa lánh Diều hâu ấy,
    Người có nhãn quan phải kiếm đàng.

*

Và một lần nữa, sau khi ngâm các vần kệ này, Gà gọi Diều hâu lại khiển trách nó và bảo:

– Nếu ngài tiếp tục ở chốn này, ta sẽ biết việc cần phải làm.

Do đó Diều hâu đành bay đến nơi khác.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa đã mưu toan sát hại Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Diều hâu và Ta chính là Kê vương.

-ooOoo-

  1. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền thân Matta-Kundali)

Sao giữa rừng này có cậu trai…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một địa chủ có con trai mới chết.

Tại Xá-vệ, ta được biết thần chết đã cướp mất cậu trai thân yêu của một người địa chủ thường đến cúng dường đức Phật. Quá sầu muộn vì con, người ấy chẳng rửa mặt mày ăn uống gì cả, cũng chẳng đi làm công việc của mình hay đi phụng sự đức Phật mà chỉ kêu khóc:

– Ôi! Con yêu quí! Con đã bỏ ta mà đi trước rồi!

Vào sáng sớm, khi bậc Ðạo Sư nhìn xuống trần gian, Ngài nhận thấy ngườI này đã chín muồi công hạnh để chứng đắc quả Dự Lưu. Vì vậy ngày hôm sau, khi đã dẫn các đệ tử đi suốt kinh thành Xá-vệ để khất thực, và thọ dụng bữa cơm xong, Ngài bảo các đệ tử đi nơi khác, còn Ngàiđược Tôn giả Ànanda theo hầu, đi đến nơi người này ở. Bọn gia nhân báo tin cho vị chủ đất biết bậc Ðạo Sư đã đến, sau đó họ sắp đặt sàng tọa và mời Bậc Ðạo Sư ngồi xuống, rồi dẫn chủ nhàđến yết kiến Bậc Ðạo Sư.

Sau khi người ấy đảnh lễ Ngài xong và ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư nói bằng giọng dịu dàngđầy từ mẫn:

– Này cư sĩ, có phải ông vẫn đang đau buồn vì đứa con trai duy nhất chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn

Bậc Ðạo Sư nói:

– Này cư sĩ, đã lâu, lâu lắm rồi, các người có trí đi lang thang nặng trĩu đau buồn vì cái chết của đứa con trai, đã nghe được lời các bậc hiền nhân và hiểu rõ rằng không gì có thể đem lại người đã mất, nên không còn thấy buồn rầu nữa, dù chỉ một chút thôi.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, cậu con trai của một vị Bà-la-môn rất giàu có, khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, lâm bệnh nặng và khi chết, được tái sinh vào cõi chư Thiên. Từ lúc con trai chết, người Bà-la-môn thường đi đến nghĩa địa và than khóc, rồi đi quanh đống tro tàn; bỏ các phận sự dở dang, ông cứ lang thang với tâm tư nặng trĩu u sầu.

Một vị Thiên tử, khi đi dạo thấy vậy, liền lập mưu để an ủi khổ đau của người kia. Chàng đến nghĩa địa lúc người này đang sầu bi, giả dạng làm chính con trai vị ấy và tô điểm đủ mọi thứ trang sức, chàng đứng một bên, vừa ôm đầu trong hai tay vừa than khóc kêu gào. Vị Bà-la-môn nghe tiếng động và nhìn lên, lòng tràn đầy yêu thương đối với con trai mình, liền dừng lại trước chàng và nói:

– Này con yêu quí, tại sao con đứng khóc giữa nghĩa địa này?

Ông đặt câu hỏi qua vần kệ sau:

  1. Sao giữa rừng này có cậu trai,
    Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,
    Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,
    Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?

Lúc ấy chàng trai kể chuyện mình bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Vàng ròng đúc, chiếu rực hào quang,
    Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,
    Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,
    Chắc con buồn khổ đến lìa trần!

Vị Bà-la-môn nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,
    Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao,
    Cứ nói ra lời, xe được đóng,
    Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào!

Lúc bấy giờ chính Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng của Ngài, sau khi nghe vần kệ do chàng trai ngâm xong, liền ngâm câu đầu của một vần kệ khác:

  1. Nghe nói xong, chàng trẻ đáp lời,
    Trong khi chàng ngâm tiếp theo phần còn lại:
    Ðằng kia, huynh đệ đó, trăng trời,
    Chính nhờ đôi bánh đằng xa ấy,
    Xe của con vàng chiếu sáng ngời!

Lập tức vị kia tiếp:

  1. Chàng thật ngu vì việc đã làm,
    Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,
    Bởi vì ta chắc chàng nên chết
    Nhật, nguyệt, đòi sao được hỡi chàng?

Thế rồi:

  1. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,
    Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng;
    Còn ai thấy được hồn người chết,
    Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?

Chàng trai nói vậy xong, vị Bà-la-môn tỉnh ngộ, liền ngâm kệ:

  1. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,
    Chàng thật khôn, ta thật độn đần,
    Quả đúng, đòi hồn người đã chết,
    Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?

Lúc ấy vị Bà-la-môn được an ủi nhờ lời lẽ của chàng trai kia, liền cám ơn chàng bằng cách ngâm các vần kệ cuối cùng:

  1. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,
    Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
    Chàng đà đem nước lạnh vào,
    Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.
  2. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
    Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
    Chàng đà an ủi khuây khỏa
    Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
  3. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,
    Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,
    Nghe lời chân thật, hỡi chàng,
    Ta không còn phải khóc than muộn phiền.

Lúc ấy chàng trai bảo:

– Này, ngài Bà-la-môn, ta chính là người con trai mà ngài đang thương khóc, ta đã được tái sinh vào cõi chư Thiên. Vậy từ đây xin đừng sầu muộn vì ta nữa, mà hãy bố thí, hành trì giới đức và giữ ngày trai giới.

Với lời khuyến giáo này, chàng trở về cõi của mình. Còn vị Bà-la-môn tuân theo lời khuyên của chàng, nên sau khi làm nhiều công đức bố thí và các thiện sự khác, ông mạng chung và tái sinh vào cõi chư Thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Ta chính là vị Thiên tử đã nói lời thuyết giáo này.

-ooOoo-

450.Chuyện phú ông keo kiệt Bilàri (Tiền thân Bilàri-Kosiya)

Khi món ăn không có giữa nồi…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nhiệt tâm bố thí.

Chuyện kể rằng sau khi nghe thuyết Pháp, từ lúc hành trì giáo lý, vị này rất nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí. Chưa bao giờ ông ăn chén cơm đầy trừ khi đã chia phần cho kẻ khác, ngay cả nước cũng không uống nếu không đem cho kẻ khác. Ông chuyên tâm bố thí như vậy.

Thời ấy, chúng Tỳ Kheo bắt đầu nói về các đức tính của ông trong Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại đây. Các vị ấy trình ngài. Ngài cho gọi vị Tỷ Kheo ấy đến và hỏi:

– Này Tỷ kheo, có phải đúng như Ta đã nghe là ông nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí chăng?

Ông đáp:

– Thưa vâng, bạch Thái Tôn.

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỳ Kheo, ngày xưa, kẻ này không có tín tâm nên không tin tưởng gì cả, đến như một giọt dầu trên đầu ngọn cỏ cũng không cho ai; sau đó, Ta điều phục y, giáo hoá, làm cho y thuần thục, và dạy cho y kết quả của bố thí, nên hỷ tâm bố thí này không rời y ngay cả khi đã sang một đời khác.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ Tát sinh vào một gia đình giàu có. Khi đến tuổi khôn lớn, ngài được hưởng tài sản và khi thân phụ mất đi, ngài tiếp nhận địa vị thương nhân của cha ngài.

Một ngày kia, khi xem xét lại sự giàu sang của mình, ngài suy nghĩ: “Tài sản của ta đây dĩ nhiênđầy đủ lắm, song những vị đã tích lũy tài sản ấy nay ở đâu rồi? Ta phải phân chia tài sản ra và bố thí.”

Vì thế, ngài xây một bố thí đường, trong lúc sinh thời, ngài bố thí rộng rãi; và khi sắp mạng chung liền giao phó cho con trai ngài không được làm gián đoạn việc hành trì bố thí, còn ngài tái sinh là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ ở cõi Trời Ba mươi ba. Con trai của ngài cũng bố thí như thân phụ đã làm, rồi giao trọng trách ấy cho con trai mình, và tái sinh lên làm Canda, Thần mặt trăng, giữa Thiên chúng. Con trai vị này trở thành Suriya. Thần mặt trời, lại sinh ra một người con trở thành Màtali, Thần lái xe (của Thiên chủ Sakka hay Indra), con trai vị này tái sinh làm Pancasikha (Ngũ kế) một vị Gandhabba (Càn-thát-bà), nhạc thần của Thiên chủ.

Song người con trai thứ sáu trong dòng họ này lại không có tín tâm, tàn nhẫn, không thương người, keo kiệt; người này phá hủy bố thí đường, đốt cháy hết, đánh đập các hành khất, đuổi họ đi mơi khác làm ăn chẳng hề cho ai chút gì dù bằng một giọt dầu ở đầu ngọn cỏ.

Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ nhìn lại các việc của ngài trong quá khứ, tự hỏi: “Truyền thống bố thí của ta có tiếp tục được chăng? Suy nghĩ thế, ngài nhận xét: “Con trai ta tiếp tục bố thí, tái sinh làm Canda, con trai nó là Suriya, cháu nó là Màtali, và chắt nó là Pancasikha, nhưng đứa con thứ sáu trong dòng họ đã phá bỏ truyền thống kia.”Lúc ấy, ngài chợt có ý nghĩ này, ngài muốn đi điều phục con người độc ác kia, và dạy cho gã kết quả của bố thí. Vì vậy ngài triệu tập Canda, Suriya, Màtali, Pancasikha đến gặp ngài và bảo:

Này các Hiền-giả, người con thứ sáu trong dòng họ ta đã phá bỏ truyền thống gia đình, nó đã đốt bố thí đường, đuổi đánh bọn hành khất đi chỗ khác, và không cho ai chút gì cả. Vậy ta phải điều phục nó.

Thế là ngài cùng các ông lên đường đi đến Ba-la-nại.

Vào lúc ấy, thương nhân kia phải đến chầu vua, và khi đã trở về, đang đi đi lại lại dưới tháp canh thứ bảy, nhìn theo con đường. Thiên chủ bảo các vị thần:

– Các Hiền giả, hãy đợi cho đến khi ta bước vào rồi hãy lần lượt theo sau.

Cùng với những lời này, ngài bước tới và đứng trước phú thương kia, bảo ông:

– Này Tôn ông hãy cho ta ăn với.

– Này Bà-la-môn, chẳng có gì ở đây cho ngài ăn cả, hãy đi nơi khác.

– Này Ðại nhân, khi các Bà-la-môn khất thực thì chẳng nên từ chối.

– Này Bà-la-môn, trong nhà ta chẳng có thức ăn nấu sẵn, cũng chẳng có thức ăn để nấu, hãy đi đi!

– Này đại nhân, ta muốn đọc một câu kệ cho ngài, hãy lắng nghe.

Ta chẳng muốn nghe kệ gì cả, đi đi, đừng đứng ở đây.

Nhưng Thiên chủ không để ý lời ông và ngâm hai vần kệ:

  1. Khi món ăn không có giữa nồi,
    Thiện nhân tìm, chẳng chối từ hoài,
    Còn ngài đang nấu, thì không tốt
    Nếu chẳng muốn chia xẻ với ai.
  2. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ
    Chẳng hề đem bố thí bao giờ,
    Còn người nào thích làm công hạnh,
    Là một trí nhân, phải biết cho.

Khi người này nghe nói vậy liền đáp:

– Thôi được, xin vào ngồi đó, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Thiên chủ Ðế Thích vừa bước vào vừa ngâm các vần kệ ấy và ngồi xuống.

Kế đó là Canda bước lên xin thức ăn.

– Chẳng có thức ăn cho ngài đâu – người đó bảo – đi đi!

Vị kia đáp:

– Thưa Ðại nhân, có một vị Bà-la-môn ngồi trong đó, ta đoán chắc hẳn có một bữa cơm bố thí cho Bà-la-môn, nên ta cũng bước vào.

– Chẳng có một bữa cơm nào bố thí cho Bà-la-môn cả – người đó bảo – đi ngay đi!

Lúc ấy Canda nói:

– Thưa Ðại nhân, xin nghe một hai vần kệ.

Rồi Ngài ngâm hai vần kệ (hễ khi một kẻ keo kiệt lo sợ không muốn cho ai cả, thì chính nỗi sợ hãi đó khởi lên trong lòng vì y không bố thí):

  1. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm
    Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,
    Trong cõi đời này, đời kế nữa,
    Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.
  2. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,
    Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,
    Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp
    Sẽ là nơi trú tuyệt an toàn.

Sau khi nghe các lời như vậy xong, ông bảo:

– Thôi được, xin bước vào, và ngài sẽ được ăn một chút.

Vị kia bước vào ngồi xuống với Thiên chủ Ðế Thích.

Sau khi đợi một lát nữa, Suriya bước lên, và xin ăn bằng cách ngâm hai vần kệ:

  1. Thực khó làm như các thiện nhân,
    Phát ban như các vị đem ban,
    Khó mà kẻ ác làm theo được
    Cuộc sống hiền nhân vẫn trú an.
  2. Vậy thì khi phải giã từ trần,
    Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,
    Kẻ ác tái sinh vào địa ngục,
    Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.

Vị phú gia chẳng thấy cách gì thoát được chuyện ấy, đành bảo:

– Thôi được, xin bước vào, và ngồi với các Bà-la-môn này, rồi ngài sẽ được ăn đôi chút.

Và Màtali, sau khi chờ đợi một lát nữa, cũng bước lên xin ăn, và khi vị ấy được bảo là không có thức ăn, vừa mới nghe các lời ấy được thốt lên, liền ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Có người ít của vẫn đem ban,
    Có kẻ không cho, dẫu của tràn,
    Người ít của cho không thể kém
    Kẻ kia ban phát cả trăm ngàn.

Ông bảo vị này:

– Thôi được, xin vào ngồi xuống.

Sau khi đợi thêm một lát, Pancasikha bước lên xin ăn. Kẻ kia đáp:

– Không có, đi đi!

Ông bảo:

– Ta đã đến thăm nhiều nhà rồi! Ở đây chắc phải có bữa cơm cúng dường các Bà-la-môn chứ, tađoán thế.

Rồi ông bắt đầu nói với ông, vừa ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,
    Con nhiều, của ít vẫn đem phân,
    Trăm ngàn đồng bạc người giàu cúng
    Chẳng sánh quà con của tiện dân.

Vị phú gia suy nghĩ lại khi nghe lời của Pancasikha. Rồi ông ngâm vần kệ thứ chín để yêu cầu vị ấy giải thích giá trị ít oi của các vật bố thí kia:

  1. Sao dồi dạt lễ vật cao sang
    Giá trị không bằng vật chánh chân,
    Sao cả ngàn đồng từ phú hộ
    Chẳng bằng quà mọn kẻ cùng bần?

Pancasikha ngâm vần kệ kết thúc để đáp lời:

  1. Nhiều người sống độc ác hung tàn,
    Ðàn áp, giết rồi lại phát ban:
    Thí vật chua cay, tàn nhẫn ấy
    Thua xa quà tặng với chân tâm,
    Nên ngàn đồng bạc người giàu cúng
    Chẳng sánh quà con của tiện dân.

Nghe lời thuyết giáo của Pancasikha xong, ông đáp:

– Thôi được, xin ngài vào nhà ngồi xuống, ngài sẽ được ăn đôi chút.

Rồi ông cũng vào ngồi với các vị kia.

Sau đó, phú ông keo kiệt Bilàri ra hiệu cho một tỳ nữ, bảo nàng:

– Hãy đem cho các Bà-la-môn đằng kia một đấu thóc còn vỏ.

Nàng ấy đem thóc đến gần các vị, bảo các vị rằng:

– Nhận thóc rồi đem nấu nơi khác mà ăn.

Các vị đáp:

– Ta chưa đụng đến thóc còn vỏ trấu.

– Thưa ông chủ, các vị ấy bảo chưa hề đụng đến thóc còn vỏ.

– Ðược, vậy thì cho các ông gạo đã xay.

Nàng ấy đem gạo đã xay, và bảo các vị nhận. Các vị bảo:

– Chúng ta không nhận thứ gì chưa nấu chín.

– Vậy thì nấu cho họ một ít thức ăn của bò trong cái nồi và đem ra mời khách.

Năm vị cầm lên mỗi người một miếng và đặt vào mồm, song để nó dính vào cổ họng rồi trợn mắt lên. Các vị bất tỉnh nằm đó như chết rồi. Cô nữ tỳ thấy thế nghĩ chắc các vị đã chết, nàng hoảng sợ chạy đi báo phú ông:

– Thưa ông chủ, các Bà-la-môn này không nuốt nổi thức ăn của bò, nên chết cả rồi!

Ông suy nghĩ: “Bây giờ dân chúng sẽ trách mắng ta, bảo gã độc ác này đem đống thức ăn trâu bò cho các Bà-la-môn yếu đuối và các ông không nuốt nổi nên đã chết.” Sau đó, ông bảo cô nữ tỳ:

– Mau đi chôn cất hết thức ăn trong bát của các ông, rồi nấu cho họ một ít món đủ thứ gạo ngon nhất.

Nàng tuân lời. Phú ông tìm một số khách qua lại trên con đường gần đó, khi đã tập hợp số người ấy lại với nhau, ông bảo:

– Ta đã cúng dường các Bà-la-môn này thức ăn giống như các thức ta vẫn ăn, nhưng các vị tham lam nuốt từng miếng lớn và vì ăn như vậy nên thức ăn mắc ở cổ họng và phải chết. Ta mời các ngài đến làm chứng cho ta vô tội.

Trước đám đông đang tụ tập như vậy, các vị Bà-la-môn đứng dậy, vừa bảo vừa nhìn vào đám đông:

– Các vị hãy xem sự dối trá của thương nhân này. Ông bảo cho chúng ta thức ăn của ông đấy! Một đống tạp nhạp thức ăn cho bò là những thứ ông đã đem cho chúng ta trước tiên, sau đó sau khi chúng ta nằm như chết, ông bảo người nhà nấu thức ăn này đây.

Rồi các vị ấy nhả ra từ miệng những thứ đã ăn rồi chỉ thứ đó. Ðám đông trách mắng vị thương gia, thét lớn:

– Ðồ ngu si, mù quáng! Ông đã phá bỏ phong tục gia đình ông. Ông đốt bỏ thí đường, ông đã nắm cổ các hành khất tống ra đường, giờ đây khi bố thí các Bà-la-môn yếu đuối này, ông lại cho mộtđống thức ăn trâu bò. Ðến lúc ông sang thế giới bên kia, chắc ông sẽ mang hết tài sản trong nhà buộc thật chặt quanh cổ đấy!

Vào lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ bảo đám đông:

– Các người có biết tài sản này là của ai chăng?

– Chúng tôi không biết.

Ngài bảo:

– Chắc các người có nghe một đại phú thương ở Ba-la-nại, ngày xưa sống ở thành này, đã xây một bố thí đường, và bố thí rất rộng rãi?

– Thưa có – họ đáp – Chúng tôi có nghe nói về ông.

Ngài bảo:

– Ta chính là vị thương gia đó, nhờ các vật tài thí ấy ta được là Ðế Thích Thiên chủ bây giờ đây, và con trai ta đã không phá vỡ truyền thống gia đình, trở thành thần Canda, con trai nó là Suriya và cháu trai của nó là Pancasikha; trong các vị này, đằng kia là Canda, đó là Syriya, và đây là Màtali, thần lái xe, còn đây nữa là Pancasikha, nhạc thần, ngày xưa là cha của kẻ độc ác đằng kia ấy. Bố thí tạo công đức lớn như vậy, cho nên người có trí phải làm công đức.

Nói vậy xong với ý định đánh tan các mối nghi hoặc của dân chúng đang tụ tập tại đó, các ngài bay lên không gian và đứng vững trên không, nhờ thần lực của các ngài hiện ra một đám tùy tùng đông đảo vây quanh, toàn thân các ngài sáng rực lên vì thế toàn thể kinh thành như ở trong đám lửa. Sau đó Ðế Thích Thiên chủ bảo đám đông:

– Chúng ta đã rời vinh quang thiên giới để đến đây và chúng ta đến chỉ vì kẻ độc ác Bilàri Kosiya này, người cuối cùng trong dòng họ, người tàn phá cả giống nòi mình. Với lòng lân mẫn mà chúng ta đến, vì chúng ta biết ác nhân này đã phá bỏ truyền thống gia đình, đốt bố thí đường, nắm cổ hành khất tống ra ngoài, vi phạm phong tục của nhà ta, và do từ bỏ bố thí, nó sẽ tái sinh vào địa ngục.

Ngài thuyết giáo cho đám đông như vậy, xong lại nói về công hạnh của bố thí. Bilàri Kosiya chấp hai tay thỉnh cầu và phát nguyện.

– Tâu Thiên chủ, từ nay trở đi, con xin nguyện sẽ không phá bỏ phong tục gia đình nữa, mà con sẽ bố thí, bắt đầu ngay hôm nay, con quyết chẳng bao giờ ăn mà không chia phần cho kẻ khác, các vật dụng của riêng con, ngay cả nước uống và cả tăm xỉa răng con dùng cũng vậy.

Ðế Thích thiên chủ đã điều phục ông như vậy, làm cho ông biết xả thân, và an trú ông trong Ngũ giới, rồi trở về cõi của ngài. Còn vị thương nhân cứ bố thí suốt cả đời nên được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ Kheo này ngày xưa không có tín tâm và không bao giờ cho ai chút gì cả, song Ta đã điều phục y và dạy cho y kết quả của bố thí, và tâm lành đó không rời y ngay cả khi y đã sinh vào một đời khác.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ, Tỳ kheo rộng lượng này là vị phú gia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Canda, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Suriya, Kassapa (Ca diếp) là Màtali, Ànanda (A-nan) là Pancasikha và Ta là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)

Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo tham lam.

Chuyện kể rằng người này bất mãn với bộ y khất sĩ cùng những thứ tương tự nên thường đi quanh quẩn hỏi:

– Nơi đâu có cơm cho Tăng chúng? Nơi đâu có người mời?

Và khi nghe nói có thịt, ông tỏ ra rất hoan hỷ. Lúc bấy giờ có một vị Tỳ kheo tốt bụng vì lòng thương tưởng bạn, nên đem chuyện ấy kể với Bậc Ðạo Sư. Ngài triệu người ấy đến hỏi:

– Này Tỳ kheo, có thật đúng như ta nghe rằng ông tham lam đó chăng?

– Bạch Thế Tôn, đúng thế.

– Này Tỳ kheo, tại sao ông còn ham muốn, sau khi hành trì Giáo pháp đưa đến giải thoát như Ðạo của Ta? Tham tâm này là ác pháp, ngày xưa, vì tham dục, ông bất mãn với các xác voi chết cùng nhiều vật thừa khác ở Ba-la-nại nên đã đi vào rừng rậm.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham ăn không hài lòng với các xác voi chết ở Ba-la-nại, cùng mọi thứ xác chết khác. Nó suy nghĩ: “Bây giờ đây ta không biết rừng rậm ra sao nhỉ? Thế là nó vào rừng xanh, song nó cũng không hài lòng với trái cây rừng mà nó tìm được, nên đi đến sông Hằng.

Khi nó tiến về phía sông Hằng, chợt thấy một đôi Hồng Nga, nó suy nghĩ: “Những con chim đàng xa kia tuyệt đẹp, ta chắc chúng tìm ra nhiều thịt để ăn trên bờ sông Hằng này. Ta muốn hỏi chúng và nếu ta cũng ăn thịt chúng nữa, chắc chắn ta sẽ được màu lông tươi sáng như chúng vậy.” Thế là khi đậu không xa đôi chim ấy, Quạ hỏi Hồng Nga bằng cách ngâm hai vần kệ đầu:

  1. Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao,
    Thân thể tròn xinh, ửng sắc đào,
    Này Ngỗng, đúng là bạn tuyệt mỹ,
    Năm căn và mặt sáng ngời sao!
  2. Trong khi đậu ở bến sông Hằng,
    Cá tráp, cá vền, Ngỗng vẫn ăn,
    Cá chép, cùng nhiều loài cá khác,
    Trên dòng sông nước lội tung tăng.

Hồng Nga liền cãi lại Quạ bằng cách ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ta chẳng ăn bầy cá giữa dòng,
    Cũng không nằm nghỉ ở trong rừng,
    Mọi loài rong cỏ, ta nuôi sống,
    Này bạn, đó là món Ngỗng ăn.

Lúc ấy Quạ ngâm hai vần kệ:

  1. Ta chẳng tin theo Ngỗng giải bày,
    Xác minh thực phẩm nó ăn đầy,
    Của ngon trong xóm ngâm dầu muối,
    Là món ta ăn sống mỗi ngày.
  2. Món cơm tinh sạch, đẹp làm sao
    Có kẻ làm xong, lại đổ vào
    Món thịt ấy, nhưng này bạn Ngỗng,
    Sắc ta không giống bạn đâu nào.

Ngay sau đó Hồng Nga ngâm cho Quạ nghe các vần kệ còn lại, nêu rõ lý do tại sao Quạ có màu lông xấu xí và thuyết giảng đức tính chân chánh:

  1. Ngắm xem tội ác ở lòng người,
    Làm hại, phá tan cả cuộc đời,
    Lo sợ, kinh hoàng, ngươi ẩm thực,
    Nên ngươi có được sắc này thôi.
  2. Quạ ơi, lầm lạc khắp trên trần,
    Tội ác trong đời trước hóa thân,
    Bạn chẳng thích đồ ăn uống nữa,
    Chính màu này Quạ phải mang luôn.
  3. Này bạn ta chẳng hại ai,
    Cũng không lo lắng, dạ an hoài,
    Cũng không có việc gì sầu muộn,
    Sợ hãi gì do kẻ địch ngoài.
  4. Vậy bạn này, nên sống dũng cường,
    Giã từ đường lối sống vô lương,
    Trên đời tiến bước không làm hại,
    Tất cả cùng yêu mến tán dương.
  5. Người nào thân ái với muôn loài,
    Không hại và không bảo hại ai,
    Không quấy nhiễu, không ai quấy nhiễu,
    Không thấy gì sân hận vì người.

– Vậy bạn muốn được mọi người thương mến, hãy từ bỏ các ái dục.

Hồng Nga này thuyết giảng đạo đức chân chánh, đã nói như vậy. Quạ đáp:

– Ðừng nói tầm phào với ta về cách sống của bạn.

Xong nó vừa kêu lên “Quạ! Quạ!”, vừa bay mất qua không gian đến bãi phân ở thành Ba-la-nại.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này xong. Ngài thuyết giảng các Sự thật. Bấy giờ lúc kết thúc các Sụ thật, vị Tỳ kheo tham lam đã được an trú vào Tam quả (Bất Lai).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Tỳ kheo tham lam này là Quạ, mẹ của La-hầu-la là chim bạn của Hồng Nga và Ta chính là Hồng Nga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri – Panha)

Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga, số 546, Tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền thân Mahà-Mangala)

Hiển bày chân lý giải nghi nan…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Kinh Ðiềm lành Tối thượng hay Luận về Ðiềm lành.

Tại kinh thành Vương Xá vì một lý do này nọ, một đám đông tụ họp trong nhà nghỉ của vua, giữa bọn ấy có người đứng dậy, bước ra nói:

– Hôm nay là ngày có Ðiềm lành.

Một người khác nghe được, bảo rằng người kia bước ra và nói đến “Ðiềm triệu”, vậy y muốn nói gì qua chữ “Ðiềm”?

Một người thứ ba bảo:

– Dấu hiệu gì có vẻ may mắn thì đó là điềm lành, ví dụ một người thức dậy sớm, và thấy một con bò đực toàn trắng hay một người đàn bà có thai, hay con cá màu đỏ (Ciprinus Rohita) hay cái bình đầy đến tận miệng, hoặc bơ tươi mới tan từ sữa bò, hoặc y phục mới chưa giặt hoặc cháo gạo, thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Vài kẻ bàng quan bình phẩm lời giải thích này:

– Nói hay đấy.

Song có kẻ khác chen vào:

-Ồ không, chẳng có điềm gì trong việc ấy cả, chỉ lời nói bạn nghe mới là điềm. Có người nghe người ta nói: “Ðầy đủ”, rồi lại nghe “Lớn đầy đủ” hoặc “Ðang lớn”, hoặc nghe chúng bảo: “Ăn đi” hay “Nhai đi” thì chẳng có điềm nào tốt hơn nữa.

Một số kẻ bàng quan bảo:

– Nói hay đấy.

Và họ bình phẩm lời giải thích này. Một người khác lại nói:

– Chẳng có điềm gì trong mọi chuyện ấy cả. Hễ vật gì bạn đụng chạm đến mới là điềm. Nếu một người thức dậy sớm đụng vào đất hay cỏ xanh, phân bò tươi, chiếc áo sạch, cá màu đỏ, vàng hay bạc, thức ăn… thì chẳng có điềm gì tốt hơn nữa.

Ở đây vài kẻ bàng quan lại tán đồng và bảo là khéo nói. Và sau đó, số người theo phái chủ trương các điềm do mắt thấy, điềm về âm thanh, điềm về xúc chạm, chia làm ba nhóm, không ai thuyết phục ai được cả. Từ chư Thần trên mặt đất đến Phạm thiên giới không ai có thể xác định điềm là như thế nào cả. Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: “Giữa chư thiên và loài người ai ngoàiđức Thế Tôn là có thể giải đáp đúng vấn đề điềm triệu. Ta muốn đi đến đức Thế Tôn, và đặt vấn đề với Ngài.”

Thế là ban đêm Thiên chủ đến thăm đức Thế Tôn, đảnh lễ ngài và chắp tay vào nhau để thỉnh cầu, Thiên chủ đặt câu hỏi bắt đầu bằng: “Có chư Thiên và loài người.” Sau đó Bậc Ðạo Sư dùng mười hai vần kệ nói cho biết ba mươi tám điềm lành lớn. Và trong khi ngài ngâm những lời kinh điềm lành ấy, lần lượt chư Thiên lên đến con số mười ngàn triệu vị đắc Thánh quả A-la-hán, còn các vị đắc ba Ðạo Quả kia thì không sao kể xiết. Thiên chủ nghe xong các điềm lành, liền trở về cõi của mình.

Khi Bậc Ðạo Sư nói các điềm lành xong, thế giới loài người và Thiên giới đồng tán thành và bảo:

– Thật là khéo nói.

Sau đó trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bắt đầu bàn luận về công đức của đức Như Lai:

– Này các Hiền gỉa, vấn đề Ðiềm triệu vượt phạm vi hiểu biết của mọi người, nhưng Ngài đã tuệ tri tâm của loài người và chư Thiên, cùng giải tỏa các mối nghi của quần chúng như thể ngài khiến mặt trăng hiện lên trên bầu trời! Ôi đức Như Lai là một bậc Ðại trí, này các hiền hữu!

Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, chẳng vi diệu gì khi Ta giải đáp vần đề điềm lành, vì nay ta đã đạt Trí tuệ Tối thắng; mà ngay cả khi Ta còn là Bồ-tát trên trần gian, Ta đã giải đáp các mối nghi hoặc của chư Thiên và loài người bằng cách trả lời vấn đề Ðiềm lành.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, Bồ-tát tái sinh vào một thị trấn trong một gia đình Bà-la-môn giàu có, cha mẹ đặt tên ngài là Rakhita-Kumàra. Khi ngài khôn lớn và đã hoàn thành việc học tập tại Takkasilà, ngài cưới vợ. Sau khi song thân qua đời, ngài kiểm tra lại gia sản, suy nghĩ kỹ, ngài phân chia tài sản để bố thí, và điều phục các tham dục rồi, ngài trở thành ẩn sĩ trong vùng Tuyết Sơn. Ở tại đó, Ngài tu tập các Thắng trí, và an trú tại một nơi, tự nuôi sống bằng các thứ củ, quả rừng. Theo thời gian, đệ tử của ngài rất đông, gồm năm trăm vị cùng sống với ngài.

Một ngày kia, các ẩn sĩ này đến gần Bồ-tát nói như sau:

– Bạch Ðạo sư, khi mùa mưa đến, xin cho chúng con xuống vùng Tuyết Sơn đi qua đồng bằng để kiếm muối và các thứ gia vị; nhờ vậy thân thể chúng con sẽ được khỏe mạnh và chúng con sẽ thành tựu cuộc sống tu hành.

– Ðược rồi, các bạn cứ đi – ngài bảo. Còn ta sẽ ở lại nơi này.

Thế là các vị từ giã ngài, đi xuống từ vùng Tuyết Sơn, tiến hành trên lộ trình đến tận Ba-la-nại, tại đó các vị trú ngụ ở trong ngự viên. Dân chúng đón tiếp các vị rất trọng thể và nồng nhiệt.

Lúc bấy giờ, một ngày kia, có đám đông tụ tập trong nhà nghỉ của cung vua tại Ba-la-nại, và vấnđề Ðiềm triệu được đưa ra bàn cãi. Lúc ấy, cũng như trước kia, đám đông không thấy ai có đủ khả năng đánh tan mối hoài nghi của mọi người và giải đáp vấn đề Ðiềm triệu; vì thế họ đi đến ngự viên đặt vấn đề cùng hội chúng hiền nhân kia. Các hiền nhân ấy nói với vua:

– Tâu Ðại vương, chúng thần không thể giải đáp vấn đề này, song Bổn sư của chúng thần, ẩn sĩ Rakkhita, một bậc đại tuệ sống ở Tuyết Sơn, ngài sẽ giải đáp vấn đề ấy, vì ngài thông suốt tư tưởng của chư Thiên và loài người.

Vua đáp:

– Này các Hiền giả, Tuyết Sơn quá xa xôi và khó đi lắm đấy, chúng ta không thể nào đến đó được. Xin các Hiền giả đích thân đi về gặp đức Bổn sư và xin hỏi ngài vấn đề ấy. Sau khi các vị đã biết rồi, hãy trở lại đây nói cho chúng ta biết được chăng?

Các vị ấy hứa sẽ làm như vậy; và khi các vị đã trở về gặp đức Bổn sư, đảnh lễ ngài và sau khi ngài đã vấn an vua cùng các phong tục của dân chúng, các vị kể lại cho ngài toàn thể câu chuyện các Ðiềm triệu như trên, từ đầu tới cuối và giải thích việc các vị đến đây theo lời dặn dò của vua như thế nào, để nghe tận tai lời giải đáp vấn đề này. Các vị thưa:

– Bạch Tôn Sư, giờ đây xin Tôn Sư giải thích vấn đề Ðiềm triệu cho chúng con rõ và cho chúng con thấy chân lý. Lúc ấy vị đệ tử lớn tuổi nhất hỏi Bậc Ðạo Sư bằng cách ngâm vần kệ đầu:

  1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
    Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
    Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
    Ðời này, đời kế tạo hồng ân?

Khi vị đệ tử lớn nhất đã đặt vấn đề Ðiềm lành qua các lời kệ này, bậc Ðại Sĩ muốn xóa tan mọi nỗi nghi ngờ của chư Thiên và loài người, liền đáp lại:

– Ðây và đây chính là điềm lành.

Và như vậy ngài diễn tả các điềm lành với tài thiện xảo của một vị Phật:

  1. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
    Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
    Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
    Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.

Như vậy Bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng Ðiềm lành thứ nhất, rồi tiếp đến thuyết giảng Ðiềm lành thứ hai và các Ðiềm lành khác còn lại:

  1. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
    Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
    Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
    Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.
  2. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
    Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
    Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
    Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.
  3. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
    Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
    Không hại bạn, chia đều của cải,
    Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.
  4. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
    Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
    Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
    Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
  5. Vua nào đại đế giữa thần dân,
    Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
    Bảo: “Ðấy bạn ta”, không dối trá,
    Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.
  6. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
    Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
    Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
    Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.
  7. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
    Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
    Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
    Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!

Cứ như vậy bậc Ðại Sĩ đã đưa bài thuyết Pháp lên đến đỉnh cao nhất của Thánh Quả, và sau khi đã giải thích các Ðiềm lành trong tám vần kệ, ngài ngâm vần kệ cuối cùng để tán thán các Ðiềm lành ấy:

  1. Công đức như vầy giữa thế gian,
    Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
    Người khôn hãy bước đi theo chúng,
    Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.

Các bậc hiền trí, sau khi nghe các Ðiềm lành này xong, còn ở lại bảy tám ngày nữa rồi từ giã ngài và lên đường đến chỗ cũ.

Vua đến thăm các ông và hỏi chuyện kia. Các vị giải thích vấn đề Ðiềm lành như cách đã được giải thích cho quý vị và trở lại Tuyết Sơn. Từ đó về sau, vấn đề Ðiềm lành đã được thông hiểu trên thế giới. Sau khi đã chuyên tâm học tập vấn đề Ðiềm lành, lúc mạng chung, các vị đều lên cộng trú với Thiên chúng rất đông đảo. Còn Bồ-tát tu tập Tứ Vô lượng tâm, và cùng với hội chúng của ngài được tái sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỳ kheo, không phải bây giờ mà cả ngày xưa nữa Ta cũng đã giải thích vần đề Ðiềm lành.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, hội chúng đệ tử của đức Phật là đám hiền nhân kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Trưởng đệ tử, người đã hỏi vấn đề Ðiềm lành, và Ta chính là Ðạo Sư.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền thân Ghata)

Hắc đế Kan-ha hãy đứng lên…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về cái chết của một nam tử. Hoàn cảnh cũng giống trong số 449. tt Matta Kundali.

Ở đây, Bậc Ðạo Sư hỏi vị nam cư sĩ:

– Này cư sĩ, có phải ông đang phiền muộn chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ðức Phật bảo:

– Này cư sĩ, ngày xưa các bậc trí nghe lời dạy của các hiền nhân nên không phiền muộn về cái chết của con mình nữa.

Và theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa một vị vua có danh hiệu là Mahàkamsa, trị vì ở Uttaràpatha, trong địa hạt Kamsa ở kinh thành Asitanjanà. Ông có hai hoàng nam Kamsa và Upakamsa, và một công chúa Devagabbhà. Vào ngày sinh nàng, các Bà-la-môn tiên đoán tương lai của nàng, bảo:

– Một hoàng nam do công chúa này sinh ra sẽ phá hoại xứ sở và dòng họ Kamsa.

Vua quá yêu thương con gái nên không thể giết nàng được, mà để cho các hoàng huynh của nàng lo liệu việc đó, còn ngài chỉ sống hết đời thì từ trần. Khi ngài băng hà, Kamsa lên làm vua, và Upakamsa làm phó vương.

Hai vị nghĩ sẽ có sự phản đối của quần thần nếu như bắt công chúa phải chết, vì thế quyết định không gả nàng cho ai cả, mà cứ để nàng sống không có chồng và canh giữ thật kỹ. Các ngài lại xây một cái tháp tròn đơn độc để nàng ở đó. Bấy giờ nàng có một nữ tỳ tên là Nandagopà, và chồng nữ tỳ này là Andhakavenhu, gã gia nô canh giữ nàng.

Thời ấy vị vua danh hiệu Mahàsàgara đang trị vì ở phương Bắc Madhurà, có hai vương tử là Sàgara và Upàsàgara. Vào lúc vua cha băng hà, Sàgara lên ngôi vua và Upasàgara làm phó vương. Vương tử này là bạn của Upakamsa, cùng lớn lên và cùng học với một thầy. Song chàng đã có âm mưu dan díu trong khuê phòng của hoàng huynh và bị bại lộ nên phải chạy trốn đến Upakamsa, trong địa phận Kamsa. Upakamsa tiến cử chàng với vua Kamsa và vua đón tiếp chàng rất trọng thể.

Upasàgara, trong lúc vào chầu vua, thường quan sát cái tháp mà công chúa Devagabbhà trú ngụ, và khi hỏi ai ở đó, rồi nghe chuyện kia, chàng đem lòng yêu nàng. Còn Devagabbhà, một hôm, trông thấy chàng khi chàng cùng đi với Upakamsa vào chầu vua. Nàng hỏi ai đó, và khi dược Nandagopà nói đó là Upasàgara, con của Ðại vương Sàgara, thì nàng cũng yêu chàng ngay. Chàng Upasàgara trao một món quà cho Nandagopà, bảo:

– Này hiền tỷ, xin chị thu xếp cho tôi được gặp Devagabbhà.

– Dễ lắm.

Nandagopà vào và kể lại chuyện ấy với công chúa. Nàng đã thầm yêu chàng nên đồng ý ngay. Một đêm kia Nandagopà sắp đặt một cuộc hẹn hò và đem Upasàgara lên tháp và chàng ở lại đó với Devagabbhà. Vì đôi bên tiếp xúc thường xuyên như thế, nên Devagabbhà có thai. Dần dần ai cũng biết nàng có thai, nên hai vị hoàng huynh cật vấn Nandagopà. Nữ tỳ này xin hai vị tha tội cho nàng, rồi kể tình tiết của câu chuyện. Khi hai vị nghe chuyện, liền suy nghĩ: “Ta không thể bảo giết em gái ta được. Nếu em ta sinh con gái, chúng ta sẽ tha chết cho hài nhi ấy luôn, còn nếu con trai thì giết nó đi.”

Và hai vị vua gả Devagabbhà cho Upasàgara đem về làm vợ.

Ðến thời mãn nguyệt khai hoa, nàng sinh hạ một gái. Hai vị hoàng huynh nghe tin ấy rất hoan hỷ đặt cho hài nhi tên là công nương Anjanà. Hai vị lại cho các em một ngôi làng để làm tài sản, đặt tên là Govaddhamàna. Upasàgara đem Devagabbhà đến sống cùng nhau tại ngôi làng ấy.

Devagabbhà lại có thai nữa và đúng ngày đó Nandagopà cũng có thai. Khi đến kỳ, cả hai lại cùng sinh một ngày. Deva sinh con trai và Nanda sinh con gái. Song Deva sợ rằng con trai nàng có thể bị giết nên bí mật gởi con đến Nanda và nhận con gái của Nanda về nuôi. Chúng lại báo tin nàng sinh con ấy với hai vị hoàng huynh. Hai vị hỏi:

– Con trai hay gái?

Chúng đáp:

– Con gái.

– Vậy thì lo nuôi nấng nó đi – Các hoàng huynh bảo.

Cứ như vậy, Devagabbhà sinh mười con trai, và Nandagopà sinh mười con gái. Bọn con trai sống với Nanda và bọn con gái sống với Deva, chẳng một ai biết được bí mật kia.

Con trai trưởng của Devagabbhà được đặt tên là Vàsu-Deva, con trai thứ là Bala-Deva, thứ ba là Canda-Deva, thứ tư Suriya-Deva, thứ năm Aggi-Deva, thứ sáu Varuna-Deva, thứ bảy Ajjuna, thứ tám Pajjuna, thứ chín Ghata-Pandita, thứ mười Amkura. Chúng nổi tiếng là các con trai của gia nô Andhakavenhu hay Mười Anh Em Nô lệ.

Theo thời gian chúng lớn khôn, rất cường tráng lại hung dữ, bạo tàn, chúng đi khắp nơi cướp phá, chúng còn cả gan đến độ cướp lễ vật triều cống được dâng vua. Dân chúng đến tụ tập ở sân chầu vua, kêu than:

– Các con trai của Andhakavenhu, cả Mười Anh Em ấy đang cướp phá xứ sở.

Vì thế vua triệu Andhakavenhu đến, trách mắng y đã để các con mình đi cướp bóc. Cứ như vậy, các tiếng kêu than nổi dậy ba bốn lần, vua hăm dọa y. Vì lo sợ cho tính mạng mình nên y xin vua ban cho y đặc ân được an toàn tính mạng rồi kể chuyện bí mật kia, rằng chúng không phải là con trai của y như thế nào, mà là con trai của Upasàgara. Vua hoảng sợ.

– Làm thế nào bắt chúng nó được? Ngài hỏi quần thần.

Quần thần tâu:

– Tâu Ðại vương, chúng nó là bọn đánh vật, chúng ta hãy tổ chức thi đánh vật tại kinh thành, và khi chúng vào vòng đấu, chúng ta sẽ bắt chúng và giết đi.

Thế là quần thần tìm hai người đánh vật Cànura và Mutthika, và cho loan báo khắp kinh thành bằng trống lệnh rằng vào ngày thứ bảy sẽ có một cuộc thi đô vật.

Vùng đấu được chuẩn bị trước hoàng môn, có hàng rào quanh đấu trường . Vòng được trang hoàng rất vui mắt. Cờ chiến thắng được buộc sẵn sàng. Cả kinh thành quay cuồng như ở trong cơn lốc. Hàng hàng lớp lớp ghế ngồi chật ních. Cànura và Mutthika bước vào vòng đấu, đi nghênh ngang, nhảy nhót, la hét, vỗ tay. Mười Anh Em kia cũng thế. Trên đường đi chúng đã cướp phá phố thợ giặt nên phục sức các xiêm y rực rỡ vào, lại cướp nước hoa của các tiệm nước hoa, xoa dầu thơm khắp người, đeo vòng trên đầu, hoa tai trên tai chúng nghênh ngang bước vào đấu trường, nhảy nhót, la hét vỗ tay.

Vào lúc ấy, Cànura đang đi quanh và vỗ tay, Baladeva thấy gã liền suy nghĩ: “Ta không muốnđụng kẻ kia với bàn tay ta!” Nên chàng chụp lấy sợi dây lớn từ chuồng voi, vừa nhảy lên, hò hét, vừa ném dây quanh bụng Cànura, cột hai đầu dây lại thật chặt, rồi tung gã kia lên, quay cuồng gã quanh đầu mình, rồi đạp gã xuống đất cho lăn ra khỏi đấu trường. Khi Cànura đã chết, vua cho gọi Mutthika. Mutthika bước lên, hò hét, vỗ tay. Baladeva tát mạnh vào mặt gã và trong lúc gã la lớn:

– Ta không phải kẻ đấu vật. Ta không phải kẻ đấu vật!

Baladeva cột hai tay gã lại bảo:

– Ðấu vật hay không phải đấu vật đối với ta cũng thế thôi!

Rồi chàng xô mạnh gã xuống đất, giết gã, và ném gã ra ngoài đấu trường.

Mutthika trong cơn giãy chết, thốt ra lời nguyền: “Ước mong ta thành quỷ để xé xác nó ra”, và gã trở thành con quỷ ở trong rừng có tên gọi là Kàlamattiya. Vua bảo:

– Bắt Mười tên Nô lệ này ra ngay.

Vào lúc ấy Vàsudeva ném một cái bánh xe (một loại binh khí), chặt đứt đầu cả hai anh em nhà vua. Ðám đông kinh hoàng quỳ xuống chân chàng, và xin chàng cứu giúp che chở cho họ.

Thế là Mười Anh Em này, sau khi đã giết hai ông cậu xong, lên làm vua tại kinh thành Asitanjanà và đem cha mẹ về đó ở.

Lúc bấy giờ họ bắt đầu dự định chinh phục cả cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Chẳng mấy chốc, họ đi đến kinh thành Ayojjhà, nơi ngự trị của vua Kàlasena. Họ bao vây kinh thành. tiêu diệt đám rừng rậm quanh đó, phá vỡ trường thành và bắt vua làm tù binh, chiếm vương quốc vào tay họ.

Sau đó họ đến Dvàravati. Bấy giờ kinh thành này có một phía là biển, một phía là núi. Dân chúngđồn rằng nơi đó có quỷ hiện. Con quỷ giữ vị trí canh phòng, hễ thấy quân thù nó hóa thành con lừa, và hí như lừa vậy. Lập tức nhờ sức kỳ bí của quỷ, cả kinh thành bay lên không gian đặt chân trên một hòn đảo giữa biển, khi quân thù đi rồi, nó sẽ trở lại và ổn định trên vị trí cũ.

Lần này cũng như thường lệ, vừa khi con lừa thấy Mười Anh Em kia đến, thì nó hí lên như lừa. Cả kinh thành bay lên không gian và đặt mình trên hòn đảo kia. Họ không thấy kinh thành nữa nên quay lui. Sau đó kinh thành lại trở về chỗ cũ. Bọn họ trở lại, con lừa lại làm như trước, bọn họ không thể nào chiếm lấy thành Dvàravati được.

Vì thế họ đến yết kiến vị hiền giả Kanhadìpàyana và nói:

– Thưa Tôn giả, chúng tôi đã thất bại trong việc chiếm vương quốc Dvàravati, xin cho chúng tôi biết phải làm cách nào?

Ông bảo:

– Trong một cái hào ở nơi kia, có một con lừa đi quanh quẩn. Nó hí lên khi thấy quân thù, nên lập tức kinh thành bay lên không. Các ngài phải ôm lấy chân nó mà van xin, đó là cách để các ngài đạt mục đích.

Sau đó họ tạ từ ẩn sĩ và cả mười người đi đến con lừa, quỳ xuống chân nó bảo:

– Thưa Tôn ông, chúng ta không nhờ cậy ai được ngoài Tôn ông! Khi chúng ta đến chiếm thành, xin đừng hí lên.

Con lừa đáp:

– Ta không thể nào không hí được. Song nếu các ngài đến trước, và bốn người trong bọn các người đem các cây cày bằng sắt thật lớn, và đặt bốn cột trụ sắt lớn ở dưới đất tại bốn cổng thành. Khi kinh thành bắt đầu bay lên, nếu các ngài đóng vào trụ sắt một dây xích bằng sắt buộc vào cây cày thì kinh thành không thể nào bay lên nổi.

Họ cám ơn con lừa, và nó không kêu một tiếng khi họ đem đến các cây cày và đào hố chôn các cột trụ dưới đất ở bốn cổng thành rồi đứng đợi. Sau khi con lừa hí, cả kinh thành bắt đầu bay lên. Song những người đứng ở bốn cổng thành với bốn cây cày đã đóng vào các cột trụ các dây xích sắt buộc vào các cây cày, nên kinh thành không thể bay lên được nữa. Thế là Mười Anh Em vào thành giết vua và chiếm vương quốc.

Như vậy họ chiếm được toàn cõi Diêm-phù-đề, và trong sáu mươi ba ngàn kinh thành, họ đã dùng bánh xe kia giết sạch mọi vị vua các nước đó, rồi sống tại Dvàravati, chia vương quốc thành mười phần. Song họ đã quên mất cô chị đầu là công nương Anjanà, vì thế họ bảo:

– Hãy chia vương quốc ra mười một phần.

Song Amkura đáp:

– Thôi cho chị ấy phần của tiểu đệ, và đệ sẽ làm việc khác mà sống, các vương huynh chỉ giảm thuế cho đệ ở mỗi vương quốc của các vương huynh thôi.

Họ đồng ý và đưa phần chàng cho chị đầu; họ sống chung với nàng tại Dvàravati, cả chín ông vua, trong khi Amkura đóng tàu đi buôn.

Với thời gian các vua ấy sinh được nhiều con trai và con gái và lâu sau đó, các bậc cha mẹ họ từ trần. Vào thời ấy chuyện kể là con người sống đến hai mươi ngàn tuổi.

Sau đó vương tử yêu quí của Ðại vương Vàsudeva mất đi. Vua dở sống dở chết vì sầu muộn, nên xao lãng mọi việc, cứ nằm than khóc, bám chặt lấy sàng tọa. Lúc ấy Trí giả Ghata suy nghĩ: “Trừ ta ra không ai đủ khả năng xoa dịu nỗi buồn của hoàng huynh. Ta muốn tìm phương tiện để làm giảm nỗi ưu phiền cho ngài.” Vì thế chàng làm vẻ điên cuồng đi khắp kinh thành, nhìn lên bầu trời và kêu lớn:

– Cho ta một con thỏ! Cho ta một con thỏ!

Cả kinh thành chấn động lên:

– Trí giả Ghata nổi điên rồi. Họ bảo nhau.

Vừa lúc ấy một cận thần tên là Rohineyya, đi vào yết kiến vua Vàsudeva và mở đầu câu chuyện bằng cách ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Hắc đế Kan-ha, hãy đứng lên,
    Sao ngài nhắm mắt ngủ, nằm yên,
    Kìa bào đệ, gió to đang cuốn
    Tâm trí chàng bay mất, hãy nhìn:
    Mất trí, Gha-ta mồm lảm nhảm,
    Hỡi ngài Ðại đế tóc đen huyền!

*

Khi viên cận thần nói vậy xong, Bậc Ðạo Sư thấy vua ấy đứng dậy, rồi với Trí tuệ Tối thắng, Ngài cảm hứng ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chốc lát vua dài tóc Ke-sa,
    Nghe Ro-hi lớn tiếng gào la,
    Ðứng lên, đại đế đầy phiền muộn
    Vì nỗi khổ buồn của Gha-ta.

*

Vua đứng lên, vội vàng bước xuống từ cung thất tiến về phía Trí giả Ghata, ngài chụp mạnh lấy chàng bằng cả hai tay và ngâm vần kệ thứ ba hỏi chàng:

  1. Sao dáng điên rồ, đệ bước qua
    Khắp miền non nước Dvà-ra-ka,
    Và kêu: “Thỏ, thỏ! này cho biết,
    Ai lấy thỏ con của đệ à?

Trước câu hỏi của vua, chàng chỉ đáp lại bằng cách ngâm mãi các lời kệ ấy. Còn vua ngâm thêm hai vần kệ nữa:

  1. Thỏ làm bằng ngọc hoặc vàng ròng,
    Như đệ ước ao, bạc hoặc đồng,
    Vỏ óc, san hô, hay đá cuội,
    Ta làm ngay thỏ, đệ an lòng.
  2. Còn có nhiều loài thỏ biết bao,
    Vẫn thường quanh quẩn chốn rừng sâu,
    Ðược mang về nữa ta đòi bắt,
    Hãy nói, em thích chọn thứ nào?

Nghe lời vua, bậc hiền nhân đáp lại bằng cách ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Em chẳng ước ao thỏ thế gian,
    Mà mơ con thỏ ở cung trăng,
    Này Ke-sa, thỏ kìa, đem xuống,
    Em chẳng đòi thêm một đặc ân.

“Chắc em ta đã nổi điên rồi”. Vua suy nghĩ khi nghe nói vậy. Lòng đầy sầu muộn, ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Nói thật này em sẽ chết thôi,
    Nếu em cầu khấn chuyện kia hoài,
    Em đòi chuyện chẳng ai mong ước,
    Con thỏ cung trăng ở cõi trời!

Trí giả Ghata khi nghe vua đáp lại, liền đứng yên không nhúc nhích và nói:

– Này vương huynh, anh biết rằng con người đòi thỏ mặt trăng thì không thể nào có được và sẽ phải chết. Vậy tại sao anh phiền muộn vì đứa con trai đã mất?

  1. Nếu Kan-ha hiểu chuyện này mau,
    Và giải khuyên người khóc khổ đau,
    Anh vẫn cớ sao đang phiền muộn
    Ðứa con trai đã chết từ lâu?

Rồi chàng nói tiếp khi vẫn đứng trên đường.

– Này anh, em chỉ cầu xin cái có thật, còn anh lại phiền muộn vì cái không còn nữa.

Sau đó chàng giáo hóa vua bằng hai vần kệ sau:

  1. Con ta sinh, ước chẳng lìa trần,
    Không một người hay cả thánh thần
    Có thể đạt lời nguyền kia, vậy
    Sao điều không có, lại cầu mong?
  2. Không có bùa thiên, hoặc thuốc thần,
    Chẳng loài cỏ thuốc hoặc tiền vàng
    Ðủ công năng để làm cho sống
    Người chết, Kan-ha vẫn khóc than.

Vua nghe vậy, đáp:

– Này hiền đệ, em có mục đích tốt lành lắm. Em đã làm như vậy để xua tan phiền muộn của ta.

Sau đó ngài ngâm bốn vần kệ để tán thán Trí giả Ghata:

  1. Trẫm nghe nhiều bậc trí nhân,
    Nhiều người lỗi lạc khuyên toàn điều hay,
    Song Gha-ta đã khéo thay,
    Mở đôi mắt trẫm từ nay sáng bừng!
  2. Ta đang thiêu đốt trong lòng,
    Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
    Em đà mang nước lạnh vào,
    Và em dập tắt khát khao tủi buồn.
  3. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
    Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
    Em vừa an ủi khuây khoa
    Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
  4. Tên vừa nhổ, hết đau ngay,
    Giữ tâm thanh thản, ta rày bình an,
    Nghe lời chân lý, hỡi chàng,
    Ta không còn phải khóc than đau buồn.

*

Và cuối cùng:

  1. Hãy làm như đấng từ tâm,
    Và như các bậc trí nhân đại hiền
    Giải tan các nỗi ưu phiền,
    Như Gha-ta đã giải khuyên anh mình.

Ðây là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.

*

Bằng cách ấy, Vàsudeva Ðại vương đã được vương tử Ghata an ủi nỗi buồn.

Sau một thời gian dài, vua cai trị vương quốc, các vương tử của Mười Anh Em làm vua kia suy nghĩ:

– Dân chúng đồn rằng Kanhadìpàyana có thần thông lực. Ta thử xem sao.

Thế là cả bọn ấy kiếm một thanh niên cho gã phục sức đẹp vào rồi buộc một chiếc gối quanh bụng gã làm như thể gã có thai. Rồi họ đem gã vào yết kiến ngài và hỏi:

– Thưa Tôn giả, khi nào thì người đàn bà này sinh con?

Nhà ẩn sĩ nhận thấy (nhờ thần lực) rằng Mười Anh Em vương tử này đã đến hồi mạt vận; rồi khi xem kỹ hạn kỳ mạng sống của chính mình được chừng nào, ngài hiểu là ngài phải chết đúng ngày hôm ấy. Sau đó ngài hởi:

– Thưa các vị vương tử, người này là gì của các vị?

Họ khăng khăng đáp lại:

– Xin hãy trả lời cho chúng ta rõ.

Ngài đáp:

– Từ ngày thứ bảy kể từ nay, người này sẽ sinh ra một khúc gỗ keo. Với khúc gỗ ấy, nó sẽ phá tan dòng họ Vàsudeva, dù cho các vị có lấy thanh gỗ ấy và đốt đi rồi thả tro xuống sông.

– A, đạo sĩ này giả hiệu – họ đáp. Ðàn ông không thể nào đẻ con được!

Rồi họ làm một sợi dây thừng giết ngài lập tức.

Các vị vua triệu các vương tử vào hỏi tại sao đã giết đạo sĩ. Khi các vị nghe như vậy đều kinh hãi. Các vị cho người canh giữ chàng trai kia, và đến ngày thứ bảy, chàng ta lấy ra từ trong bụng một khúc gỗ keo, họ đem đốt đi và thả tro xuống sông. Tro ấy trôi theo dòng nước dính vào một bên bờ nhờ một cái ngõ vào phía sau, từ nơi ấy mọc lên một cây Eraka.

Một ngày kia, các vua đề nghị đi hu hí dưới sông . Vì thế các vị ấy đến ngõ sau này dựng một chiếc rạp lớn, và trong cái rạp rực rỡ ấy, các vị vua ăn uống vui đùa. Sau đó, các vị bắt đầu đấm đá nhau và chia thành hai phe gây gổ dữ dội. Cuối cùng một người trong đám đó thấy không có gì tốt hơn để làm cây gậy liền hái một ngọn lá Eraka, ngay sau khi hái, nó liền biến thành cái gậy gỗ keo trong tay, người ấy dùng gậy đánh nhiều người. Rồi các người khác cũng hái như vậy, và các lá cây mà họ hái đều biến thành gậy gộc, và bọn người ấy dùng gậy đánh nhau cho đến chết. Trong lúc cả bọn tàn sát lẫn nhau, chỉ có bốn người: Vàsudeva, Baladeva, công chúa Anjanà, vương tỷ, và vị quan tế sư nhảy lên xe chạy trốn. Còn cả đám kia chết hết không sót ai.

Bấy giờ bốn vị ấy dùng xe trốn đi đến khu rừng Kàlamattikà, nơi ấy gã đấu vật Mutthika tái sinh làm quỷ đúng như lời nguyện của y. Khi y nhận thấy Baladeva, y liền dựng lên một ngôi làng tại đó rồi giả dạng làm người nô bộc vừa đi vừa nhảy nhót la hét vừa búng tay một hồi:

– Ai muốn đấu đây?

Baladeva mới thấy y liền nói:

– Này anh, em sẽ cố đánh gã này.

Vàsudeva cố hết sức ngăn cản chàng, song chàng vẫn xuống xe, đi đến gã, búng tay, gã kia chụp ngay chàng trong lòng bàn tay và nhai chàng ngấu nghiến như một củ cải!

Vàsudeva thấy chàng đã chết, liền đi suốt đêm cùng chị và viên tế sư rạng ngày sau vừa đến một làng ở biên địa. Vua nằm xuống trong chổ ẩn sau một bụi rậm, nhờ chị và viên tế sư vào làng bảo nấu một ít thức ăn đem đến dâng ngài. Một người thợ săn (tên là Jarà hay Lão niên) thấy bụi rậm lay động:”Chắc có con lợn rồi!”, gã suy nghĩ và đâm một giáo xuyên suốt chân ngài.

– Ai đã bắn ta bị thương đó? Vàsudeva la lớn.

Người thợ săn thấy gã đã đâm nhằm một người nên kinh hoàng bỏ chạy trốn. Vua hồi tỉnh đứng lên gọi gã thợ săn:

– Này lão tiều phu, tới đây đừng sợ!

Khi gã đến, Vàsudeva hỏi:

– Người là ai?

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần là Jàra.

– Than ôi! Vua nghĩ thầm: “Hễ ai bị Lão niên đâm bị thương đều phải chết, người xưa vẫn nói như vậy. Chắc chắn ta phải chết hôm nay rồi”. Sau đó vua bảo:

– Này lão tiều phu, xin đừng sợ, đến đây buộc vết thương lại cho ta.

Khi miệng vết thương buộc lại xong, vua để gã đi. Vết thương khiến ngài đau đớn ghê gớm, ngài không thể ăn thứ gì mà các người kia mang đến. Sau đó, ngài bảo các người kia:

– Hôm nay ta phải chết. Các người yếu đuối lắm, không bao giờ có thể có nghề gì khác để sinh sống, vậy hãy học chuyên khoa này của ta.

Nói xong ngài dạy cho hai người học một chuyên khoa, rồi để cho họ ra đi, và ngài chết ngay hômđó. Như vậy trừ công nương Anjanà, tất cả đều chết không ai sót. Câu chuyện kể như vậy.

*

Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này cư sĩ, như vậy ngày xưa, có người đã thoát khỏi khổ đau vì con chết bằng cách nghe theo lời dạy của các bậc trí nhân; thôi, ông đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa.

Sau đó Ngài tuyên thuyết các Sự thật, vị cư sĩ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu.

Rà Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Rohineyya, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Vàsudeva, các đệ tử của đức Phật là các người kia, và Ta chính là Trí giả Ghata.

-ooOoo-

Chương XI

Phẩm Mười Một Bài Kệ

  1. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền thân Màti-Posaka)

Cho dù voi chúa phải đi xa…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo còn mẹ phải cấp dưỡng.

Hoàn cảnh chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540 tập VI). Trong dịp này Bậc Ðạo Sư nói chuyện với chúng Tăng, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, chớ giận Tỳ kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả lúc sinh ra từ bụng của loài vật, và cách xa mẹ mình cũng không chịu ăn uống gì trong bảy ngày, cứ gầy héo mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, họ cũng chỉ đáp: “Không có mẹ ta thì ta không muốnăn”. Tuy thế, lúc gặp lại mẹ, họ mới chịu ăn như trước.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Ðại tượng vương ở vùng Tuyết Sơn. Toàn thân Voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh ngài, song mẹ ngài bị mù. Ngài thường đưa cho bầy voi những quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ, tuy thế, chúng chẳng đem gì về dâng voi mẹ, mà chúng ăn hết. Khi ngài hỏi thăm và biết được việc ấy, ngài bảo:

– Ta muốn rời đàn để nuôi mẹ ta.

Thế là một đêm thuận lợi, bầy voi không hay biết ngài đưa mẹ đi đến đỉnh núi Candorana (Chiên-đồ-gia), tại đó ngài để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ nước và nuôi nấng mẹ rất chu đáo.

Bấy giờ, một người thợ rừng ở Ba-la-nại đi lạc đường và không thể nào tìm lối ra được nên bắt đầu than khóc ầm ĩ. Nghe tiếng này Bồ-tát thầm nghĩ: “Ðó là một người đang cơn hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà gã gặp tai họa thật chẳng phải lẽ”. Vì vậy ngài đến gần gã, nhưng gã bỏ chạy vì quá sợ hãi; thấy thế, chúa Voi bảo gã:

– Này người kia, anh không cần phải sợ ta, đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa đi vừa khóc thế?

– Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã bảy ngày qua.

Chúa Voi đáp:

– Anh đừng sợ nữa, và ta sẽ đưa anh ra đường đi của dân chúng.

Sau đó ngài bảo người ấy leo lên ngồi trên lưng ngài và đưa gã ra khỏi rừng, xong ngài quay về.

Còn con người độc ác kia quyết vào thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế gã đánh dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba-la-nại. Lúc ấy vương tượng của hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho truyền lệnh bằng một hồi trống:

– Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đáng để hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.

Sau đó gã kia đến triều kiến vua và tâu:

– Tâu Chúa thượng, tiểu thần đã thấy một con Voi tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần xin chỉ đường. Nhưng xin đưa các người quản tượng đi theo để bắt Voi.

Vua chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng lên đường.

Người thợ cùng đi với gã và trông thấy Bồ-tát đang ăn uống trong một hồ nước. Khi Bồ tát thấy gã thợ rừng, ngài nghĩ: “Hiểm họa này chắc chắn không phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Nhưng Ta rất mạnh, ta có thể đánh tan tành cả ngàn con voi trong lúc thịnh nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cảđàn voi ra trận của một vương quốc. Tuy nhiên nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối thì công đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy hôm nay ta sẽ không nổi giận, cho dù có bị gươm giáo đâm vào da thịt”. Với quyết đinh này, ngài cúi đầu đứng bất động.

Người thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của các chóp ngà voi, gã bảo:

– Này con, hãy đến đây.

Rối nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn voi về thành Ba-la-nại trong vòng bảy ngày.

Khi mẹ Bồ Tát thấy con mình không trở về, bà đoán chắc hẳn ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, và bà than khóc:

– Giờ đây cây cối vẫn mọc, nhưng con ta đã đi xa rồi.

Và bà đã ngâm hai vần kệ sau:

  1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
    Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
    Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
    Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
  2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
    Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
    Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
    Oai hùng thắng địch thủ mang bào.

Bây giờ người luyện voi kia, đang lúc còn đang đi đường đã gửi về triều một tờ sớ dâng vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy. Người luyện voi dẫn Bồ tát vào một cái chuồng được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn đủ màu rực rỡ, xongđến trình vua. Vua mang các món cao lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ Tát, nhưng ngài không ăn chút gì cả:

– Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì đâu.

Vua van nài ngài ăn, và ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
    Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
    Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
    Mà Voi sẽ đảm trách sau này.

Nghe vậy Bồ Tát ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,
    Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
    Dậm một chân vào gốc cổ thụ
    Vì không Voi chúa, ấy con bà.

Vua ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời ngài:

  1. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
    Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
    Dậm chân vào một gốc cây nọ,
    Vì chẳng chúa Voi, con của bà?

Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:

  1. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
    Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
    Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
    Bởi vì Voi chúa ấy là ta.

Khi nghe nói vậy, vua liền cho ngài được tự do, và ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,
    Nên thả tự do, cứ mặc tình,
    Thôi để Voi đi về với mẹ
    Và cùng sum họp với gia đình.

Vần kệ thứ tám và thứ chín xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

  1. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,
    Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
    Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
    Voi lại trở về chốn núi ngàn.
  2. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
    Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
    Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
    Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.

Nhưng mẹ của Bồ Tát tưởng là trời bắt đầu mưa, nên ngâm vần kệ thứ mười để trách cơn mưa:

  1. Ai đó đem mưa thật trái thời,
    Thần nào độc ác quá, trời ơi!
    Vì nay con trẻ đà đi vắng,
    Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi
    .

Lúc ấy Bồ tát ngâm vần kệ thứ mười một để trấn an mẹ:

  1. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!
    Này đây con mẹ đã về rồi,
    Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
    Cho trẻ bình an được tái hồi.

Bà mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua vần kệ cuối cùng:

  1. Vạn tuế trường tồn, đấng Ðại vương!
    Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
    Tự do ngài trả cho con đó,
    Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!

Vua rất hoan hỷ vì đức độ của Bồ tát nên ra lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy và vua thườngđến phụng sự Bồ Tát cùng mẹ ngài. Sau đó, khi mẹ ngài từ trần, ngài đi thật xa đến một tinh xá tên là Karandaka. Tại đây có năm trăm bậc trí giả an trú và vua thường đến cúng dường các ngài. Vua lại truyền tạc một tượng bằng đá có hình Bồ tát và thường đến chiêm bái để tỏ lòng ngưỡng mộ ngài. Dần dần dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) tụ tập lại đó cùng nhau cử hành ngày hội gọi là hội Voi.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật. Bấy giờ lúc kết thúc các Sự thật, Tỳ kheo phụng dưỡng mẹ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là nhà vua, mẫu hậu Mahàmàyà là mẹ Voi và chính Ta là chúa Voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền thân Junha)

Tâu Ðại vương nghe lão nói điều này…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ viên, về các đặc ân mà Tôn Giả Ànanda nhậnđược.

Suốt trong hai mươi năm đầu Ngài chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các thị giả đức Thế Tôn không phải chỉ là một người: Khi thì Tôn giả Nàgasamàla, khi thì Tôn giả Nàgita, Upavàna, Sunakkhatta, Cunda, Sàgala, khi thì Meghiya hầu hạ đức Thế Tôn. Một ngày kia, đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

– Này các Tỳ kheo, nay Ta đã già, và khi Ta bảo chúng ta hãy đi đường này, vài người trong Tăng chúng lại đi đường khác, có người làm rơi bình bát và y của ta xuống đường. Vậy hãy chọn một Tỳ kheo luôn luôn hầu cận ta.

Sau đó, Tăng chúng đồng đứng lên, bắt đầu với Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), và chấp hai tay lên đầu nói lớn:

– Bách Thế Tôn, con xin hầu hạ Thế Tôn, con muốn hầu hạ Thế Tôn.

Nhưng ngài từ chối trả lời:

– Lời thỉnh cầu của các ông đã được ta biết trước, thôi đủ rồi.

Sau đó Tăng chúng nói với Tôn giả Ànanda:

– Này Hiền giả, Hiền giả hãy xin giữ chức vụ thị giả.

Tôn giả đáp:

– Nếu đức Thế Tôn sẽ không ban cho ta chiếc y mà chính Ngài đã nhận, nếu Ngài sẽ không ban cho ta đồ ăn khất thực của Ngài, nếu Ngài sẽ không cho phép ta ở cùng trong Hương phòng, nếu Ngài sẽ không muốn cho ta cùng Ngài đi đến nơi Ngài được mời. Nhưng nếu đức Thế Tôn sẽ đi với ta đến nơi mà ta được mời, nếu ta sẽ được phép giới thiệu hội chúng vào lúc hội chúng từ các vùng xa xôi hay các nước ngoài đến yết kiến đức Thế Tôn, nếu ta sẽ được gặp đức Thế Tôn khi có nghi vấn khởi lên, hoặc nếu bất cứ khi nào đức Thế Tôn thuyết Pháp mà ta vắng mặt thì ngài sẽ thuyết Pháp lại cho ta ngay lúc trở về: Thế thì ta sẽ hầu hạ đức Thế Tôn.

Tôn giả cầu xin tám đặc ân này, bốn điều “không” và bốn điều “có” và đức Thế Tôn ban tất cả cho Tôn giả. Sau đó Tôn giả thường xuyên hầu hạ Bậc Ðạo Sư trong hai mươi lăm năm liền. Vì vậy sau khi đã đạt được năm đức tính xuất sắc và sau khi thành tựu bảy phúc lạc ” Phúc lạc về Ðạo pháp, phúc lạc về sự giáo hóa, phúc lạc về sự tuệ tri các nhân duyên, phúc lạc về sự quán sát công đức của mình, phúc lạc vì được ở trong một Thánh chúng, phúc lạc về nhiệt tâm tinh cần được khai sáng, phúc lạc về khả năng đạt giác ngộ. Vào hầu cận đức Phật, Tôn giả nhận được tám đặc ân và trở nên danh tiếng trong Giáo pháp của đức Phật, Tôn giả sáng chói chẳng khác nào mặt trăng trên bầu trời.

Một ngày kia Tăng chúng bắt đầu nói đến chuyện ấy trong Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu, đức Như Lai đã làm thỏa nguyện Tôn giả Ànanda bằng cách ban các điều ước của Tôn giả.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi:

– Này các Tỳ kheo, các ông đang nói chuyện gì trong khi ngồi ở đây?

Tăng chúng thưa với Ngài. Sau đó Ngài bảo:

– Không phải đây là lần đầu tiên, này các Tỳ kheo, mà thuở xưa cũng như bây giờ Ta đã làm thỏa nguyện Ànanda với một đặc ân; ngày xưa cũng như bây giờ, bất cứ điều gì ông muốn xin, Ta đều ban cho cả.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một vương tử của ngài là Junha hay Nguyệt Quang Vương tử đang theo học tại Takkasilà.

Một đêm kia, sau khi lắng nghe kỹ lưỡng lời dạy bảo của vị giáo sư, chàng từ giã nhà của thầy trong đêm tối và lên đường về nhà. Một Bà-la-môn đã đi khất thực, và đang trên đường về nhà, còn vương tử vì không thấy vị này, nên chạy đến đụng vào Bà-la-môn ngã xuống và kêu lên. Chàng động lòng thương liền quay lại, cầm lấy hai tay vị kia và đỡ dậy. Vị Bà-la-môn nói:

– Này con, con đã làm vỡ bình bát của ta, vậy hãy cho ta tiền mua một bữa ăn.

Vương tử đáp:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, bây giờ tiểu sinh không thể cho ngài tiền bữa ăn được; nhưng tiểu sinh là vương tử Junha, con vua xứ Kàsi, khi tiểu sinh về vương quốc, ngài có thể gặp tiểu sinh và xin số tiền ấy.

Khi chàng trai hoàn tất việc học tập, chàng tạ từ thầy dạy và trở về Ba-la-nại, trình vua cha việc học tập của chàng.

– Trẫm đã thấy được con trước khi từ trần – vua phán – và muốn thấy con trẫm lên ngôi.

Sau đó ngài làm lễ quán đảnh cho con và phong chàng lên ngôi vua. Với danh hiệu Ðại vương Junha, vương tử cai trị rất chân chánh.

Khi vị Bà-la-môn hay tin ấy, ông nghĩ rằng giờ đây mình có thể lấy lại tiền bữa ăn rồi. Thế là ôngđến Ba-la-nại, thấy toàn thể kinh thành được trang hoàng rực rỡ và vua đang ngự du trong đám rước rất uy nghi hướng về phía hữu, diễu quanh kinh thành. Ðứng trên một chỗ cao, vị Bà-la-môn giơ tay kêu lớn:

– Ðại vương toàn thắng!

Vua đi qua mà không nhìn thấy ông. Khi vị Bà-la-môn thấy mình không được chú ý, liền ngâm một vần kệ để xin ngài giải thích:

  1. Tâu Ðại vương, nghe lão nói điều này
    Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
    Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
    Người du sĩ đứng ngay trên đường sá.

Khi nghe những lời này, vua thúc vương tượng quay lại với cái gậy nạm ngọc của ngài và ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Ta đứng nghe, này Ðạo sĩ nói ngay,
    Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
    Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
    Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.

Và câu chuyện của vua và vị Bà-la-môn hỏi đáp lẫn nhau được kể lại trong các vần kệ sau đây:

Bà-la-môn:

  1. Xin cho lão năm ngôi làng thượng hạng,
    Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm nàng,
    Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
    Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.

Quốc vương:

  1. Ðạo sĩ ơi, ngài có điều sám hối
    Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
    Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
    Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
    Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?

Bà-la-môn:

  1. Không ăn năn, chẳng thần chú, đạo bùa,
    Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
    Không đòi thưởng vì công lao giúp đỡ,
    Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
    Ðây chính là sự thật phải trình ra.

Quốc vương:

  1. Trẫm không sao nhớ nổi, thời gian qua,
    Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
    Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
    Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?

Bà-la-môn:

  1. Trong thành đô mỹ lệ chúa Gan-dhà,
    Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
    Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
    Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
  2. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
    Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
    Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
    Trước chẳng hề và sau đó cũng không.

Quốc vương:

  1. Khi trí nhân đã gặp, hỡi La-môn,
    Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
    Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
    Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng quên!
  2. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
    Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
    Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
    Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
    Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
  3. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
    Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
    Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
    Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
    Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
  4. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
    Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm nàng,
    Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
    Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.

Bà-la-môn:

  1. Ðại vương ôi, khi thiện nhân hòa hợp,
    Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
    Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
    Vì ngài đã giữ lời xưa giao ước.

Bồ tát liền tỏ thêm niềm quý trọng đối với đạo sĩ kia.

*

Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu Ta làm Ànanda thỏa nguyện với các đặc ân, mà Tađã làm như vậy ngày xưa nữa.

Cùng các lời này, Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là vua.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền thân Dhamma)

Ta hành chánh hạnh giữa trần gian…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bị nuốt vào lòng đất như thế nào.

Tăng chúng tụ tập trong Chánh pháp đường đàm luận:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa sinh lòng thù nghịch với đức Như Lai và đã bị nuốt vào lòng đất.

Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì lúc ngồi ở đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:

– Này các Tỳ kheo, nay kẻ ấy bị nuốt vào lòng đất vì đã giáng một đòn chống lại quyền lực vinh quang của Ta, song ngày xưa kẻ ấy đã chống lại uy quyền của lẽ phải, nên đã bị nuốt vào lòng đất và đọa vào địa ngục.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời nọ, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba-la-nại, Bồ tát được sinh vào cõi dục giới thiên làm một Thiên tử, có tên là Dhamma hay Chánh pháp, đồng thời Ðề-bà-đạt-đa lại có tên là Adhamma hay Tà pháp.

Vào ngày trai giới trăng tròn, về buổi chiều khi cơm nước xong xuôi, dân chúng ngồi vui vẻ trước sân nhà mình trong làng, ngoài phố hay kinh thành, Dhamma xuất hiện trước mặt quần chúng,đứng vững trên không gian, cỡi chiếc thiên xa của ngài và phục sức thiên y rực rỡ giữa hội chúng Thiên nữ, ngài dạy bảo như sau:

– Ðừng đoạt mạng sống của mọi loài hữu tình và tránh mười ác đạo, hãy làm tròn phận sự phụng dưỡng cha mẹ, cùng tam nghiệp chân chánh (Chánh thân nghiệp, chánh khẩu nghiệp, chánh ý nghiệp), nhờ thế các người sẽ được tái sinh lên thiên giới và hưởng mọi vinh quang tuyệt diệu.

Như vậy ngài khuyến cáo dân chúng hành trì Mười thiện đạo, và ngài diễu quanh cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) một vòng thật uy nghiêm hướng về phía hữu. Nhưng Adhamma lại dạy dân chúng:

– Hãy sát sinh các loài hữu tình.

Và như thế vị này đã xúi giục dân chúng theo Mười ác đức và diễu quanh cõi Diêm-phù-đề hướng về phía tả.

Lúc bấy giờ thiên xa của hai vị đối diện nhau trên không gian, và đám tùy tùng của hai vị hỏi nhau:

-Các ông là tùy tùng của ai? Và chúng đáp:

– Chúng ta là tùy tùng của Dhamma.

– Còn chúng ta là tùy tùng của Adhamma. Rồi chúng chiếm chỗ, làm cho lối đi được chia hai ra. Nhưng Dhamma bảo Adhamma:

-Này Hiền giả, ngài là Adhamma và ta là Dhamma, ta đi về hướng phải, vậy hãy quay xe qua một bên nhường lối cho ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta hành chánh hạnh ở trần gian,
    Danh tiếng người đời được tặng ban,
    Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
    Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
    Ðường ta là đó, ta chân chánh,
    Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.

Ðây là các vần kệ tiếp theo:

Tà:

2-Trong chiếc hùng xa của pháp Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?

Chánh:

  1. Chánh pháp đã bày tỏ trước tiên,
    Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
    Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
    Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!

Tà:

  1. Dù ngài đức độ hoặc cầu xin,
    Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
    Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
    Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
    Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
    Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.

Chánh:

  1. Khắp cõi gần xa, ta nổi danh
    Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
    Trong ta, hình thái này mang đủ
    Tất cả công năng kết hợp thành,
    Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
    Làm sao ngài chiến thắng phần mình?

Tà:

  1. Nhờ sắt, mà vàng được đập ra,
    Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
    Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
    Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.

Chánh:

  1. Nếu ngài chiến đấu thật hùng cường,
    Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
    Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
    Và dù không muốn, phải nhường đường.

Hai vị ngâm sáu vần kệ trên để đối đáp lẫn nhau. Nhưng vừa lúc Bồ tát ngâm vần kệ này, Adhamma không thể nào đứng trên xe được nữa, mà nhào đầu xuống đất đang há miệng để nuốt vị ấy liền, và vị ấy tái sinh vào địa ngục.

*

Ðức Thế Tôn vừa nhận thấy việc này xảy ra, Ngài liền ngâm các vần kệ cuối cùng phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:

  1. Lời ấy vừa nghe tự cõi cao,
    Pháp Tà kia đã ngã lăn nhào,
    Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
    Dù muốn, ta không đánh trận nào.
  2. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
    Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
    Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
    Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
    Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
    Ngự lên xa giá vội đằng vân.
  3. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
    Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
    Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
    Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
    Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
    Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
  4. Ở nhà ai kính trọng song thân,
    Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
    Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
    Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
    Như ngài Chánh pháp trên xa giá
    Ði đến cung trời của thiện nhân.

*

Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã tấn công Ta và đã bị nuốt vào lòng đất.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Ðề-bà-đạt-đa là Adhamma (Tà pháp), đám tùy tùng của Tà pháp này là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, còn ta là Dhamma (Chánh pháp) và các đệ tử của đức Phật là đám tùy tùng của Dhamma vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền thân Udaya)

Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn…,

Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo thối thất.

Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền Thân Kusa (số 531 tập VI). Bậc Ðạo Sư hỏi người này:

– Này Tỳ kheo, có đúng là ông thối thất như Tăng chúng bảo chăng?

Người ấy đáp:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Ngài nói:

– Này Tỳ kheo, tại sao ông lại thối thất trong Giáo pháp như Giáo pháp của Ta đưa đến giải thoát, mà tất cả chỉ vì tham dục?

Các bậc trí nhân ngày xưa, từng làm vua tại Surundha, một kinh thành phồn thịnh rộng mười hai dặm mỗi bề, dù suốt cả bảy trăm năm sống cùng phòng với một nữ nhân diễm lệ như Thiên nữ, cũng không hề bị lôi cuốn vào dục vọng, thậm chí cũng chẳng bao giờ đưa mắt nhìn nàng với lòng ham muốn cả.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Kàsi đang trị vì quốc độ Kàsi, ỏ kinh thành Surundha, ngài không có con cái gì cả. Vì thế ngài ra lệnh cho các vương phi cầu tự. Bấy giờ Bồ tát từ cõi Phạm thiên xuống nhập vào mẫu thai của chánh hậu. Và do ngài sinh ra đời làm vui lòng đại chúng nên được đặt tên là Udayabhadda, tức Thiện Lai. Vào lúc vương nhi biết đi chập chững, thì một người khác xuất hiện ở đời này từ cõi Phạm thiên xuống nhập mẫu thai làm công chúa của một bà vương phi khác và nàng cũng được đặt cùng tên ấy Udayabhaddà.

Khi thái tử đến tuổi trưởng thành, chàng tinh thông mọi ngành học thuật, và hơn nữa, chàng trong sáng đến độ chàng không biết gì về các hành động xác thịt, ngay cả trong các giấc mơ, tâm chàng cũng không hướng đến ác dục. Vua cha ước mong chàng cũng không lên ngôi báu với lễ quánđảnh phong vương huy hoàng, và muốn diễn kịch để chàng giải trí, nên ngài ra lệnh ngay. Nhưng Bồ tát đáp:

– Con không thiết ngai vàng, lòng con không hướng về ác dục.

Chàng cứ bị nài ép mãi, nhưng chàng đáp lại bằng cách bảo tạc một tượng nữ nhân bằng vàng ròng, rồi trình lên song thân với lời tâu:

– Khi nào hoàng nhi tìm được một nữ nhân như vậy, hoàng nhi sẽ nhận ngôi báu.

Quần thần đem bức tượng vàng đi khắp cõi Diêm-phù-đề, nhưng họ không tìm ra nữ nhân nào giống như vậy cả, cuối cùng họ trang điểm cho nàng Udayabhadà thật lộng lẫy rồi đưa nàng ra so với bức tượng, dung sắc nàng còn vượt xa khi nàng đứng cạnh nó. Thế là quần thần đem gả nàng cho Bồ tát làm vương phi, dù cả hai vị đều không muốn, vì nàng chính là công chúa Udayabhaddà, em ruột cùng cha khác mẹ với ngài, rồi quần thần lại làm lễ quán đảnh phong vương cho ngài.

Cả hai vị cùng nhau sống một cuộc đời thanh tịnh, không vướng dục tình. Theo thời gian, khi song thân qua đời, Bồ-tát trị vì vương quốc. Hai vị ở chung phòng, nhưng từ bỏ dục vọng, đến độ không bao giờ nhìn nhau với vẻ ham muốn. Không những thế, hai vị còn ước nguyền rằng, nếu một trong hai vị từ trần trước, thì sẽ trở lại gặp vị kia từ cõi mới tái sinh, để báo tin: “Ta đã tái sinh ở nơi kia”.

Thời bấy giờ lúc làm lễ quán đảnh, Bồ-tát sống bảy trăm năm rồi từ trần. Vì không có vua nào nối ngôi, nên có lệnh của tiên đế Udayabhadda ban bố rằng triều đình phải lo trị nước. Bồ-tát đã trở thành Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trên cõi Trời ba mươi ba, và do cảnh vinh quang này quá huy hoàng, nên ngài không nhớ đến đời trước trong vòng bảy ngày. Thế là sau bảy trăm năm theo ước tính của loài người, ngài nhớ lại và tự nhủ: “Ta muốn trở về gặp công chúa Udayabhaddà và sẽ thử lòng nàng bằng vàng bạc quý, rồi rống lên tiếng rống sư tử, ta sẽ thuyết giáo, như thế là ta thành tựu lời nguyện ước xưa”.

Vào thời ấy, chuyện kể rằng, đời sống con người kéo dài được mười ngàn năm. Bấy giờ, vào ban đêm cửa cung khóa chặt, quân canh đã được bố trí cẩn mật, và công chúa đang ngồi yên lặng một mình trong cung điện nguy nga ở lầu thượng, suy tư về công hạnh của nàng. Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ cầm một chiếc dĩa vàng đựng đầy tiền vàng và xuất hiện trong khuê phòng trước mặt nàng, rồi đứng ra một bên. Ngài bắt đầu ngâm vần kệ thứ nhất với nàng:

  1. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,
    Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
    Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
    Xin được đêm nay ở với nàng.

Công chúa đáp lời này qua hai vần kệ sau:

  1. Thành này tường bọc, lũy đào sâu,
    Việc đến gần đây khó biết bao,
    Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
    Canh phòng đoàn kết với cung đao.
  2. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
    Có thế vào đây được dễ dàng,
    Hãy nói, việc gì là có sự
    Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?

Sau đó Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Ðại quý là Ta, hỡi tố nga,
    Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
    Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
    Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.

Nghe thế, công chúa liền ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,
    Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
    Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
    Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.

Nghe giọng sư tử hống của nàng, Thiên chủ không còn đứng lại nữa, mà làm ra vẻ giã từ nàng rồi lập tức biến mất. Hôm sau cũng vào giờ ấy, ngài cầm cái chén bạc đựng đầy tiền vàng và đến nói với nàng qua vần kệ thứ sáu:

  1. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,
    Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
    Khiến người đời phạm bao điều ác,
    Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
    Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
    Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.

Lúc ấy công chúa suy nghĩ: “Nếu ta cứ để vị kia nói mãi chuyện nhảm nhí, y sẽ đến hoài. Vậy ta không nói gì nữa với y”. Thế là nàng không nói thêm lời nào. Ðế Thích Thiên chủ thấy nàng không có gì để nói nữa, nên biến mất từ chỗ đứng.

Ngày kế tiếp cũng vào giờ ấy, ngài cầm chén sắt đựng đầy tiền vàng và bảo:

– Thưa công nương, nếu nàng ban cho ta tình yêu của nàng, ta sẽ tặng nàng chén sắt đầy vàng này.

Khi trông thấy ngài, công chúa ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,
    Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
    Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
    Nhưng ta xét cách của Thiên thần
    Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
    Tặng vật xem ra cứ giảm dần.

Khi nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Thưa công nương, ta là một kẻ đi buôn rất thận trọng. Ta không phung phí của cải vô ích đâu. Nếu nàng tăng dần vẻ xuân sắc, ta sẽ tăng số tặng vật cho nàng, nhưng sắc đẹp của nàng đang tàn tạ dần, vì thế ta giảm dần số tặng vật đó thôi.

Nói xong ngài ngâm ba vần kệ:

  1. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,
    Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
    Hôm nay nàng phải già hơn trước,
    Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
  2. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
    Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
    Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
    Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
  3. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
    Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
    Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
    Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.

Ngay sau đó công chúa ngâm một vần kệ khác:

  1. Chư Thiên chẳng giống các người trần,
    Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
    Thiên chúng làm sao không thể xác?
    Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.

Lúc ấy, Thiên chủ giải thích vấn đề này qua một vần kệ nữa:

  1. Thiên chúng không như người thế gian,
    Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
    Mai đây và mãi về sau nữa,
    Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.

Khi nàng nghe nói dung sắc trên thiên giới, nàng hỏi con đường lên đó qua một vần kệ khác:

  1. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,
    Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
    Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
    Xin ngài giải thích thật phân minh
    Làm sao đi hướng về Thiên giới,
    Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.

Kế đó Thiên chủ giải thích vấn đề trong một vần kệ nữa:

  1. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,
    Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
    Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
    Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
    Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
    Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.

Khi công chúa nghe lời ngài xong, nàng cảm tạ ngài qua một vần kệ khác:

  1. Giống như bà mẹ, giống như cha,
    Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
    Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
    Ngài là ai đó, nói ngay ra.

Liền đó Bồ-tát ngâm kệ:

  1. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,
    Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
    Giờ đây đã nói, ta từ giã,
    Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!

Công chúa thở dài bảo:

– Ôi Chúa thượng, ngài chính là Ðại vương Udayabhadda ư?

Rồi nàng nức nở khóc, nước mắt tuôn như suối chảy:

– Vắng bóng Chúa thượng, thần thiếp không thể nào sống được. Xin Chúa thượng dạy bảo thần thiếp cách nào thiếp có thể sống cùng Chúa thượng mãi mãi!

Nói xong nàng lại ngâm kệ khác:

  1. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,
    Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
    Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
    Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.

Tiếp theo ngài ngâm bốn vần kệ để giáo hóa nàng:

  1. Thoáng chốc, xuân thì vụt quá nhanh,
    Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
    Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
    Thối nát, thân này thật mỏng manh.
    Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
    Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
  2. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
    Thuộc quyền cai trị một anh quân,
    Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
    Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
    Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
    Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
  3. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
    Và vợ (có tiền lại kết duyên),
    Tất cả đều ra đi lũ lượt,
    Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
    Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
    Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
  4. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
    Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
    Hoan lạc cũng như niềm khổ não
    Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
    Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
    Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.

Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp như vậy. Công chúa rất hoan hỷ với cách giáo hóa trên, và nàng cảm tạ ngài với vần kệ cuối cùng:

  1. Thiên thần này nói ngọt ngào,
    Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
    Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
    Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
    Giã từ trần thế, ta đi,
    Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.

Sau khi thuyết giáo như vậy cho nàng xong, Bồ-tát trở lại cõi của ngài.

Ngày kế tiếp, công chúa liền giao việc trị nước cho các triều thần, còn nàng trở thành ẩn sĩ ngay trong kinh thành ấy, ở hoa viên đầy an lạc. Tại đó, nàng vẫn sống theo chánh hạnh cho đến khi mạng chung, nàng được tái sinh ở cõi Trời Ba mươi ba, làm thị nữ của Bồ-tát.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, thân mẫu La-hầu-la là công chúa kia và Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền thân Paniya)

Ngụm nước kia còn là của bạn mình..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự điều phục các ác dục.

Ta biết rằng có một thời, năm trăm dân chúng thành Xá-vệ là gia chủ cùng thân hữu của đức Như Lai đã đi nghe Pháp và xuất gia thọ giới Tỷ-kheo. Trong khi sống ở Tinh xá trên con Ðường-lát-vàng kia, vào ban đêm các vị chìm đắm trong dục tưởng (các chi tiết cũng được biết như trong chuyện trước). Theo lệnh của đức Thế Tôn, Tôn giả Ànanda liền tập họp Tăng chúng lại. Bậc Ðạo Sư ngồi xuống ở chỗ đã được soạn sẵn và không cần hỏi Tăng chúng: “Có phải các ông chìm đắm trong dục tưởng chăng?”, mà Ngài dạy bảo Tăng chúng bằng những lời tổng quát:

– Này các Tỷ-kheo, không có việc gì được xem là lỗi lầm nhỏ nhặt cả. Một Tỷ-kheo phải chế ngự tất cả các dục mỗi khi chúng khởi lên. Các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã biết điều phục ác dục và đạt đến trí tuệ của một vị Ðộc Giác Phật.

Cùng với lời dạy này, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có hai người bạn trong một làng kia ở quốc độ Kàsi. Hai người ấy, ra đồng mang theo hai bình nước uống, họ đặt khuất bên đường trong lúc cuốc đất, mỗi khi khát nước lại đến đó uống. Một trong hai người ấy, khi uống nước, đã để dành nước trong bình của mình và uống nước trong bình kẻ kia. Buổi chiều khi ra khỏi rừng tắm rửa xong, kẻ ấy đứng suy nghĩ: “Ta có phạm lỗi gì hôm nay, hoặc do thân căn, hoặc do căn nào khác chăng?” Lúc đó, ông nhớ lại đã uống ngụm nước trộm như thế nào, và buồn phiền kêu lên:

– Nếu sự thèm khát này khởi lên trong ta, nó sẽ khiến ta phải tái sinh vào cõi dữ. Vậy ta quyết nhiếp phục lỗi lầm.

Vì vậy do chuyện uống ngụm nước trộm này mà ông dần dần đạt được thiền định và chứng đắc Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha) và ông đứng đấy suy nghĩ về Thắng trí của mình vừa đạt được.

Bấy giờ người kia sau khi tắm xong bảo:

– Này Hiền hữu, về nhà đi.

Ông đáp:

– Hiền hữu về nhà đi, nhà cửa chẳng có ý nghĩa gì đối với ta nữa! Ta là một vị Ðộc Giác Phật đây!

– Ô kìa, Ðộc Giác Phật giống như Hiền hữu ư?

– Thế thì các vị ấy ra sao?

– Các vị ấy có tóc dài cỡ hai ngón tay, đắp y vàng, sống ở động Nandamùla tận trên vùng Tuyết Sơn.

Người kia vỗ vào đầu; ngay lập tức các dấu vết của một người thế tục biến mất, một cặp y đỏ đắp quanh mình vị ấy, một dây đai màu vàng như lằn chớp cột quanh thắt lưng, tấm thượng y màu son đỏ vắt qua một bên vai, một y phấn tảo màu đen sẫm như đám mây trời bão nằm vắt qua một vai kia, một bình bát bằng đất màu vàng nâu treo lủng lẳng trên vai tả, ông đứng vững trên không, sau khi thuyết Pháp xong liền bay lên cao và không hề hạ xuống, cho đến khi bay tận hang núi Nandamùla.

Một người khác cũng sống trong một làng ở Kàsi, là một địa chủ, đang ngồi trong tiệm tạp hóa thì thấy một người nọ dẫn vợ đi tới. Vừa thấy nàng là một mỹ nhân dung sắc tuyệt thế, người kia lỡ phá giới đức và liếc nhìn nàng. Sau đó ông suy nghĩ: “Nếu tham dục này tăng trưởng, nó sẽ khiến ta đọa vào cõi ác thú”. Ông vừa tu tập tâm vừa làm phát khởi thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp, về sau cũng bay đến động Nandamùla.

Lại có hai cha con là dân làng Kàsi, cùng du hành với nhau. Tại lối đi vào rừng có nhiều kẻ cướp trú ẩn. Những quân cướp này, nếu bắt được cả hai cha con, thì sẽ giữ người con lại và bắt người cha đi về, bảo:

– Hãy đem tiền đến chuộc con trai ông.

Hoặc nếu là hai anh em, chúng sẽ giữ người em lại và bắt người anh đi về, nếu là hai thầy trò, chúng giữ ông thầy lại và bắt học trò đi về, người học trò muốn học hành sẽ đem tiền đến và chúng sẽ thả ông thầy.

Lúc bấy giờ, khi hai cha con này thấy bọn cướp đang nằm chờ, người cha bảo:

– Con đừng gọi ta là cha, ta cũng không gọi con là con đấy.

Hai người đồng ý như vậy, nên khi quân cướp đi đến, chúng hỏi hai người là gì đối với nhau, hai người đáp:

– Chúng ta chẳng là gì đối với nhau cả.

Rồi họ nói dối một điều đã nghĩ sẵn từ trước. Khi hai người ra khỏi rừng và nghỉ ngơi sau khi đã tắm rửa buổi tối xong, người con xem xét lại đức hạnh của mình và nhớ lời nói dối kia, nghĩ thầm: “Lỗi lầm này nếu tăng trưởng sẽ nhận chìm ta vào cõi ác. Ta quyết khắc phục lỗi lầm”. Sauđó người ấy tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp cho cha, xong cũng đi về hang Nandamùla.

Trong một làng ở Kàsi cũng có một địa chủ ra lệnh cấm sát sinh. Bấy giờ đến lúc người ta thường dâng lễ tế thần, một đám đông tụ tập lại và nói:

– Thưa chủ nhân, đây là lúc tế lễ, xin cho chúng tôi giết dê, lợn và những súc vật khác để dâng lễ cúng thần linh.

Ông bảo:

– Cứ làm như các anh đã làm trước kia.

Dân làng liền làm một việc đại sát sinh. Khi người ấy thấy một số lớn cá thịt, liền suy nghĩ: “Người ta đã giết hết các sinh vật này, tất cả cũng chỉ vì lời nói của ta mà thôi!”. Ông ăn năn hối hận, và khi đứng bên cửa sổ, ông tu tập thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không thuyết pháp xong, cũng đi về hang Nandamùla.

Một người địa chủ khác sống ở quốc độ Kàsi, cấm bán rượu mạnh. Một đám đông đến kêu gào:

– Thưa chủ nhân, chúng tôi phải làm sao? Ðây là tửu hội được yêu chuộng lâu đời rồi mà!

Người ấy đáp:

– Cứ làm như các anh vẫn làm trước kia.

Dân chúng tổ chức đại hội, uống rượu mạnh và gây sự lẫn nhau, kẻ gãy tay chân, người vỡ đầu sứt tai và phải chịu nhiều hình phạt về chuyện này. Người địa chủ thấy vậy, nghĩ thầm: “Nếu ta không cho phép chuyện này, thì dân chúng đã không phải chịu khổ sở như vậy”. Ông cảm thấy ăn năn dù chỉ một việc nhỏ nhặt kia. Sau đó ông tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, đứng trên không thuyết Pháp, khuyên bảo dân chúng phải tỉnh giác, rồi ông cũng đi đến hang Nandamùla.

Một thời gian sau, năm vị Ðộc Giác Phật đều giáng lâm tại cổng thành Ba-la-nại, để tìm đồ ăn bố thí. Thượng y và hạ y của các Ngài đều được đắp gọn ghẽ, với phong thái ung dung thanh thoát, các Ngài đi khất thực đến tận cung môn của vua. Rất hoan hỷ khi ngắm các vị ấy, ngài rước các vị ấy vào cung, rửa chân các vị và xoa dầu thơm, dâng lên các vị đủ món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi ngài ngồi xuống một bên, và nói với các vị như sau:

– Thưa các Tôn giả, các Ngài đang còn thanh xuân mà đã sống đời tu hành, thật vi diệu biết bao! Ở tuổi này các Ngài đã là ẩn sĩ, và các Ngài đã nhìn thấy nỗi khổ đau của ác dục. Nguyên nhân nào đã đưa đến hành động của các Ngài?

Các ngài đáp lại:

  1. Ngụm nước kia là của bạn mình,
    Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
    Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
    Phát nguyện về sau sẽ trở thành
    Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
    Vì e tái phạm tội phần mình.
  2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
    Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
    Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
    Ta quyết về sau tự phát nguyền
    Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
    Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
  3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
    Ta đành nói với bọn kia rằng:
    “Người này chẳng phải là thân phụ”,
    Ta biết ngay là nói dối gian,
    Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
    Về sau ta ước nguyện tu thân.. 
    (như trên)
  4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
    Chẳng phải là không thuận ý mình,
    Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
    Về sau ta đã phát tâm thành.. (như trên)
  5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
    Cùng nhau chè chén thật say sưa,
    Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
    Chẳng phải là không thuận ý ta.
    Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
    Về sau ta ước nguyện ly gia,
    Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
    Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
    Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.

Khi vua đã nghe xong lời giải thích của mỗi vị Phật, ngài nói lời tán thán:

– Thưa các Tôn giả, việc tu hành của các Ngài thật xứng đáng lắm thay.

Vua rất hoan hỷ về bài thuyết Pháp của các vị này. Ngài ban tặng các y trong, y ngoài cho các vị, cùng thuốc men xong xuôi, liền để các vị Ðộc Giác Phật ra đi. Các vị ấy cảm tạ ngài rồi trở về nơiđã xuất hành.

Sau đó vua sinh chán ghét các dục lạc, ngài ly tham, ngài vẫn dùng các món cao lương mỹ vị, song ngài không nói chuyện với bọn cung nhân, cũng không nhìn đến chúng. Nhàm chán khởi lên trong tâm, ngài lui về cung thất nguy nga của ngài ngồi đó nhìn thẳng vào bức tường trắng trước mặt cho đến khi ngài nhập thiền định, cảm nhận trong tâm ngài lạc thọ của thiền định. Mải mê trong nỗi hân hoan, ngài ngâm kệ chê bai tham dục:

  1. Ta quyết ly tham, diệt dục tham,
    Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
    Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
    Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,
    Lạc thú như vầy ta đã gặp,
    Ðây là lạc thú của tham tâm.

Lúc ấy bà chánh hậu của ngài suy nghĩ thầm: “Ðức vua đã nghe lời thuyết Pháp của các vị Ðộc Giác Phật, và nay ngài tự giam mình với nỗi chán chường trong cung điện thật nguy nga của ngài. Ta phải chăm sóc ngài mới được”. Vì thế bà đến cửa cung thất của vua, và đứng ở cửa, nghe rõ những lời cảm hứng đầy hoan lạc của ngài tỏ ý chê bai tham dục, bà bảo:

– Tâu Hoàng thượng, ngài vừa chê bai tham dục! Song chẳng có lạc thú nào bằng lạc thú của tham dục êm ái cả.

Sau đó, để tán thán tham dục, bà ngâm một vần kệ khác:

  1. Cựu lạc dịu êm thật khó lường,
    Thú nào hơn được thú yêu thương,
    Ai theo lạc thú này sau đạt
    Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!

Nghe vậy vua đáp:

– Này ác nữ nhân! Thật quái lạ, bà nói gì thế? Dục lạc phát xuất từ đâu đấy? Có nhiều khổ đau tiếp theo sau để trả giá cho dục lạc.

Cùng với các lời này, ngài ngâm các vần kệ cuối để tỏ lòng chê bai tham dục:

  1. Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,
    Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
    Ai theo ác dục này sau phải
    Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
  2. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
    Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
    Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
    Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
  3. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
    Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
    Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
    Dục tham còn độc hại hơn thôi.
  4. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
    Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
    Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
    Tham dục còn hơn chúng nữa mà.

Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp cho bà chánh hậu như vậy. Sau đó ngài tập họp triều thần lại và phán:

– Này các khanh, các khanh hãy cai trị vương quốc. Ta sắp từ giã thế tục.

Và ngay giữa tiếng khóc lóc kêu gào của quần chúng, ngài vụt lên cao, vừa đứng vững trên không, vừa thuyết Pháp. Rồi theo hướng gió ngài bay đến vùng Tuyết Sơn cao xa nhất, ở một nơi đầy an lạc, ngài dựng một am thất, tại đấy ngài sống đời của một bậc hiền trí cho đến mạng chung, ngài được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói thêm:

– Này các Tỷ-kheo, không có gì gọi là lỗi lầm nhỏ mọn cả, ngay đến những lỗi nhỏ nhất cũng phải được người trí điều phục.

Rồi Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc bài giảng, năm trăm vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn, mẹ của Ràhulà (La-hầu-la) là bà chánh hậu và Ta là vị vua kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền thân Yuvanjana)

Con xin đảnh lễ đấng Quân vương..

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Một ngày kia, các Tỷ-kheo tụ họp trong Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, một vị Tỷ-kheo bảo vị kia, đấng Thập Lực trước kia hẳn có thể sống tại gia, có thể làm một vị Chuyển luân Thánh vương ở giữa Ðại thế giới đầy đủ báu vật, vinh quang với bốn Thần lực siêu phàm, được đám vương tử vây quanh hơn ngàn vị. Tuy thế, Ngài đã từ bỏ mọi cảnh vinh quang ấy khi Ngài nhận thấy mối nguy hiểm nằm trong tham dục. Nửa đêm, cùng với Channa (Xa-nặc), Ngài cỡi vương mã Kanthaka (Kiền-trắc) của Ngài và ra đi. Trên bờ sông Anomà, Dòng Sông Vẻ vang ấy, Ngài từ giã thế tục và suốt sáu năm liền, Ngài sống khổ hạnh ép xác, sau đó Ngài tự tu tập và chứng đắc Chánh Ðẳng Giác.

Tăng chúng nói với nhau như vậy về công hạnh của đức Phật. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, trong lúc ngồi đây, các ông đang nói về vấn đề gì?

Tăng chúng thưa với Ngài. Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai làm đại sự xuất thế. Ngày xưa, Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở vương quốc Ba-la-nại rộng đến mười hai dặm.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Sabbadatta cai trị thành Ramma. Kinh thành mà nay ta gọi là Ba-la-nại đã được gọi là Sarundhana trong tiền thân Udaya số 458, cũng là Sudassana trong tiền thân Cullasutasoma số 525, hay là Brahmavaddhana trong tiền thân Sonandana số 532, và là Pupphavati trong tiền thân Khandahàla số 542. Còn trong tiền thân Yuvanjana này, nó lại có tên là thành Ramma. Như vậy tên đó thay đổi theo nhiều hoàn cảnh.

Thời ấy vua Sabbadatta có một ngàn vương tử, và ngài phong chức phó vương cho Thái tử Yuvanjana.

Một sáng sớm kia, thái tử ngự lên vương xa lộng lẫy của chàng trong quang cảnh cực kỳ uy nghi, chàng nhàn du trong vườn thượng uyển. Khắp các đỉnh cây, ngọn cỏ, đầu cành, trên các mạng nhện giăng tơ qua các đầu ngọn lau, chàng thấy các giọt sương lủng lẳng như vô số xâu chuỗi ngọc trai. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, cái gì đây?

– Tâu điện hạ, đây là chất lỏng rơi xuống trong mùa lạnh, mà người ta gọi là sương mai.

Thái tử tiếp tục du ngoạn vui chơi trong ngự viên trọn ngày hôm đó. Về chiều, khi chàng quay lại lối cũ, chàng không còn thấy hạt sương nào nữa. Chàng hỏi:

– Này hiền hữu quản xa, những hạt sương đâu rồi? Nay ta không còn thấy chúng nữa.

Vị kia đáp:

– Tâu điện hạ, khi mặt trời lên cao, sương tan hết và chìm xuống đất.

Nghe vậy, thái tử thất vọng bảo:

– Ðời người ta cũng được tạo thành chẳng khác gì các giọt sương mai trên ngọn cỏ. Ta cần phải thoát khỏi gánh nặng bức bách của bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Ta phải từ giã song thân và rời thế tục.

Như vậy là do nhân duyên các giọt sương mai, chàng nhận thức ba cõi sinh hữu (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như thể đang ở trong ngọn lửa cháy bừng. Khi chàng về cung, chàng vào yết kiến phụ vương trong Ðại pháp đình nguy nga của ngài. Ðảnh lễ vua cha xong, chàng đứng sang một bên và ngâm vần kệ đầu để xin phép vua cha được rời thế tục:

  1. Con xin đảnh lễ đấng quân vương,
    Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,
    Hoàng thượng, con mong rời thế tục,
    Xin hoàng thượng chẳng chối từ con.

Kế đó vua ngâm vần kệ thứ hai để khuyên can chàng:

  1. Con có mơ gì, hỡi Dũ-vân,
    Cha ban tròn vẹn mọi cầu mong,
    Nếu ai làm hại, cha che chở,
    Con chớ làm tu sĩ ẩn thân.

Nghe thế, thái tử ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chẳng có ai làm hại đến con,
    Ước mơ con đạt được vuông tròn,
    Song con muốn kiếm nơi an trú,
    Mà tuổi già không phá mỏi mòn.

Bậc Ðạo Sư ngâm nửa vần kệ để giải thích vấn đề này:

  1. Thái tử tâu vầy với phụ vương,
    Vua cha liền phán bảo cùng con:
    Nửa vần kệ sau do đức vua ngâm:
    “Ðừng rời thế tục, này vương tử,
    Dân chúng kinh thành thảy khóc thương”.

Vương tử lại đáp vần kệ này:

  1. Ðại đế, đừng làm trẻ phải xa,
    Cuộc đời không tục lụy phù hoa,
    Con e say đắm nhiều tham dục
    Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già.

Khi nghe nói điều này, vua cha phân vân do dự. Sau đó, mẫu hậu được tin:

– Tâu lệnh bà, thái tử đang xin pháp hoàng thượng để xuất gia.

Bà hỏi:

– Ngươi nói gì thế?

Tin ấy khiến bà ngạt thở, liền ngự vào chiếc kiệu bằng vàng, bà bảo đi nhanh đến đại pháp đường và ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Mẹ van con đó, hỡi con thân,
    Và mẹ mong con phải ở gần,
    Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,
    Con đừng rời bỏ chốn phàm trần
    .

Khi nghe vậy, thái tử ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương,
    Khi mặt trời lên rực ánh dương,
    Cũng vậy là đời người thế tục,
    Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương.

Chàng nói vậy xong, bà vẫn van xin chàng mãi, với mục đích ngăn cản chàng. Sau đó, bậc Ðại sĩ tâu với vua cha vần kệ thứ tám:

  1. Bảo người khiêng kiệu, hãy cùng nâng!
    Ðừng để mẹ già cứ cản ngăn
    Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,
    Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân!

Khi vua cha nghe con nói, ngài phán:

– Này ái hậu, hãy lên kiệu về cung thường lạc của ta mà an nghỉ.

Trước lệnh của vua, đôi chân vương hậu quỵ xuống, rồi bà được đám cung nữ vây quanh dìu bà về. Khi bước vào hậu cung, đứng nhìn về phía đại pháp đường, bà băn khoăn hỏi tin tức con mình. Sai khi mẫu hậu đi rồi, Bồ-tát lại xin phép vua cha lần nữa. Vua không thể từ chối chàng được, liền phán:

– Này thái tử thân yêu, cứ làm theo ý nguyện của con và từ bỏ thế tục.

Khi vừa nghe cha chấp thuận điều này, tiểu hoàng đệ của Bồ-tát là vương tử Yudhitthila, đến đảnh lễ vua cha, và cũng xin phép theo đời xuất gia như thế, vua liền bằng lòng ngay.

Cả hai vị vương tử từ biệt vua cha và giờ đây, sau khi từ bỏ mọi dục lạc thế gian, hai vị ra đi từ đại pháp đường giữa đại chúng. Chánh hậu nhìn theo bậc Ðại sĩ và than khóc:

– Thái tử đã từ giã thế tục, kinh thành Ramma này sẽ trống rỗng.

Rồi bà ngâm đôi vần kệ:

  1. Nhanh lên, cầu hạnh phúc, con ôi!
    Ta chắc Ram-ma trống vắng thôi,
    Ðại đế Sab-ba vừa chấp thuận,
    Dũ-vân thái tử xuất gia rồi.
  2. Thái tử, đại huynh giữa cả ngàn,
    Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,
    Từ đây vương tử oai hùng đã
    Ðắp chiếc y vàng bỏ thế gian.

Bồ-tát không đi ngay lên đường tu hành. Không, trước tiên ngài đến từ biệt song thân, rồi cùng với tiểu đệ là vương tử Yudhitthila, ngài rời kinh thành và bảo đám đại chúng đang theo sau hai vị phải quay về, còn hai vị tiến lên vùng Tuyết Sơn. Tại đó, hai vị dựng lên một thảo am ở một chốn đầy an lạc và hành trì cuộc đời của bậc hiền nhân thanh tịnh tu tập thiền định hướng thượng. Hai vị sống suốt đời bằng các củ, quả rừng rồi được sinh lên cõi Phạm thiên.

Vấn đề này được giải thích qua vần kệ cuối cùng phát xuất từ trí tuệ tối thắng của đức Phật:

  1. Vương tử Dũ-thi với Dũ-vân,
    Sống đời thanh tịnh của hiền nhân,
    Giã từ vương phụ và vương mẫu,
    Chặt đứt làm đôi xích tử thần.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu Như Lai từ bỏ vương quốc để đi theo đời tu hành, mà ngày xưa cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thuở ấy, song thân trong hoàng tộc ngày nay là vương phụ và mẫu hậu, Ànanda là tiểu đệ Yudhitthila và thái tử Yuvanjana chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Vương Dasaratha (Tiền thân Dasaratha)

Lak-kha hiền đệ lẫn Si-ta..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người địa chủ có cha chết.

Khi người cha từ trần, lòng người ấy tràn ngập đau buồn bỏ dở mọi công việc của mình, ông chìm đắm trong nỗi u sầu. Vào một buổi sáng, bậc Ðạo Sư nhìn xuống thế gian, nhận thấy người ấy đã đến thời kỳ thành thục để đắc quả Dự Lưu. Hôm ấy khi đã đi khất thực tại Xá-vệ, và thọ thực xong, Ngài bảo các Tỷ-kheo lui về, rồi Ngài đem theo một Tỷ-kheo trẻ, đi đến nhà người ấy. Ngài chào ông và nói với ông trong lúc Ngài ngồi đó bằng những lời ngọt ngào như mật:

– Này cư sĩ, ông đang sầu muộn phải chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con đang buồn vì cha con mất!

Bậc Ðạo Sư bảo:

– Này cư sĩ, các bậc trí nhân ngày xưa hiểu rõ Tám pháp của thế giới này (được và mất, vinh và nhục, khen và chê, lạc và khổ), nên khi cha mất, các ngài không thấy đau buồn, dù chỉ mảy may.

Rồi theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, tại Ba-la-nại, một vị đại vương mệnh danh Dasaratha, từ bỏ các ác đạo và cai trị theo Chánh pháp. Trong số mười sáu ngàn cung phi, vị chánh hậu sinh hạ hai vương tử và một công chúa; thái tử được đặt tên là Ràma Pandita hay hiền giả Ràma. Vị thứ hai được đặt tên Lakkhana hay Cát Tường và tên công chúa là Sità hay Thanh Lương.

Theo thời gian chánh hậu qua đời. Lúc bà từ trần, vua bị nỗi đau buồn xâm chiếm trong một thời gian, nhưng khi được triều thần thúc giục, ngài cử hành tang lễ bà xong, lại phong cho một vi vương phi khác lên làm chánh hậu. Bà này được vua hết sức sủng ái. Sau đó bà thụ thai, được vua chăm sóc rất ân cần chu đáo và sinh hạ một hoàng nam, đặt tên là vương tử Bharata.

Vua rất yêu quý vương tử ấy và bảo chánh hậu:

– Này ái khanh, ta ban cho nàng một ân huệ, nàng hãy chọn đi.

Bà nhận đặc ân trên, nhưng xin vua cho bà hoãn lại sự lựa chọn ấy một thời gian. Khi vương nhi lên bảy tuổi, bà đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu thánh thượng, ngài đã hứa ban một đặc ân cho vương tử, con của thần thiếp, giờ đây xin ngài ban cho thần thiếp được chăng?

– Ái khanh hãy chọn đi – Vua phán.

– Tâu thánh thượng – bà bảo – xin ban vương quốc này cho con thần thiếp.

Vua tỏ vẻ bất cần đối với bà:

– Lui ra ngay, này ác nữ nhân! Ngài phán một cách giận dữ. Hai vương nhi của ta sáng rực như hai ngọn lửa hồng, ngươi muốn giết chúng đi rồi đòi ngai vàng cho con của ngươi đấy chăng?

Bà hoảng sợ chạy về cung thất nguy nga của bà, rồi các ngày tiếp theo, lại cố xin vua đặc ân ấy mãi. Vua không chấp thuận ban cho bà ân huệ ấy. Ngài nghĩ thầm: “Nữ nhân thường vong ân và phản bội, ác phụ này có thể dùng chiếu chỉ giả mạo hay hối lộ gian trá để sai giết các con ta”. Vì vậy ngài cho triệu hai con đến và kể hết mọi việc cho con nghe, rồi phán:

– Này hai vương nhi, nếu các con ở đây, chắc tai họa có thể xảy ra cho các con. Vậy hãy qua vương quốc bên cạnh ta, hoặc vào rừng, rồi khi thân ta đã được hỏa táng, hãy trở về thừa kế vương vị thuộc về gia tộc của các con.

Sau đó ngài triệu các thầy tướng số đến hỏi về thọ mạng của ngài. Họ tâu rằng ngài có thể sống thêm mười hai năm nữa. Rồi ngài bảo:

– Này các con, sau mười hai năm các con phải trở về và giương cao chiếc lọng của hoàng gia.

Hai vương tử hứa lời xong và vừa đi khỏi cung điện vừa khóc lóc. Công nương Sità nói:

– Ta cũng sẽ đi cùng hai vương huynh.

Nàng vào từ biệt phụ vương, vừa ra đi vừa khóc lóc.

Cả ba anh em lên đường giữa đám đông dân chúng. Ba vị bảo dân chúng lui về, rồi tiến lên chođến khi đi tận vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ở một nơi có nước chảy nhiều, và thuận tiện để hái quả rừng, hai vị dựng am tu và sống tại đó bằng quả cây.

Trí giả Lakkhana và Sità nói với trí giả Rama:

– Ðại hiền huynh ở địa vị thân phụ của chúng em, vậy xin ở lại trong am và chúng em sẽ đi hái quả về nuôi hiền huynh.

Chàng đồng ý. Từ đó hiền giả Rama ở tại nhà, còn hai em cùng đi mang quả rừng về nuôi chàng.

Ba vị sống tại đó như vậy và nuôi thân bằng quả rừng hoang dại, song vua Dasaratha héo mòn vì nhớ các con nên từ trần vào năm thứ chín. Trong lúc cử hành tang lễ vua, hoàng hậu ra lệnh giương chiếc lọng phong vương cho con trai bà là vương tử Bharata. Nhưng triều thần bảo:

– Các vị vương tử chúa tể của chiếc lọng này đang ở trong rừng.

Nên đại chúng không cho phép việc ấy. Vương tử Bharata lại bảo:

– Ta sẽ đi tìm đại vương huynh Ràma trong rừng về và giương chiếc lọng phong vương cho ngài.

Mang theo năm biểu tượng của vương quyền (bảo kiếm, lọng trắng, vương miện, đôi hài và cái quạt bằng lông đuôi trâu rừng), chàng lên đường cùng một đoàn hộ tống đầy đủ bốn đạo quân (voi, kỵ mã, xe, bộ binh), đến nơi ba vị đang trú ngụ. Không xa đó mấy, chàng ra lệnh cắm trại, rồi cùng vài triều thần đi đến viếng vùng ẩn am, vào lúc hiền giả Lakkhana cùng Sità đã đi vào rừng.

Hiền giả Ràma đang ngồi ở cửa am, vô tư và thanh thản như một pho tượng bằng vàng ròng vững chắc. Vị vương tử đến gần ngài đảnh lễ rồi đứng một bên, kể cho ngài nghe mọi việc xảy ra ở vương quốc, vừa quỳ xuống chân ngài cùng đám triều thần vừa òa lên khóc nức nở. Hiền giả Ràma không buồn cũng không khóc, tâm trí ngài không còn xúc động nữa.

Sau khi Bharata đã hết khóc và ngồi xuống, mãi đến chiều hai vị kia mới trở về với mớ quả rừng. Hiền giả Ràma suy nghĩ: “Hai em kia còn trẻ, chúng không có trí tuệ tỉnh giác như ta. Nếu thình lình chúng được nghe tin rằng phụ vương đã băng hà, nỗi đau khổ sẽ lớn quá mức chúng chịu đựng, ai biết được tim chúng chẳng tan nát ra? Vậy ta sẽ dụ chúng bước xuống nước rồi tìm phương tiện tỏ bày sự thật. “Rồi vừa chỉ cho hai em một nơi ở phía trước có nước, ngài bảo:

– Các em đi ra ngoài lâu quá, vậy đây là cách để các em hối lỗi. Hãy bước xuống vũng nước kia và đứng đó.

Rồi ngài ngâm nửa vần kệ:

  1. Lak-kha hiền đệ, lẫn Si-tà,
    Bước xuống ao kia cả đấy mà.

Chỉ một lời thế là đủ, hai vị bước xuống nước và đứng đó. Lát sau ngài báo tin cho hai em bằng cách ngâm nửa vần kệ tiếp:

Vương tử Bha-ra vừa nói rõ
Da-sa đại đế đã băng hà.

Khi hai vị nghe tin vương phụ đã băng hà, liền ngất xỉu. Ngài lập lại tin ấy, hai vị lại ngất xỉu, đến lần thứ ba, hai vị vẫn ngất đi. Các triều thần liền đỡ họ dậy và đem họ ra khỏi nước rồi đặt họ lên đất khô ráo. Khi hai vị đã được an ủi khuyên lơn, cả hai vẫn ngồi khóc lóc, kêu gào. Lúc ấy vương tử Bharata suy nghĩ: “Vương huynh Lakkhana và vương tỷ Sità không thể nào ngăn nỗi sầu bi khi nghe tin phụ vương từ trần, song hiền giả Ràma chẳng than khóc kêu gào gì cả. Ta không biết nguyên nhân gì khiến vương huynh chẳng sầu muộn. Ta sẽ hỏi xem”.

Rồi chàng ngâm vần kệ thứ hai hỏi:

  1. Cho biết, Rà-ma, bởi lực gì,
    Gặp buồn, huynh lại chẳng sầu bi?
    Lòng huynh sầu muộn không tràn ngập,
    Dù được tin vương phụ mất đi!

Sau đó, Ràma giải thích lý do ngài không cảm thấy sầu bi bằng cách đáp lời:

  1. Khi chẳng làm sao giữ vật nào,
    Dù cho người ấy có kêu gào,
    Vậy nên người trí đầy thông tuệ
    Phải tự hành mình bởi cớ sao?
  2. Các đám thanh niên, kẻ trưởng thành,
    Người ngu cùng với bậc thông minh,
    Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
    Phải chết từng người giữa chúng sinh.
  3. Như ta đứng trước quả cây muồi,
    Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
    Cũng vậy phát sinh lòng sợ chết,
    Với phàm nhân ở khắp muôn người.
  4. Nhiều kẻ vừa trông thấy buổi mai,
    Có khi chiều tối đã lìa đời,
    Và người được thấy khi chiều xuống,
    Vừa mới sáng mai đã mất rồi.
  5. Nếu người ngu dại hoặc cuồng điên,
    Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên
    Khi nó tự hành bằng nước mắt,
    Bậc hiền làm giống kẻ kia liền.
  6. Cách này đây nó tự hành mình,
    Kẻ ấy gầy mòn lại tái xanh,
    Nước mắt chẳng làm gì ích lợi,
    Chẳng làm người chết được hồi sinh.
  7. Như nhà cháy rực lửa đang hồng,
    Ðược dập tắt liền với nước sông,
    Người mạnh, người hiền, người có trí,
    Những người hiểu giáo lý tinh thông,
    Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
    Khi có cuồng phong thổi bão bùng.
  8. Một khi sinh vật phải lìa trần,
    Một kẻ khác liền được thọ thân,
    Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
    Có cùng đặc tính một nguồn căn,
    Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc
    Vào những dây liên hệ buộc ràng.
  9. Người mạnh, tinh thông lý nhiệm mầu,
    Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
    Hiểu bản chất này chung của chúng,
    Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
    Khiến cho lòng trí mình dao động,
    Dù có khổ đau đến độ nào.
  10. Vậy ta nên cống hiến song thân,
    Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
    Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
    Ấy là hành động của hiền nhân.

Trong các vần kệ này, ngài đã giải thích tính Vô thường của vạn vật.

Khi hội chúng nghe Pháp thoại này của hiền giả Ràma làm sáng tỏ quy luật Vô thường, họ đều tiêu tan mọi nỗi sầu muộn. Sau đó vương tử Bharata kính chào hiền giả Ràma và van xin ngài nhận lãnh vương quốc ở Ba-la-nại. Hiền giả Ràma bảo:

– Này vương đệ, hãy đem Lakkhana và Sità về với vương đệ, và chính các vương đệ hãy chăm lo cai trị đất nước.

– Tâu chúa thượng, không được, xin chúa thượng đảm nhận quốc độ.

– Này vương đệ, phụ vương đã ban lệnh cho ta nhận lãnh quốc độ sau mười hai năm. Nếu ta về bây giờ, ta sẽ không thi hành lệnh vua ban. Vậy ba năm nữa ta sẽ về.

– Thế ai sẽ trị nước trong thời gian này?

– Chính vương đệ.

– Tiểu đệ không muốn thế.

– Vậy thì cho đến khi ta về, đôi hài này sẽ làm việc đó.

Ràma bảo, rồi tháo đôi hài rơm ra, ngài trao chúng cho vương đệ. Thế là ba vị nhận lấy đôi hài, từ tạ vị hiền nhân và lên đường về Ba-la-nại cùng với đoàn người hộ tống đông đảo.

Trong ba năm liền, đôi hài ấy cai trị vương quốc. Triều thần đặt chúng lên ngai, khi hội chúng xét xử một việc gì. Nếu vụ kiện được xét xử sai, đôi hài sẽ đập vào nhau. Và khi thấy dấu hiệu ấy, sự việc kia được xét lại, đến khi việc phán xét đúng đắn thì đôi hài nằm yên.

Khi thời gian ba năm ấy đã qua, bậc trí nhân ra khỏi rừng, đi đến Ba-la-nại, và vào ngự viên. Các vương tử nghe tin ngài đến, liền cùng một đoàn hộ tống đông đảo đi đến hoa viên, và phong Sità lên làm chánh hậu, rồi làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh) cho cả hai. Khi cử hành lễ quán đảnh như thế xong, bậc Ðại Sĩ đứng trên chiếc vương xa lộng lẫy với một đám đông vây quanh tiến vào kinh thành, đi diễu quanh một vòng theo hướng bên hữu, rồi ngự lên thượng lầu vĩ đại của cung điện nguy nga Sucandaka kia, ngài trị nước tại đó rất chân chánh trong mười sáu ngàn năm, và về sau đi lên cộng trú cùng hội chúng của chư Thiên.

Vần kệ này từ trí tuệ tối thắng giải thích phần kết thúc câu chuyện:

Trăm năm nhân với sáu mươi lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng
Dũng sĩ Rà-ma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn

*.

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, người địa chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, vua Suddhodana là vua Dasaratha, hoàng hậu Mahàmayà là mẫu hậu, mẹ của Ràhula là Sità, Ànanda là Bharata và Ta chính là hiền giả Ràma.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền thân Samvara)

Quả xưa thánh thượng đã tinh tường..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo không giữ tinh tấn.

Chúng ta biết đây là một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết Pháp, người này từ bỏ thế tục. Ðang khi hoàn thành mọi nhiệm vụ do các giáo sư và các vị giáo thọ đề ra, người ấy vừa học thuộc lòng các chi phần của Giới bổn Patimokka. Sau năm năm ông nói:

– Khi nào ta đã được chỉ dạy pháp môn nhập thiền định, ta sẽ vào an trú trong rừng.

Sau đó, ông từ giã các giáo sư, tiến vào một làng ở biên địa trong vương quốc Kosala. Dân chúng hài lòng với cách ăn ở của ông, nên ông dựng am lá ở đó được cung phụng đầy đủ. Vào mùa mưa, với nhiệt tâm tinh cần, nỗ lực phấn đấu, ông cố gắng đạt đến thiền định trong vòng ba tháng, song chẳng đạt được chút gì từ việc này cả. Sau đó ông suy nghĩ: “Quả thật ta là người đầy nhiệt tâm đối với các thế gian pháp nhất trong bốn hạng người được bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Ta còn làm gì nữa với đời sống trong rừng?” Rồi ông lại nghĩ thầm: “Ta sẽ trở về Kỳ Viên, trong lúc chiêm ngưỡng hảo tướng của đức Như Lai và nghe giọng Ngài thuyết Pháp dịu ngọt như mật, ta sẽ sống cả đời tại đó”.

Thế là người ấy giảm sút lòng tinh tấn, và lên đường lần hồi đi đến Kỳ Viên. Các giáo sư và các vị giám hộ của ông, cùng bạn bè thân thuộc hỏi ông về nguyên nhân trở về đây. Ông bảo cho các vị kia biết, đại chúng đều chê trách ông về việc này và chất vấn ông tại sao lại làm như vậy. Sau đó đại chúng dẫn ông đến yết kiến bậc Ðại Sư.

– Này các Tỷ-kheo – bậc Ðạo sư hỏi – tại sao các ông dẫn một Tỷ-kheo đến đây mà kẻ ấy không muốn?

Tăng chúng đáp:

– Tỷ-kheo này đã đến đây vì ông đã giảm sút tinh tấn.

– Việc này có đúng như họ nói với Ta chăng? Bậc Ðạo sư hỏi.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Người ấy đáp.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tại sao ông không còn tinh tấn nữa? Ðối với một người yếu kém và lười biếng, không có quả vị cao cả nào dành cho y trong giáo pháp này, y cũng không thể đạt Thánh quả. Chỉ những kẻ nào nỗ lực tinh cần mới hoàn thành việc ấy được. Ngày xưa ông đầy đủ dũng lực, lại dễ dạy bảo và vì thế dù là nhỏ tuổi nhất trong đám cả trăm vương tử của vua Ba-la-nại, ông cũng đã chiếm được chiếc lọng trắng nhờ tuân theo đúng lời giáo huấn của các bậc hiền nhân.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, vị trẻ tuổi nhất trong số một trăm vương tử của ngài tên là vương tử Samvara. Vua giao mỗi con trai ngài cho một vị cận thần đảm trách cùng với lời chỉ dẫn để dạy mỗi người những môn học cần phải học tập. Vị cận thần dạy cho vương tử Samavara là Bồ-tát, ngài thật sáng suốt, học rộng, làm tròn nhiệm vụ như người cha đối với vương tử kia. Trong khi mỗi vị vương tử được giáo dục như thế, các cận thần thường đem họ đến để vua cha thăm viếng. Ngài ban cho mỗi vị một thị trấn và truyền lệnh ra đi nhận chức.

Khi vương tử Samvara hoàn thành mọi việc học tập, chàng hỏi Bồ-tát:

– Thưa dưỡng phụ, nếu phụ vương đưa con đến một thị trấn thì con phải làm gì?

Ngài đáp:

– Này con, khi con được ban cho một thị trấn, con phải từ chối và tâu: “Tâu phụ vương, con là con út trong nhà, nếu đi nữa thì sẽ không còn ai dưới chân phụ vương, nên con muốn ở lại nơi đang sống đây dưới chân phụ vương thôi”.

Rồi một ngày kia, khi vương tử Samvara đến đảnh lễ ngài và đang đứng một bên, vua hỏi chàng:

– Này vương nhi, con đã học tập xong chưa?

– Tâu phụ vương, đã xong.

– Vậy con hãy lựa một thị trấn.

– Tâu phụ vương, nếu vậy thì quanh mình phụ vương sẽ trống vắng, vương nhi xin ở lại dưới chân phụ vương, chứ không đi đâu khác.

Vua rất hoan hỷ và bằng lòng ngay.

Sau khi chàng ở lại bêm mình vua cha, chàng hỏi Bồ-tát:

– Thưa dưỡng phụ, con phải làm gì nữa?

Ngài bảo:

– Hãy xin vua cha một ngự viên cũ.

Vương tử đồng ý và xin một hoa viên với số hoa quả trồng tại đó, chàng kết bạn cùng những người thế lực trong kinh thành. Chàng lại hỏi phải làm gì nữa. Bồ-tát bảo:

– Hãy xin vua cha cho phép phân phát tiền của khắp kinh thành.

Chàng làm theo và không hề bỏ quên một người nào, chàng phân phát tiền của khắp kinh thành. Chàng lại hỏi ý kiến Bồ-tát và sau khi xin vua cha chấp thuận, chàng phân phát thực phẩm trong cung điện, bọn nô tỳ, bầy ngựa và quân lính, không sót nơi nào; đối với sứ giả các nước ngoàiđến, chàng sắp đặt nơi ăn chốn ở cho họ, chàng ấn định thuế má cho các thương nhân, mọi việc gì cần thu xếp, chàng đều làm một mình cả.

Như vậy theo lời khuyên của bậc Ðại sĩ, chàng kết bạn với mọi người, cả những người sống trong gia đình cho đến những người không gia đình, mọi người trong kinh thành, các triều thần của quốc độ này cho đến đám ngoại nhân, nhờ sức thu hút của chàng kết hợp bằng hữu lại với chàng như thể một sợi dây sắt: chàng được mọi người yêu mến thiết thân.

Ðến khi vua lâm trọng bệnh trên vương sàng, triều thần hỏi ngài:

– Tâu chúa thượng, khi chúa thượng băng hà, chúng thần sẽ trao chiếc lọng trắng cho ai?

Ngài đáp:

– Này các hiền khanh, các vương tử của ta đều có quyền được chiếc lọng trắng, song các khanh hãy trao nó cho người nào làm hài lòng các khanh.

Vì vậy sau khi ngài băng hà, và khi lễ tang đã được cử hành xong, vào ngày thứ bảy, quần thần tụ họp lại và bảo:

– Tiên vương ra lệnh cho chúng ta trao chiếc lọng trắng cho người nào làm vừa lòng chúng ta. Vậy người mà tâm chúng ta hằng ao ước chính là vương tử Samvara.

Cho nên đại chúng giương chiếc lọng trắng che lên đầu chàng cùng với các dây tua bằng vàng, và chàng được cả vương tộc hộ tống lên ngôi.

Ðại vương Samvara tuân thủ lời khuyên răn của Bồ-tát nên cai trị rất đúng Chánh pháp.

Còn chín mươi chín vị vương tử hay tin vua cha từ trần và chiếc lọng trắng đã giương lên cho vương tử Samvara. Các vị bảo:

– Nhưng nó là em út trong nhà, chiếc lọng không thuộc về nó được. Chúng ta hãy giương chiếc lọng lên cho vị huynh trưởng của chúng ta.

Họ đều tập họp mọi lực lượng lại, và gởi thư đến Samvara, buộc chàng hoàn trả chiếc lọng nếu không thì sẽ giao chiến, sau đó các vị bao vây kinh thành. Vua báo tin này với Bồ-tát và hỏi phải làm gì bây giờ. Ngài đáp:

– Này đại vương, ngài không nên gây chiến với các vương huynh. Hãy chia bạc vàng của vua cha thành một trăm phần, rồi chín mươi chín phần đến các vương huynh cùng thông điệp này: “Xin hãy nhận phần tài sản của phụ vương vì tiểu đệ không muốn gây chiến với các vương huynh”.

Vua liền làm như thế.

Sau đo vị huynh trưởng, thái tử Uposatha, triệu tập các vương tử kia lại bảo:

– Này các hiền đệ, không ai có khả năng chiến thắng vị vua này được, và đây lại là em út của ta. Mặc dù trước đây, đó là kẻ thù của ta, nay không phải như vậy nữa, mà em ta gởi vàng bạc đến chúng ta, không muốn gây chiến với chúng ta. Giờ đây chúng ta không thể nào cùng một lúc giương cao chiếc lọng lên cho mọi người được, chúng ta hãy giương lọng lên cho một người thôi, hãy để một mình em út ta làm vua, vậy khi chúng ta gặp em ta, chúng ta sẽ giao trả vàng bạc của vương tộc cho em ta, và trở về thị trấn của mình.

Sau đó tất cả các vị ấy ngưng việc vây hãm kinh thành và đi vào trong thành, không còn là thù địch nữa. Vua bảo triều thần ra nghênh tiếp các vị và đại chúng đi đón các vương tử ấy. Các vương tử cùng đoàn tùy tùng đông đảo đi bộ vào, bước lên các bậc thềm của cung điện, hết sức khúm núm trước đại vương Samvara và ngồi xuống một chỗ thấp. Còn vua Samvara ngự trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng trông ngài thật uy nghi cao cả và rực rỡ huy hoàng; bất cứ nơi nào ngài nhìn đến, đại chúng đều rúng động toàn thân.

Thái tử Uposatha chiêm ngưỡng cảnh nguy nga lộng lẫy của đại vương Samvara, nghĩ thầm: “Ta chắc phụ vương ta biết rõ là vương tử Samvara sẽ làm vua sau khi ngài băng hà, nên ngài đã ban cho chúng ta các thị trấn mà chẳng cho vương đệ ta vùng nào cả”. Sau đó chàng ngâm ba vần kệ nói với vua:

  1. Quả xưa thánh thượng đã tinh tường,
    Bản chất tính tình của đại vương,
    Ân đã ban nhiều vương tử khác,
    Ðại vương lại chẳng được ban phần.
  2. Chính là vương phụ lúc sinh thời,
    Hay lúc thành tiên, đến cõi trời,
    Vì thấy lợi nhiều cho quốc độ,
    Nên vương tộc đã thuận theo lời.
  3. Hãy nói lực gì, Sam-va-ra,
    Ðại vương vượt hẳn cả hoàng gia,
    Sao vương huynh lại không đoàn kết,
    Ðể chiếm ngôi cao của đệ à?

Nghe vậy vua Samvara ngâm sáu vần kệ giải thích đặc tính của ngài:

  1. Ta chẳng bao giờ miễn cưỡng dâng
    Những gì xứng với đại hiền nhân,
    Sẵn sàng ban tặng đầy trân trọng,
    Ðảnh lễ, ta quỳ xuống dưới chân.
  2. Ta chẳng tỵ hiềm, muốn học luôn
    Mọi điều đức hạnh hợp công bằng,
    Các hiền nhân dạy điều lương thiện
    Trong ấy các ngài thấy lạc hoan.
  3. Ta vẫn thường nghe sự bảo ban
    Của nhiều bậc trí, đại hiền nhân,
    Tâm hồn ta hướng về lương thiện,
    Ta chẳng coi thường lời dạy răn.
  4. Voi chiến cùng nhiều đạo mã xa,
    Bộ binh và vệ sĩ vương gia,
    Ta không hề bớt phần công nhật,
    Mà trả tiền lương đủ mọi nhà.
  5. Quý tộc danh gia vẫn đến hầu,
    Quân sư tài trí thật là cao,
    Họ thường khen ngợi rằng lương thực,
    Quả thật Ba-la-nại rất giàu.
  6. Thịnh vượng như vậy, các lái buôn,
    Từ nhiều quốc độ tới lui luôn,
    Ta che chở chúng – Này vương tử,
    Sự thật, hiền huynh đã tỏ tường.

Thái tử Uposatha nghe kể rõ đức tính của vua liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ðạo đức vượt hơn gia tộc mình,
    Và em cai trị thật công bình,
    Sam-va tài trí càng cao trọng,
    Phục lạc ban đều các đại huynh.
  2. Vương huynh rày bảo vệ kho tàng,
    Vương đệ sau này sẽ vạn an,
    Tránh khỏi quân thù như Ðế Thích
    Mình vàng tránh các La-hầu-vương.

Vua Samvara tiếp đãi các vương huynh rất trọng thể. Các vị ở lại cùng vua một tháng rưỡi, rồi bảo vua:

– Tâu đại vương, chúng thần muốn đi xem có trộm cướp nào đặt chân lên lãnh thổ của chúng thần chăng. Cầu mong triều đại này được vạn vạn phúc!

Các vị ấy lại ra về lãnh thổ của mọi người. Còn vua theo lời dạy của Bồ-tát, nên khi mạng chung, ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài nói thêm:

– Này Tỷ-kheo, xưa kia ông đã theo lời dạy bảo, tại sao nay ông lại không tiếp tục nỗ lực tinh cần?

Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đã được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, Tỷ-kheo này là vua Samvara, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thái tử Uposatha, các vị trưởng lão và cao niên là các vương huynh kia, các đệ tử của đức Phật là đám tùy tùng của các vị ấy, và Ta chính là vị cận thần đã khuyến giáo vua.

-ooOoo-

  1. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền thân Suppàraka)

Những người kia mũi nhọn như dao..,

Chuyện này bậc Ðại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự viên mãn của trí tuệ tối thắng.

Một ngày nọ, chúng ta nghe kể rằng về buổi tối, các Tỷ-kheo đang đợi đức Như Lai đến thuyết Pháp cho Tăng chúng, và trong lúc ngồi tại chánh pháp đường, các vị nói với nhau:

– Này Tỷ-kheo, quả thật bậc Ðạo Sư có trí tuệ vĩ đại! Trí tuệ quảng bác! Trí tuệ mẫn tiệp, Trí tuệ linh hoạt! Trí tuệ tinh xảo! Trí tuệ uyên thâm! Trí tuệ Ngài đáp ứng đúng nơi đúng lúc! Trí bao la như thế giới, như đại dương vô tận, như bầu trời trải rộng mênh mông: khắp cả xứ Diêm-phù-đề không một bậc trí nhân nào có thể sánh bằng đấng Thập Lực, như một đợt sóng nổi lên trên đại dương không thể chạm đến bờ được, hoặc nếu chạm vào bờ, sóng kia sẽ vỡ tan. Cũng vậy, không một người nào có thể đạt đến trí tuệ bằng đấng Thập Lựïc, hoặc nếu kẻ ấy đến chân bậc Ðạo Sư thì sẽ vỡ tan.

Bằng những lời ấy Tăng chúng tán thán Trí tuệ tối thắng của đấng Thập Lục. Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói gì trong khi ngồi đây?

Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ trí tuệ. Ngày xưa ngay khi trí tuệ chưa viên thành Chánh giác, Ngài cũng đã sáng suốt thông minh. Mặc dù mù lòa, Ngài cũng biết qua các dấu hiệu của đại dương là ở trong đại dương có chôn giấu các loại ngọc này nọ.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ một vị vua mệnh danh Bharu trị vì trong quốc độ Bharu. Có một thị trấn bên hải cảng được đặt tên là Bharukacha hay là Ðầm Bharu. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh ra trong gia đình một thuyền trưởng ở tại đó, ngài rất khả ái, với làn da màu vàng nâu. Cha mẹ đặt tên ngài là Suppàraka-Kumàra.

Ngài lớn lên, xuất sắc khác thường, và ngay khi chỉ mới được mười sáu tuổi, ngài đã hoàn toàn tinh thông nghệ thuật hàng hải. Sau đó khi thân phụ mất, ngài cầm đầu đám thủy thủ và miệt mài với nghề hàng hải, ngài thật thông minh sáng suốt, khi ngài lên tàu rồi thì không hề có chiếc tàu nào đến làm hại được.

Theo thời gian, ngài bị thương vì nước mặn nên đôi mắt ngài mất cả thị giác. Sau sự kiện ấy, dù ngài là thuyền trưởng của đám thủy thủ, ngài không còn đeo đuổi sự nghiệp thương mãi nữa, mà quyết định về phục vụ vua, ngài đến yết kiến vua với mục đích ấy, và vua phong cho ngài chức hội thẩm đánh giá các báu vật. Từ đó ngài định giá trị các voi báu, ngọc báu và châu báu.

Một hôm, một con voi được đem trình lên vua, da voi màu đá đen, nên có thể được làm vương tượng. Vua liếc nhìn voi rồi ra lệnh đem nó đi đến trình diện với bậc trí giả. Quân hầu liền dẫn con vật đến gặp ngài. Ngài sờ tay lên khắp mình voi và bảo:

– Con voi này không xứng đáng làm quốc tượng. Nó có đặc tính của một con vật bị dị tật ở phía sau. Khi voi mẹ sinh ra nó, đã không đủ sức mang nó lên vai, nên để nó ngồi xuống đất, vì vậy nó bị tật nguyền ở chân sau.

Họ chất vấn những người đem voi đến, và bọn ấy trả lời rằng bậc trí giả đã nói đúng sự thật. Khi vua nghe nói chuyện kia, lòng rất hoan hỷ và ra lệnh ban cho bậc trí giả tám đồng tiền vàng.

Một ngày khác, người ta đem một con ngựa dâng lên để làm vương mã. Con vật này cũng được dẫn đến bậc trí giả. Ngài lấy tay sờ khắp mình ngựa rồi nói:

– Con vật này không thích hợp để làm vương mã cho đức vua ngự. Vào ngày nó sinh ra, ngựa mẹ chết đi, nên do thiếu sữa mẹ, nó không lớn lên đầy đủ.

Lời nói này của ngài cũng đúng sự thật nữa. Khi nghe được chuyện ấy, vua rất đẹp ý, phán bảo đem tặng ngài tám đồng tiền nữa.

Vào một ngày khác, một chiếc xe được đem đến để làm vương xa. Vua cũng đưa xe này đến ngài. Ngài lấy tay rờ khắp xe và bảo:

– Chiếc xe này được làm bằng gỗ rỗng, nên không thích hợp với đức vua.

Lời nói này của ngài cũng đúng như các lời khác. Vua lại một phen hài lòng khi nghe chuyện này, nên ban thêm cho ngài tám đồng nữa. Một lần nữa có người đem dâng vua một tấm thảm quý có giá trị lớn, vua liền đưa nó đến ngài như lần trước. Ngài sờ khắp tấm thảm, rồi bảo:

– Ở đây có một chỗ mà con chuột đã cắn một lỗ.

Họ xem kỹ và thấy chỗ đó, liền tâu với vua. Vua đẹp ý lại bảo cho ngài tám đồng tiền nữa.

Lúc bấy giờ bậc trí giả mới suy nghĩ: “Chỉ được có tám đồng vàng để xem những việc kỳ diệu như thế đấy. Ðây là món tiền tặng cho thợ hớt tóc, chắc hẳn vua này là cậu bé thường hớt tóc! Tại sao ta phải phụng sự một vị vua như thế chứ? Ta sẽ trở về nhà riêng của mình”. Thế là ngài trở về hải cảng Bharukaccha và sống tại đó.

Lúc ấy có vài thương nhân chuẩn bị một chiếc thuyền và đang đi tìm một thuyền trưởng. Họ suy nghĩ: “Ngài Suppàraka thông minh kia là một bậc trí giả tài ba, có ngài trên tàu thì không con tàu nào đến hại nữa. Dù ngài mù lòa, bậc trí giả Suppàraka vẫn là người tuyệt hảo”. Vì thế họ đi đến ngài và mời ngài làm thuyền trưởng.

– Này các hiền hữu – ngài đáp – ta mù rồi, làm sao lái thuyền các bạn được?

– Thưa Tôn giả, quả ngài mù thật đấy – các thương nhân bảo – song ngài là người tài giỏi nhất.

Vị họ cứ năn nỉ ngài mãi không ngớt nên cuối cùng ngài chấp thuận.

– Như các bạn đã nói với ta – ngài bảo – thì ta sẽ làm thuyền trưởng của các bạn.

Sau đó, ngài bước lên chiếc thuyền của họ.

Họ lái thuyền ra giữa đại dương. Suốt bảy ngày liền, thuyền đi không gặp rủi ro nào, rồi một ngọn gió trái mùa nổi lên. Thuyền trôi dạt bốn tháng trên vùng đại dương hoang dã, cho đến lúc vào được một nơi gọi là Biển Khuramàla (Bãi Dao nhọn hoắc). Tại đây loài cá có thân như người với mõm nhọn hoắc như lưỡi dao, nhào lộn dưới nước. Các thương nhân quan sát loài cá này, vừa hỏi bậc Ðại Sĩ biển này tên gì, vừa ngâm vần kệ đầu:

  1. Ðám người kia mũi nhọn như dao,
    Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,
    Hãy nói, Sup-pà, cho chúng bạn,
    Biển này được biết với tên nào?

Bậc Ðại sĩ nghe câu nói này, liền ôn lại trong trí các kiến thức thủy thủ của ngài, rồi đáp qua vần kệ thứ hai:

  1. Này các thương nhân cảng Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cá Khu-ra đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Lúc bấy giờ đại dương này có nhiều kim cương. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ rằng nếu ngài bảo chúng bạnđây là biển kim cương, họ sẽ làm chìm tàu do lòng tham hốt nhiều kim cương. Vì thế, ngài không nói gì cả, song sau khi đưa thuyền đến, ngài lấy một sợi dây thừng và thả lưới xuống như thể bắt cá. Với dây này, ngài đã hốt được một mớ kim cương và dấu trong thuyền, rồi ngài lựa những thứ ít giá trị quăng xuống biển.

Chiếc thuyền đi qua vùng biển này, đến một biển khác tên là Aggimàla (Vùng Lửa cháy). Biển này tỏa ra ánh sáng như thể một ngọn lửa đang bừng cháy, như mặt trời đúng ngọ. Các thương nhân hỏi han ngài qua vần kệ:

  1. Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,
    Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,
    Sup-pa, xin nói cho bè bạn,
    Tên gọi là gì chốn đại dương?

Bậc Ðại sĩ đáp lại họ qua vần kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cả Ag-gi đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này chứa đầy vàng, cũng như trước, ngài lấy lên một mớ vàng và cất lên thuyền. Qua khỏi biển này con thuyền đi đến một biển cả tên là Dadhimàla (Vũng Sữa đông), óng ánh như sữa tươi hay sữa đông. Các thương nhân lại hỏi tên của biển qua vần kệ:

  1. Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,
    Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,
    Sup-pà, xin nói cùng bè bạn,
    Tên gọi là gì của biển khơi?

Bậc Ðại sĩ đáp lại chúng bằng câu kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðây là biển cả Da-dhi đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Trong biển này có rất nhiều bạc. Ngài lấy bạc theo cách như trước, rồi cất lên tàu. Chiếc thuyền đi qua biển này và đến một đại dương tên là Nilavannakusamàla (Thảm cỏ Kusa), có hình dáng một thảm cỏ kusa đen nhánh (cỏ cát tường) hay một cánh đồng lúa. Các thương nhân lại hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Kìa, biển xanh như cỏ cát tường,
    Tưởng như nhìn đám lúa nàng hương,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Tên gọi là gì của đại dương?

Ngài đáp lời qua vần kệ tiếp theo:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Ðại dương đây chính Ku-sa đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua
    .

Bấy giờ trong biển này có rất nhiều ngọc bích quý. Cũng như trước, ngài lấy một mớ ngọc và cất trên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền đi đến một biển tên gọi là Nalamàla (Bãi Lau sậy), có hình dáng một bãi lau sậy hay một rừng tre. Các thương nhân hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Kìa đại dương như một khóm lau,
    Khác nào ta thấy rặng tre đâu,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Biển cả này tên gọi thế nào?

Bậc Ðại sĩ đáp lại qua vần kệ sau:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Biển này tên gọi Na-la đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này đầy san hô với màu khóm tre, ngài lại hốt một mớ đá quý này và cất lên tàu.

Sau khi đi qua biển Nalamàla, các thương nhân đến một biển có tên là Valabhàmukha (Lòng chảo). Ở đây nước rút đi và dâng lên một phía, và như vậy nước rút đi ở mọi phía và dâng lên trên các vách đá thẳng đứng để lại một vùng như thể cái hố sâu. Một đợt sóng dâng tràn lên một phía, khác nào một bức tường: tai lại nghe một tiếng gầm thét khủng khiếp, tưởng chừng làm thủng màng tai hoặc vỡ cả tim ra. Khi thấy cảnh này, các thương nhân kinh hoảng và hỏi tên biển qua vần kệ:

  1. Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,
    Từ biển cả kia thật dị thường!
    Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng
    Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,
    Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
    Ðây gọi tên gì của đại dương?

Bồ-tát đáp lại qua vần kệ:

  1. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
    Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
    Va-la-bhà đại dương này đó,
    Thuyền của các người đã lạc qua.

Ngài nói tiếp:

– Này các hiền hữu, một khi thuyền vào trong biển Valabhàmukkhi này thì không thể nào trở về được. Nếu thuyền này vào đó, nó sẽ chìm và tan nát.

Bây giờ có cả bảy trăm mạng người trên thuyền này, họ đều sợ chết; nên họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết, chẳng khác nào tiếng kêu la của những kẻ đang bị đốt cháy trong chốn địa ngục tận cùng (Vô gián Ðịa ngục). Bậc Ðại sĩ nghĩ thầm: “Trừ ta ra, không ai có thể cứu mạng họ được. Ta quyết cứu họ bằng một lời thề chân lý”. Rồi ngài nói lớn:

– Này các hiền hữu, hãy mau mau tắm cho ta bằng nước hương thơm, mặc y phục mới cho ta, dọn ra một chén nước đầy và đưa ta đứng trước con thuyền.

Cả bọn vội làm như vậy. Bậc Ðại sĩ cầm chén nước đầy bằng cả hai tay, và đứng trước mũi thuyền, thực hiện một lời nguyện cầu chân lý trong khi ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Từ khi ta nhớ rõ về thân,
    Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,
    Không một người nào ta sát hại,
    Là điều ta đã biết tinh tường,
    Nều lời cầu nguyện này chân chánh,
    Mong ước thuyền về chốn vạn an.

Bốn tháng qua con thuyền đã du hành trong những vùng biển xa xôi nay dường như được ban cho thần lực siêu phàm, nên chỉ trong một ngày nó trở lại hải cảng Bharukaccha, vào tận trên đất liền cho đến khi dừng lại trước cửa nhà của vị thuyền trưởng kia, sau khi nhảy vọt qua một khoảng chừng một ngàn một trăm cubit (1 cubit = 45cm). Bậc Ðại sĩ phân phát cho đám thương nhân tất cả vàng bạc trân châu, san hô, kim cương và bảo:

– Số châu báu này là đủ cho các bạn rồi, vậy đừng du hành đường biển nữa.

Sau đó ngài thuyết Pháp cho họ và đến khi đã làm xong các việc bố thí và các thiện sự suốt đời, ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên giới.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Như Lai cũng rất thông thái như bây giờ vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Thời bấy giờ hội chúng của đức Phật là hội chúng thương nhân và Ta chính là Trí giả Suppàraka.

-ooOoo-

Chương XII

Phẩm MườI Hai Bài Kệ

  1. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền thân Culla – Kanàla)

Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Kunàla, số 536, tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền thân Bhadda-Sàla)

Ngài là ai đứng giữa không gian..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành thiện sự đối với họ hàng quyến thuộc của mình.

Tại Xá-vệ, trong nhà ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) bao giờ cũng đầy đủ thực phẩm cho năm trăm vị Tỷ-kheo và tại nhà bà Visàkhà (Tỳ-xá-khư) hay cung vua Kosala cũng vậy. Nhưng trong cung vua, dù thực phẩm đầy đủ mỹ vị cao lương, vẫn không ai tỏ ra thân thiết với Tăng chúng. Do đó Tăng chúng không bao giờ ăn uống tại cung vua mà chỉ đem thực phẩm ra về dùng tại nhà ông Cấp Cô Ðộc hay bà Visàkhà hay một thân hữu nào đó.

Một ngày kia, vua bảo:

– Một tặng vật vừa được mang lại, hãy đem đến cho các Tỷ-kheo.

Rồi ngài bảo đưa nó đến trai đường, song họ tâu rằng không có Tăng chúng trong trai đường. Vua hỏi:

– Thế Tăng chúng đi đâu rồi?

Họ đáp:

– Tăng chúng đang ngồi ăn uống tại nhà các thân hữu.

Vì thế, sau khi dùng điểm tâm xong, vua liền đến yết kiến bậc Ðạo sư, và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, loại thực phẩm nào là tối thắng?

Ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, thực phẩm của bằng hữu là tối thắng, ngay cả món cháo thiu được thân hữu đem cho cũng trở thành ngon ngọt.

– Như vậy, bạch Thế Tôn, Tăng chúng tìm được tình bằng hữu ở những người nào?

– Thưa Ðại vương, với các thân tộc của họ hay các dòng họ Thích-ca (Sakya).

Sau đó vua suy nghĩ giá như ngài chọn một thiếu nữ dòng Thích – ca làm chánh hậu, rồi Tăng chúng sẽ là thân hữu của vua, cũng như đối với thân tộc của Tăng chúng vậy.

Vì thế ngài đứng dậy trở về cung và gửi thông điệp đến thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) với mục đích này: “Hãy dâng cho trẫm một cô gái của quý quốc để làm cung phi, vì trẫm mong ước được kết thân với dòng họ của quí quốc”.

Khi nhận được thông điệp này, cả dòng họ Thích-ca tập họp lại và thảo luận kỹ lưỡng:

– Chúng ta hiện sống trong một vùng thuộc quyền của vua Kosala, nếu ta từ chối việc gả con gái, ngài sẽ nổi giận, còn nếu ta đem dâng con, thì phong tục dòng họ của ta sẽ bị phá vỡ, vậy ta phải làm gì đây?

Lúc ấy vương tử Mahànàma bảo:

– Xin đừng bận tâm việc này. Ta có một đứa con gái tên là Vàsabhakhattiyà. Mẹ nó là một nô tỳ, tên là Nàgamundà, nay nó chừng mười sáu tuổi, dung sắc mỹ lệ khác thường và tướng mạo tốt lành, lại thuộc dòng dõi quý tộc (Sát-đế-ly) về bên phía họ cha. Chúng ta sẽ đem gả nàng như một cô gái chính thống quý tộc.

Dòng họ Thích-ca chấp thuận, và cho mời các sứ giả vào, bảo rằng dòng họ này sẵn sàng gả con gái trong gia tộc, nên các sứ giả có thể mang nàng về nước ngay. Song các sứ giả suy nghĩ: “Các vị Thích-tử này vô cùng kiêu mạn về vấn đề dòng họ. Giả sử như các ngài gả một cô gái không thuộc dòng họ của các ngài và cứ bảo là đúng thế thì sao? Chúng ta sẽ không nhận nàng nào trừ ra người cùng ngồi ăn chung với các ngài”. Vì thế các sứ thần đáp:

– Ðược rồi, chúng thần sẽ nhận nàng. Song chúng thần sẽ chỉ nhận một nàng cũng ngồi dùng bữa với các ngài thôi.

Dòng họ Thích – ca sắp đặt một chốn ở cho các sứ thần, rồi băn khoăn không biết phải làm gì. Mahànàmà bảo:

– Bây giờ đừng bận tâm gì chuyện ấy nữa. Ta sẽ tìm cách. Vào giờ ta dùng bữa ăn, hãy đem Vàsabhakhattiayà, được phục sức thật lộng lẫy đến đây, rồi ngay khi ta đã ăn một miếng hãy đem đến một lá thư và nói: “Tâu chúa công, có vị vua kia gởi thông điệp đến chúa công, xin chúa công nghe thông điệp ngay bây giờ”.

Hội chúng đồng ý và khi ông đang dùng bữa, họ phục sức và trang điểm cho cô gái kia. Mahànàmà bảo:

– Hãy đưa ái nữ ta vào và cho con ta cùng dùng bữa với ta.

– Xin chúa công đợi một lát – họ thưa – nàng đang được trang điểm thật tề chỉnh.

Và chẳng mấy chốc họ đưa nàng vào. Nàng mong đợi được dùng cơm với vua cha, nên đặt tay vào cùng một đĩa thức ăn với cha nàng. Mahànàmà đã lấy xong một miếng và đã đưa vào mồm; ông vừa đưa tay ra lấy miếng khác thì họ đem vào một bức thư và nói:

– Tâu chúa công, có vị vua kia gởi thông điệp đến cho chúa công, xin chúa công hạ cố nghe thông điệp ấy ngay bây giờ.

Mahànàmà bảo:

– Này con yêu quý, con cứ dùng cơm đi nhé.

Rồi tay phải ông vẫn để trong đĩa, tay trái vừa cầm lá thư vừa nhìn vào đó. Trong khi ông xem bức thông điệp kia, cô gái vẫn tiếp tục ăn cơm. Khi nàng đã ăn xong, ông rửa tay và súc miệng. Các sứ thần tin chắc chắn nàng là con gái vị vương tử này, vì họ không đoán ra điều bí ẩn.

Do vậy Mahànàmà tiễn đưa con gái ra đi vô cùng trọng thể. Các sứ thần đem ngay về Xá-vệ và bảo nàng này là con gái chính thức của vương tử Mahànàmà. Vua rất hoan hỷ, ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật đẹp rồi đặt nàng ngồi lên một đám châu báu và cử hành lễ quán đảnh phong làm chánh hậu. Nàng được vua rất mực sủng ái.

Chẳng bao lâu hoàng hậu có thai, nên vua ra lệnh chăm sóc nàng thật chu đáo, và sau mười tháng nàng hạ sinh một hoàng nam, có màu da hoàng đồng. Và ngày đặt tên hài nhi, vua gửi chiếu thư đến tổ mẫu của ngài hỏi:

– Vàsabhakhattiyà đã sinh ra một hoàng nam, nàng là công chúa dòng họ Thích – ca, vậy sẽ đặt tên hài nhi là gì?

Lúc bấy giờ viên cận thần mang chiếu thư ấy hơi lãng tai, song lão cũng đi trình lại với bà tổ mẫu của vua. Khi bà nghe chuyện ấy, bà bảo:

– Ngay như khi Vàsabha chưa từng sinh ra một hoàng nam, nàng cũng đã là một người tuyệt thế, và nay nàng sẽ là ái hậu của vua.

Lão điếc này không nghe rõ tiếng “ái hậu” (Vallabhà) cho đúng, mà cứ tưởng bà bảo là “Vidùdabha”, nên lão về yết kiến vua, tâu với ngài rằng phải đặt tên hoàng tử là Vidùdabha. Vua tưởng đây hẳn là tên của một gia tộc cổ sơ nào đó, nên đặt tên con là Vidùdabha.

Sau đó, hoàng tử ấy lớn lên được nuôi nấng đúng như cung cách của một hoàng tử. Khi hoàng tử lên bảy tuổi, thường quan sát các vương tử kia nhân được quà voi ngựa và nhiều đồ chơi khác ra sao từ các gia tộc bên họ mẹ, cậu bảo mẹ:

– Thưa mẹ, các trẻ kia đều được quà từ bên mẹ của chúng, song không ai gửi cho con quà gì cả. Vậy mẹ có phải là con côi không?

Lúc ấy nàng đáp:

– Này con, các tổ phụ của con là các vua dòng họ Thích-ca, song các ngài ở xa lắm, vì thế chẳng gởi gì cho con cả.

Một lần nữa, lúc được mười sáu tuổi, cậu hỏi:

– Thưa mẹ, con muốn đi thăm gia tộc của tổ phụ.

Nàng bảo:

– Thôi con đừng nói đến chuyện ấy nữa, con sẽ làm gì khi đến đó?

Song dù nàng thoái thác, cậu cứ năn nỉ xin nàng mãi, cuối cùng mẹ cậu bảo:

– Thôi được, con cứ đi.

Vì vậy cậu xin vua cha chấp thuận và lên đường cùng một đám tùy tùng. Vàsabha gởi thư về nhà trước khi cậu đến với ý định này:

– Con đang sống hạnh phúc ở đây, xin các Tôn giả đừng nói cho hoàng tử biết chuyện bí mật kia.

Song dòng họ Thích-ca khi hay tin Vidùdabha đến, liền cho các vương tử trẻ tuổi đi về vùng quê. Họ bảo nhau:

– Ta không thể đón tiếp thằng bé này trịnh trọng được.

Khi hoàng tử đến Ca-tỳ-la-vệ, dòng họ Thích-ca tập họp trong nhà nghỉ của vua. Vị hoàng tử đến gần nhà nghỉ ngồi đợi. Rồi bọn kia bảo cậu:

– Ðây là ngoại tổ của con, đây là quốc cửu – họ vừa chỉ rõ từng vị.

Cậu đi đảnh lễ từng người nọ đến người kia, song mặc dù cậu đã cúi đầu chào toàn gia tộc đến mỏi cả lưng, chẳng ai chịu hạ cố chào lại cậu cả, vì thế cậu hỏi:

– Sao lại chẳng có ai trong gia tộc chào lại con cả thế này?

Gia tộc Thích-ca đáp:

– Này con, các tiểu vương tử đi về quê cả rồi.

Sau đó cả gia tộc thết đãi cậu rất trọng thể.

Sau vài ngày ở lại, hoàng tử trở về nhà cùng cả đoàn tùy tùng. Vừa lúc ấy một nô tỳ chùi chiếc ghế mà cậu đã dùng trong nhà nghỉ ấy với nước sữa, vừa nói nhục mạ:

– Ðây là ghế ngồi của con trai nàng Vàsabhakhattiyà, nữ tỳ ấy mà.

Một người hầu bỏ quên cây giáo đang đi tìm, nghe thoáng lời lăng mạ hoàng tử Vidùdabha. Gã hỏi:

– Như thế nghĩa là gì?

Gã được kể cho biết là Vàsabha đã do một nữ tỳ sinh ra với vương tử Mahànàmà, dòng Thích-ca. Gã liền kể chuyện này cho quân lính nghe. Thế là tiếng huyên náo vang lên, cả đám đều la lớn:

– Vàsabha là con gái của một nô tỳ, chúng bảo thế đấy!

Vị vương tử này nghe chuyện ấy: “Ðược rồi” – cậu nghĩ thầm: “Mặc chúng cứ đổ sữa trên ghế ta ngồi để rửa nó đi. Khi ta lên ngôi, ta sẽ rửa chỗ ngồi bằng máu trong tim chúng”.

Khi cậu trở về Xá-vệ, quần thần kể mọi chuyện với vua. Vua nổi cơn thịnh nộ với dòng họ Thích-ca vì đã đưa con gái của một nô tỳ về làm hoàng hậu của ngài, ngài truất hết các khoản tiền đã cấp phát cho Vàsabha và con trai nàng, chỉ còn những thứ vừa đủ với hạng gia nô mà thôi.

Vài ngày sau, bậc Ðạo sư đến cung vua, và ngồi xuống tọa sàng. Vua đến gần Ngài đảnh lễ và nói:

– Bạch Thế Tôn, trẫm nghe rằng thân tộc của Ngài đưa con gái của một nô tỳ về cho trẫm làm hoàng hậu. Trẫm đã truất hết phần trợ cấp của chúng, và chỉ cho chúng những thứ dành cho nô tỳ mà thôi.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Tâu đại vương, dòng họ Thích-ca đã làm việc trái đạo! Nếu họ dâng con gái, đáng lẽ ra họ phải dâng một công chúa thuộc dòng huyết thống của họ kia. Song, thưa đại vương, Ta nói điều này, Vàsabha là con gái của vị vương tử, và trong cung điện của một vị vua quý tộc Sát-đế-ly, nàng đã nhận lễ quán đảnh; còn Vidùdabha cũng là vương tử của một vị vua quý tộc Sát-đế-ly. Các bậc trí nhân ngày xưa đã bảo: Dòng họ mẹ nào có quan trọng, dòng họ cha mới là chuẩn mực. Với một người vợ nghèo khó, một người lượm củi, họ đã đưa lên địa vị chánh hậu, và vị vương tử do bà ấy sinh ra được nắm vương quyền tại Ba-la-nại, rộng mười hai dặm đã trở thành vua Kattha-Vàhana, hiệu là Tiều phu.

Do đó, Ngài kể cho vua nghe chuyện tiền thân Katthahàri (số 7 – Chuyện Nàng lượm củi).

Khi vua nghe bài thuyết giáo này, lòng rất hoan hỷ nhủ thầm: “Dòng họ cha là tiêu chuẩn đo lường một con người”. Rồi vua lại ban những gì phù hợp cho hai mẹ con nàng như trước.

Lúc bấy giờ viên đại tướng quân của vua, là một người có tên gọi Bandhula. Vợ ông ta là Mallikà không sinh sản gì, nên ông sai đưa nàng đến tận Kusinàra, bảo nàng trở về với gia đình nàng. Nàng nói:

– Ta sẽ đi khi nào ta đã kính bái bậc Ðạo sư.

Nàng đi đến Kỳ Viên vái chào đức Như Lai rồi đứng đợi một bên. Ngài hỏi:

– Bà đi đâu bây giờ?

Nàng đáp:

– Bạch Thế Tôn, chồng của con bảo đưa con về nhà.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Vì cớ gì?

– Bạch Thế Tôn, vì con không sinh sản, con không có con trai.

Ngài đáp:

– Nếu chỉ có vậy, thì chẳng có lý do gì bà phải đi cả. Hãy về lại.

Nàng rất hoan hỷ kính chào bậc Ðạo sư rồi trở về nhà. Chồng nàng hỏi tại sao nàng lại trở về, nàng đáp:

– Ðấng Thập Lực bảo đưa thiếp trở lại, thưa phu quân!

Vị đại tướng nói:

– Thế thì đấng Thập Lực ắt hẳn đã thấy rõ lý do tốt lành rồi.

Chẳng bao lâu đó nàng thụ thai. Khi nàng bắt đầu những cơn thèm ăn của người mang thai, nàng bảo cho ông biết. Ông hỏi:

– Thế nàng muốn gì?

Nàng đáp:

– Thưa phu quân, thiếp muốn đi tắm và uống nước hồ ở thành Vesàli (Tỳ-xá-ly), nơi mà các hoàng gia thường lấy nước để làm lễ quán đảnh phong vương.

Vị đại tướng hứa sẽ cố gắng chìu ý. Cầm lấy cây cung của ông mạnh bằng cả ngàn cây cung khác, ông đưa bà vợ lên xe rời thành Xá-vệ và lái xe đến Tỳ-xá-ly.

Lúc bấy giờ gần cổng thành có một người của bộ tộc Licchavi tên là Mahàli đã từng được học cùng một vị sư phụ với đại tướng Bandhula của vua Kosala. Người này mù, vẫn thường khuyên các người Licchavi về những thế sự cũng như thánh sự. Khi nghe tiếng xe chạy lóc cóc trên ngưỡng cửa, ông nói:

– Ðây là tiếng xe của đại tướng Bandhula! Ngày hôm nay các người Licchavi có mối lo sợ.

Bên hồ có một đội quân canh gác nghiêm ngặt, bên trong lẫn bên ngoài, ở trên lại có lưới sắt, không một con chim nào tìm chỗ lọt vào được. Song vị đại tướng, vừa xuống xe đã tung thanh kiếm ra khiến quân canh bỏ chạy và ông liền xông qua lưới sắt, vào trong hồ cho bà vợ tắm và uống nước, rồi sau khi chính ông cũng tắm xong, ông đưa Mallikà lên xe, rời thành và trở về bằng đường lối đã đến. Quân canh đi thưa chuyện với các người Licchavi. Lúc ấy các vương tử của bộ tộc Lichavi nổi giận, năm trăm vị leo lên năm trăm cổ xe, đi bắt tướng quân Bandhula. Họ báo tin ấy cho Mahàli, ông bảo:

– Ðừng đi, vì kẻ kia sẽ giết hết các ngài đấy.

Song họ bảo:

– Không, chúng ta muốn đi.

– Vậy khi nào các ngài đến một nơi mà bánh xe lún xuống tận trục thì phải trở về. Nếu các ngài không trở về lúc ấy các ngài hãy trở về nơi mà các ngài nghe tiếng sấm sét. Nếu các ngài không trở về lúc ấy thì các ngài hãy trở về nơi mà các ngài thấy một cái lỗ ở phía trước các xe. Ðừng đi xa nữa.

Song các người ấy không trở lại theo lời ông mà cứ đi tới mãi. Mallikà nhìn thấy họ và bảo:

– Thưa phu quân, có các cỗ xe xuất hiện kìa.

– Vậy hãy nói cho ta biết – ông bảo – khi nào tất cả bọn chúng trông giống như một cỗ xe mà thôi.

Khi tất cả bọn chúng đứng thành một hàng giống như một chiếc xe, nàng bảo:

– Thưa phu quân, thiếp thấy chúng giống như thể cái đầu của một cỗ xe mà thôi.

– Vậy hãy cầm lấy dây cương.

Vị tướng quân bảo và trao dây cương vào tay bà. Ông đứng dậy trên cỗ xe và giương chiếc cung ra. Bánh xe kia lún vào đất đến tận trục xe. Bộ tộc Licchavi đến tận nơi, thấy thế nhưng không trở lui về. Vị tướng quân kia tiến lên một đoạn nữa và bật dây cung lên liền phát ra một tiếng ầm như sấm dậy. Nhưng đám kia vẫn chưa trở lui về mà cứ đuổi theo nữa. Bandhula đứng trên xe và bắn tên ra, mũi tên làm vỡ đầu cả năm trăm cỗ xe và xuyên qua cả năm trăm vương tử ở nơi có buộc dây đai rồi chôn vùi xuống đất. Các vị này không biết họ đã bị thương nên cứ tiếp tục đuổi theo nữa và la lớn:

– Dừng lại! Này, dừng lại!

Bandhula dừng xe lại, bảo:

– Các người chết cả rồi! Ta không đánh với người chết đâu!

Họ bảo:

– Sao, chúng ta thế này mà chết à?

Bandhula bảo:

– Hãy mở dây đai của người đầu tiên ra.

Bọn kia mở dây đai người ấy, ngay lúc mở dây ra, người kia liền ngã xuống chết luôn. Lúc ấy vị tướng quân bảo cả bọn:

– Các người đều bị như vậy cả, hãy về nhà đi, sắp đặt mọi việc gì cần sắp đặt, dặn dò vợ con gia tộc, rồi hãy cởi giáp bào ra.

Họ làm theo như vậy, xong đâu đó, cả bọn đều trút hơi thở cuối cùng.

Về sau, tướng Bandhula đưa Millikà về Xá-vệ. Bà sinh ra những cặp song nam liên tiếp mười sáu lần, chúng đều lớn lên dũng mãnh anh hùng, thành đạt trọn vẹn trong mọi việc. Mỗi người lại có cả ngàn quân tùy tùng và khi chúng theo cha vào chầu vua, riêng phần chúng đã đứng chật cả sân chầu.

Một ngày kia, một số người thua kiện vì bị vu cáo, thấy Bandhula đi đến, liền lên tiếng kêu than vang dậy, và bảo cho ông biết các quan tòa đã hỗ trợ một chuyện vu cáo. Vì thế Bandhula vào triều, xử lại vụ án rồi cho phần mỗi người như cũ. Ðám đông hò reo tán thưởng. Vua hỏi việc gì và khi nghe vậy, ngài rất hoan hỷ. Ngài chuyển các quan tòa kia đi xa, giao cho Bandhula trọng trách xử án, từ đó ông xử rất công minh. Sau đó các quan tòa kia trở nên nghèo khó, ví họ không còn nhận hối lộ nữa, nên họ phỉ báng Bandhula đến tận tai vua, kết tội vị tướng quân này muốn nhắm chiếm ngai vàng; vua nghe lời họ, không sao tránh khỏi hoài nghi. Song vua suy nghĩ đắn đo: “Nếu lão ấy bị chết tại đây thì ta sẽ bị trách cứ”.

Ngài liền ra lệnh cho một số người cướp phá các vùng thị trấn ở biên địa, rồi mời Bandhula đến và bảo:

– Biên thùy đang gặp khói lửa, khanh hãy cùng các công tử đi bắt bọn cướp kia.

Vua cũng đưa đi một số chiến sĩ dũng cảm, tài ba, rồi căn dặn họ giết cả vị tướng quân cùng ba mươi hai công tử kia, cắt lấy đầu đem về.

Khi ông lên đường, bọn cướp đánh thuê ấy biết tin đại tướng đến, liền bỏ chạy. Vị tướng quân định cư lập nghiệp cho dân khu vực ấy rồi dẹp yên thành phố xong lên đường về. Sau đó khi ông đến gần kinh đô, các tùy tướng kia lại cắt đầu ông cùng các công tử.

Ngày hôm ấy Mallikà mời hai vị Ðại đệ tử cùng với năm trăm vị Tỷ-kheo. Từ sáng sớm đã có thư đưa vào cho bà báo tin chồng bà và các công tử đã mất đầu. Khi nghe vậy bà không nói với ai một lời, bà nhét thư vào áo, và lo dọn bữa cơm mời chúng Tỷ-kheo. Khi các gia nhân của bà đã cúng dường cho các Tỷ-kheo xong, lại mang vào một chén đựng bơ tươi, vô ý làm vỡ cái chén ấy ngay trước Tăng chúng. Lúc ấy vị tướng quân Chánh pháp (Sàriputta) bảo:

– Chén bát được làm ra để đánh vỡ, xin bà đừng buồn phiền việc ấy.

Vị phu nhân đưa lá thư từ trong nếp áo ra đáp:

– Ðây đệ tử được bức thư báo tin phu quân và ba mươi hai con trai của đệ tử đã bị cắt đầu. Nếu đệ tử không buồn phiền việc ấy, có lẽ nào lại buồn phiền khi cái chén bị đánh vỡ?

Vị Tướng quân Chánh pháp bấy giờ bắt đầu nói:

– Không được thấy, không được biết là đời người dưới đây…v.v…(Kinh tập, Kinh Mũi tên, kệ 574).

Rồi từ chỗ đứng dậy, ngài thuyết pháp và ra về.

Phu nhân liền triệu tập ba mươi hai nàng dâu lại bảo:

– Phu quân của các con mặc dù vô tội, đã thọ lãnh nghiệp quả đời trước. Các con đừng sầu bi, cũng đừng tạo ác nghiệp nặng hơn tội của vua.

Phu nhân khuyên nhủ như vậy. Bọn thám tử mật của vua nghe lời này, trình với vua rằng họ chẳng oán hận. Sau đó, vua ân hận đi đến nhà phu nhân cầu xin Mallikà và các con dâu của bà tha thứ và ban một điều ước. Bà đáp:

– Xin nhận.

Bà cử hành tang lễ xong, tắm rửa rồi đến yết kiến vua. Bà nói:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban cho thần thiếp một ân huệ. Thần thiếp xin điều gì ngoài chuyện này: đó là xin Thánh thượng cho phép thần thiếp cùng ba mươi hai con dâu trở về nhà cha mẹ của mình.

Vua chấp thuận. Bà liền đưa mỗi nàng dâu về nhà cũ, xong chính bà cũng về nhà cha mẹ mình ở thành Kusinàra. Rồi vua phong chức đại tướng cho một vị Dìgha-Kàràyana, con trai của một bà chị đại tướng Bandhula. Song vị này đi đâu cũng vạch tội vua và bảo:

– Vua đã giết cậu ta.

Mãi lâu sau vụ giết hại vị tướng quân vô tội Bandhula ấy, vua cứ bị hối hận giày vò nên tâm hồn không còn thanh thản, ngài không cảm thấy hứng thú khi được làm vua nữa. Thời ấy, bậc Ðạo Sư ở gần một thị trấn của dòng họ Thích-ca tên là Ulumpa. Vua đến đó đóng trại không xa hoa viên ấy, và cùng vài cận thần đi đến tinh xá để đảnh lễ bậc Ðạo Sư. Vua đem trao năm biểu tượng của vương quyền cho Kàràyana, rồi một mình đi vào Hương phòng. Mọi việc tiếp theo được mô tả như trong Kinh Dhammacetiya (Pháp Trang nghiêm, Trung bộ, số 89).

Khi vua bước vào Hương phòng của đức Phật, Kàràyana cầm lấy năm biểu tượng của vương quyền ấy và tôn Vidùdabha lên làm vua, chỉ để lại đó cho vua cũ một con ngựa và một nữ tỳ, rồi đi đến Xá-vệ.

Sau buổi đàm thoại vui vẻ với bậc Ðạo Sư, vua trở về chẳng thấy binh sĩ đâu cả, ngài hỏi người nữ tỳ, và biết được mọi việc đã xảy ra. Rồi ngài đi đến kinh thành Vương Xá, quyết định đem theo người cháu trai cùng ngài đi bắt sống Vidùdabha. Khi vua đến kinh thành thì trời đã tối, cổng thành đã đóng, nên ngài nằm nghỉ trong một túp lều, bị đuối sức vì dãi dầu sương gió, ngài băng hà tại đó.

Khi đêm vừa sáng dần, cô nữ tỳ bắt đầu gào khóc:

– Trời ơi! Ðại vương Kosala đã vô phương cứu chữa rồi!

Có người nghe tiếng kêu than liền đưa tin đến vua xứ ấy (tức Ajàtasattu). Vua này liền cử hành tang lễ cho cậu mình rất trọng thể.

Sau khi vua Vidùdabha an vị trên ngai vàng, nhớ lại mối thù xưa của mình và quyết định đi sát hại tất cả dòng họ Thích-ca. Với mục đích trên, vua lên đường cùng với đám đông binh sĩ. Sáng tinh sương hôm ấy, bậc Ðạo Sư nhìn xuống cõi trần, thấy việc tàn sát kia đang hăm dọa thân tộc Ngài, Ngài nghĩ thầm: “Ta phải cứu độ thân tộc ta”.

Vào buổi sáng, Ngài ra đi khất thực, và sau khi dùng bữa xong trở về an nghỉ với dáng nằm như sư tử trong Hương phòng của Ngài. Vào buổi chiều, sau khi đã bay qua không gian đến một nơi gần Ca-tỳ-la-vệ, ngồi dưới một gốc cây đổ bóng thưa thớt; gần đó, một cây đa khổng lồ rợp bóng sừng sững trên biên thùy vương quốc của vua Vidùdabha. Khi thấy bậc Ðạo Sư, vua Vidùdabha đến gần đảnh lễ Ngài và nói:

– Bạch Thế Tôn, tại sao Thế Tôn lại ngồi dưới gốc cây thưa thớt như vậy trong bầu trời nóng nực này?

Ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, cứ để mặc Ta. Bóng cây của thân tộc Ta khiến cho Ta mát mẻ.

Vua suy nghĩ: “Chắc hẳn bậc Ðạo Sư đến đây để che chở cho thân tộc Ngài”.

Vì thế vua đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi lại trở về Xá-vệ. Còn bậc Ðạo Sư đứng dậy đi đến Kỳ Viên. Lần thứ hai vua nhớ lại mối hận thù của mình đối với dòng họ Thích-ca, lần thứ hai vua lên đường, cũng thấy bậc Ðạo Sư ngồi đúng chỗ cũ, nên vua lại ra về.

Lần thứ tư vua ra đi, và bậc Ðạo Sư, khi xem xét kỹ những nghiệp quả quá khứ của dòng họ Thích-ca, nhận thấy rằng không thể nào tránh được hậu quả của ác nghiệp kia trong việc họ đã thả thuốc độc xuống dòng sông, nên Ngài không đi đến đó lần thứ tư nữa. Lúc ấy vua Vidùdabha giết hết dòng họ Thích-ca, bắt đầu bằng những hài nhi còn bú, lấy máu trong tim chúng và rửa cái ghế ngồi, rồi ra về.

Vào ngày mà bậc Ðạo Sư ra đi lần thứ ba đã trở về, sau khi du hành khất thực, và đã dùng bữa xong, Ngài đang nằm nghỉ trong Hương phòng, Tăng chúng từ mọi nơi tụ tập trong Chánh pháp đường. Khi ngồi lại với nhau, Tăng chúng bắt đầu nói đến công hạnh của bậc Ðạo Sư:

– Này các Hiền gỉa, bậc Ðạo Sư chỉ cần xuất hiện và khiến cho vua lui về, là giải quyết cho thân tộc Ngài khỏi nỗi sợ chết. bậc Ðạo Sư thật là một người bạn lành, hay cứu giúp gia tộc.

Bậc Ðạo Sư đi vào, hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng thưa lại với Ngài. Sau đó, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo. không phải chỉ bây giờ Như Lai mới hành động vì lợi ích của các người thân tộc, mà ngày xưa Như Lai cũng đã làm như thế.

Cùng với lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, và thực hành Thập vương pháp (Mười đức tính của vua hiền), ngài nghĩ thầm: “Khắp cõi Diêm-phù-đề này, vua chúa đều sống trong các cung điện có nhiều cột trụ chống đỡ. Vậy một cung điện được nhiều cột trụ chống đỡ chẳng kỳ diệu gì, song nếu ta xây một cung điện chỉ có một trụ chống đỡ thì sao?…Lúc ấy ta sẽ thành vị đế vương bậc nhất giữa các vị vua!” Do vậy ngài triệu tập các nhà kiến trúc lại, bảo họ xây cất cho ngài một cung điện nguy nga chỉ dựng trên một cột trụ thôi. Họ thưa:

– Xin tuân lệnh.

Rồi họ đi sâu vào rừng. Tại đó, họ ngắm nghía nhiều cây thẳng tắp, cao lớn xứng đáng làm cây cột trụ duy nhất của một cung điện sang trọng như thế. Họ bảo nhau:

– Ðây có đủ các cây loại này, song đường sá gồ ghề, ta chẳng bao giờ chở chúng theo được, vậy ta phải thỉnh ý đức vua về chuyện đó.

Khi họ tâu như vậy, vua đáp:

– Hãy dùng cái móc hay neo mà kéo chúng về, thế càng nhanh nữa.

Song họ thưa:

– Chẳng cái móc nào làm được việc này cả.

Vua phán:

– Vậy thì hãy tìm một cây trong thượng uyển của trẫm.

Các nhà xây dựng đi vào vườn ngự, tại đó họ nhìn thấy một cây Sàla dáng vương giả cao quý, thẳng tắp, cành là sum suê, vẫn được dân làng, thị trấn tôn sùng, ngay cả hoàng tộc cũng thườngđến chiêm bái, và dâng lễ vật. Họ liền tâu lại với vua. Ngài phán:

– Trong vườn ngự của trẫm kia, các khanh đã tìm ra cho trẫm một cây đại thọ. Tốt lắm! Vậy hãy đi đẵn nó xuống ngay.

Họ đáp:

– Xin tuân lệnh.

Họ đến khu vườn ngự, đôi tay cầm đầy các tràng hoa thơm và các hương liệu khác, sau đó treo lên cây một tràng hoa năm chùm, cuộn quanh thân cây một sợi dây thừng, buộc vào đó một bó hoa thơm, rồi vừa thắp hương đèn, vừa chiêm bái vừa khấn rõ:

– Từ nay đến bảy ngày nữa, chúng tôi sẽ đẵn cây xuống theo lệnh vua truyền. Cầu xin các Thần cư ngụ trên cây này hãy đi nơi khác, và đó không phải lỗi chúng tôi.

Vị thần sống trên cây nghe nói vậy, nghĩ thầm:

“Những người xây dựng này quyết đốn cây xuống và phá hoại chỗ cư ngụ của ta. Nay đời ta chỉ kéo dài bao lâu còn nơi cư trú này, có các thân quyến thuộc của ta cư trú thật đông, cũng sẽ bị phá hủy. Sự hủy hoại thân ta không quan trọng bằng sự tiêu giết đám con cháu ta. Vậy ta phải bảo vệ sinh mạng chúng.”

Thế là vào lúc nửa đêm, với trang phục huy hoàng, uy nghi, vị Thần cây bước vào cung thất lộng lẫy của vua, chiếu ánh sáng rực rỡ khắp phòng và đứng khóc cạnh chiếc gối của vua. Ngài rất kinh hãi khi thấy vị thần, liền thốt lên vần kệ đầu:

  1. Ngài là ai, đứng giữa không gian,
    Mình khoác xiêm y tựa thánh thần,
    Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
    Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn?

Nghe vậy, vị chúa tể Thần cây ngâm hai vần kệ:

  1. Ở trong quốc độ, hỡi quân vương,
    Người biết danh cây: Ðại Cát Tường,
    Ðã sáu mươi ngàn năm vẫn đứng,
    Toàn dân đều cúng bái ta luôn.
  2. Dù chúng dựng xây lắm thị thành,
    Lâu đài vương xá, các cung đình,
    Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
    Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
    Vì chúng tôn sùng ta đến thế,
    Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh!

Tiếp theo, vua ngâm hai vần kệ khác:

  1. Song một thân cây vĩ đại này,
    Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
    Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
    Hùng mạnh, một cây vững chắc thay.
  2. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
    Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
    Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ đó,
    Ðời ngài không ngắn ngủi đâu Thần.

Nghe vậy, vị Thần chúa ngâm hai vần kệ:

  1. Vì ngài mong muốn đẵn cây thần
    Xin hãy chặt ta nhỏ mỗi phần,
    Và xẻ thân này từng mảnh một,
    Hoặc đừng gì cả, tấu Anh quân.
  2. Hãy chặt trước tiên lấy đỉnh đầu,
    Kế là phần giữa, gốc về sau,
    Nếu ngài đốn được ta như thế,
    Cái chết chẳng còn tạo khổ sầu.

Sau đó, vua lại ngâm hai vần kệ:

  1. Trước hết chân tay, kế mũi tai,
    Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
    Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
    Cái chết này đau đớn rụng rời.
  2. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn lâm!
    Lạc thú gì ngài cảm thấy chăng?
    Sao, lý do gì ngài ước muốn
    Thân cây được xẻ nhỏ từng phần?

Ðại thọ Cát tường liền đáp lời qua hai vần kệ:

  1. Vì lý do nào cao cả thay,
    Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
    Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
    Xin lắng nghe lời ta nói đây.
  2. Quanh ta phồn thịnh đám thân bằng,
    Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
    Nếu ta ngã mạnh, đè tan chúng,
    Nỗi đớn đau kia sẽ ngập tràn.

Vua nghe vậy xong, lòng đầy hoan hỷ: “Vị thần này thật cao cả thay, ngài không muốn quyến thuộc mình phải mất nơi trú ẩn do việc ngài mất chốn cư ngụ của riêng ngài. Thế là ngài hànhđộng vì lợi ích của thân tộc mình.”

Và vua ngâm kệ cuối cùng:

  1. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng xanh!
    Tư tưởng ngài cao cả thật tình,
    Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
    Vậy trẫm cho ngài thoát hãi kinh!

Vị Thần chúa, sau khi thuyết giáo vua xong, liền ra đi. Còn vua an trú vào lời khuyên nhủ của ngài, bố thí và làm nhiều thiện sự khác cho đến khi vua mạng chung, đi lên cộng trú với các hội chúng ở cõi Trời.

*

Sau khi chấm duat Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như thế là Như Lai vẫn hành động vì lợi ích của thân bằng quyến thuộc mình.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua kia, các đệ tử của đức Phật là các thần trú thân trong các cây con của cây Sàla, và Ta chính là Cổ thụ Cát tường, vị Thần chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền thân Samudda – Vànijà)

Người thì gieo hạt, kẻ đi cày…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) khi ông bị đọa xuống địa ngục, kéo theo năm trăm gia đình bị đọa luôn.

Bấy giờ, lúc hai Ðại đệ tử là Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) đưa các Tỷ-kheo đã theo vị ấy trở về cùng mình, Ðề-bà-đạt-đa không thể nào chịu đựng khổ đau, nên đã khạc ra máu và sắp từ giã cõi đời, ông tự nhủ: “Trong chín tháng ròng ta đã nghĩ xấu về đức Như Lai, song trong tâm của đức Như Lai không hề có một ác ý đối với ta, trong tám mươi vị trưởng lão cũng không ai làm gì hại ta, bởi chính vì những hành động của ta mà ta thành kẻ bơ vơ lạc lõng, ta đã bị bậc Ðạo Sư từ bỏ rồi, các Trưởng lão, Tôn giả La-hầu trưởng tộc, cùng tất cả hoàng tộc dòng họ Thích-Ca, nên ta muốn đến gặp bậc Ðạo Sư và hòa giải với Ngài. “Vì thế ra hiệu cho các đệ tử, ông bảo họ mang ông trên chiếc cáng, rồi du hành suốt ngày đêm đến kinh thành xứ Kosala.

Trưởng lão Ànanda thưa với bậc Ðạo Sư:

– Họ bảo rằng Ðề-bà-đạt-đa đang đi đến làm hòa với đức Thế Tôn.

– Này Ànanda, Ðề-bà-đạt-đa không được gặp ta đâu.

Khi ông đã đến thành Xá-vệ, Tôn giả lại thưa trình với bậc Ðạo Sư, và đức Thế Tôn cũng trả lời như trước. Khi ông đến cổng Kỳ Viên và tiến về hồ Kỳ Viên, tội ác đã đến tột đỉnh; một cơn sốt nổi lên trong người khiến ông muốn tắm và uống nước, vì thế ông ra lệnh cho họ đưa mình ra khỏi cái cáng để có thể uống nước. Khi ông vừa bước xuống và đứng trên mặt đất thì, trước khi ông có thể giải khát cho mình, quả đất rộng há miệng ra, một ngọn lửa phát xuất từ địa ngục tận cùng Avìci (A-tỳ hay Vô gián) bao phủ lấy ông. Trong lúc biết các ác nghiệp của mình đã lên đến cực điểm, cùng nhớ lại các công đức của Như Lai, ông ngâm vần kệ này:

Nắm xương này đem đến Tối thượng Nhân,
Bậc Toàn tri, đây trăm tướng tốt lành,
Bậc điều ngự tâm người, hơn Thiên chủ,
Tâm trí ta bay về Ngài Giác Ngộ.

Song chính ngay trong hành động tìm nơi an trú này mà ông bị đọa vào ngục A-tỳ và có năm trăm gia đình của các đồ đệ ông, những gia đình đã theo ông phỉ báng đấng Thập Lực (Dasabala) gièm pha ngài, nên cũng tái sinh vào ngục A-tỳ. Như thế ông xuống địa ngục A-tỳ, kéo theo mình cả năm trăm gia đình.

Vì vậy một ngày kia, Tăng chúng nói chuyện trong Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa ác độc vì tham lợi dưỡng đã vô cớ khởi lên lòng sân hận với bậc Chánh Ðẳng Giác và không biết đến nỗi kinh hoàng trong tương lai, nên cùng với năm trăm gia đình đọa xuống địa ngục. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Hội chúng liền thưa lại Ngài. Ngài bảo:

– Này cácTỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa vì ham lợi dưỡng và danh vọng nên không nhìn thấy những mối kinh hoàng trong tương lai, và ngày xưa cũng như bây giờ, vì không nhìn thấy những nỗi khủng khiếp trong tương lai mà kẻ ấy cùng các đệ tử tham muốn lạc thú hiện tại, nên phải chịu hoàn toàn hủy diệt.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba la nại, gần thành Ba la nại có một thị trấn lớn của các người thợ mộc, gồm một ngàn gia đình, những thợ mộc từ thị trấn này thường tự xưng là họ đóng giường, ghế, nhà cửa và thường sau khi nhận tiền trước của dân chúng, lại tỏ ra không có năng lực để làm gì được cả. Dân chúng thường trách mắng bất cứ người thợ mộc nào tình cờ họ gặp mặt và gây trở ngại cho bọn họ. Vì thế bọn người mắc nợ này gặp phiền nhiễu đến độ không thể nào sống yên ở đấy được nữa. Bọn họ bảo nhau:

– Chúng ta hãy đi ra xứ khác và kiếm một nơi nào đó ẩn thân.

Thế là họ vào rừng, đẵn cây, làm thuyền lớn phóng xuống sông đẩy thuyền ra khỏi thị trấn khoảng chừng ba phần tư dặm, thì kéo thuyền vào bờ. Sau đó vào nửa đêm, họ trở về thị trấn tìm gia đình mình đưa lên thuyền rồi xuôi dòng tiến ra biển cả. Họ gặp thuận buồm xuôi gió cho đến khi cập vào một hòn đảo nằm giữa đại dương.

Lúc bấy giờ trên đảo ấy đã mọc lên nhiều loại cây rừng có trái như lúa gạo, cây mía, chuối, xoài, mận, mít, dừa và đủ các loại khác nữa. Trước bọn ấy đã có một người bị đắm tàu và chiếm lấy đảo này. Sống tại đó, ăn lúa gạo và thưởng thức cây mía cùng các loại cây khác, nhờ thế gã trở thành lực lưỡng cường tráng, gã sống trần truồng, râu tóc dài ra. Bọn thợ mộc suy nghĩ: “Nếu đảo có loài quỷ ở thì bọn ta chắc phải chết hết; vì vậy ta muốn thám hiểm xem sao.”

Sau đó bảy thanh niên dạn dĩ lực lưỡng, trang bị năm thứ vũ khí, rời thuyền đi thám hiểm đảo này.

Ngay lúc ấy người sống sót trên đảo vừa ăn sáng xong, uống nước mía và trong lúc sảng khoái nằm dựa lưng trên một nơi xinh tươi, mát mẻ dưới bóng cây trên bãi cát lấp lánh như một cái đãi bạc, gã suy nghĩ: “Những người sống ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không thể có được niềm hạnh phúc này, những người cày cấy kia, còn hòn đảo này đối với ta tuyệt hơn cả cõi Diêm-phù-đề nữa.” Gã liền vui mừng trong niềm cực lạc ấy.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ đầu để giải thích người sống trên hoang đảo này ca hát vì niềm hoan lạc như thế nào:

  1. Người thì gieo hạt, kẻ đi cày,
    Sống với mồ hôi ở cuối mày,
    Chúng chẳng hưởng vùng ta được sống,
    Hơn xa Ấn Ðộ chính nơi này!

*

Những người đi thám thính hòn đảo bắt gặp tiếng hát của gã, bảo nhau:

– Hình như ta nghe tiếng người, ta hãy đến làm quen với người đó.

Theo tiếng hát họ đi đến gặp người kia, nhưng vẻ bề ngoài của gã làm họ kinh hãi. Họ kêu lên:

– Có phải quỷ đó chăng?

Rồi họ tra mũi tên vào cây cung. Khi người kia thấy họ, gã sợ bắn bị thương nên la to:

– Ta không phải quỷ đâu, ta là người đấy, các ông ơi, xin tha mạng cho ta.

– Sao? – Họ bảo – Người ta lại trần truồng và không có gì bảo vệ như người ư?

Họ hỏi đi hỏi lại mãi, cũng chỉ nhận được câu trả lời ấy, rằng gã là con người. Cuối cùng họ đến gần gã và mọi người trò chuyện vui vẻ với nhau, những kẻ mới đến hỏi gã làm sao đến đó được. Gã kể cho họ nghe sự thật về việc này. Gã bảo:

– Do thiện nghiệp của các bạn mà các bạn đã đến đây, đảo này là phần thưởng của các bạn. Ðây là đảo tuyệt hảo. Ở đây các bạn không cần làm việc với đôi tay để sinh sống, gạo mía và các loại cây khác ở đây có vô tận, tất cả đều mọc hoang. Các bạn sống ở đây không còn lo ngại gì nữa.

Họ hỏi:

– Có gì khác cản trở cuộc sống của ta ở đây chăng?

– Không sợ gì cả trừ một điều: đảo này có loài quỷ dữ, lũ quỷ này sẽ nổi giận khi thấy phân thải ra từ cơ thể các bạn; vậy khi bạn muốn đại tiện, hãy đào lỗ trong cát chôn đi. Ðó là mối nguy hiểm duy nhất, ngoài ra không còn gì nữa, chỉ nhớ luôn luôn cẩn thận điều này.

Sau đó họ lên cư ngụ trên đảo này. Song giữa đám một ngàn gia đình này, có hai người cai thợ, mỗi người dẫn đầu năm trăm gia đình trong đó, một kẻ ngu si tham ăn món thượng hạng, người kia khôn ngoan và không thích chiếm phần ưu thắng trong mọi sự đời.

Theo thời gian họ tiếp tục sống tại đó, tất cả đều thành lực lưỡng cường tráng. Sau đó bọn họ suy nghĩ: “Lâu nay chúng ta không vui chơi gì cả, ta muốn làm một ít rượu mạnh với nước mía”. Vì thế họ làm rượu mạnh, và say sưa, ca hát, nhảy múa, vui đùa. Sau đó họ vô ý đi đại tiện bừa bãi khắp nơi mà không chôn dấu đi, nên họ đã làm cho hòn đảo hôi hám thật ghê tởm. Các thần linh tức giận vì bọn người này làm nơi giải trí vui chơi thành ô uế.

Các thần bàn tính kỹ lưỡng:

– Chúng ta sẽ dâng nước biển trên đảo để rửa sạch đảo này chăng? Nay là nửa tháng tối trời, cuộc hội họp của ta phải đình hoãn lại. Ðược rồi, vào ngày thứ mười lăm kể từ nay, vào ngày đầu tiên trăng tròn, vào giờ trăng mọc, chúng ta sẽ dâng nước biển lên và tận diệt chúng

Như vậy các thần đã định ngày. Lúc này một vị Thần công chính trong đám ấy suy nghĩ: “Ta không muốn các người này chết trước mắt ta.” Vì thế do lòng từ mẫn, vào lúc bọn người đang ngồi trước cửa trò chuyện vui vẻ, sau buổi cơm chiều, vị này làm cho toàn hòn đảo sáng lòa, với phục sức đầy vẻ huy hoàng, đứng trên không hướng về phía Bắc và nói với bọn họ như vầy:

– Này các thợ mộc, các thần linh nổi cơn thịnh nộ vì các ông. Ðừng sống ở đây nữa, vì trong nửa tháng kể từ nay các thần sẽ dâng nước biển lên giết hết các ông đó. Vậy phải trốn khỏi nơi này.

Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trong hai tuần nữa thấy tròn trăng,
    Từ biển này dâng ngọn sóng thần
    Tràn ngập đảo to này: Hãy vội
    Di cư để khỏi hại người dân.

Cùng với lời khuyên này vị ấy trở về nơi ở của mình. Khi vị ấy đi rồi, một vị thần bạn là một hung Thần, suy nghĩ: “Có lẽ dân chúng sẽ theo lời vị ấy khuyên mà trốn hết, còn ta muốn cản trở việc chúng đi, để làm cho chúng phải tiêu diệt hoàn toàn.” Vì vậy vị Thần này trang điểm thật huy hoàng, tỏa ra một luồng ánh sáng lớn, bao trùm khắp hòn đảo ấy, và đến gần đại chúng, đứng trên không hướng về Nam, trong khi ông hỏi:

– Có một vị thần vừa đến đây chăng?

Họ đáp:

– Thưa có.

– Vị ấy nói gì với ông?

Họ đáp:

– Tâu Thần chúa biển cả, những việc như vầy như vầy.

Lúc ấy vị Thần bảo:

– Vị Thần này không muốn các ông sống ở đây, nên đã nói thế trong cơn thịnh nộ. Vậy đừng đi nơi khác, mà cứ ở lại đây.

Cùng với những lời này, vị Thần ngâm hai vần kệ:

  1. Theo nhiều dấu hiệu đã nêu rằng
    Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
    Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
    Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn.
  2. Các ông gặp chốn rộng nơi đây,
    Các thức uống ăn lại đủ thay,
    Ta thấy chẳng gì nguy, cứ hưởng
    Ðến đời sau, lạc thú như vầy.

Sau khi nói vậy qua hai vần kệ để làm nhẹ nỗi lo âu của dân chúng, Thần này ra đi. Khi ông đi rồi, người thợ mộc ngu si cất cao giọng lên, và không để ý đến lời nói của vị Thần công chính, gã kêu lên:

– Xin quý ngài nghe theo ta.

Gã nói với mọi người thợ mộc bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Từ hướng Nam, Thần ấy hét vang,
    Chúng ta nghe: “Vạn sự bình an”,
    Từ Thần này nói là thật,
    Sợ hãi, hay không phải hoảng hồn,
    Vị Bắc thần kia nào có biết,
    Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn!

Khi nghe gã nói, năm trăm người thợ mộc tham hưởng lợi lạc muốn nghe theo lời khuyên của gã ngu si đó. Song lúc ấy người thợ mộc khôn ngoan không chịu nghe theo gã, và vẫn nói với đám thợ mộc, vừa ngâm bốn vần kệ:

  1. Khi nói ngược nhau, nhị hải Thần,
    Một kêu sợ hãi, một an toàn,
    Nghe lời ta dặn, e giây lát
    Tất cả người đây chết cả đoàn.
  2. Ta cùng xây một đại thương thuyền,
    Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
    Nếu vị Nam thần này nói thật,
    Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng;
  3. Khi cần, thuyền sẽ ích cho ta,
    Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
    Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
    Thần Nam chỉ nói chuyện điên rồ,
    Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
    Nơi có bình an, sẽ vội qua,
  4. Ðừng xem ưu, liệt, chuyện vừa nghe,
    Ai để lọt tai cả mọi phe,
    Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
    Bến bình an nhất, kéo neo về
    .

Sau đó người ấy lại nói:

– Này bây giờ, chúng ta hãy nghe theo lời cả hai vị Thần ấy. Ta hãy đóng thuyền, rồi nếu lời của vị thần thứ nhất là đúng sự thật, ta sẽ leo lên thuyền và ra đi; và nếu lời vị thần thứ hai đúng thì ta sẽ cất thuyền chỗ khác và ở lại đây.

Khi người ấy nói vậy xong, người thợ mộc ngu si bảo:

– Anh cứ đi mà xem con cá sấu nằm trong chén trà! Anh thật quá ư chậm trí! Vị Thần thứ nhất nói như vậy vì tức giận chúng ta, còn vị thứ hai nói vì thương yêu chúng ta. Nếu ta rời hòn đảo tuyệt hảo này, thì ta sẽ đi đâu nữa? Song nếu anh cần phải đi thì cứ đi mà đóng thuyền, bọn ta không cần thuyền, bọn ta ở đây!

Người thợ mộc khôn ngoan cùng những người theo phe mình, đóng một con thuyền, đặt mọi hành trang lên thuyền, rồi cả bọn đứng vào thuyền. Sau đó vào ngày trăng tròn, đúng lúc trăng mọc, từ đại dương dâng lên một ngọn sóng bao phủ khắp hòn đảo đến tận đầu gối, khi người khôn ngoan ấy thấy đợt sóng dâng lên thì vội thả thuyền ra. Bọn người theo phe người thợ ngu si gồm năm trăm gia đình, cứ ngồi bảo nhau:

– Một ngọn sóng đã dâng lên trên đảo. Nhưng nó sẽ không cao hơn đâu.

Sau đó sóng biển dâng cao lên thắt lưng, rồi cao bằng đầu người, cao tận ngọn cây dừa, rồi bảy cây dừa, rồi phủ lên khắp hòn đảo. Con người nhiều mưu trí ấy, biết đủ phương cách, không than lam các tài vật, nên đã ra đi an toàn; còn người thợ ngu si tham của cải, không thấy nỗi kinh hoàng trong tương lai nên đã bị tiêu hủy cùng năm trăm gia đình nọ.

*

Và ba vần kệ nữa đầy tính cách giáo hóa, để làm sáng tỏ vấn đề trên, là kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng:

  1. Do nghiệp làm, như giữa đại dương,
    Nên người trí hiểu điều sâu kín,
    Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con.
  2. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham lam,
    Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
    Chìm ngập trước nhu cầu hiện tại,
    Như người tận số giữa trùng dương.
  3. Hãy làm xong việc trước khi cần,
    Ðừng để túng cùng phải khổ thân,
    Ai đúng thời làm điều thiết yếu,
    Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã bị mắc vào bẫy dục lạc hiện tại mà không nhìn thấy tương lai, nên đã gặp hủy diệt cùng đồng bọn của kẻ ấy.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là người thợ mộc ngu si, Kokàlika là vị ác Thần đứng ở phương Nam, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Thần đứng ở phương Bắc và ta chính là người thợ mộc có trí khôn ngoan kia

-ooOoo-

  1. Chuyện Dục Tham (Tiền thân Kàma)

Người nào mong ước việc trong lòng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn trú ở Xá-vệ, lúc ấy đang đốn cây bên bờ sông Aciravatì để trồng trọt cày cấy. Bậc Ðạo Sư nhìn thấy rõ nghiệp duyên của vị này (về khả năng tu tập) khi Ngài đến Xá-vệ để khất thực, Ngài liền bước ra khỏi con đường đang đi để nói chuyện ân cần với ông. Ngài hỏi:

– Này Bà-la-môn, ông đang làm gì đó?

Người ấy đáp:

– Thưa Sa-môn Gotama, tôi đang đốn cây ở một khoảng trống để trồng trọt.

Ngài bảo:

-Tốt lành thay, này Bà-la-môn, ông tiếp tục công việc đi.

Cứ nhu vậy bậc Ðạo Sư đi đến nói chuyện với ông khi các thân cây đốn xong lại được mang đi nơi khác, và người kia dọn sạch mẫu đất của mình, và Ngài lại đến vào lúc cày cấy, hoặc lúc đào những hố vuông nhỏ để lấy nước. Bấy giờ vào ngày gieo hạt, vị Bà-la-môn hỏi:

– Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày Lễ hạ điền (Lễ Cày bừa) của tôi. Khi bắp chín, tôi sẽ cúng dường nhiều cho Tăng chúng được đức Phật cầm dầu.

Bậc Ðạo Sư nhận lời cúng dường của ông và ra đi. Một ngày khác Ngài lại đến và thấy người Bà-la-môn đang ngắm đám bắp ấy. Ngài hỏi:

– Này Bà-la-môn, ông đang làm gì đó?

– Thưa Tôn giả Gotama, tôi đang ngắm đám bắp.

– Này Bà-la-môn, tốt lắm!

Bậc Ðạo Sư nói rồi đi thẳng.

Lúc ấy Bà-la-môn suy nghĩ: “Tôn Giả Gotama vẫn thường đi qua đường này lắm thay! Chắc chắn Ngài cần thực phẩm. Ðược ta sẽ cúng dường thức ăn cho Ngài.”

Vào ngày ý tưởng này xuất hiện trong trí ông, khi về nhà, ông cũng thấy bậc Ðạo Sư đến nữa. Từ đó trong lòng vị Bà-la-môn khởi lên một niềm tín thành kỳ diệu.

Dần dần, bắp đã chín, vị Bà-la-môn quyết định ngày mai sẽ gặt. Nhưng khi ông ngủ trên giường thì ở khoảng đất trên sông Aciravatì, mưa trút xuống như chĩnh đổ: lũ lụt kéo đến mang theo cả mùa màng ra biển, vì thế không còn sót một cây nào. Khi cơn lũ đã rút, vị Bà-la-môn thấy hoa màu bị tàn phá, nên không còn sức mà đứng nữa, tay ông cứ ôm ngực vì quá đau khổ, ông vừa khóc vừa về nhà, nằm xuống kêu than. Buổi sáng bậc Ðạo Sư đã thấy vị Bà-la-môn này tràn ngập khổ đau, Ngài suy nghĩ: “Ta sẽ là nơi nương tựa của người Bà-la-môn.”

Thế là hôm sau, khi đã đi khất thực quanh Xá-vệ rồi, Ngài trở về từ nơi thọ dụng thức ăn, bảo các Tỷ-kheo lui về tinh xá rồi chính Ngài cùng một tiểu thị giả đi với Ngài đến nhà ông. Khi vị Bà-la-môn nghe Ngài đến, thì lòng hoan hỷ, nghĩ thầm: “Chắc hẳn vị hiền hữu của ta đến để nói chuyện thân mật.” Ông mời Ngài ngồi; bậc Ðạo Sư bước vào ngồi trên một tọa sàng đã định sẵn và hỏi:

– Này Bà-la-môn, tại sao ông nản lòng? Việc gì xảy ra khiến ông bất mãn?

– Thưa Sa-môn Gotama, từ lúc tôi đến đây trên bờ sông Aciravati, Ngài cũng đã biết tôi làm gì rồi. Tôi đã đi đây đó, và hứa cúng dường Ngài khi hoa màu chín, nay cơn lụt đã cuốn trôi hết mọi hoa lợi ra biển, chẳng còn lại gì cả. Bắp ngô bị thiêu hủy cả đến trăm cỗ xe, vì thế tôi đang sầu khổ lắm đây.

– Này, của mất mát có thể trở lại nhờ than khóc không?

– Thua Sa-môn Gotama, nó không trở lại được.

– Nếu vậy tại sao sầu khổ? Sự giàu sang của người đời hay thóc lúa, khi còn đó thì chúng có mặt, và khi mất rồi thì thôi. Chẳng có vật hữu hình nào không chịu hoạt diện, thôi ông đừng sầu muộn vì nó nữa.

An ủi ông như thế xong, Ngài nhắc lại Kinh Tham dục (Kinh Tập IV, kệ 766) vì thích hợp với hoàn cảnh này. Khi Ngài kết thúc bài Kinh Tham dục ấy, vị Bà-la-môn buồn khổ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu. Sau khi làm tan biến nỗi buồn của ông, bậc Ðạo Sư đứng dậy từ chỗ ngồi và trở về tinh xá. Cả thị trấn đều nghe tin bậc Ðạo Sư đã đi tìm Bà-la-môn đang bị đau đớn hành hạ như thế nào rồi an ủi ông và an trú ông vào quả Dự Lưu ra sao. Tăng chúng nói đến việc ấy tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, đấng Thập Lực đã kết bạn với một vị Bà-la-môn, ngày càng thân thiết, đã tạo cơ hội thuyết Pháp cho ông, đang lúc ông gặp cơn đau khổ xé nát cõi lòng. Ngài an ủi cho vơi niềm đau khổ rối an trú ông vào quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:

– Náy các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì khi ngồi lại đây?

Tăng chúng thưa lại với Ngài. Ngài đáp:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, mà ta chữa lành nỗi đau buồn của kẻ ấy, song ngày xưa, đã lâu lắm, Ta cũng làm như vậy.

Và cùng với những lời này. Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại có hai vương tử. Ngài phong chức phó vương cho thái tử, còn vị thứ hai làm đại tướng quân. Sau đó khi vua Brahmadatta băng hà, triều thần phải phong vương cho thái tử bằng nghi lễ quán đảnh. Song chàng bảo:

– Ta chẳng màng giang sơn quốc độ, hãy để vương đệ ta trị nước.

Ðại chúng van xin cầu khẩn thái tử, song chàng chẳng muốn chuyện đó, nên vị vương đệ được quán đảnh phong vương. Thái tử cũng không màng ngôi vị phó vương hay chức tước gì cả, khi triều thần xin chàng ở lại, sinh sống trên mảnh đất trù phú này, chàng đáp:

– Không, ta không làm gì được trong kinh thành này cả.

Rồi chàng ra đi, rời khỏi Ba la nại, chàng đến vùng biên địa và sống với một gia đình thương gia giàu có, làm việc bằng đôi tay của mình. Những người này sau một thời gian biết được chàng là thái tử, nên không để cho chàng làm việc nữa, họ hầu hạ chàng như thể một vương tử phải được cung phụng vậy.

Bấy giờ, sau một thời gian, triều thần đến làng đó để vẽ họa đồ đồng ruộng. Lúc ấy người lái buôn nói với vương tử.

– Tâu Ðiện hạ, vì công lao chúng thần phụng dưỡng ngài, mong ngài gửi về vương đệ của ngài một bức thư để xin dùm cho chúng thần được miễn giảm thuế chăng?

Chàng đồng ý làm việc ấy và viết như sau: “Ta đang sống với một gia đình thương nhân nọ, ta xin vương đệ vì ta mà miễn thuế cho họ.”

Vua chấp thuận, và làm y theo như vậy. Từ đó dân làng và dân cả vùng ấy đến gặp chàng bảo:

– Hãy xin cho chúng thần được miễn thuế, rồi chúng thần sẽ đóng thuế cho ngài. Chàng làm thỉnh nguyện thư cho họ, và xin cho họ miễn thuế. Sau đó dân chúng trả thuế cho chàng. Lúc ấy, lợi tức và danh tiếng chàng rất lớn, cùng với lợi danh này, lòng tham của chàng cũng khởi lên, vì thế dần dần chàng đòi cả thị trấn, chàng đòi chức phó vương cũ và vương đệ chàng cứ ban cho chàng tất cả. Lúc ấy lòng tham của chàng cứ tăng trưởng, chàng không hài lòng với chức vị phó vương, và quyết định chiếm lại ngai vàng. Nhắm mục đích ấy, chàng lên đường cùng với một đám người, đóng tại ngoại ô kinh thành và gửi thư vào vương đệ chàng:

– Hãy trao quốc độ cho ta, không thì giao chiến!

Vị vương đệ suy nghĩ: “Ngày trước kẻ ngu si này đã từ chối ngai vàng, địa vị phó vương và tất cả; nay lại bảo: Muốn đánh chiếm lại. Nếu ta giết anh ta trong chiến trận thì đó là điều ô nhục cho ta, vậy ta cần gì làm vua nữa?” Vì thế chàng gửi chiếu chỉ:

-Tiểu đệ không muốn gây binh đao, xin vương huynh cứ lấy ngai vàng.

Vương huynh chấp thuận việc ấy và phong vương đệ làm phó vương.

Từ đó chàng cai trị vương quốc. Nhưng chàng tham lam như vậy, nên một vương quốc chưa làm chàng thỏa mãn mà chàng muốn hai vương quốc, rồi ba, tuy thế, vẫn thấy lòng tham vô tận.

Thời bấy giờ, Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nhìn ra ngoài. Ngài suy nghĩ: “Ai là người chăm lo phụng dưỡng cha mẹ đây? Ai là người bố thí và làm điều thiện đây? Ai là người bị tham dục chi phối.” Ngài suy nghĩ: “Kẻ ngu si này không hài lòng trị vì ở Ba la nại. Ðược, ta sẽ dạy cho y một bài học.”

Vì vậy ngài giả dạng một thanh niên Bà-la-môn, đứng ở cửa cung rồi đưa tin rằng có một thanh niên lanh lợi đang đứng ở cửa. Chàng được phép vào chầu, liền tung hô chúc tụng vạn tuế vua xong xuôi, vua hỏi:

– Tại sao công tử đến đây?

Chàng đáp:

– Tâu Ðại vương, tiểu sinh có chuyện cần tâu với Ðại vương, song tiểu sinh muốn được giữ cẩn mật.

Nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ, ngay lúc ấy mọi người rút lui cả. Sau đó chàng thanh niên nói:

– Tâu Ðại vương, tiểu sinh biết ba kinh thành trù phú, đông dân, quân đội, chiến mã đều hùng cường, tiểu sinh nhờ quyền lực của mình sẽ làm chủ ba kinh thành ấy, và sẽ dâng tặng Ðại vương. Song Ðại vương không được trì hoãn mà phải đi liền lập tức.

Vua đầy lòng tham nên đồng ý ngay.

Song vì thần lực của Ðế Thích ngăn cản, nên vua không hỏi: “Thế công tử là ai, từ đâu đến? Công tử sẽ nhận lại cái gì?” Ðế Thích Thiên chủ nói vậy xong, trở về cõi Trời Ba mươi ba.

Sau đó vua triệu quần thần lại, và bảo họ:

– Một thanh niên vừa đến đây, hứa sẽ lấy và dâng cho trẫm thống trị ba vương quốc! Các khanh hãy đi tìm kẻ ấy. Ra lệnh đánh trống khắp kinh thành, triệu tập quân sĩ, không được trì hoãn, vì trẫm sắp chiếm ba vương quốc kia đấy.

Quần thần đáp:

– Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tiếp đãi thanh niên ấy, hoặc hỏi xem chàng ở đâu chăng?

-Không, không, trẫm không tiếp đãi chàng, cũng không hỏi chàng ở đâu cả, vậy cứ đi tìm chàng!

Quần thần đi tìm, song không thể tìm ra chàng khắp kinh thành này. Nghe vậy, vua buồn bực:

– Quyền cai trị ba kinh thành đã mất rồi.

Vua lại suy nghĩ liên miên: “Ta bị tước mất vinh quang tột bậc, chắc chắn thanh niên ấy bỏ đi, bực tức ta lắm vì chẳng ban cho chàng tiền lộ phí, cũng chẳng cấp nơi cư trú.”

Sau đó trong cơ thể vua nóng như thiêu đốt, trong khi cơ thể nóng bừng như vậy thì ruột vua mắc bệnh kiết lỵ ra máu; thức ăn đưa vào lại chảy ra hết, các y sĩ không thể nào chữa trị được, nên vua kiệt sức. Bệnh trạng vua được đồn đãi khắp kinh thành.

Lúc ấy, Bồ-tát từ Takkasilà đã trở về nhà cha mẹ ở Ba la nại, sau khi đã tinh thông mọi ngành học thuật. Ngài được tin về vua, liền đi đến cung môn, với ý định chữa bệnh vua nên gửi vào một tờ sớ tâu rằng có một thanh niên đang sẵn sàng trị bệnh cho đức vua. Vua phán:

– Các đại danh y lừng lẫy khắp gần xa còn chưa chữa nổi căn bệnh của trẫm, chứ một thanh niên làm gì được? Thôi trả tiền lộ phí cho gã rồi bảo gã ra về.

Thanh niên ấy đáp:

– Ta không cần chi phí chữa bệnh, song ta sẽ chữa lành vua, ngài chỉ cần trả tiền cho ta món thuốc chữa bệnh mà thôi.

Khi vua nghe vậy, liền chấp thuận cho chàng vào. Chàng thanh niên kính lễ vua:

– Tâu Ðại vương, chớ sợ gì! Chàng bảo – thần sẽ trị lành bệnh Ðại vương, song xin Ðại vương nói cho thần nghe nguyên cớ căn bệnh của Ngài.

Vua nổi thịnh nộ đáp:

– Ngươi hỏi thế để làm gì chứ? Cứ làm món thuốc chữa trị đi.

Chàng bảo:

– Tâu Ðại vương, đây là phương cách của y sĩ, trước tiên phải biết vì sao sinh bệnh tật, sau đó mới làm thuốc chữa cho thích hợp.

Vua phán bảo:

– Thôi được rồi, chú bé.

Và vua bắt đầu kể nguồn gốc căn bệnh, từ lúc thanh niên hứa hẹn rằng chàng ta sẽ giành lấy và dâng lên vua quyền thống trị ba kinh thành.

– Như vậy, này bé con, căn bệnh sinh ra từ lòng tham, chú có giỏi thì chữa đi.

Chàng đáp:

– Sao, tâu Ðại vương, có chiếm được các kinh thành ấy nhờ buồn phiền chăng?

– Không đâu, bé con.

– Nếu vậy thì tại sao Ðại vương lại buồn phiền? Mọi vật dù vô tri hay có tri giác, đều phải hủy diệt, bỏ lại tất cả, ngay cả thân xác của mình. Dù cho Ðại vương có cai trị cả bốn kinh thành đi nữa. Ðại vương cũng không thể cùng một lúc ăn bốn mâm cơm, ngủ bốn tọa sàng, mặc bốn bộ y phục. Ðại vương không nên làm nô lệ cho tham dục, vì khi tham dục tăng trưởng thì ta không thể thoát được bốn cảnh khổ.

Sau khi đã khuyến giáo như vậy xong, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp qua các vần kệ sau:

  1. Người nào mong muốn việc trong lòng,
    Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
    Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
    Vì nay đã đạt được cầu mong.
  2. Người nào ước vọng việc trong lòng,
    Khi ước vọng kia được vẹn tròn,
    Ước vọng tràn vào tâm trí mãi,
    Như đang cơn khát gặp oi nồng.
  3. Trong loại bò trâu có mọc sừng,
    Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
    Cũng như tâm địa người vô trí
    Chẳng biết chút gì, chẳng biệt phân,
    Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
    Thì niềm khát vọng cứ gia tăng.
  4. Ðem hết lúa ngô ở cõi đời,
    Bò trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
    Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
    Và giữ đường công chính mãi thôi.
  5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
    Trần thế trải mình tận đại dương,
    Ở phía bên này chưa thỏa mãn,
    Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng.
  6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
    Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
    Người tránh dục tham tìm đúng thuốc,
    Người nào tri túc, trí như nguyền.
  7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
    Tham dục không hề đốt cháy tan,
    Chẳng có bao giờ người trí tuệ
    Lại làm nô lệ của lòng tham.
  8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
    Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
    Người kia cũng giống như lòng biển,
    Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
    Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
    Hợp làn da bọc ở bàn chân.
  9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
    Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
    Người nào muốn hưởng tròn an lạc,
    Phải bỏ mọi tham dục tức thì.

Nhưng trong khi Bồ-tát ngâm các vần kệ này, tâm ngài chuyên chú vào chiếc lọng trắng của vua, nên khởi lên nỗi hỷ lạc của thiền định đạt được qua ánh sáng trắng (một pháp thiền Kasina). Riêng phần vua được bình phục khỏe khoắn, liền hoan hỷ đứng lên từ chỗ ngồi, và nói với ngài:

– Trong khi các y sĩ kia không thể chữa lành trẫm, thì một thanh niên hiền trí làm cho trẫm khỏe mạnh nhờ phương thuốc trí tuệ.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
    Ngàn vàng mỗi khúc, Ðại La-môn,
    Xin chàng nhận số vàng, vì lẽ
    Lời nói chàng nay thật dịu dàng.

Nghe vậy bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
    Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
    Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
    Tham dục tâm ta đã lụi tàn.

Vua càng hân hoan hơn nữa, liền ngâm vần kệ cuối cùng để tán thán bậc Ðại Sĩ:

  1. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
    Am tường mọi kiến thức trần gian,
    Dục tham kia chính là sinh mẫu
    Của khổ đau, chàng mới vạch trần.

Bồ-tát lại bảo:

– Tâu Ðại vương, ngài phải biết tinh cần và bước vào chánh đạo.

Thuyết giáo cho vua xong, ngài bay qua không gian đến Tuyết Sơn, và sống suốt đời làm một ẩn sĩ tu hành. Ngài chuyên chú hành trì Tứ Vô lượng tâm và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ta đã làm Bà-la-môn này lành bệnh.

Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Bà-la-môn này là vị vua kia và Ta chính là chàng thanh niên hiền trí.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại vương Janasandha (Tiền thân Janasandha)

Chúa tể Ja-na nói thế này…,

Chuyên này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về việc giáo hóa Quốc vương Kosala.

Có một thời, dân chúng bảo rằng vua mê đắm quyền lực buông mình vào các ác dục, không trị nước công minh, và ngày càng xao lãng việc đến yết kiến đức Phật. Một ngày kia, vua nhớ đến đấng Thập Lực liền suy nghĩ: “Ta phải đến viếng Ngài.” Vì vậy, sau khi điểm tâm, vua ngự lên chiếc vương xa lộng lẫy, tiến về tinh xá, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Ðức Phật hỏi:

– Thưa Ðại vương, thế nào? Ðã lâu Ðại vương không đến đây?

Vua đáp:

– Bạch Thế Tôn, trẫm quá bận việc nên không có dịp đến đây hầu cận Thế Tôn.

Ðức Phật bảo:

– Thưa Ðại vương, xao lãng việc đến gặp các bậc Chánh Ðẳng Giác như Ta thật là không đúng, Ta là một vị Phật ở ngay một tinh xá trước mặt, có thể khuyến giáo Ðại vương. Một vị vua phải cai trị sáng suốt, trong mọi phận sự quân vương, đối với thần dân như cha mẹ đối với con, từ bỏ mọi ác đạo, không bao giờ quên lãng Thập vương pháp (Mười Ðức hạnh của một vị vua). Khi một vị vua chân chính, đám triều thần vây quanh cũng chân chính noi gương. Thật thế, nếu theo lời giáo huấn của Ta mà Ðại vương đã phải cai trị chân chính thì cũng không lạ gì. Nhưng còn những bậc hiền tài ngày xưa, ngay cả thời chưa có một bậc Ðạo Sư để giáo hóa vua chúa, mà nhờ tri kiến riêng của chính mình, các vua đó đã được an trú vào việc thực hành ba thiện nghiệp, thuyết Pháp cho một đám đông dân chúng và cùng các đoàn tùy tùng lên cộng trú với các hội chúng ở cõi Trời.

Cùng với các lời này, theo sự thỉnh cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, Bồ-tát sinh ra làm vị vương tử của chánh hậu. Cha mẹ ngài đặt tên ngài là vương tử Janasandha.

Bấy giờ đến tuổi trưởng thành và trở về từ Takkasilà, nơi ngài đã hoàn tất việc học tập, vua ra lệnh đại xá cho các tù nhân, và phong ngài chức Phó vương. Sau đó khi vua cha băng hà, ngài lên ngôi vua và ra lệnh xây sáu bố thí đường: tại bốn cổng thành, giữa thành và tại cung môn. Cứ mỗi ba ngày, ngài phân phát sáu trăm ngàn đồng tiền và làm chấn động toàn cõi Diêm-phù-đề vì việc đại bố thí của ngài: ngài mở cửa ngục ra thả hết, phá bỏ những pháp trường, ngài che chở cho mọi người bằng bốn thiện pháp (bố thí, thân ái, công bình, thiện trị); ngài giữ Ngũ giới, hành trì ngày trai giới và cai trị rất công chính. Thỉnh thoảng ngài hội họp quần thần lại và thuyết Pháp cho họ:

– Các khanh hãy bố thí, thực hành giới đức chân chánh, đi theo công việc và nghề nghiệp của mình, tự giáo hóa mình trong lúc còn tuổi thanh niên, lo làm cho giàu có, đừng cư xử như một tên lừa đảo trong làng hoặc như một con chó, đừng quá khắt khe hoặc thô ác, hãy làm bổn phận với cha mẹ, sống trong gia đình, hãy tôn trọng các bậc trưởng thượng.

Như vậy ngài khuyến khích quần chúng giữ chánh mạng.

Vào một ngày trai giới trăng tròn kia, sau khi đã hành trì ngày trai giới trọn vẹn, ngài tự nhủ: “Ta sẽ thuyết Pháp cho đại chúng để luôn luôn làm tăng trưởng lợi lạc cho họ và khiến họ tinh cần trong cuộc sống.” Sau đó ngài ra lệnh đánh trống lên, bắt đầu với đám cung phi, sau đó toàn thể dân chúng trong thành tụ tập lại. Tại sân chầu ngài ngự trên một sàng tọa lộng lẫy đặt riêng biệt, dưới một ngôi đình được tô điểm toàn châu báu, và thuyết Pháp bằng những lời này:

– Hỡi dân chúng trong kinh thành, trẫm sẽ tuyên thuyết cho các người nghe những việc gì làm cho các người đau khổ và những việc gì không làm cho các người đau khổ. Hãy tỉnh giác, chú tâm nghe và khéo tác ý.

*

Bậc Ðạo Sư mở miệng ra, đó chính là viên bảo châu giữa tất cả các chiếc miệng ở đời, chứa đầy Chân lý, và với giọng ngọt ngào như mật, ngài giải thích lời nói này với vua Kosala:

  1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
    Có mười điều đúng thật như vầy,
    Nếu người quên việc thi hành chúng,
    Thì kẻ đó liền chịu khổ ngay!
  2. Không tạo, chẳng tích trữ đúng thời,
    Lòng kia giày xéo khổ đau hoài,
    Về sau hối tiếc vì suy nghĩ:
    “Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!”
  3. Với người không học, sống gian lao!
    Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
    Kiến thức mà nay cần sử dụng,
    Nó không thèm học trước đi nào!
  4. Hai lưỡi ngày xưa, chẳng thật thà,
    Vọng ngôn, ý ngữ chẳng nhân từ:
    Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
    Nay thấy nhân duyên khổ đó mà.
  5. Xưa ta sát hại thật hung tàn,
    Chẳng một người nào được phát ban,
    Vì việc đáng khinh này, (tự nhủ),
    Nay ta phải chịu lắm buồn than.
  6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp thê,
    Ta đành mắc nợ đám người kia,
    Vì ta bỏ chúng theo nàng khác,
    Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê!
  7. Xưa đã chứa đầy thức uống ăn,
    Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
    Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
    Thuở trước đem ban bố một lần.
  8. Nó khổ vì khi có thể làm,
    Nó không lo phụng dưỡng chăm nom
    Mẹ cha nay đã thành già yếu,
    Tuổi trẻ ngày nay đã lụi tàn.
  9. Vì đã khinh thường vị giáo sư,
    Những người khuyên bảo hoặc ông cha
    Cố làm nó đạt tròn tâm nguyện,
    Việc ấy gây đau khổ xót xa.
  10. Ðối với Sa-môn quá hững hờ,
    Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
    Sống đời thánh thiện và thông thái,
    Khiến nó ăn năn tự bấy giờ.
  11. Khổ hạnh thực thi thật tốt lành,
    Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
    Trước kia nó chẳng làm điều đó,
    Nay phải buồn khi kể chuyện mình.
  12. Mười điều nhờ trí tuệ khôn ngoan,
    Người thực hiện cho được vẹn toàn,
    Ðối với mọi người làm phận sự,
    Sẽ không hề phải chịu ăn năn.

*

Như vậy, cứ mỗi tháng hai lần, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo theo đường lối ấy cho đại chúng. Và đại chúng được an trú vào Giáo pháp của ngài và hoàn thành Mười thiện pháp này, nên được sinh lên Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Thưa Ðại vương, như vậy các bậc trí nhân ngày xưa, dù chưa được dạy bảo mà chỉ do trí tuệ riêng của mình, đã thuyết Pháp và an trú đại chúng vào con đường đưa đến thiên giới.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, các đệ tử của đức Phật là dân chúng và Ta chính là vua Janasandha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền thân Mahà Kanha)

Chó săn đen sẫm buộc năm dây…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về sự sống vì lợi lạc cho cõi đời.

Chuyện kể rằng, một ngày kia, trong lúc các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường, họ nói chuyện với nhau. Một vị bảo:

– Này các Hiền giả, bậc Ðạo Sư bao giờ cũng thực hành từ tâm đối với đại chúng nên đã rời bỏ nơi an trú của Ngài và sống chỉ vì lợi lạc của người đời. Ngài đã đạt Tối thượng trí, song Ngài tự nguyện mang y bát di du hành cả mười tám dặm đường hoặc nhiều hơn nữa. Vì năm vị Trưởng lão ấy (các Tôn giả Kondannas), Ngài đã chuyển Bành xe Pháp; vào ngày mồng năm trong nửa tháng ấy Ngài thuyết Kinh Anattalakkana (Vô Ngã Tướng) và làm cho các vị kia đều đắc Thánh quả A-la-hán. Ngài lại đến Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa), và trước các Ðạo Sĩ khổ hạnh bện tóc này (các Tôn giả Kassapa), Ngài thị hiện cho ba ngàn rưởi vị thấy các phép thần thông, cùng thuyết giáo cho các vị ấy gia nhập Tăng chúng; và tại Gayàsìsa (một ngọn núi gần Gayà, nay là Brahmàmayoni), Ngài đã thuyết Pháp về Lửa, khiến cho cả ngàn nhà tu khổ hạnh trong số này đắc Thánh quả A-la-hán. Với Mahà-Kassapa (Ðại Ca-diếp), sau khi Ngài đi cả ba dặm đường để gặp vị ấy và thuyết ba Pháp thoại, Ngài đã truyền Ðại giới cho vị ấy. Rồi một mình sau buổi thọ trai, Ngài ra đi đến bốn mươi lăm dặm đường để đưa một thiện gia nam tử là Pukkusa vào Tam quả Bất Lai. Ngài lại phải đi xa cả hai ngàn dặm để gặp Mahà-Kappina (Ðại Kiếp tân-na) và làm cho vị này đắc Thánh quả. Rồi một mình Ngài vào buổi chiều đi ba mươi dặm đường để đưa con người độc ác tàn bạo đó là Angulimàla (Tướng cướp đeo vòng ngón tay) vào Thánh quả. Ngài đi ba mươi dặm nữa, và đưa Álavaka (một con quỷ ăn thịt người) vào Sơ qủa Dự lưu cùng cứu hoàng tử thoát nạn (khỏi bị quỷ kia ăn thịt). Ngài an trú trên cõi Trời Ba mươi ba suốt ba tháng và giảng toàn bộ Giáo pháp cho tám trăm triệu Thiên tử. Ngài lên cõi Phạm thiên và phá tan tà thuyết của Phạm thiên Baka (số 405. TT Phạm thiên Baka), cùng làm cho mười ngàn vị Phạm thiên đắc Thánh quả. Mỗi năm Ngài du hóa trong ba khu vực, và đối với những ai có đủ căn cơ hiểu đạo, Ngài truyền dạy Tam quy, Ngũ giới và các quả vị khác nhau tùy mức độ khả năng. Ngài còn hành đạo vì lợi lạc của loài Rắn rồng (Nàga) hoặc Kim sí điểu (garula) hoặc nhiều loài khác nữa, theo nhiều phương tiện khác nhau.

Với những lời như trên, các Tỷ-kheo tán thán công đức trong đời sống của đấng Thập Lực vì lợi lạc của cõi trần gian này. Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại đây. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

-Này các Tỷ-kheo, ngày nay ta đã đạt Thắng trí viên mãn và sống vì lợi ích của chúng sinh thì cũng chẳng lạ gì, ví ngay cả xưa kia, khi Ta còn tham dục, Ta cũng đã sống vì lợi lạc của chúng sinh.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong thời đức Phật Chánh Ðẳng Giác Kassapa (Ca-diếp) có một vị vua mệnh danh là Usìnara. Một thời gian rất lâu sau khi đức Phật Ca-diếp tuyên thuyết Tứ Ðế (Bốn Sự Thật) và giải thoát cho nhiều hội chúng khỏi khổ ách, cuối cùng đã nhập vào hội chúng chư Phật an trú trong Niết-bàn (Ðại diệt độ) thì Ðạo pháp đã suy tàn. Tăng chúng tìm kế sinh nhai bằng hai mươi mốt cách phi pháp, họ kết giao với các Tỷ-kheo ni và sinh ra nhiều con cái. Các Tỷ-kheo xao lãng phận sự của Tỷ-kheo. Tỷ-kheo ni cũng xao lãng phận sự của Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ cũng vậy, các Bà-la-môn không còn giữ phận sự của Bà-la-môn, phần đông dân chúng theo Mười ác đạo, vì vậy khi mạng chung, họ đều phải vào các đọa xứ thật đông đảo.

Lúc ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, nhận thấy không có vị Thiên tử nào mới xuất hiện, ngài nhìn ra cõi trần gian, và thấy loài người bị đọa vào các cõi dữ như thế nào, còn Giáo pháp của đức phật đã suy tàn. Ngài tự hỏi: “Ta phải làm gì? – ta nghĩ ra rồi!” Ngài tự nhủ: “Ta sẽ đe dọa loài người làm cho đại chúng kinh hãi và khi đại chúng đã kinh hãi, ta sẽ trấn an đại chúng và thuyết Pháp, ta sẽ chấn hưng Ðạo pháp đã suy tàn, ta sẽ làm Ðạo pháp tồn tại một ngàn năm nữa!”

Cùng với quyết định này, ngài biến vị Thần lái xe của Ngài là Màtali thành một con Chó săn đen đủi khổng lồ, loài chó thuần chủng, có bốn nanh lớn như quả chuối, hình thù gớm ghiếc, với cái bụng bự như đàn bà sắp sinh con. Ngài cột con Chó bằng sợi xích năm vòng, cột tràng hoa đỏ lên mình nó và dẫn nó đi bằng một sợi dây. Chính ngài mặc y phục màu vàng, buộc tóc ra đằng sau, quấn tràng hoa đỏ rồi cầm một cây cung khổng lồ với dây cung màu san hô, lắc lư trong tay một cái lao có đầu mũi gắn hạt kim cương, ngài giả dạng một sơn nhân đi xuống, một địa điểm cách kinh thành một dặm.

– Trần gian đang bị tiêu diệt! Trần gian đang bị tiêu diệt!

Ngài thét lớn ba lần để đe dọa mọi người và khi vào đến kinh thành, ngài lại thét lên như vậy. Dân chúng thấy con Chó săn liền kinh hoảng bỏ chạy vào thành tâu trình với vua mọi việc. Vua vội vã truyền lệnh đóng các cổng kinh thành. Song Thiên chủ Ðế Thích nhảy qua bức thành cao mười tám cubit (1 cubit = 45cm) cùng con Chó săn, đứng bên trong kinh thành. Dân chúng hoảng hốt chạy vào nhà đóng cửa thật chặt. Con Chó đen khổng lồ rượt theo người nào nó gặp phải và dọa nạt họ, cuối cùng vào đến tận cung vua. Trong cơn khủng khiếp, dân chúng đi ẩn náu khắp sân chầu, vào tận cung điện và đóng cửa lại.

Còn vua cùng các vương phi đi lên thượng lầu. Hắc thiên cẩu đưa chân đặt vào của sổ và rống lên thật kinh hoàng! Tiếng rống vang dội từ địa ngục lên đến tận trời xanh cao ngất: cả vũ trụ vang rền tiếng rống đó. Có ba tiếng rống lớn từng vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) là: Tiếng rống của vua Punnaka trong chuyện Tiền thân Punnaka, tiếng rống của Long vương Sudassana trong chuyện Tiền thân Bhùridatta và tiếng rống này trong Tiền thân Mahà-Kanha, hay chuyện Ðại Hắc thiên cẩu.

Vua thu hết can đảm đến gần cửa sổ, kêu lớn vào Thiên chủ:

– Này thợ săn kia, sao con Chó của ngươi rống lên thế?

– Vì nó đói.

Vua bảo:

– Ðược, trẫm sẽ ra lệnh đem thức ăn cho nó.

Thế là vua ra lệnh đem thức ngự thiện của ngài cùng thức ăn trong cả cung điện. Con Chó hình như chỉ ngoạm một miếng là hết tất cả, xong lại gào thét. Vua hỏi nữa.

– Con chó còn đói. Thiên chủ đáp.

Sau đó vua bảo đem thức ăn của voi, ngựa ra cho nó. Nó cũng ăn trọn lập tức; vua lại phải lấy hết thức ăn trong kinh thành ra cho nó; con Chó cứ nuốt trửng hết như trên rồi gào thét nữa. Vua bảo:

– Ðây không phải chó. Chắc chắn là con quỷ dữ. Ta muốn xem nó từ đâu đến.

Lòng kinh hãi, vua ngâm vần kệ đầu hỏi:

1.Chó săn đen sẫm buộc năm dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm gì được với người đây?

Nghe vậy Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chó đen chẳng đến để săn mồi,
    Song nó làm công dụng trị người,
    Ðại đế U-si này, phải biết.
    Khi ta thả lỏng nó ra thôi.

Lúc ấy vua bảo:

– Sao, thợ săn, chó này sẽ xé xác hết mọi người hay chỉ xé những kẻ thù của ngươi thôi?

– Tâu Ðại vương, chỉ những kẻ thù của tiểu thần thôi.

– Vậy ai là kẻ thù của ngươi?

– Tâu Ðại vương, những kẻ nào thích gian tà và theo đường ác.

Vua bảo:

– Hãy tả bọn chúng ra cho ta nghe.

Vị Thiên chủ liền tả bọn chúng qua các vần kệ:

  1. Giả làm Tăng chúng, bát trong tay,
    Mình khoác chiếc y, cạo tóc này,
    Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
    Thì ta sẽ thả Chó đen ngay.
  2. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn này,
    Ðắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
    Lại thấy đua chen đời thế tục,
    Thì ta sẽ thả Chó đen đây.
  3. Khi nhà tu lại muốn cho vay
    Nặng lãi, môi trên chẫu thật dài,
    Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
    Thì ta sẽ thả Chó đen này.
  4. Giáo sĩ không kinh thánh, lễ đàn,
    Lại dùng hết cả mọi tài năng
    Tế đàn vì chí ham tiền của,
    Lúc ấy ta liền thả Chó săn.
  5. Nay đã già nua, nhị lão thân
    Ðến thời tàn tạ hết ngày xuân,
    Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
    Chống nó, ta liền thả Chó săn!
  6. Kẻ nào đối với mẹ cha già
    Nay đến lúc tàn, xuân đã qua,
    Kêu:”Các người kia, đồ ngốc dại!”
    Chống y, ta thả Chó săn ra.
  7. Khi đàn ông tán vợ người ta,
    Vợ của thầy hay của bạn nhà,
    Em của cha mình hay vợ cậu,
    Thì ta liền thả Chó đen ra.
  8. Khi mộc trên vai, kiếm dưới tay,
    Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
    Chiến trường giết hại, và ăn cướp,
    Ta sẽ thả ra Hắc cẩu này.
  9. Con trai bà góa dưỡng da ngà,
    Vô dụng không tài giỏi việc nhà,
    Lực lưỡng, chỉ gây trò đánh lộn,
    Thì ta sẽ thả Chó săn ra.
  10. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
    Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
    Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
    Thì ta sẽ thả Chó đen mà.

– Những người này là kẻ thù của ta, tâu Ðại vương!

Ngài làm thể như sắp thả Chó xổ ra xé những kẻ nào làm các hành động của cừu nhân. Song trong lúc cả đám đông đang kinh hoàng, ngài cầm lấy dây xích chó, làm như thể buộc chặt nó vào chỗ đó, rồi ngài trút bỏ bộ dạng thợ săn, dùng thần lực bay lên đứng trên không, sáng rực rỡ, và bảo:

– Này Ðại vương, ta là Ðế Thích Thiên chủ, vì thấy trần gian sắp bị hủy diệt nên ta đến đây. Quả thật bây giờ người chết đọa vào các cõi khổ đầy rẫy, vì chúng làm toàn chuyện độc ác, còn thiên giới thì trống vắng. Từ nay ta sẽ biết cách trừng trị bọn gian ác, song các người phải cố gắng tinh cần.

Rồi sau khi thuyết Pháp trong bốn vần kệ đáng ghi nhớ và hướng dẫn dân chúng vào các công đức thiện sự như bố thí, ngài tăng cường uy lực của Giáo Pháp đang suy tàn để Giáo pháp được tồn tại thêm một ngàn năm nữa, rồi ngài cùng Thần Màtali trở lại cõi của ngài.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này. Ngài nói thêm:

-Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như nay, Ta đã sống vì lợi lạc của cõi đời.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời đó, Ánanda là Màtali và ta là Ðế Thích Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền thân Kosiya)

Chuyện phú ông keo kiệt sẽ được kể trong số 535. Tiền thân Thực phẩm Thiên giới (Sudhàbhojana), Tập VI.

-ooOoo-

  1. Chuyện Con Dê (Tiền thân Mendaka)

Chuyện con dê sẽ được kể trong số 546, Tiền thân Ðường Hầm Lớn (Mahà Ummagga). Tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền thân Mahà – Paduma)

Vua chẳng nên trừng phạt tội hình…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tai Kỳ Viên về Ciddamànavikà (người đã vu cáo đức Phật về việc thông gian).

Khi đấng Thập Lực mới đạt Vô thượng Chánh Ðẳng Giác, sau đó chúng đệ tử này càng đông đảo, vô số chư Thiên và loài người đã được sinh lên Thiên giới, hạt duyên lành gieo rắc khắp nơi, nên Ngài được uy danh lừng lẫy và lễ vật cúng dường cao trọng. Bọn ngoại đạo tà giáo chẳng khác nào bầy đom đóm sau buổi bình minh, họ chẳng còn danh vọng, lợi dưỡng cúng dường nữa; họ liền ra giữa đường hét lớn vào đám dân chúng:

– Nay sao, Sa-môn Gotama là bậc Giác Ngộ à? Chúng ta cũng là những bậc Giác Ngộ. Chỉ có các lễ vật cúng dường cho vị ấy mới mang lại kết quả lớn sao? Những vật cúng dường cho chúng ta cũng mang lại kết quả lớn cho các ngươi. Vậy các ngươi hãy cúng dường cho chúng ta, phục vụ chúng ta nữa chứ?

Song dù họ kêu gào mãi, họ cũng chẳng hưởng được danh vọng lợi dưỡng nào cả. Sau đó họ bí mật họp nhau lại, và bàn bạc vấn kế:

– Làm thế nào ta có thể gây ô nhục cho sa môn Gotama trước mặt công chúng để chấm dứt danh vọng lợi dưỡng cúng dường của ông ấy đây?

Lúc bấy giờ tại Xá-vệ có một cô gái kia tên là Cincamànavikà, vẻ đẹp tuyệt trần, dáng kiều diễm mảnh mai, như một nữ thần, ánh sáng như tỏa ra từ thân thể nàng. Có người bày mưu kế ác độc như sau:

– Nhờ Cincamànavikà giúp sức, ta có thể gây ô nhục cho Sa-môn Gotama và chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà ông đang hưởng.

– Phải lắm, cả bọn đồng ý. Ta phải làm cách ấy đấy.

Khi nàng ấy đến chỗ tu hành của bọn ngoại đạo tà giáo, đảnh lễ họ rồi đứng yên, bọn tà đạo sư không nói gì với nàng cả. Nàng hỏi:

– Con có lỗi gì chăng? Con đã chào các Tôn giả ba lần rồi.

Nàng lại bảo:

– Thưa các Tôn giả, tại sao các vị không nói gì với con?

Họ đáp:

– Này chị, chị có biết Sa-môn Gotama đang du hành qua đây và làm hại chúng ta, làm mất hết mọi danh vọng và lợi dưỡng cúng dường mà chúng ta đã được hưởng trước kia chăng?

– Thưa các Tôn giả, con không biết việc đó, nhưng con có thể làm gì được?

– Này chị, nếu chị muốn chúng ta được tốt lành thì hãy tự mình gây ô nhục cho Sa-môn Gotama để chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà vị ấy đang hưởng.

Nàng đáp:

– Thưa các Tôn giả, được lắm, xin để việc ấy cho con đừng lo lắng gì nữa.

Nói vậy xong nàng từ giã ra đi.

Sau đó nàng dùng mọi xảo thuật của nữ nhân để đánh lừa người đời. Khi dân chúng ở Xá-vệ nghe Pháp xong và ra về từ Kỳ Viên, nàng lại thường đi về phía Kỳ Viên, khoác chiếc y nhuộm màu đỏ yên chi, tay cầm vòng hoa thơm ngát. Khi có ai hỏi nàng:

– Ði đâu vào giờ này?

Nàng thưởng trả lời:

– Các vị có liên quan gì đến việc tôi di, tôi về mà hỏi?

Nàng cứ ở lại ban đêm trong am thất của bọn tà đạo sư ấy, sát gần Kỳ Viên, rồi đến sáng sớm mai, khi các cư sĩ cận sự của Tăng chúng từ kinh thành đến đảnh lễ Tăng chúng buổi sáng, nàng thường hay gặp gỡ họ như thể nàng đã ở lại ban đêm tại Kỳ Viên rồi đi về kinh thành. Nếu có ai hỏi nàng đã ở lại nơi đâu, nàng liền trả lời:

– Tôi ở lại nơi đâu thì có việc gì đến các vị?

Song sau chừng sáu tuần lễ, nàng đáp:

– Tôi ở ban đêm tại Kỳ Viên với Sa-môn Gotama trong Hương phòng.

Các người ngoại đạo bắt đầu thắc mắc không biết việc ấy có đúng chăng. Sau chừng ba bốn tháng, nàng lại quấn nhiều lớp vải quanh bụng, làm vẻ như thể nàng đang có thai, và khoác áo choàng đỏ ra ngoài. Rồi nàng tuyên bố là nàng có thai với Sa-môn Gotama khiến cho đám người ngu si mù quáng tin theo lời. Sau chừng tám chín tháng nàng cột quanh người những miếng gỗ cuộn thành bó, khoác áo đỏ phủ lên, lấy xương hàm của bò đập vào tay chân thân thể cho sưng phồng to, và làm ra dáng mệt mỏi.

Một buổi chiều khi đức Như Lai đang ngồi trên bảo tọa thuyết Pháp, nàng bước vào giữa hội chúng, đứng trước mặt đức Như Lai và nói:

– Này Ðại sa-môn, quả thực Ngài đang thuyết Pháp cho nhiều hội chúng; giọng nói của Ngài thật êm ái, nhưng Ngài đã làm cho tiện thiếp có thai và ngày sanh đã gần kề, tuy thế Ngài không sắpđặt phòng bảo sanh cho thiếp, Ngài không cho thiếp bơ tươi hay dầu ăn gì cả. Những việc tự Ngài không muốn làm, Ngài cũng không nhờ một người cư sĩ nào làm thay thế, như vua Kosala, Ông Cấp Cô Ðộc hay nữ cận sự Visàkhà. Tại sao Ngài không bảo một người trong các vị ấy làm những việc cần cho thiếp? Ngài biết cách hưởng dục lạc, song lại không biết cách chăm sóc cái kết quả sẽ phát sinh từ đó!

Thế là nàng ta phỉ báng đức như Lai giữa đại chúng như một người cố ném bùn làm vấy bẩn mặt trăng. Ðức Như Lai ngưng thuyết giảng và thét lên như tiếng rống sư tử vang dội khắp nơi:

– Này chị, những điều chị vừa nói đúng hay sai, chỉ mình Ta và chị biết thôi.

Nàng đáp:

– Ðúng thế, quả thực vậy, việc này xảy ra như thế nào, chỉ mình Ngài và thiếp biết thôi.

Ngay lúc ấy chiếc ngai vàng của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Khi xem xét kỹ, ngài thấy rõ lý do: “Nàng Cincamànavikà đang vu cáo đức Như Lai về một việc không có thực.” Ngài quyết định làm sáng tỏ vấn đề này, liền cùng bốn Thiên thần đi đến đó. Các Thiên thần giả dạng bầy chuột đồng lập tức cắn sợi dây cột bó gỗ kia, rồi một cơn gió thổi tốc lên chiếc y đỏ nàng mặc, bó gỗ lộ ra và rơi xuống chân nàng, các ngón chân nàng đều bị đứt lìa cả. Ðại chúng la lớn:

– Một con mụ phù thủy đang vu cáo bậc Chánh Ðẳng Giác.

Ðại chúng liền khạc nhổ lên đầu nàng, lấy gậy gộc, đất đá xua đuổi nàng ra khỏi Tinh xá Kỳ Viên. Khi nàng đi khuất tầm mắt của đức Như Lai, đại địa liền há miệng ra thành một đường nứt khổng lồ, đám lửa từ dưới địa ngục thấp nhất bốc lên khiến nàng bị bao vây giữa đám lửa như thể trong chiếc hồng y hôn lễ mà đám bạn sẽ phủ lên nàng, rồi nàng rơi xuống tầng địa ngục thấp nhất, và tái sinh tại đó. Danh vọng và lợi dưỡng của đám tà sư vẫn tiêu tan, còn danh và lợi dưỡng của đấng Thập Lực lại tăng trưởng dồi dào hơn nữa.

Ngày hôm sau, Tăng chúng bàn luận trong Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu Tỷ-kheo, cô ả Cincamànavikà đã vu cáo đức Phật Chánh Giác với công đức cao cả xứng đáng mọi lễ vật cúng dường, và cô ả đã bị đọa đày khủng khiếp!

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại đây. Ðại chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ nữ nhân này mới vu cáo Ta rồi bị tiêu diệt thảm khốc, mà ngày xưa cũng vậy.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta. trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm vương tử của chánh hậu. Vì thấy dung mạo của Bồ-tát đầy đủ phước lành như đóa sen nở, vua đặt tên Ngài là Paduma-Kumara nghĩa là vương tử Liên Hoa. Khi lớn lên ngài được dạy đầy đủ mọi ngành học thuật. Lúc đó bà chánh hậu qua đời, vua lại sắc phong một vương hậu khác và phong cho ngài làm phó vương.

Sau đó vua sắp sửa lên đường đi dẹp loạn ở biên địa liền phán bảo vương hậu:

– Này ái khanh, hãy ở lại đây trong lúc trẫm đi dẹp loạn biên cương.

Song nàng đáp:

– Tâu Chúa thượng, không được đâu, thiếp không muốn ở lại mà thiếp xin đi theo hầu Chúa thượng.

Vua liền chỉ cho nàng thấy nỗi nguy hiểm ở chiến trường và nói thêm:

– Nàng hãy ở lại đây đừng lo buồn vì cho đến khi trẫm hồi cung, trẫm sẽ giao phó thái tử Paduma trọng trách chăm sóc mọi việc cần làm cho ái khanh rồi trẫm sẽ đi.

Nói vậy xong vua lên đường.

Khi ngài đã đánh tan kẻ thù, bình định đất nước, ngài trở về cắm trại ngoài kinh thành. Bồ-tát biết tin vua cha trở về liền trang hoàng kinh thành thật rực rỡ, rồi canh phòng cẩn mật cung điện, xong xuôi một mình ngài lên đường đón phụ vương. Vương hậu quan sát diện mạo khôi ngô của ngài, liền đem lòng say mê ngài. Khi giã từ vương hậu, ngài bảo:

– Tâu mẫu hậu, vương nhi có thể làm gì cho mẫu hậu được chăng?

Nàng bảo:

– Chàng gọi thiếp là mẫu hậu ư?

Rồi nàng đứng lên nắm hai tay ngài bảo:

– Chàng hãy nằm trên vương sàng của thiếp.

– Ðể làm gì? Ngài hỏi.

– Chúng ta hãy tận hưởng lạc thú ái ân cho đến khi đức vua trở về.

– Tâu mẫu hậu, mẫu hậu là mẹ của thần nhi, và mẫu hậu đang còn có phụ vương đây. Chưa bao giờ thần nhi nghe chuyện một nữ nhân, một kế mẫu, lại phá bỏ đạo lý đi theo dục lạc xác thịt như thế. Làm sao thần nhi có thể phạm tội lỗi ô uế như vậy với mẫu hậu được?

Nàng nài nỉ ngài hai ba lần, ngài vẫn từ chối, nàng liền bảo:

– Thế ngươi không chịu làm như ta bảo ư?

– Quả thật thần nhi không chịu!

– Vậy thì ta sẽ tâu trình vua cha ra lệnh chém đầu ngươi đi!

Bồ-tát bảo:

– Xin cứ làm như ý mẫu hậu.

Rồi Ngài bỏ đi, để nàng lại đó, lòng đầy hổ thẹn nhục nhã. Rồi trong lúc qua kinh hoàng, nàng suy nghĩ: “Nếu vương tử đi nói chuyện với vua cha trước ta thì ta sẽ không sống nổi đâu. Vậy chính ta phải lo nói trước với ngài.”

Thế là nàng không đụng tới các món ngự thiện, mà khoác vào chiếc hoàng y lấm lem, lại lấy móng tay cào sướt cả người, rồi ra lệnh cho cung nữ:

– Hễ giờ nào đức vua hỏi vương hậu ở đâu thì hãy tâu là lệnh bà bị bệnh.

Rồi nàng nằm xuống, giả vờ đau ốm.

Lúc bấy giờ vua uy nghi diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu rồi vào cung thất. Khi ngài không thấy nàng, ngài hỏi:

– Chánh hậu đâu rồi?

Chúng đáp:

– Muôn tâu, lệnh bà đang bị bệnh.

Ngài liền vào nội cung, hỏi nàng:

– Ái hậu có việc gì bất an chăng?

Nàng cứ làm như thể không nghe gì cả. Vua hỏi đến đôi ba lần nàng mới đáp:

– Tâu Ðại vương, ngài hỏi làm gì thế? Xin Ðại vương hãy im lặng: phụ nữ xuất giá đều phải chịu cảnh như thân thiếp cả.

– Ai đã làm phiền lòng ái hậu? Vua bảo: – Nói nhanh lên rồi trẫm sẽ hạ lệnh chém đầu nó.

– Thế Ðại vương đã để lại kẻ nào thay Ðại vương trong kinh thành này, khi Ðại vương ra đi?

– Vương tử Paduma.

Nàng nói tiếp:

– Và thế là vương tử vào phòng của thiếp, thiếp liền hỏi: “Này vương nhi đừng làm vậy, ta là mẫu hậu của vương nhi”.

Nhưng vương tử kêu lên: “Không ai là đức vua ở đây trừ ta. Vậy ta sẽ đưa nàng về cung thất của ta và hưởng ái ân với nàng”.

Rồi vương tử nắm lấy tóc thiếp cứ kéo nhổ ra mãi, và do thiếp không chiều theo ý vương tử nên vương tử đánh đập thiếp trọng thương rồi bỏ đi.

Vua không cần điều tra sự việc mà nổi cơn thịnh nộ lên như con mãnh xà, liền ra lệnh cho quân sĩ:

– Bây đãu đi trói vương tử Paduma rồi đem lại đây cho trẫm.

Họ liền đi đến cung thất của ngài, đông đảo lũ lượt kéo qua kinh thành, trói ngài lại, đánh đập, cột chặt hai tay ngài ra sau lưng, quấn quanh cổ ngài một vòng hoa đỏ của một tên tử tội, rồi dẫn ngài đến cung, vừa đi vừa đánh đập. Ngài biết rõ việc này là do vương hậu gây ra, nên trong khi ngài vừa đi, ngài vừa kêu lớn:

– Này các ngươi, ta không làm tội gì chống lại đức vua cả. Ta vô tội.

Cả kinh thành vang dội tin dữ: “Chúng bảo vua sắp hành hình thài tử theo lệnh một nữ nhân đấy!”

Dân chúng ùa tới quỳ dưới chân thái tử mà kêu khóc vang lừng:

– Chúa công ơi! Ngài không đáng bị trừng phạt như thế này!

Cuối cùng họ đem ngài đến trước vua. Vừa chợt thấy mặt ngài, vua không đè nén được những gìđang chất chứa trong lòng, liền kêu lớn:

– Kẻ này không phải là vua, song đã làm thế công việc của vua cha rất hoàn hảo, đó là vương nhi của ta, tuy vậy nó đã xúc phạm vương hậu. Bây hãy lôi cổ nó đi, đem thả xuống vực của bọn trộm cướp cho nó chết đi.

Nhưng vương tử tâu:

– Tâu phụ vương, con không hề phạm tội ấy. Xin đừng giết con vì lời của một nữ nhân.

Vua vẫn không nghe theo ngài, rồi toàn thể mười sáu ngàn cung phi ở chốn hậu cung đồng cất tiếng khóc than vang dội:

– Ôi vương tử Paduma thân yêu, vương tử Paduma hùng dũng, ngài không đáng bị đối xử như thế này.

Kế đó tất cả các tướng quân và các lãnh chúa, cùng các vị đại thần đều kêu lớn:

– Tâu Chúa thượng, vương tử là người hiền thiện và đức hạnh, vẫn giữ đúng truyền thống của dòng dõi ngài, là bậc kế vị trên ngai. Xin đừng giết ngài theo lời một nữ nhân mà không chịu nghe tâu trình gì cả. Phận sự một minh quân là phải hành động hết sức cẩn trọng.

Nói vậy xong, hội chúng liền ngâm bảo vần kệ:

  1. Vua chẳng nên trừng phạt tội hình
    Mà không nghe lý lẽ phân minh,
    Cũng không tự xét suy cho kỹ
    Mọi mặt, dù to, nhỏ thật tình.
  2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm sai
    Trước lúc đem ra xử hẳn hòi,
    Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
    Ăn toàn xương xẩu lẫn đàn ruồi.
  3. Ai phạt kẻ không có tội gì,
    Ðể người có tội lọt qua đi,
    Khác gì hơn một người mù mắt
    Bụi trên đường cái quá gồ ghề.
  4. Người xét xem toàn thể sự tình
    Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
    Cai trị nước nhà theo cách ấy
    Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh.
  5. Người nào ở địa vị cao sang
    Xử sự không nên quá dễ dàng,
    Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
    Song song thực hiện cả đôi đàng.
  6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
    Khắt khe thường nổi trận lôi đình,
    Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
    Và giữ đường trung chính hợp tình.
  7. Người đang nổi giận, hỡi Quân vương,
    Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
    Và thế là đừng vì phụ nữ,
    Giết vương nhi nối dõi tông đường.

Song dù nói hết mọi cách, quần thần vẫn không thuyết phục được vua theo lời họ. Bồ-tát cũng vậy, đã dùng hết mọi lời lẽ van xin nhưng không làm vua cha nghe theo ngài; không, vua thật ngu si mù quáng phán bảo:

– Lôi cổ nó đi thả xuống vực sâu dành cho bọn trộm cướp.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Cả nước này đang đứng một bên,
    Bên kia ái hậu một mình riêng,
    Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
    Thả nó vào hang, hãy cút liền!

Nghe các lời lẽ ấy, không ai giữa đám mười sáu ngàn phi tần đứng yên được trong khi toàn thể thần dân đưa tay lên vò đầu bứt tóc và kêu than khóc lóc. Vua phán:

– Ðừng để bọn này cản trở việc quẳng tên kia xuống vực sâu.

Rồi giữa đám quần thần, và dân chúng vây quanh than khóc, vua cứ ra lệnh tóm lấy vương tử quẳng lộn nhào xuống vực sâu.

Lúc ấy vị thần trú ngụ ở trên đồi ấy dùng uy lực nhân từ an ủi vương tử, bảo:

– Hỡi Paduma, xin ngài đừng sợ hãi.

Vị thần đưa cả hai tay ra đón lấy ngài, ôm chặt ngài vào lòng mình, truyền qua thân thể ngài một niềm xúc động kỳ diệu, đem ngài vào nơi cư trú của bầy rắn gồm tám loại, dưới quyền của vị Xà vương. Vị rắn chúa đón Bồ-tát vào hang rắn, song lại chia cho ngài một nửa giang sơn vinh hiển, và ngài ở đó một năm tròn. Rồi sau đó ngài bảo:

– Ta muốn trở về cõi nhân gian.

Chúng hỏi:

– Ðến nơi đâu?

– Ðến Tuyết Sơn, nơi ta muốn sống đời tu hành.

Xà vương chấp thuận, mang ngài đi đến tận nơi có loài người đi qua lại, trao cho ngài đủ mọi vật dụng cần thiết của đời tu hành, rồi trở về chốn cũ.

Thế là ngài tiến lên vùng Tuyết Sơn, đi theo cuộc đời đạo hạnh, tu tập năng lực Thiền định đem đến an lạc, ngài ở đó nuôi sống mình bằng các thứ củ quả rừng.

Lúc bấy giớ có một người kiểm lâm ở Ba la nại, đi đến chốn ấy, và nhận ra bậc Ðại Sĩ. Gã bảo:

– Tâu Chúa công, có phải chăng ngài là thái tử Paduma vĩ đại?

Ngài đáp:

– Chính phải, thưa tôn ông.

Kẻ kia đảnh lễ ngài và ở lại chơi vài ngày. Sau đó y trở về Ba la nại, trình với vua:

– Tâu Chúa thương, thái tử đã theo cuộc đời tu hành ở vùng Tuyết Sơn, hiện đang sống trong am lá. Hạ thần đã đến tận đó ở với ngài và trở về đây.

Vua hỏi:

– Ngươi chính mắt trông thấy thái tử chăng?

– Tâu Chúa thượng, chính phải.

Vua liền cùng đám đông tùy tùng đến đó, đóng trại ở ven rừng rồi cùng vài cận thần đi đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ lúc ấy đang ngồi ở ngưỡng cửa am trong mọi vẻ uy nghi rực rỡ, còn vua ngồi xuống một bên; các cận thần cũng đảnh lễ ngài với lời lẽ rất thân ái, xong cùng ngồi một bên cả. Về phần bậc Ðại Sĩ, ngài mời vua dùng trái rừng và đàm đạo rất vui vẻ với vua. Sau đó vua hỏi:

– Này vương nhi, con bị ta thả xuống vực sâu, làm cách nào mà còn sống sót được?

Và vua ngâm vần kệ thứ chín để hỏi chuyện đó:

  1. Con bị thả vào miệng vực sâu,
    Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
    Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
    Con vẫn bình an bởi cách nào?

Sau đây là những câu kệ còn lại gồm năm vần xen kẽ nhau: ba vần do Bồ-tát ngâm và hai vần do vua ngâm.

Vương tử:

  1. Một mãnh xà kia đủ lực hùng
    Sinh ra sống dưới đất trong rừng,
    Bắt con cuộn lấy trong mình rắn,
    Con được bình an, thoát tử thần.

Vua cha:

11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm gì nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị vì.

Vương tử:

  1. Kẻ nào đã nuốt móc mồi câu,
    Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
    Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
    Lòng con hỷ lạc tuyệt thanh cao.

Vua cha:

  1. Sao con nói đến móc mồi câu?
    Con nói vậy sao đến máu đào?
    Con lại nói sao về rút móc?
    Cha nay muốn biết việc kia nào?

Vương tử:

  1. Dục tham là chính móc mồi câu,
    Con nói ngựa voi, chính máu đào,
    Con rút ra nhờ lìa thế tục,
    Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu.

– Tâu Ðại vương, như vậy việc làm vua không có nghĩa gì đối vối con cả. Song Ðại vương phải chú tâm đừng vi phạm Thập vương pháp mà phải từ bỏ các ác nghiệp và trị dân thật chân chính.

Bậc Ðại Sĩ khuyến giáo vua cha qua những lời đó. Vua vừa than khóc vừa từ giã ra đi, và trên đường về kinh, vua hỏi các cận thần:

– Vì ai mà ta phải chia lìa với một người con đức độ như thế?

Hội chúng đáp:

– Chính vì vương hậu.

Vua liền ra lệnh băt vương hậu thả xuống vực sâu dành cho bọn trộm cướp, rồi vào thành cai trị theo đúng Chánh pháp.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy nữ nhân này đã vu cáo Ta thuở xưa, và phải chịu hủy diệt thương đau.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
    Ðề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
    Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
    Còn vị thần non thuở ấy là
    Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lão,
    Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
    Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
    Kết thúc Tiền thân ấy của ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Bạn – Thù (Tiền thân Mitàmitta)

Làm sao người trí phải tinh cần…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một vị triều thần chánh trực của vua Kosala.

Tương truyền rằng vị quan này rất có công với vua, và sau đó vua ban tặng ông vinh hiển tột bực. các vị quan khác không thể nào chịu đựng việc ấy được, nên vu cáo với vua đã làm những việc xúc phạm đến vua. Ngài cho điều tra về vị ấy và thấy ông không có lỗi gì cả, liền suy nghĩ: “Ta không thấy người này phạm lỗi gì cả, làm sao ta biết được đó là bạn hay thù?” Rồi vua lại nghĩ: “Không có ai ngoài đức Như Lai có đủ khả năng quyết đoán vấn đề này; vậy ta đi tham vấn ngài xem sao.”

Thế là sau khi điểm tâm xong, vua đến viếng bậc Ðạo Sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, làm sao ta có thể phân biệt một người nào là bạn hay thù của ta?

Lúc bấy giờ bậc Ðạo Sư đáp:

– Thưa Ðại vương, những người khôn ngoan ngày xưa đã suy nghĩ về vấn đề này và đã hỏi các bậc hiền trí, rồi theo lời khuyến giáo của các vị ấy mà tìm ra chân lý, lánh xa các cừu nhân và chú tâm đến các bạn lành.

Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vua, ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khu vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại, Bồ-tát là vị cận thần khuyến giáo vua về thế sự cũng như thánh sự.

Thời ấy, đám triều thần kia vu cáo một vị quan chính trực. Vua thấy vị ấy không có lỗi gì liền hỏi bậc Ðại Sĩ:

– Này, bằng cách nào ta có thể phân biệt bạn và thù?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ nhất:

  1. Làm sao người trí phải tinh cần,
    Phân biệt làm sao được thực chân,
    Những việc làm nào tai mắt thấy
    Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm măn vần kệ này để giải thích các dấu hiệu của một kẻ thù:

  1. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,
    Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
    Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,
    Và trả lời không có với ngài.
  2. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,
    Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
    Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
    Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.
  3. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
    Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
    Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
    Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.
  4. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,
    Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,
    Nếu được món ngon, không nghĩ tới
    Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
    Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
    Ta ước bạn ta cũng có phần!
  5. Mười sáu điều trên, cớ rõ ràng
    Cho ngài thấy được một cừu nhân,
    Nếu người có trí nào nghe thấy,
    Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.
  6. Làm sao người trí phải tinh cần
    Phân biệt làm sao được thực chân,
    Các việc làm nào tai mắt thấy
    Tỏ ra người ấy chính thân bằng?

Khi được hỏi qua lời kệ trên, vị quan liền ngâm các vần kệ còn lại:

  1. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,
    Mừng vui khi bạn trở về nhà,
    Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,
    Chàng cất tiếng liền đón rước ta.
  2. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,
    Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
    Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
    Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.
  3. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,
    Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
    Ðề cao những việc ngài làm được.
    Khen ngợi tài năng bạn thật hay.
  4. Chàng khổ lòng khi bạn ố danh
    Chàng vui khi nghe bạn được an lành
    Nếu được gì cao lương mỹ vị,
    Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,
    Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
    Ta ước ao phần bạn được dành!
  5. Mười sáu điều trên ấy chứng minh,
    Rõ ràng xác định bạn thân tình,
    Nếu người có trí nào nghe thấy,
    Có thể nói ngay bạn chí thành.

Vua hoan hỷ nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, nên ban tặng ngài vinh quang tột đỉnh.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Thưa Ðại vương, như vậy vấn đề này nảy sinh từ ngàn xưa và các bậc trí nhân dạy bảo: Nhờ ba mươi hai biểu hiện trên mà Ta có thể biết được bạn hay thù.

Cùng với các lời này Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua và Ta chính là vị triều thần hiền trí.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm